Tôi vì đã quen nhiều với nỗi
nguy hiểm nên cũng không đến nỗi nào, nhìn vào một chiếc sân bằng phẳng bên
cạnh một đống xương người chất cao như núi, màu trắng của xương mới ghê gớm làm
sao.
Bên cạnh đống xương người là
những cái chĩa ba dính đầy máu và mỡ nhớp nhúa. Quang cảnh đó khiến cho chúng
tôi vừa mệt vừa lo sợ nên không còn ai bước nổi, té xỉu nằm ngổn ngang bên cạnh
đống xương người.
Đến lúc chúng tôi tỉnh dậy
thì trời đã xế bóng. Chúng tôi chưa kịp ra khỏi nơi hãi hùng kia vì còn quá
bàng hoàng thì bỗng nghe có tiếng kẹt cửa kêu.
Chúng tôi nhìn ra và cùng
kinh hoàng khi thấy từ ngoài bước vào ba tên khổng lồ một mắt, trông chúng mới
ghê gớm làm sao : tay chân to như hộ pháp, mình lại cao bằng một cây dừa, con
mắt độc nhất to bằng cái chén và đỏ như máu với con ngươi to ghê gớm, khuôn mặt
chằng chịt những vết sẹo, răng lòi ra khỏi miệng như những chiếc nanh heo rừng,
môi dưới dài xuống đến tận ngực và đỏ như đẫm máu, hai tai to như tai voi và
phủ xuống tận vai, móng tay và móng chân dài và cong quặp, cứng như móng đại
bàng.
Vừa thấy chúng tôi, chúng
cười ghê rợn và tiến đến gần.
Tiếng cười rung chuyển cả
ngôi nhà làm chúng tôi kinh hãi ngã xuống ngất đi một lần nữa.
Một lúc sau, tôi tỉnh dậy mở
mắt ra, đã thấy ba con quái vật đang ngồi đăm đăm nhìn chúng tôi một cách thích
thú.
Bỗng nhiên, một tên trong
bọn tiến về phía tôi. Vì tôi nằm ngoài nên nó thò tay vào cổ nhấc bổng tôi lên,
quay đi quay lại nhiều vòng , nhìn tôi đủ hướng với cái nhìn của người đồ tể
ngắm nghía một con gà.
Có lẽ chê tôi ốm yếu, nó
buông tôi rơi xuống để lựa người khác mập hơn ; hai tên bạn của hắn cũng xé hai
người ăn sống.
Tôi rơi trên tay hắn xuống
như rớt từ trên ngọn cây cao mấy chục thước xuống đất, may mà tôi té trên các
bạn nên không đến nỗi tan xương nát thịt.
Khi xem đến viên thuyền
trưởng, thấy người mập mạp hắn liền xách lên như chúng ta xách con gà, tay cầm
chĩa lụi thẳng vào hông, máu tuôn lai láng. Người kia chỉ kịp kêu lên một tiếng
rồi hết thở.
Hắn đốt lửa đặt viên thuyền
trưởng lên nướng và xé xác ăn ngồm ngoàm, mỡ chảy đầy cả tay.
Dùng bữa xong, hắn nằm lăn
ra ngủ khì, tiếng ngáy như sấm nổ. Riêng chúng tôi thì vì quá lo sợ, nên cả đêm
không sao ngủ được. Tờ mờ sáng hôm sau, hắn trở dậy. Sau khi ăn lót lòng thêm
một người nướng, hắn đi thẳng vào trong đảo, không rõ là đi đâu.
Chúng tôi chờ cho hắn đi đã
xa mới dám cùng nhau kêu khóc vang trời, nhưng cũng không biết làm sao.
Tối hôm ấy, chúng lại về.
Rồi ba người trong bọn chúng tôi bị thiệt mạng, hai chết và một bị thui.
Chúng tôi sống vô cùng khổ
sở, với nỗi phập phồng lo sợ không biết ngày nào con quỷ kia sẽ xé đến thịt
mình.
Sáng hôm sau, hắn và hai tên
đồng bọn lại ra đi vào trong đảo.
Lần này, không thể chần chờ
thêm, một người lớn tuổi trong số còn lại đứng ra nói:
- Các bạn thân mến, từ hôm
qua đến nay chúng ta đã mất đi mấy anh đồng bạn và còn sẽ đến phiên ta không
biết lúc nào. Tại chúng ta không biết hợp quần. Ta phải can đảm lên để giết cho
được ba tên quỷ ghê gớm kia dù bằng cách nào, chớ không lẽ khoanh tay chịu
chết?
Nhiều người nhát gan hỏi:
- Nhưng rủi nó không chết
thì sao?
Ông già kia nói:
- Nhưng dù sao chúng ta cũng
chết kia mà? Sao không nhân cơ hội giết nó chết? Còn không thì số chúng ta cũng
kể như phải chết về tay chúng nó chứ gì.
Tất cả đều cho ông già nói
đúng.
Một người hỏi:
- Nhưng giết hắn cách nào?
Ông lão nói:
- Thưa các bạn, ở bờ biển
đây có nhiều gỗ dài, chúng ta hãy đốn để kết thật nhiều thuyền bè giấu sẵn một
nơi. Nếu chúng ta giết chúng nó chết được thì cũng không sao, còn như không may
thì chúng ta cứ xuống bè thoát ra khơi là xong.
Tất cả đều bằng lòng làm
theo lời của người kia. Rồi hôm đó, chúng tôi bắt đầu hạ gỗ, kết bè, cứ mỗi bè
kết được ba người.
Tối hôm đó, chúng tôi trở về
lâu đài để bấm gan chịu thêm một lần nữa cảnh đồng bọn bị người khổng lồ ăn
thịt.
May sao, hình như trời giúp
chúng tôi hôm ấy nên chỉ có một tên khổng lồ trở về. Đó là tên đầu đảng, tên
thích ăn thịt người bằng cách nướng.
Chờ cho nó ngủ, vì tên khổng
lồ đó có thói quen hễ ăn xong là lăn ra ngủ, chúng tôi liền dùng những chiếc
xiên mà hắn dùng xiên người để nướng, đem đốt cho thật đỏ đầu nhọn rồi tất cả
những kẻ nào còn mạnh khỏe nhất đều tình nguyện đứng qua đầu xiên vào mắt con
quái vật.
Nghe rõ tiếng ngáy như sấm
của nó, chúng tôi hiểu nó đã ngủ ngon lắm rồi nên cùng nhau lén đến cầm những
cây xiên. Có tất cả mười người, cầm năm xiên.
Một tiếng hô làm hiệu rồi
không ai bảo ai, chúng tôi cùng giơ thẳng cánh đâm vào mắt tên khổng lồ cùng
một lượt.
Chỉ nghe tiếng xèo rồi khói
bốc lên nghi ngút. Con quái vật kia rú lên kinh khủng rồi quờ quạng như cố tìm
bắt chúng tôi. Nếu lúc đó mà bắt được một người nào chắc hắn sẽ xé nát ra.
Chúng tôi cùng nấp mình vào
tường tránh nên nó không bắt được ai, cứ rú lên từng hồi, hai tay giơ ra như
tìm lối đi.
Con mắt độc nhất của hắn đã
mù. Chúng tôi mừng rỡ chạy xuống tất cả ở mé biển, sẵn bè kéo ra thả xuống
nước.
Hắn thất thểu đi về mé trong. Chúng tôi hiểu ngay hắn đi
tìm viện binh nên vội vàng xuống bè rồi chèo ra khơi.
Nhưng tên khổng lồ quả có
sức mạnh thần kỳ. Dù đã mù nó vẫn tìm được người cứu viện, nên chỉ một lúc sau,
chúng tôi chưa đi được nửa đường bể thì đã thấy một đoàn khổng lồ có đến hàng
chục tên, đi đầu là hai tên khổng lồ bé hơn hắn, dìu hắn đi rồi đến một đám
khác.
Chúng hăm hở kéo nhau lội
xuống biển. Nước chỉ đến ngực chúng nên chúng lội ào ào, tay cầm những hòn đá
to liệng về phía chúng tôi. Chúng liệng rất hay nên nhiều chiếc bè bị đắm. May
mắn bè của tôi và hai người nữa vì nhờ bơi mau nên thoát khỏi được.
Chúng tôi đã ra đến giữa
khơi. Với chiếc bè mỏng manh, chúng tôi hiểu tính mạng mình càng mỏng manh hơn.
Sau một ngày một đêm trôi
giạt không biết đâu là bờ bến, thì sáng hôm sau, một ngọn sóng to đưa tạt bè
chúng tôi vào một hoang đảo. Chưa hiểu số mạng của mình ra sao, nhưng chúng tôi
hết sức ngao ngán khi thấy một đảo hoang.
Trên đảo có rất nhiều trái
cây ngon ngọt. Chúng tôi tìm hoa quả ăn đỡ lòng rồi cùng nằm dưới gốc cây ngủ.
Đang ngủ, tôi bỗng giật mình
vì tiếng hét của anh bạn đồng cảnh, mở mắt ra thì thấy một con rắn mảng xà to
lớn dị thường đang nuốt sống bạn tôi.
Chúng tôi hoảng hốt thi nhau
chạy trối chết. Chạy đã xa mà vẫn nghe tiếng xương bạn tôi chuyển nghe răng rắc
trong bụng rắn.
Tối hôm đó, chúng tôi tìm kế
thoát khỏi nanh vuốt lũ rắn khổng lồ.
Trông thấy một gốc cây to,
chúng tôi cùng nhau leo lên núp vào cành cây rậm rạp để tránh rắn, định bụng
đêm nay sẽ được an toàn.
Đêm khuya vắng, sóng bể dạt
dào, chúng tôi đang buồn bã nghĩ đến cảnh nguy khốn của mình, bỗng nghe tiếng
huýt sáo, rồi một con rắn cực kỳ to bò chung quanh gốc cây.
Anh bạn ngồi chung cành cây
với tôi vì quá sợ nên buông tay rơi xuống đất, bị rắn nuốt đi.
Nuốt xong, nó đã no nên bò
đi mất.
Tôi hoảng hốt lo sợ mình sẽ
bị nạn như bạn mình nên suốt đêm không dám chợp mắt, chỉ trông cho trời mau
sáng.
Trời vừa rạng đông, tôi leo
xuống khỏi cây, nghĩ đến số phận mình rồi sẽ chui vào bụng rắn mà thương cho
thân phận.
Quá buồn thương cho số kiếp,
tôi muốn nhào xuống biển chết đi cho xong, nhưng nghĩ thà đến đâu hay đến đó
còn hơn liều mình vô ích, nên cố gắng an ủi mình.
Tôi liền vào rừng tìm hoa
quả ăn đỡ lòng. Trong lúc đi tìm hoa quả, tôi để ý thấy một cái hang kiên cố
liền bước vào xem. Định bụng sẽ trở lại đây lúc đêm để tránh rắn nên tôi liền
đi tìm hòn đá to, dùng để chận cửa hang.
Chiều hôm ấy, tôi đi tìm
thức ăn đỡ lòng, xong chui vào hang trước khi đêm đến. Tôi dùng đá chận cửa
hang cẩn thận rồi mới yên tâm ngủ yên.
Đêm hôm đó, rắn cũng ăn quen
đến tìm mồi, nhưng cửa hang quá kín đáo nên không vào được, cứ ở ngoài cửa hang
suốt đêm thở mạnh cũng như phun nọc vào. Cho đến sáng hôm sau, lúc mặt trời lên
nó mới chịu bỏ đi.
Tôi vẫn lo sợ suốt đêm chỉ
lo rắn vào được bên trong nên đến lúc rắn đi, tôi mới ngủ lại. Trưa hôm ấy, tôi
ăn những hoa quả hái được chiều hôm qua, và đến chiều mát, tôi mới trở ra hái
trái, định mang vào hang để tối ăn.
Đi mãi, tôi gặp được bờ
biển, may làm sao giữa lúc đó, một chiếc tàu chạy ngang qua.
Mừng rỡ, tôi vội lấy khăn
bịt đầu tung lên vẫy gọi. Người trên tàu trông thấy liền vào rước tôi.
Mọi người đều xúm lại hỏi
thăm tôi đủ điều.
Viên thuyền trưởng nói:
- Những ai thường rành về
tàu bè đều kiêng sợ hai thứ trên đảo hoang này : bọn khổng lồ ăn thịt người và
loài rắn mảng xà, từng nuốt những con thú rừng to lớn như nai. Có lúc đói, chúng
còn nuốt lẫn nhau cho đến lúc cả hai đều chết.
Ai nấy đều mừng cho tôi đã
may mắn thoát được đại nạn và cũng chúc tôi được may mắn hơn.
Biết tôi suốt ngày hôm nay
chỉ ăn có ít hoa quả, họ liền dọn bữa cho tôi, và còn đưa quần áo cho tôi thay
đổi.
Qua bao nhiêu hòn đảo khác,
các thương gia đều ghé đến đổi chác và mua sắm hàng hóa rất tấp nập.
Một hôm, viên thuyền trưởng
nói với tôi:
- Này ông bạn ơi! Tôi đang
còn giữ một số hàng hóa của một thương gia, vì ngủ quên ở giữa đàng mà lâm nạn.
Tôi định bán số hàng hóa để lấy tiền chờ khi nào đến Bá Đa sẽ tìm thân nhân
trao lại. Nay nhân thấy ông bạn không có việc gì, tôi muốn nhờ ông bạn giúp tôi
việc bỏ hàng mà lấy huê hồng.
Tôi bằng lòng và cảm ơn viên
thuyền trưởng. Ông ta liền cho tất cả hàng hóa lên bến . Khi đưa lên sàn tàu,
người thư ký hỏi:
- Phải ghi tên ai, thưa
ngài?
Viên thuyền trưởng đáp:
- Anh cứ biên tên nhà hàng
hải Sinh Bá.
Nghe tên đó, tôi ngạc nhiên
kêu lên:
- Thưa thuyền trưởng, những
hàng hóa này là của Sinh Bá sao?
Viên thuyền trưởng nói:
- Vâng, tôi nghe người ta
gọi ông như thế. Ông là một người ở Bá Đa, mua hàng hóa ở Băn-Sô-Ra. Khi tàu
ghé lại một cù lao để lấy nước và cho hành khách nghỉ ngơi, chẳng hiểu sao lúc
tàu báo hiệu cất neo lại không có mặt ông ta. Đến lúc mọi người nhớ ra thì đã
chạy được nửa đường, lại thuận buồm nên không thể trở lại tìm được. Tôi vẫn ân
hận mãi.
Tôi hỏi:
- Thưa thuyền trưởng, rồi
ngài tin Sinh Bá đã chết?
Viên thuyền trưởng nói:
- Lẽ dĩ nhiên rồi, vì đó là
một hoang đảo, không có một ai, người cũng như loài vật. Sau tôi nghe hành
khách nói lại, ông Sinh Bá chắc ngủ quên nên không nghe tiếng còi hiệu.
Tôi mỉm cười nhìn kỹ ông ta
thì mới hay chính ông là viên thuyền trưởng đã bỏ quên tôi trong chuyến hành
trình thứ hai của tôi. Mừng rỡ, tôi hỏi:
- Thưa thuyền trưởng, nếu
tôi nói với ngài ông Sinh Bá còn sống thì ngài nghĩ sao?
Viên thuyền trưởng tỏ vẻ
không tin, nói:
- Không bao giờ tôi tin, vì
tôi đã hiểu nơi đảo đó không có vật gì để ăn được nhiều ngày.
Tôi nói:
- Thưa thuyền trưởng, chính
tôi là Sinh Bá đây.
Viên thuyền trưởng đã nhận
ra tôi nên nói:
- Cám ơn thượng đế đã giúp
đỡ anh, nhờ thế tôi cũng nhẹ được bao nhiêu tội lỗi. Đây là hàng hóa của anh,
anh cứ nhận đi. Tôi đã bán hộ cho anh một số ở dọc đường, vậy xin giao cho anh
số tiền đó.
Nói xong, ông ôm lấy tôi
thân mật hỏi:
- Thế làm sao anh lại ở lại
khi tiếng còi tàu ra dấu nhổ neo?
Tôi nói:
- Thưa thuyền trưởng, vì lúc
đó tôi uống quá chén nên ngủ say, đến lúc thức giấc mới hay tàu đã rời bến.
Tôi còn kể rõ những việc
trong cuộc hành trình gian khổ lúc đó cho thuyền trưởng nghe.
Nghe xong, ngài liền nói:
- Thật là trời đã cứu ông.
Đang tay trắng, được số hàng
hóa, tôi vui mừng vô kể.
Tàu ghé bến San-Lan-Ha. Tôi
bán tất cả hàng hóa thật được giá để mua lại những thổ sản như nụ kim hương, gỗ
bạch đàn, tiêu, quế chở về Ban-Sô-Ra.
Đến một nơi gần San-Lan-Ha,
chúng tôi gặp rất nhiều giống rùa biển to lớn, lưng rộng đến hai mươi sải, cùng
giống cá bò, hình thù như con bò cái. Giống cá nầy có sữa ăn rất ngon và bổ, và
da nó dầy nên người ta dùng làm thuẫn để đỡ giáo mác lúc ra trận. Có cả những
con cá lạ hình thù như con lạc đà to.
Về đến bến Ban-Sô-Ra, tôi
bán hết hàng và về Bá Đa.
Chuyền nầy tôi cũng lãi rất
nhiều nên trích ra một số phát cho kẻ nghèo cùng tế lễ trời đất. Tôi cũng mua
sắm thêm những thứ cần dùng cho gia đình.
*
Nhà hàng hải kể xong cuộc
hành trình thứ ba rồi cũng như lần trước, bảo gia nhân đem một trăm đồng tiền
vàng tặng cho bác phu khuân vác Hình Ba, rồi mời mọi người ngày mai trở lại
nghe kể tiếp cuộc hành trình thứ tư.
CUỘC HÀNH TRÌNH THỨ TƯ CỦA NHÀ HÀNG HẢI
Thưa quý ngài,
Sau cuộc hành trình thứ ba
của tôi, tôi liền tổ chức những cuộc vui trong gia đình cho vợ con cùng hưởng.
Nhà nhàng hải kể tiếp khi
mọi người cùng ăn uống xong:
- Nhưng tính thích mạo hiểm
khiến tôi không thế nào sống an nhàn được mãi trong cảnh êm ấm của gia đình nên
tôi lại thu xếp để ra đi.
Lần nầy, tôi đi bằng đường
bộ qua Ba Tư, qua nhiều hải cảng, kinh đô mới ghé đến một con tàu đi Viễn Đông.
Tôi mua hàng hóa xong, xuống
tàu. Nhiều ngày ghé vào đảo để mua bán đổi chác, tàu đều ở trong tình trạng
sóng lặng biển êm.
Một hôm, con tàu đang chạy
trên một hải phận rộng lớn thì bỗng bốn phía gió thổi về thật mạnh.
Thuyền trưởng hiểu là sắp có
cơn giông tố nên sai thủy thủ cuốn buồm thả neo.
Nhưng sức gió đi mau vô kể.
Từng cơn gió ầm ầm đánh ngã cột buồm. Sóng dâng cao đập vào be tàu vỡ tan tành.
Hàng hóa và hành khách đều bị nước cuốn đi, chết đuối thật nhiều.
Tôi và một số người may mắn
vớ được một tấm ván liền cố bám lấy và chịu cảnh gió dập sóng vùi suốt một
ngày.
Cho đến lúc trời tối, chúng
tôi lại bị sóng đánh giạt vào một hải đảo.
Quá đói khát và mệt mỏi, chúng
tôi nằm lăn ra bãi biển ngủ một giấc thật lâu đến sáng hôm sau.
Chúng tôi trở dậy lúc trời
bình minh. Lần vào trong đảo, tôi và các bạn cùng nhìn thấy rải rác nhà cửa của
bọn thổ dân nên liền kéo nhau đến.
Chúng tôi gặp một số thổ dân
da đen, chúng vừa nhìn thấy chúng tôi liền ùa ra đuổi bắt.
Không một người nào trong
chúng tôi chạy thoát. Khi bắt xong, chúng liền chia chúng tôi cho nhiều nhà,
mỗi nhà một người.
Chúng nó nói với nhau ríu
rít nhưng không ai hiểu chúng nói gì cả. Rồi thì mỗi người được đưa đi theo sự
dẫn dắt của họ.
Tôi và năm người khác được
chúng dẫn vào một dãy nhà sàn san sát nhau tận cuối rừng.
Đến nơi, chúng ra hiệu cho
chúng tôi ngồi xuống rồi bưng ra một giỏ rau bảo ăn.
Chúng tôi cùng nhìn nhau,
không hiểu chúng làm gì mà lại mời ăn uống có vẻ tử tế thế.
Các bạn tôi vì quá đói nên
xúm lại ăn ngấu nghiến không suy nghĩ. Riêng tôi còn cảm thấy lạ lùng nên chỉ
ăn qua loa có chừng.
_______________________________________________________________________
Còn tiếp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét