Thứ Hai, 25 tháng 12, 2017

THƯƠNG ĐAU MỘT KIẾP NGƯỜI














Khi hoạn nạn, mình buồn rầu khốn khổ

Không còn vui,  không còn biết đẹp tươi

Nhìn chung quanh thiên hạ vẫn vui cười

Mà sao mình lại đau buồn,  trống vắng

Sao thế nhỉ ?  Sầu lo riêng gánh nặng

Ước gì đây cơn ác  mộng mà thôi

Muốn thở than cùng Thiên Chúa trên trời 

Sao đày đoạ cuộc đời  mình như thế

Trong cơn đau đang dày vò trí tuệ

Chợt nhớ ra khi Thiên Chúa vào đời

Mang kiếp người nên  chẳng được nghỉ ngơi

Khi trần thế  chỉ đắm say  vật chất

Ngài là Thiện,  là Chúa Trời Chân Thật

Đã vì người mà phải gánh thương đau

Vì tội lỗi  Adam mãi  về sau

Ngài mang lấy một cuộc đời khốn khó

Chim có tổ nhưng Con Người chẳng có

Phút cuối cùng Ngài gánh tội muôn người

 Con đau khổ nhưng chỉ một phần mười

Cái đau buồn mà Con  Người phải  gánh  

Trong than thở là đời  mình bất hạnh

Chỉ mong Ngài ban ơn phước bình an

Mùa  Giáng Sinh rất thành thật xin van

Chúa thương xót  cho khoảng đời còn lại ...

                                                          Nhã Uyên

Thứ Bảy, 23 tháng 12, 2017

GIÁNG SINH ẤM ÁP


Andy ngồi trên tuyết, cậu bé thấy lạnh hơn từng giây một. Andy không đi ủng - thứ mà người ta vẫn thường đi trên tuyết vào mùa đông. Cậu bé không thích ủng và dù sao cậu bé vẫn không có ủng cơ mà. Đôi giày vải, mỏng dính, mòn vẹt mà Andy đang mang đã có vài lỗ thủng và chúng không thể làm được việc là giữ ấm cho đôi chân cậu bé.

Andy đã ngồi trên tuyết thật là lâu rồi. Và dù cố đến mấy, cậu bé vẫn không thể nghĩ ra được món quà Giáng sinh cho Mẹ. Cậu bé buồn bã lắc đầu: " Vô ích thôi, dù rằng mình có nghĩ ra món quà gì, mình cũng không có tiền mà ."

Từ khi bố Andy mất 3 năm về trước, gia đình cậu bé suy sụp nặng nề. Ban đêm Mẹ cậu làm việc ở bệnh viện, nhưng với đồng lương ít ỏi chỉ đủ mấy mẹ con sống tạm qua ngày. Chúng còn nhỏ lắm, chẳng biết có nghĩ ra món quà gì để tặng Mẹ hay không. Thật không công bằng, bây giờ đã là chiều tối đêm Giáng sinh mà cậu bé vẫn ngồi đây, chẳng thể nghĩ được điều gì cả.

Chú chùi những giọt nước mắt, Andy đứng dậy đi xuống phố - nơi có rất nhiều cửa hàng. Cuộc sống thật khó khăn khi mà cậu bé mới 6 tuổi và không có bố, đặc biệt là khi mà người ta cần một người đàn ông để tâm sự. Andy đi từng cửa hàng này sang cửa hàng khác, nhìn vào từng cửa sổ rực rỡ một. Mọi thứ đều đẹp và ngoài khả năng của cậu.

Trời đã bắt đầu tối, Andy buồn bã định quay về nhà thì bỗng nhiên cậu bé nhìn thấy một vật gì đó ánh lên trong tuyết. Andy cúi xuống: 1 đồng xu nhỏ bóng loáng dưới đất. Hẳn chưa ai có cảm giác được giàu có như là Andy cảm thấy vào lúc ấy.

Khi Andy nắm chặt "kho tàng mới nhặt được " của mình, cậu bé cảm thấy như có hơi ấm chạy qua cơ thể, và cậu mạnh dạn bước vào cửa hàng đầu tiên, niềm hân hoan của Andy ngay lập tức bị đóng băng lại khi từng nhân viên bán hàng bảo với cậu rằng chẳng thể làm gi với đồng xu nhỏ xíu đó. Cậu bé đi ra, nhìn thấy một của hàng hoa, Andy liều đứng lại xếp hàng

Khi người chủ cửa hàng hỏi Andy cần gì, cậu bé đưa một đồng xu và e dè hỏi liệu mình có thể mua được 1 bông hoa tặng Mẹ trong đêm Giáng sinh với đồng xu nhỏ xíu này không, người chủ cửa hàng nhìn Andy, đặt tay lên vai cậu bé và nói :" Đợi một chút, con trai, để ta xem có thể làm gì cho con."

Khi đứng chờ, Andy ngắm những bông hoa tuyệt đẹp và cậu đã hiểu vì sao Mẹ cậu cũng như bao người phụ nữ khác lại thích hoa đến thế

Tiếng đóng cửa sớm khi người khách cuối cùng rời khỏi cửa hàng đã đưa cậu quay về với hiện thực. Còn lại một mình trong cửa hàng, Andy bắt đầu cảm thấy cô đơn và hoảng sợ. Bỗng người chủ cửa hàng lại đi ra.

Trước mắt cậu bé là 12 bông hổng đỏ thắm, cuống dài, lá xanh cùng với những bông hoa gì đó trắng, nhỏ li ti, được bọc thành một bó có dây nơ màu bạc. Tim Andy ngừng một nhịp khi ông chủ cửa hàng đặt bó hoa vào một chiếc hộp trắng và bảo: "Tất cả là một đồng xu, con trai."

Andy chậm chạp đặt đồng xu vào tay ông chủ cửa hàng. Không thể là thật được! Không ai bán cho cậu cái gì với một đồng xu đâu! Nhận thấy sự băn khoăn trên mặt cậu bé, ông chủ cửa hàng giải thích: " May mắn là ta có mấy bông hoa bán với giá một đồng xu một bó. Con trai có thích không?"

Lần này thì Andy không ngần ngại nữa. Ra khỏi cửa hàng, Andy nghe thấy tiếng ông chủ nói với theo: "Giáng sinh vui vẻ, con trai."

Khi ông chủ cửa hàng quay vào trong nhà, vợ ông hỏi: "Ông vừa nói chuyện và đem hoa cho ai thế?" Nhìn qua cửa sổ và chớp chớp mắt để ngăn không cho nước mắt trào ra, ông chủ cửa hàng khẽ nói:" Một điều thật lạ lùng đã xảy ra. Sáng nay, khi tôi chuẩn bị mở cửa hàng, tôi có cảm giác như ai đang mách bảo mình để sang bên cạnh 12 bông hoa hồng thật đẹp vì đó sẽ là món quà đặc biệt. Tôi đã nghĩ là mình đã tưởng tượng ra, thế nhưng tôi vẫn cứ để 12 bông hồng ra một chỗ. Và ngay lúc nãy, một cậu bé vào cửa hàng và muốn mua hoa để chúc Giáng sinh cho Mẹ chỉ với 1 đồng xu. Nhìn vào cậu bé, tôi thấy tôi của nhiều năm về trước.

Tôi đã là một đứa trẻ nghèo khổ không biết mua gì cho Mẹ vào đêm Giáng sinh. Một người qua đường đã cho tôi 10 dollar không vì lý do gì. Khi tôi nhìn thấy cậu bé tối hôm nay, tôi biết người đã mách bảo tôi là ai...."

Tối Giáng sinh ấy, cả gia đình người chủ cửa hàng hoa và cả gia đình Andy nữa, không ai cảm thấy lạnh chút nào....

(Nguồn: Internet) 

Thứ Sáu, 15 tháng 12, 2017

ĐÔI MẮT NÀO LINH HIỂN













mùa đông đã về rồi đó nhỏ
đồng bằng miền nam trở trời trái gió
anh chợt nghe hồn thánh thót tiếng chuông
vừa đủ hồi sinh miền giáo đường buồn

mùa đông đã về rồi đó nhỏ
anh mặc áo len quấn khăn quàng cổ
bồng ẵm tim mình đi lễ tình yêu
đồng bằng miền nam dù chẳng lạnh bao nhiêu
nhưng cũng phải ra cái điều rét mướt
làm chiên ngoan, cả đời, tôn vinh hạnh phúc
cả đời tin sự thật có, thiên đàng!
đôi mắt nào của Chúa ở trần gian
bóng tôi ngã hướng thâm cùng đời sống khó!

mùa đông đã về rồi đó nhỏ
phúc âm mừng ngân vọng được bao lâu?
tôi cả tin, nên rất dễ nghi ngờ
tôi vụng tính, nên vẫn thường do dự
tình chảy xiết qua đời như, thác lũ
tội thân tôi bầm dập, mủn, như bùn!

đôi mắt nào của Chúa ở trần gian
có soi thấu tận cùng miền u uẩn?
đôi mắt nào sáng như trời quang đãng
hãy ân cần chuyên chở lụy phiền tôi!
chẳng bao giờ thần thánh chịu hở môi
tôi cũng thế, nên sầu-say-túy-lúy
tôi cũng thế, nên hờn cao ngất núi
chờ em qua, rồi, để qua luôn…

đôi mắt nào của Chúa ở trần gian
hãy phán đoán tâm hồn tôi, thánh thiện
đôi mắt nào tuyệt vời linh hiển
hãy tò mò thêm chút nữa, tình tôi!
chẳng bao giờ thần thánh chịu lìa ngôi
tôi cũng thế, nên tượng hình rêu phủ
tôi cũng thế, nên xương tàn cốt rũ
nơi miếu đền hoang rợn cánh dơi bay
(hãy một lần định bụng đến thăm tôi
thần thánh cô đơn rất sẵn sàng đãi ngộ!)

mùa đông đã về rồi đó nhỏ
anh lặng mình thấm thía tiếng chuông
làm cây thông già đứng lặng hưởng mù sương
còn bao nhiêu đèn và bao nhiêu nến
hãy một lần mang ra thắp hết
hãy một lần khôi phục lại, niềm vui
đôi mắt nào của Chúa ở lòng tôi
nhỏ ơi, ơi nhỏ, và nhỏ ơi…

                             NGUYỄN TẤT NHIÊN

             (Trích tuần báo Tuổi Ngọc số Giáng Sinh 1974)

(Copy từ facebook của Nguyễn Trường Trung Huy)

Chủ Nhật, 19 tháng 11, 2017

NỬA CHỮ CŨNG THẦY


Năm 1935, TÔI HỌC THẦY ở lớp Nhất trường Tiểu học Sông Cầu. Thuở ấy toàn tỉnh chỉ có hai trường Tiểu học, một ở Tuy Hòa, một ở Sông Cầu. Trường Tiểu học Sông Cầu là trường tỉnh lỵ mà chỉ có một lớp Năm, một lớp Tư, một lớp Ba, một lớp Nhì A (chính danh là Cours Moyen de 1ère Année), một lớp Nhì B và một lớp Nhất... Mới biết là hồi đó sự học quả thật là quí. Với một dân số 20 vạn dân cư mà hằng năm toàn tỉnh chỉ chọn khoảng một 100 đứa trẻ khá nhất để cho vào học lớp Nhì thì có khác nào sâm nhung chỉ dành cho tì vị kẻ giàu sang. Tôi học lớp Năm và lớp Tư ở trường làng Ngân Sơn. May mắn đưa đẩy, tôi được vào học lớp Ba ở trường Phủ Tuy An. Và lại cũng may mắn xô tới mà tôi được vào lớp Nhì trường Tỉnh.

Thầy năm ấy khoảng 27-28 tuổi. Dáng thầy cao, khỏe mạnh, nhanh nhẹn. Thầy thường mặc Âu phục trắng. Giày nâu, đế cao su. Mũ casque cứng lợp vải màu kaki. Ði tới lớp, tay ôm cặp da, thứ da cá sấu mềm.

Thời đó Âu phục và Nam phục song song tồn tại. Nam phục là quần trắng áo dài đen. Quần trắng bằng vải "tàu bay" hay lụa. Vải áo dài đen thông thường là vải trang đầm cho đàn bà và học sinh trung lưu. Người đàn ông thì mặc áo lương đen (miền Bắc gọi là áo the), áo xuyến (mặt láng), áo sa văn minh (một loại the mỏng, dệt có vân, có bắt hình chìm) áo sa tanh (satin). Vải may Âu phục tiêu chuẩn là một loại vải dệt thật dày bằng sợi đay, màu trắng. Sau thế giới đại chiến lần thứ hai, sợi tổng hợp Polyester mới thịnh hành và vải thường màu đen hoặc màu xanh tối gần với đen. Phép xã giao thời đó đòi hỏi phải khoác áo vét-tông chứ không được chỉ mặc sơ-mi khi đi ra ngoài. Cho dẫu trời nóng 35 độ. Chỉ có thể, khi ngồi trong lớp dạy hay ngồi làm việc ở bàn giấy, cởi áo vét-tông ra máng vào thành ghế. 

Ðôi giày cũng có lịch sử của nó. Cũng sau thế giới đại chiến lần thứ hai, màu giày đen mới thịnh hành. Dưới thời Pháp thuộc, màu giày sậm nhất là màu nâu, màu cà-phê rang. Lợt một chút là màu vàng thiên nhiên của da thuộc. Lợt nhất là màu trắng. Duyên dáng ăn diện là giày hai màu. Giày màu đen chỉ được dùng trong những đại lễ.

Vậy đó, cái dáng cao cao của thầy tôi, mặc Âu phục, đội mũ ôm cặp đi những bước nhanh từ góc đường phía biển, vượt qua sân quần vợt, đi vòng quanh rào trường, đi thẳng từ cổng trường oai vệ bước vô.

Vào thời chúng tôi, học trò rất sợ thầy. Chương trình học toàn tiếng Pháp nên chúng tôi càng sợ thầy hơn, bởi chưng dù học giỏi hay kém thì học thuộc được một bài toát yếu 20 dòng viết bằng tiếng Pháp không phải là chuyện dễ. Chúng tôi phải chắp chữ này nối theo chữ kia bằng trí nhớ, nhiều khi hoàn toàn bằng trí nhớ chớ không hiểu vì sao. Mà một khi quên đi một chữ thì đành cứ đứng khựng ra đó, ấp a ấp úng, tựa như rớt một cục gỗ thì cả khối gỗ chồng chất lên nhau bỗng đổ sụp. Ðố mà có thể xếp lại. Thầy giáo sốt ruột, sẵn cái thước gạch vụt luôn cho một vụt. Và các cục gỗ lăn xa hơn, tan tác.

Thầy nào cũng biết đánh học trò. Ngồi nghĩ lại thấy thương hơn trách. Người Pháp không đem sang cái roi. Tổ tiên mình vót roi để sẵn, kèm theo bản chỉ dẫn cách dùng, "yêu cho roi cho vọt". Tiếng roi vun vút của các thầy đồ còn vang vọng rất trong sáng trong tâm hồn của các thầy tôi. Các bậc phụ huynh dường như cũng chỉ an tâm khi nghe thầy giáo ban phát tiếng roi xé gió. Sống trong một không khí rèn nhân cách khắc khổ như kiểu đó, một ông thầy có lương tâm phải mượn cái thước và con roi để hỗ trợ cho lời giảng bài. Ở lớp Nhì A, tôi học thầy Huỳnh Tiến. Thầy gầy, da trắng, nói giọng Quảng. Không biết giờ này thầy có còn khỏe mạnh không. Thật là bội bạc khi hơn 50 năm trôi qua tôi không hề biên được một cái thư thăm hỏi thầy. Với nhiều thầy khác tôi cũng có niềm ân hận đó. Chớ chi mỗi thầy đều cho chúng tôi biết địa chỉ chính thức không kể những dời đổi nhiệm sở thì hy vọng 2030 năm sau còn liên lạc thư tín được dẫu chỉ là muôn một cũng vẫn là hy vọng.

Năm lớp Nhì B, tôi học thầy Ngô Văn Lương. Thầy đẫm thấp, nói giọng Hà Tĩnh. Ấn tượng còn lưu lại là bộ Âu phục màu ka-ki nhạt rất nhã thầy thường mặc. Và màu da mặt trắng hồng. Thầy Trần Sĩ thì trông cao ráo linh hoạt hơn thầy Lương. Ðược phân công dạy lớp Nhất là một vinh hạnh, vì học sinh lớp Nhất, cuối năm thi bằng Rime (Primaire: Tiểu học) là được xin bổ làm hương sư dạy lớp Năm, lớp Tư ở các trường làng. Hương sư được nể hơn lý trưởng, phó tổng. Ðã vậy, thầy còn đứng tên với ông Kiểm học Nguyễn Ðình Cầm, sáng tác cuốn Ðịa dư tỉnh Phú Yên. Trước khi cuốn sách ra đời, chúng tôi học ở lớp Tư phải chép bài Ðịa dư tỉnh Phú Yên vào vở để học thuộc lòng. Ði thi Sơ học yếu lược, môn thi viết có hỏi địa dư tỉnh. Dường như học sinh nào cũng đều thuộc làu bài đọc thêm "Sông Cầu và Tuy Hòa" trong đó, bằng lối văn biền ngẫu, thầy so sánh: "Sông Cầu là đất thừa lương, Tuy Hòa là nơi buôn bán, Sông Cầu là bà già lão luyện, Tuy Hòa là cô thiếu nữ xuân xanh". Thầy có một cách đặc biệt theo dõi đôn đốc sự học của học sinh mình: đó là hằng đêm vào chặng 8-9 giờ, thầy đi rảo một vòng những nhà học trò ở các con đường lân cận coi thử chúng tôi có ngồi nhà học bài hay không. Do vậy mà có những buổi sáng thầy vô lớp kêu tên một đứa bạn tôi, hỏi:

- Hồi hôm trò đi đâu lang thang ở trước tiệm Chấn Thanh?

Hoặc:

- Hồi tối nhà trò sao mới 8 giờ mà đã tối thui? Trò học bài trong tối hả?

Một đêm kia thầy đi qua nhà ông cử Giáp, nơi trò Huỳnh và trò Duyên, quê ở Gò Duối đang trọ học. Thầy nghe có tiếng sát phạt "Xì Rô... Già Cơ.. Ðầm Chuồn... Bồi Bích..." Thầy lặng lẽ hé cổng bước vô, đứng sau trò Huỳnh đang say sưa cắt bài, chia bài. Cái miệng cứ tía lia, cười cười nói nói, đôi tay cứ dẻo quẹo cắt cắt chia chia, chợt thầy đằng hắng ho một tiếng ở sau lưng. Quay lại. Ngó lên. Trời ơi, chết rồi! Ríu ríu bốn tay bài lặng lẽ đứng dậy, mắt mở trao tráo như khỉ bị rắn thôi miên. Thầy cúi lượm bộ bài, lặng lẽ đi ra cửa ngõ.

Ai cũng đoán biết được hôm sau loại bão tố nào nổ ra giữa lớp. Bốn tay bài rủi ro đều là học trò lớp Nhất. Ngoài Huỳnh và Duyên, hai người kia tôi quên mất tên.

Thầy hay dùng những cách xưng hô "tụi bay... đứa nào...!" dẫu không tao nhã bằng "các em, cậu nào, cô ấy..." nhưng đầy chất thân tình. Thầy la lối giận dữ khi học sinh không thuộc bài, chúng tôi sợ mà không ghét... Như vậy hơn cách nhã nhặn mà lạnh lùng, rất văn minh của nhiều thầy cô giáo thuộc thế hệ sau này. Thật giống như đi coi hát bội. Hồi tôi còn nhỏ, kép hát ở nhà quê đóng vai nịnh hét to đến nổi gân cổ nổi lên như dây chão, trợn mắt cơ hồ toét luôn khóe mắt, vung tay vung chân như người đấu quyền trên võ đài. Năm 1974 coi hát bội trên sân khấu đặc biệt chọn lọc ở Sài Gòn. Y trang Thượng Hải rực rỡ, hệ thống ánh sáng và âm thanh tối tân, đào kép xinh đẹp thượng thặng... nhưng hát không ra hơi thậm chí múa tay cũng múa lười biếng. Ðó, đẹp thì có đẹp, có tinh tế, có quí phái... đủ mọi ưu điểm, nhưng thực chất của sự hát thì... rất dở. Như ông thầy tận tình la mắng hồi xưa và cô giáo nhã nhặn thời nay. Lớn lên, gặp thầy, nghe thầy đối đãi bằng giọng xung hô "tụi bay..." quen thuộc, chúng tôi vui, vừa thêm cảm động. Cho tới lúc tuổi hơn 50, gặp nhau, ngồi nhắc chuyện xưa, nhắc đến thầy, chúng tôi cười thích thú và thêm thương thầy.

Những khối óc lý luận hình thức thường đồng hóa cái mộc mạc thân tình với cái thô lỗ, tưởng ai cũng say mê sự trơn láng của một mái tóc chải bi-ăng-tin ép vuốt bóng nhầy. Họ nghĩ rằng một khuôn mặt xác chết phấn son chải gọt đúng qui cách hấp dẫn hơn cái ấm áp hồn nhiên của sự sống.

Cứ gần cuối niên khóa là thầy được cử đi chấm thi. Năm đó, tôi nhớ thầy đi chấm ở Nha Trang. Lúc bấy giờ đường xe lửa xuyên Ðông Dương mới làm được hai đoạn: đoạn phía Bắc dừng lại ở Tourane (Ðà Nẵng), đoạn phía Nam dừng lại ở Nha Trang. Tourane có xe thơ do hãng STACA đảm trách. Xe STACA dài, rộng và cao như xe buýt thời nay, sơn màu xám trắng trông thật lịch sự. Hành khách ngồi trên xe toàn những người sang trọng, không như hành khách ở xe hàng (ở miền Trung xe hàng là xe chở khách đi đường ngắn, trong Nam gọi là xe đò, còn xe hàng chỉ chuyên dùng để chở hàng hóa), áo quần xốc xếch. Thầy ghé đón xe ở nhà dây thép (bưu điện) trước mặt trường, cách trường 100 thước. Khi xe chạy qua trường, nhìn thấy thầy ngồi oai vệ trong xe, mặt nhìn ra trước. Thời đó khách đi xe hàng phải ngồi trên những băng gỗ kê dọc thân xe, lưng quay ra hông xe thành thử ở dưới đất nhìn lên chỉ toàn thấy những lưng người. Còn người ngồi trên hai băng thì đâu mặt vào nhau nên suốt đoạn đường trường cứ phải nhìn mặt người ngồi trước. Có trải qua cảnh khổ nhọc đó mới hiểu được sự sang quí của một tư thế ngồi nhìn ra trước xe, thong thả, rộng rãi, không như xe hàng người này giơ tay vịn trần xe cho khỏi té nghiêng, người kia nép vào nách người nọ, người khác chân bị kẹp giữa hai đùi của người thứ tư. Chiếc xe STACA hùng dũng lướt tới, bớt tốc độ, lượn qua cửa. Chúng tôi đứng ngoài giơ nón chào, và thầy tươi cười rạng rỡ chào lại. Thật là vinh quang!

Vài chục năm sau tôi cũng đi dạy học và cũng được cử đi chấm thi, đi cả bằng máy bay nữa, nhưng cái hào quang rực rỡ tôi nhận thấy nơi thầy ngày trước, tôi không có nơi tôi. Người Trung Hoa có nói "Tự kỷ văn chương, tha nhân thê thiếp" có nghĩa là vợ người thì đẹp, văn mình thì hay. Chẳng lẽ hào quang lại giống như thê thiếp hay sao?

Với cái nhìn của tôi lúc đó thì tương lai hứa hẹn nhiều triển vọng thành đạt cho thầy. Lấy ông Kiểm học Nguyễn Ðình Cầm làm tiêu chuẩn thì tôi đinh ninh chỉ vài năm nữa thầy sẽ thi đậu vào ngạch Huấn đạo là một ngạch học quan. Nhìn sự tín nhiệm của cấp trên đặt nơi thầy và cung cách làm việc tích cực của thầy thì đoán được. Mùa hè nào cũng vậy, tôi cứ nghe mấy ông hương sư tập họp về Sông Cầu để học sư phạm và họ nhắc đến thầy, một trong những người huấn luyện hướng dẫn sắc sảo mà họ tỏ ý nể sợ.

Nhà thầy ở nằm trong một khu vườn nhỏ nhìn ra biển. Tôi lưu ý đến những chùm ti-gôn nở hoa màu hồng trên lối đi. Khác với những cúc, vạn thọ, tường vi... mọc lâu đời trên vùng đất quê hương, hoa ti-gôn như mới được nhập cảng từ một lân quốc hải đảo nào dó nên chỉ mới hiện diện ở vài ngôi nhà nơi thành phố. Màu hồng rất tươi làm mát cả một khung cảnh. Ngôi nhà thầy mới cất, có gió biển thổi mát suốt ngày, có ánh sáng mặt trời dọi nắng suốt ngày, có hoa nở rực rỡ trên lối đi... đời sống của thầy thật êm đềm. Các thầy giáo khác và hầu hết các ông thông, ông phán đều phải thuê nhà ở ngay trên phố. Thầy đốc Nguyễn Viết Nguyên mãi đến khi ông Phạm Quỳnh làm Thượng thư bộ Quốc gia Giáo dục mới đặt tên "Hiệu trưởng" Người Thanh Hóa, mặt đẹp và phúc hậu thì thuê một căn phố của anh Nên, trước tiệm ông Bang Chín. Căn phố của thầy Huy học trò ưa kêu là thầy Huy lùn nằm ở phía cầu Thị Thạc thì vừa thấp vừa hẹp. Ðã vậy mà thầy còn dựng một thùng nuôi ong mật nơi mái hiên khiến trẻ con, người lớn cứ tấp nập nom dòm. Bầy ong thì bay vù vù suốt ngày. Chỉ cần 100 con mà mỗi con cứ bay lượn 100 vòng là số ong tưởng đâu tới mười vạn.

Ðậu Tiểu học xong, tôi giã từ Sông Cầu đi Qui Nhơn học Trung học. Rồi cứ thế con đường học vấn dẫn tôi đi càng xa, những cảnh mới Hà Nội, Ðà Lạt, Sài Gòn, nguy nga nhộn nhịp càng làm tôi yêu cái vắng lặng hiền hòa của Sông Cầu, như yêu người bạn gái đầu tiên ngây thơ, ít nói. Mười lăm năm sau, ngẫu nhiên tôi được điều động về dạy tại trường Trung học Lương Văn Chánh nơi thầy làm Hiệu trưởng. Rồi lại ngẫu nhiên, ba năm sau thầy đi nhậm chức Trưởng ty Giáo dục, tôi thay thầy làm hiệu trưởng trường Lương Văn Chánh. Sau hiệp định Genève lại thêm một sự ngẫu nhiên thứ ba: thầy ở Sài Gòn, tôi ở Nha Trang đều đi dạy thuê ở các trường tư thục. Năm 1983, thầy từ Sài gòn ra, có ghé thăm tôi. Tôi xúc động vì lòng ân cần của thầy, càng xúc động vì nhìn dấu vết thời gian nơi "người hùng thuở nhỏ" của tôi. Thằng học trò từng sợ thầy là tôi mà tóc đã nhiều sợi trắng rồi, huống chi bậc tôn sư của nó. Mắt thầy đã yếu. A quelque chose, malheur est bon, cái bất hạnh nhiều khi cũng có ích. Chắc thầy không còn soi gương nữa để khỏi nhìn thấy bóng mình trong gương. Mắt tôi còn sáng, nhưng may nhờ cái gương nơi tủ áo tôi nó mờ nên bằng một thái độ quân tử cao khiết và với một lòng nhân ái vô biên, nó xóa đi những khuyết điểm nơi khuôn mặt tôi, nó chỉ phản chiếu lại bằng những nét mờ ảo. Mà phàm cái gì mờ ảo thì trông cũng đẹp. Hôm 20 tháng 11, ngày nhà giáo, là một thầy giáo niên trưởng, tôi được mời lên phát biểu. Giờ giải lao, một thầy kém tôi chừng 5-7 tuổi tiến tới bắt tay: "Xin chào lão sư". Tôi thân ái cầm hai tay người bạn, cảm ơn, vừa nói: Tôi muốn chữ "sư" có bộ Khuyển một bên (cách viết chữ Hán. Chữ SƯ (thầy) nếu thêm bộ Khuyển ở trước thì có nghĩa là "con sư tử". "Lão sư" là con sư tử già, chớ không phải là người thầy giáo già. Thầy giáo phải có cốt cách của sư tử, không được có cốt cách của loài cáo, loài chồn.

Thầy tôi! Con sư tử của vùng núi rừng Hóc Lá! Vì thầy mà tôi yêu cái tên Hóc Lá, tên của vùng quê hương thầy. Cứ nghĩ đến thầy là tôi thấy cánh đồng Chợ Ðèo, trên đó một bóng học sinh lầm lũi cần mẫn bước, bắt đầu là những bước rụt rè, tiếp theo là những buớc mạnh dạn hơn, vững chắc hơn, kiêu hãnh hơn, những bước đi tới.

... Mẫu chuyện trên, tôi viết gởi tặng một thầy học cũ nhân sinh nhật thứ 75 của thầy. Tôi có nhắn rủ vài người bạn cùng làm. Họ "ừ" nhưng rốt cuộc không ai thực hiện. Ngẫu nhiên sau đó, một cô học trò cũ, vừa có học tôi vừa có học thầy, tới thăm. Tôi trao cho cô đọc. Ðọc vừ xong, cô phản ứng:

- Nhưng "thầy" không công bằng. Thương nể học sinh đẹp giàu. Coi thường học sinh nghèo.

Tôi cười nhẹ hàng:

- Tôi biết. Và chính tôi đây cũng từng là nạn nhân.

Cô học trò cũ mở to mắt ngạc nhiên.

- Tôi nhờ trời học khá, đứng nhất nhì trong lớp. Nhưng tôi xuất thân từ nhà quê thì làm sao thầy không cưng Lê Phúc Hán con quan Án Sát, cưng Hồ Thị Yến con ông chủ Dây thép... hơn tôi? Ngày Tết cha tôi đón xe đi hơn 20 cây số, mang theo nếp tượng giã thật trắng và con gà cồ thiến để tết thầy theo tục lệ Nho học mà cha tôi chịu ảnh hưởng. Cha tôi đâu có ngờ những phụ huynh ở thành thị là con quan Tuần Vũ, quan Tham Lục lộ, thầy Phán tòa sứ, ông chủ tiệm buôn Hoa kiều, chủ hãng xe, chủ khách sạn. Họ đi tết thầy những bôm, nho, táo, xá lị... những xấp hàng Cẩm Châu, Thượng Hải để may áo dài. họ đi tới bằng xe láng bóng. Chỉ cần một thoáng mắt nhìn là cha tôi đã cảm thấy buồn. Tôi nói tôi cũng là nạn nhân là ý đó. Nhưng mà này cô Liên Vũ (tên cô học trò cũ), ta chỉ nên nhìn phía đẹp của cuộc đời. Thầy lớn tuổi rồi, sinh nhật nhận quà và lời chúc tụng là chuyện thường tình. Tôi ở xa, gợi nhớ vài "kỷ niệm đẹp" thầy thưởng thức lâu hết hơn.

Quả đó là một cách sống đạm bạc vừa tầm khả năng của nhiều người. Làm nghề dạy học, cứ gần ngày nghỉ hè là tôi bảo học sinh viết kể lại những kỷ niệm trong lớp, rất ngắn, rất gọn, chỉ cần nhắc sơ lại sự việc. Viết trên tờ giấy lớn nhỏ gì cũng được. Tôi gom những tờ giấy đó về đóng thành tập. Mười năm, hai mươi năm sau mở ra đọc lại, quên rằng tóc mình đang bạc, tưởng mình đang cầm viên phấn đứng trước bảng đen.

Quanh ta người ta than khổ, hai mươi tuổi còn than huống kẻ sáu mươi, bảy mươi. Và thường ta chỉ lo cái khổ của ta mà quên giải khổ giúp người. Tôi gợi nhớ những kỷ niệm đẹp cho thầy là nhằm tạo một niềm vui nhỏ, giải một nỗi khổ nhỏ cho thầy tôi đó. Vì ai khỏi khổ? Không có cái khổ lớn thì người ta cố tìm những cái khổ nhỏ để mà khổ.

*

Ngoài ông bà, cha mẹ, anh chị và người thân trong gia đình thì thầy và cô giáo là người thương yêu ta chân tình hơn ai hết và ta cũng yêu lại, tin tưởng, chân tình. Bởi một lẽ đơn giản: đó là người ta tiếp xúc đầu tiên, tiếp xúc hàng ngày, ngay từ lớp mẫu giáo ngây thơ.

Lần đầu tiên tập đứng sắp hàng, tập giở mũ chào, tập vòng tay ngồi im, tập giơ tay xin nói. Y như mới ngày nào mẹ tập đứng tập đi.

Ðừng nặng lời đối với quan niệm Quân Sư Phụ mà ghét lây vị trí của thầy giáo. Vào cái thời mông muội xa xưa, nông nghiệp thô sơ đó, người đàn ông có uy quyền lớn nhất là vua. Rồi tới người đàn ông có nhiều chữ nghĩa và truyền dạy chữ nghĩa, mở đường cho con cháu mình thi cử đỗ đạt, đó là ông thầy. Người cha khiêm tốn nhận địa vị thứ ba vì cha thường là nông dân ít nói, ông thợ cần cù. Mà có chi phải ganh nghét ông thầy, vì ông thầy, thầy đồ, thì luôn luôn nghèo, văn chương thương tình tặng cho hai chữ "thanh bạch", không nỡ nói trắng ra là "bần khổ". Và thời nay thì cũng đâu có khác mấy thời xưa?

Chưa dám kể rằng các bậc thông thái thời xa xưa đều đóng vai thầy chớ ít ai đóng vai tể tướng. Như Ðức Khổng Tử, vạn thế sư biểu mà không mấy ai không biết. Người thầy có sức học uyên bác, biết con vật đào ở dưới đất nước lỗ lên là con Phần dương chớ nhất định không phải là con chó, biết vật lạ vớt được ở sông Ðại giang nước Sở là trái bèo, bửa ra ngọt như mật, biết dị nhân ở nước Trần cầm giáo đâm mình là con cá Chiêm Ðại ngư, biết con chim lớn mình đen cổ trắng, có một chân ở nước Tề là con Thượng dương, bay đến đâu là nơi đó có mưa to lụt lớn. Người thầy đó suốt đời chu du trải khắp bảy nước Lỗ, Vệ, Tống, Trịnh, Tấn, Tần, Sở. Có hồi làm tới Tướng quốc, có hồi ngồi giảng cho học trò dưới một gốc cây (quan Tư mã thấy ngứa mắt liền sai chặt gốc!), có hồi nhịn đói ba ngày mà vẫn điềm nhiên ngồi gảy đàn, đọc sách. Suốt đời chăm dạy Lễ, Nghĩa, Liêm, Sỉ, bỏ nước Lỗ ra đi vì vua Lỗ thiếu Lễ, bỏ nước Vệ ra đi vì vua Vệ thiếu Ðức.

Bậc thầy ở Á Ðông là vậy, còn ở phương Tây? Lần trang sử cũ thấy ông Socrate. Lạ thay, cũng đồng thời với Khổng Tử, nhích nhau chẳng mấy năm, khi Khổng Tử qua đời thì Socrate lên chín.

Socrate, đó là một người khiêm tốn hiền lành, mặc áo sờn vai, đi chân trần ngao du trên những con đường của thủ đô Hy Lạp, nói chuyện với mọi người về những đề mục tầm thường: thời tiết, mùa màng, chợ búa... Nhưng khi giã từ, kẻ đối thoại chợt nhìn thấy cái ông mặt mũi xấu trai đó có nói cho mình một cái gì đó khiến mình suy nghĩ và mình đang hiểu mình hơn. Nghệ thuật của thầy Socrate đó. Thầy chỉ đặt những câu hỏi và người học trò học suy nghĩ. Thầy mở mắt cho họ hiểu là họ chưa biết được bao nhiêu, chưa biết đúng và khiến họ ước muốn những hiểu biết chân chính. Thầy so sánh phương pháp giáo dục của mình với phương pháp đỡ đẻ, mẫu thân của thầy là một bà mụ giúp trí tuệ con người đẻ ra cái Chân lý mà nó có mang sẵn trong đó.

Ðệ tử theo Socrate càng ngày càng đông và những quan niệm mới của ông khiến ông có nhiều kẻ thù. Ngay cả nhiều bậc phụ huynh cũng không bằng lòng vì đầu óc con em họ tràn ngập những suy nghĩ mới. Và ông bị đưa ra tòa, lấy cớ là ông phỉ báng chân lý, phỉ báng thần linh và làm hư giới trẻ. Ông trả lời rất ít, không tự bào chữa. Tòa tuyên án tử hình. Ông từ chối không xin giảm án, hy vọng rằng cái chết của mình sẽ khắc sâu vào lương tâm của người công nhân Nhã Ðiển, bây giờ và cả ở thế hệ tương lai, còn hùng hồn hơn cả những lời rao giảng.

Trong ngục thất, ông uống cạn ly thuốc độc một cách bình tĩnh, các đệ tử bao quanh ông, nước mắt chảy ròng. Ðệ tử Criton vuốt mắt cho thầy.

Lý tưởng của người Thầy vĩ đại (chữ dùng của sử gia: grand maître) được các môn sinh khai triển thành những môn phái, trong số có những môn phái tưởng như trái ngược nhau: phái Khuyển nho, phái Khắc kỷ, phái Hưởng lạc... Ðệ tử sáng chói nhất của Socrate là Platon, được người đời tôn vinh là "ông vua của ngành Triết học", người được Hoàng đế Denys tiếp long trọng như tiếp một vị quân vương. Ðệ tử của Platon là Aristote, thầy học của A-Lịch-Sơn Ðại đế, nhà thông thái toàn diện mà thời Trung cổ đã tôn vinh là "Thầy của mọi khoa học". Thật là thời đại hoàng kim của sự kế tục thầy trò!

Ở ta thuở xưa, nghề dạy học đã thành cái nghiệp của người biết chữ. Nhà Nho khi còn hàn sĩ, khi thi đậu đợi bổ ra làm quan, khi hồi hưu hoặc khi phải treo ấn từ quan lui về ẩn dật... đều mở trường dạy học. Trường chỉ sơ sài một mái tranh đã đủ, khỏi thủ tục xin giấy phép kinh doanh. Học không phải nhiều môn nên khỏi cần mời nhiều thầy chuyên môn. Thỉnh thoảng lịch sử có nêu tên những bậc thầy khả kính, có kiến thức uyên thâm, có đạo đức cao khiết, có môn đệ thành đạt. Tiêu biểu là thầy Chu Văn An đời Trần, thanh liêm chính trực, dâng sớ xin chém bảy gian thần, vua không nghe liền từ quan lui về ẩn dật, mở trường dạy học, đào tạo nhiều môn sinh hiển đạt như Phạm Sư Mạnh...). Chừng như danh nhân văn hóa nào cũng từng là thầy giáo: Phan Huy Chú, Bùi Hữu Nghĩa, Ðặng Huy Trứ, Phan Văn Trị, Nguyễn Ðình Chiểu, Nguyễn Khuyến...

Thầy cô giáo hôm nay không dám sánh với những bậc sư biểu đó. Trường sư phạm đào tạo những thầy cô giáo dạy đúng chương trình, dạy có lương tâm, và chỉ bấy nhiêu đó thôi, học sinh và phụ huynh đã phải có bổn phận đối xử có nhân có nghĩa. Ðừng như bà phụ huynh nọ ỷ mình có sạp buôn lớn, quen thân với cấp tỉnh cấp khu, một hôm nhận được giấy cô giáo chủ nhiệm thông báo con mình vô kỷ luật liền đợi tới giờ cô, xông thẳng vô lớp, tát tai đấm đá túi bụi đứa con, chửi mắng ầm ỹ rồi hùng dũng bỏ đi ra. Khiến tôi chợt nhớ tới cuộc diện kiến giữa A-Lịch- Sơn Ðại đế với nhà hiền triết Diogène thuộc môn phái Khuyển nho.
Diogène sống với một con chó, ở trong một cái thùng gỗ, hạn chế tối đa nhu cầu đến mức một cái một cái chén để múc nước uống cũng ném đi khi thấy hai bàn tay bụm lại cũng hứng được nước. Nghe danh nhà hiền triết, một hôm Ðại đế đến đứng cạnh cái thùng lễ độ thưa:

- Tiên sinh có cần gì, quả nhân xin...

Triết gia trả lời:

- Ta cần ngươi đứng xê ra để nắng dọi được vô cửa thùng.

Tướng tùy tùng rút gươm toan chém tên vô lễ (nghề chuyên môn mà!), nhưng vua gạt đi, nói:

- Nếu ta không là A-Lịch-Sơn thì ta muốn được là Diogène.

A-Lịch-Sơn trọng Diogène như trọng thầy mình, người thầy mà nhà vua đã từng nói: "Sinh ra ta là cha ta, Hoàng đế Philippe. Dạy ta sống xứng đáng là thầy ta, Aristote".

Lên ngôi năm 20 tuổi mà đánh Ðông dẹp Bắc, xua quân từ Hy Lạp sang tận Ba Tư, Ấn Ðộ, cái thế anh hùng, nhưng nhà vua biết cúi đầu trước cái Ðức của bậc hàn sĩ. Thử đặt bà phụ huynh chủ sạp vào địa vị nhà vua, thì bà sẽ đá cho cái thùng lăn lông lốc mấy chục vòng!

"Nhất tự vi sư, bán tự vi sư", vậy mà tôi gặp trường hợp có người học trò cũ xưng hô với tôi bằng "anh". Tôi hoàn toàn không cảm thấy bị xúc phạm mà chỉ thấy thương hại cho anh ta. Rõ ràng là anh ta có tỏ ra lúng túng khi sắp phải chọn giữa hai tiếng "thầy" và "anh". Tôi muốn vỗ vai thân mật an ủi: "Sao em khổ chi vậy?

" Tiếng "thầy" có gì là cao giá đâu mà em phải cân nhắc? Xung quanh ta thiên hạ dùng tiếng "thầy" khỏe ru mà: thầy thuốc, thầy cúng, thầy võ, thầy phù thủy, thầy địa!...

" Kẻ ác tâm nghĩ và người ác khẩu nói: truyền đạt kiến thức cho học sinh thì nói có công ơn gì? Chỉ là nghề sinh nhai, còn nhẹ hơn nghề đắp đường, khỏe hơn nghề bửa củi. Kiến thức thức đó của danh nhân kim cổ chớ đâu phải của chính thầy cô mà phải thán phục? Vậy là bao nhiêu cái ơn phủi đi, bấy nhiêu cái oán lãnh đủ, vì kiến thức truyền rao, học sinh phải nghe, phải học, phải thuộc, phải biết vận dụng để làm bài. Lười học, cẩu thả, làm sai, thầy cô phải la phải phạt, vậy là mang oán. Gặp phụ huynh có quyền có chức thì từ oán chuyển sang uy hiếp.

Có một lần một bà mẹ cầm tờ đơn đến trường kiện cô giáo. Tôi mời ngồi nơi phòng khách và mở lời trước:

- Tôi biết vụ này. Con bà về mét là bị cô giáo bạt tai. Cô giáo nói không. Không có ai làm nhân chứng. Nhưng mà đôi co chứng tá làm gì, chúng ta cùng giải quyết cái căn bản. Con bà được bà cưng, học lười và hỗn với cô giáo từ lớp Một. Cô giáo rầy la, cảnh cáo nhưng bà bênh con: ăn hiếp lại cô giáo. Lên lớp 2 cũng vậy, lớp 3, lớp 4 và bây giờ lớp 5 đều cũng vậy. Nội dung đang rất bi đát mà bà đâu có hiểu. Con bà không học thì sức đâu mà lên lớp? Nhưng để học lại một năm nữa thì cô giáo chịu sao nổi với nó, với bà? Vậy là nâng điểm, cho lên. Cứ liên tiếp như vậy. Rốt cuộc nay học lớp 5 mà trình độ đâu chừng tới lớp 3 rưỡi. Mà phàm học kém thì ngồi nghe giảng không hiểu, phải nghịch phá. Bà ơi, rốt cuộc cô giáo nào rủi dạy trúng con bà đều cũng phải nhẫn nại chịu đựng cho qua năm học, chịu khó ngồi tụng niệm một trăm chữ NHẪN. Nhưng còn bà, thưa bà, bà sẽ phải khổ với nó suốt cuộc đời bà.

Người đàn bà chăm chăm nhìn tôi. Cái đơn kiện đến cuộn tròn khá lớn, giờ như được xếp cho nhỏ lại.

Nhà giáo bị uy hiếp bốn bề. Là người thợ xây, nhưng tâm hồn học trò đâu có dễ uốn như cây, như gạch? Quả là có một số ít nhà giáo kém phẩm chất nhưng tại sao lại vin vào số ít nhỏ nhoi này để phủ nhận cài đa số lớn lao kia?

Riêng người học trò cũ ngồi nói chuyện với thầy, viết thư thăm thầy thì còn được hưởng thêm một niềm vui ích kỷ: đó là thấy mình vẫn còn trẻ. Bởi một khi các bậc trưởng thượng: cha, mẹ, thầy giáo đều từ trần thì mình sẽ cảm thấy cô độc lạ thường, mình như già đi trong phút chốc. Như những ngày cây cổ thụ ngã xuống, các cây nhỏ bấy lâu nép bóng chợt bị phơi trần ra chịu đựng nắng, gió, mưa.

Gắng tạo niềm cảm thông, niềm an ủi cho các thầy cô giáo để ngày ngày họ dạy dỗ con của bạn trong niềm vui. Cũng dễ hiểu thôi mà: khi có nước mát tưới đều, bụi thúy cúc nở những đóa hoa rực rỡ. Và con của bạn đang ngồi vây quanh, hưởng hương sắc của hoa.

Còn thầy cô giáo cũ thì có mong chờ gì ở bạn đâu? Vì vậy mà một lời thăm hỏi đủ đem lại niềm vui thanh khiết.


VÕ HỒNG    
 

Thứ Sáu, 29 tháng 9, 2017

MÙA TRĂNG


"Chú Cuội hái một nắm lá đa nhai nhỏ rồi đắp lên chỗ vết thương. Con chim trở mình, đập cánh bay lên. Thấy lạ, người nhà Bá Hộ vội trở về kể lại mọi việc với chủ. Bá Hộ mừng rỡ mời Cuội đến nhà chữa bệnh cho con gái và hứa nếu Cuội cứu sống con ông, ông sẽ nhận Cuội làm rể. Chỉ với ba chiếc lá đa, Cuội lại cứu được mạng sống cô. Bá Hộ giữ lời hứa, gả con gái cho Cuội. Hai vợ chồng Cuội sống với nhau rất hạnh phúc, ngày ngày chăm sóc cây đa quí, chữa bệnh cho dân..."

Còm ngồi chồm hổm trước cửa nhà nhìn lên trời. Trăng sao vằng vặc. Mảnh trăng khuyết một chút như miếng bánh đa bị mẻ góc tỏa ánh sáng đẹp đẽ rõ ràng xuống trần gian. Tiếng kể chuyện vẳng ra từ chiếc máy phát thanh bên hàng xóm đột ngột cắt ngang, thay bằng một giọng ca mùi mẫn. Còm cố nhớ lại đoạn kết câu chuyện quá quen thuộc mà nó đã từng nghe kể. Cây đa bị trốc gốc bay lên mặt trăng mang theo cả chú Cuội dễ thương. Từ đó, hằng đêm, chú Cuội ngồi dưới gốc cây đa nhớ về trần gian những ngày chăn trâu, bắt cá... Còm nghĩ thầm, chú Cuội ngu thiệt là ngu, ai mà lại nhớ những chuyện cự khổ đó trong khi bên cạnh chú là một cây đa kỳ diệu có những chiếc lá trị bá bệnh, cải tử hoàn sanh. Còm chỉ mong mình có được hai, ba lá, chỉ hai, ba lá thôi, không nhiều hơn để trị bệnh cho mẹ. Bà Ba, mẹ Còm bị ho dai dẳng cả tháng nay. Mỗi đêm, thức giấc, nghe tiếng mẹ ho khan xé ngực, Còm có cảm giác như lồng ngực mình cũng nặng trĩu, nhói đau. Vậy mà sáng sáng, mẹ đều dậy sớm sửa soạn ra chợ từ lúc trời chưa sáng hẳn và chỉ trở về khi trời sẩm tối.

- Còm, tối nay đốt đèn chơi Trung thu không?

Còm day lại, con Chúc, thằng Lắm, thằng Xin tở mở cười toe rủ Còm. Đốt đèn, thích thiệt, chỉ cần một cây đèn cầy nhỏ, dựng lên cái thước gỗ, sắp hàng vừa đi vừa hát là đủ thấy Tết Trung Thu. Nhưng, mẹ chưa về, đâu có tiền mua đèn cầy. Còm ngần ngừ trả lời:

- Để chút nữa, mẹ tao về.

- Ừa, tụi tao đi trước, chút nữa mày đi nghe.

Còm tiếc nuối nhìn theo. Tụi thằng Xin đã đi ra đầu ngõ. Chẳng bao lâu, Còm đã nghe tiếng hát của chúng vọng lại.

Bóng trăng trắng ngà,
Có cây đa to.
Có thằng Cuội già,
Ôm một mối mơ...

Còm rầu rĩ nhìn lên trời. Mặt trăng long lanh ướt rượt. Trên nền vàng sáng, cái bóng đen lờ mờ tỏ hiện. Còm nheo mắt, cố gắng không chớp để nhìn cho kỹ. Những quầng đen càng nhìn càng giống một cây to, tán lớn. Đúng là một cây đa, sum sê rườm ra y cây đa ở Lăng Ông Bà Chiểu. Vậy chú Cuội ở đâu? Hình như Còm vừa thấy dáng chú Cuội ngồi im lìm dưới tàng cây lớn. Còm phấn khởi quá kêu to:

- Chú Cuội kìa. Chú Cuội...

- Nấu cơm chưa mà còn ngồi đây? Sao con không thắp đèn?

Bà Ba đặt gánh hàng xuống, cố nén cơn ho. Bị mắc mưa cảm lạnh một trận, biến chứng thành ho, kéo dài hơn một tháng mà chưa bớt, nhưng bà vẫn cố gắng đi sớm về trễ với gánh hàng rau. Mệt nhọc, nắng nôi suốt ngày nên bệnh lâu lành. Bà Ba biết vậy nhưng nghỉ chợ một ngày là đói một ngày, bà đành cố gắng gượng.

Còm thấy mẹ về, reo lên một tiếng khẽ:

- Mẹ về. Con nấu cơm rồi, chờ mẹ về luộc rau.

- Ừ, con giỏi. Lấy cho mẹ miếng nước nóng rồi thắp đèn lên. Sao con không học bài trước, nhẫp học rồi đâu còn nghỉ hè nữa mà chơi hoài.

Còm vừa thắp đèn vừa nói với mẹ:

- Mai chủ nhật mẹ à. Với lại trăng sáng, thắp đèn uổng dầu.

Nửa giờ sau, hai mẹ con ngồi bên mâm cơm. Còm đói tợn nên ăn vội vã. Có tiếng thím Hai la ngoài ngõ:

- Tụi bay có tắt đèn không? Coi chừng cháy nhà cả xóm.

Còm chợt nhớ, nó và vội vài miếng rồi ngập ngừng xin mẹ:

- Mẹ cho con... tiền... mua đèn... Trung thu...

Bà Ba thở dài. Còn có ba ngày nữa là Tết Trung thu. Tết của trẻ em. Trên đường về, các cửa hàng bán bánh Trung thu giăng đèn sáng trưng. Đèn bánh ú, đèn ngôi sao, đèn kéo quân, đèn trái bí muôn màu muôn vẻ. Những đứa trẻ quần áo tươm tất hớn hở tay cầm đèn, tay cầm bánh, theo ch6an bố mẹ tung tăng trên đường phố. Bà thấy  và bà biết Còm sẽ vui mừng như thế nào khi cầm trong tay một chiếc lồng đèn Trung thu. Ngày xưa, xưa lắm, khi bà còn nhỏ, bố bà đã làm cho bà một cái lồng đèn bánh ú bốn màu. Tuy đèn đơn sơ, nhưng lòng bà tưng bừng như mở hội. Giờ đây thằng Còm, con bà, chắc hẳn cũng mơ ước xiết bao được có một chiếc lồng đèn trong tay, nhưng bà đành bất lực. Một mẹ, một con, đầu tắt mặt tối, vất vả, nghèo đói, đau yếu, trăm phần cơ cực. Lồng đèn, bánh nướng chỉ là ước mơ. Tim bà thắt lại, giọng nói trở nên nghẹn ngào:

- Mẹ cho con năm trăm đồng mua đỡ một cây đèn cầy nhỏ. Bữa nay mẹ bán hàng ế. May ra vài bữa nữa, bán đắt mẹ mua cho cái bánh dẻo con heo.

Còm hớn hở nhận tờ giấy năm trăm nhàu nát:

- Dạ, con chơi một chút thôi mẹ. Ngoài đường, bánh dẻo con heo nhỏ nhỏ giá cũng mấy ngàn đồng lận. Có hai hạt đậu đen làm mắt trông tức cười thiệt.

Ừa, con đi chơi, nhưng chút nữa về mẹ đưa tiền ra tiệm thuốc mua cho mẹ lọ thuốc ho.

Thằng Còm dạ lớn rồi chạy vội ra ngoài nhập với bọn trẻ. Ánh trăng càng lúc càng sáng hơn. Người lớn đổ ra ngõ để tìm chút gió mát. Một vài người nhìn đám trẻ chơi đèn với vẻ lo âu:

- Làm ơn dẹp giùm mấy cái đèn. Nóng bức thế này, cháy nhà dễ như chơi. Khổ lắm.

 Một đứa nhỏ không có đèn, bèn vung vẩy một đoạn lốp xe cháy lèo xèo bốc khói nghi ngút. Thế là mọi người đổ xô thổi tắt đèn. Không biết ai đã tóm lấy cây đèn cầy của thằng Còm quẳng đi đâu mất. Tiếc quá, Còm khóc rưng rức. Bọn trẻ rã đám đứng ngơ ngẩn nghe người lớn quát nạt rồi tản mát về nhà.

Trăng sáng quá. Thằng Còm vẫn còn ngồi buồn xo trên bậc cửa sùi sụt. Bà Ba đã nhìn thấy hết. Thương con muốn cho con được trọn vẹn niềm vui nhưng bà không biết làm sao. Giá như thằng Còm có được một chiếc đèn Trung thu, song làm sao mà có được dù là chiếc đèn đơn giản nhất. Cổ họng bà thắt lại vì buồn. Một cơn ho xé ngực nổi lên, bà cố chặn bằng một ngụm nước nóng, song không kịp. Thằng Còm đang ngồi rầu rĩ nghe tiếng mẹ ho nóng ruột chạy vào:

- Mẹ ơi, đưa tiền con đi mua thuốc cho mẹ. Thuốc ho dân tộc phải không mẹ?

Bà Ba vuốt ngực. Cơn ho tạm lắng, bà lần túi lấy ra mấy ngàn đồng đưa cho Còm. Giọt nước mắt trên má Còm vẫn chưa khô, loang loáng. Cơn đau khác trong lòng người mẹ cuộn lên còn hơn cơn ho vừa rồi. Một ý nghĩ thoáng qua, bà Ba ngăn thằng Còm lại:

- Khoan đã, con lấy trong thúng lớn cho mẹ một củ gừng và một củ nghệ. Cầm đưa mẹ con dao, rót thêm cho mẹ miếng nước nóng. Mẹ quên, người ta bày cắt gừng thành lát mỏng, ngâm nước uống cả xác, còn nghệ thì nướng chín, ăn cả củ, chữa ho cảm mau lành nhất. Khỏi mua thuốc.

Thằng Còm ngạc nhiên:

- Vậy mẹ đưa tiền cho con làm chi?

Bà Ba cười vuốt tóc con:

- Trung thu con không có đèn. Mẹ định mua cho con nhưng sợ cháy, uổng lắm. Với lại trong xóm toàn nhà lá, chơi lửa bà con không muốn đâu. Mẹ cho con tiền mua cái bánh dẻo con heo, để mai ăn con chịu không?

Thằng Còm sướng rơn. Nó như muốn nhảy lên khỏi mặt đất. Cái bánh dẻo. Chỉ mơ mới có.

- Đã quá mẹ ơi. Vậy mẹ có mua thuốc không, con đi mua luôn?

- Mai mẹ mới uống. Xuống chợ mẹ mua cũng được.

- Vậy thì con đi mua bánh Trung thu.

- Ừ, con đi.

Bà cắn một miếng gừng, tu một ngụm nước nóng. Hơi ấm của gừng làm ấm nóng vùng ngực và bụng. Bà thấy dễ chịu. Nhưng có lẽ lòng bà ấm nhiều hơn vì đôi mắt mừng vui, bà nét mặt hớn hở của con. Lòng nhẹ nhõm, bà Ba đứng dậy, thu dọn nhà cửa, quang gánh, để mai cất hàng sớm.

Thằng Còm đi như chạy. Cái hẻm nhỏ sao dài và xa dằng dặc. Cầm chặt món tiền trong tay, Còm vừa đi vừa nhìn lên trời. Mặt trăng chạy theo Còm từng bước, từng bước. Cả chú Cuội nữa, như cũng hòa vào niềm vui của Còm, nhảy nhót trong trăng:

"Cuội ơi ta nói Cuội nghe,
Ở trong trăng mãi làm chi?"

Còm hét tướng lên.

- Đi cái kiểu gì kỳ vậy, đồ xớn xác!

Còm vụt ngồi xuống tránh cái bợp tai của một bà già. Mải hát, Còm đi suýt va vào bà.

- Thằng Còm đó hả? Mẹ mày đã bớt chưa? Nói với mẹ là vừa xông vừa uống thuốc mới mau hết. Để lâu thành lao thì khốn. Sao mày không ở nhà phụ mẹ lại chay nhong nhong như ngựa vía vậy?

Còm đứng lặng nhìn theo bà cụ. Bà ấy vừa nói gì nhỉ? Không uống thuốc mẹ sẽ bị lao. Bệnh lao. Một loại bệnh ghê gớm chết người theo ý nghĩ của Còm. Niềm vui bỗng lắng xuống. Còm đâm lo lắng. Nó tần ngần nhìn bóng mình in dưới nền đất lồi lõm rồi ngước nhìn lên. Mặt trăng cũng đứng yên nhìn Còm. Chú Cuội cũng đứng yên nhìn Còm. Giá như Còm có được ba chiếc lá đa của chú Cuội nhỉ. Bất giác, Còm khấn thầm:

- Cuội ơi, cho cháu xin mấy cái lá đa để chữa bệnh cho mẹ cháu. Lúc ấy, Cuội bảo gì cháu cũng theo.

Nhưng mặt trăng vẫn im lìm nghiêng nghiêng nhìn xuống Còm. Còm bước đi chậm chạp, tiền cầm chặt nơi tay.

Hàng bánh sáng trưng. Những chiếc lồng đèn con cá, con bướm rực rỡ màu xanh đỏ.

- Lồng đèn xanh xanh đỏ đỏ
Mua về cho em nhỏ nó chơi.

Dưới những chiếc lồng đèn màu sắc là cái tủ gương đủ mọi loại bánh. Nâu nâu mỡ màng là bánh nướng. Trắng tinh là bánh dẻo. Còm hướng mắt về phía đó, nhìn con heo phình cái bụng tròn quay, cặp mắt đen nhánh bằng hai hạt đậu, tươi cười thỏa mãn. Còm thấy muốn cầm ngay con heo vào tay để vuốt nhẹ trên làn da trắng của nó, để hít hít cái mùi thơm của nước hoa bưởi phả ra từ chất bột dẻo.

Có tiếng ai ho khan làm Còm giật mình tưởng mẹ đang đứng đâu đó. Một cảm giác xao xuyến chạnh lòng lướt qua trái tim nhỏ bé của Còm. Mẹ đang bệnh. Để lâu bị nặng thành ho lao. Nếu mẹ mất đi, Còm sẽ ra sao đây? Còm cố lắc lắc cái đầu để xua những ý nghĩ đen tối. Còm ngước nhìn lên trời. Chú Cuội với cây đa cành lá sum sê đang nhìn xuống nó. Giá như nó được một chiếc lá đa kỳ diệu nhỉ? Còm cúi xuống nhìn những đồng bạc trong tay rồi nhìn qua hiệu thuốc ở kế tiệm bánh.

- Mua bánh hả?

- Dạ..., cháu mua thuốc.

- Mua thuốc qua bên kia, để có chỗ cho khách mua bánh. Đi qua bên kia đi...

Còm ngập ngừng bước, mắt vẫn còn quay lại nhìn vào đôi mắt đen nhỏ xíu của con heo nhỏ.

Đêm hôm đó, trong căn nhà lá nghèo nàn, một người đàn bà thổn thức nhìn con không ngủ được, nhưng cơn ho đã dịu đi nhiều. Và thằng bé, thằng Còm, thì say sưa ngủ, nó mơ thấy chú Cuội từ trong cung trăng bước ra cho nó một nắm lá đa và một cái bánh dẻo con heo to tướng có đôi mắt đen lay láy.


KIM HÀI   



Thứ Hai, 4 tháng 9, 2017

NGHĨ VỀ MẸ


Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
                                    (Truyện Kiều)
Tựa cửa hôm mai là lời của mẹ Vương Tôn Giả. Mẹ bảo Vương: "Nhữ chiêu xuất nhi vãng lai" mày sáng đi mà chiều về, "tắc ngô ỷ môn nhi vọng" thì ta tựa cửa mà trông. "Mộ xuất nhi bất hoàn" chiều đi mà không về, "tắc ngô ỷ lư nhi vọng" thì ta tựa cổng làng mà ngóng. Hai câu mô tả lòng mẹ thương con khi con đã lớn. Trích dẫn nguyên bản để đọc lên ta xúc cảm rằng bà mẹ đó có thật.
Truyện dân gian mô tả lòng mẹ thương con thì rất nhiều. Thử lấy một. Người mẹ bị rắn độc cắn. Biết mình sắp chết bỏ con, vội vã chạy về nhà, đổ lúa vào cối mà xay, đổ thóc vào cối mà giã, gấp gáp sao cho có gạo để lại cho con ăn sau khi mình chết. Không ngờ điều huyền diệu đã xảy ra: dồn cả sức lực, bắp thịt đến rã rời, truyện kể rằng chất độc toát ra theo mồ hôi, thoát ra theo hơi thở... và người mẹ được cứu sống. Còn nhớ truyện vua Salomon xử kiện? Hai người đàn bà tranh nhau một đứa nhỏ, ai cũng nói mình là mẹ của nó. Dùng đủ mọi lý lẽ mà không giải quyết yên, cuối cùng vua phán: "Ðem đứa nhỏ ra xẻ hai, mỗi người lãnh một nửa." Một người đàn bà nói: "Dạ, thà như vậy cho công bằng." Người đàn bà kia: "Thôi, tôi xin nhường." Ðó, lời nói của mẹ bạn đó, hỡi người bạn nhỏ đang lắng nghe tôi. Mẹ bạn cũng sẽ xử sự như vậy nếu bị đặt vào hoàn cảnh nêu trên.
Trường hợp này thì còn đáng phục hơn: Chàng Côdắc hỏi tiên nữ Ôcxana rằng đến khi nào nàng mới yêu chàng? Nàng trả lời rằng nàng sẽ yêu người nào đem tặng mình trái tim người mẹ... Chàng Côdắc im lặng, lòng đượm buồn và chẳng thiết gì ăn uống nữa. Nhưng rồi cuối cùng chàng cũng mang đến cho Ôcxana trái tim mẹ mình.
Ðường dài chân mỏi, mắt hoa, 
Vừa lên thềm cửa, chân sa ngã nhào.
Tim mẹ đập, ứa máu đào
Mà còn hỏi nhỏ "Nơi nào đau con?"
Hỡi ơi, chỉ có trái tim người mẹ mới vị tha tới mức vẫn cứ thương đứa con bội bạc dường kia!
Tưởng cũng nên nhìn qua vài gương mẹ hiền, dạy con nên người xả thân vì nghĩa. Mẹ Mạnh Tử chọn láng giềng tốt, cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung để làm bài học dạy con. Mẹ Vương Lăng với bài thơ tiễn sứ giả, mẹ Từ Thứ, mẹ... Vài gương thôi vì ai cũng muốn được xúc động bởi tình thương hồn nhiên, tự nhiên, ít muốn thán phục lý trí nhiều khi chỉ là trò tính toán, hư thực khó phân.
Lòng mẹ đối với con như vậy, còn lòng con dành cho mẹ thì sao? Trong bốn câu thơ Ðoạn Trường Tân Thanh nêu trên, một câu đầu nói nỗi lòng người mẹ thì hai câu sau là nỗi lòng của con. Câu trước dành cho đứa con nhỏ tuổi là Hoàng Hưng, câu sau chọn tả nhân vật hiếu tử già nhất lịch sử: Lão Lai. Suốt cuốn Nhị Thập Tứ Hiếu là 24 gương con hiếu. Nhiều gương ngang tầm với người thường, người thường làm được. Truyện Quách Cự chôn con, được chum vàng. Trời chu đáo chôn sẵn để thưởng Quách Cự, hơi khó tin đối với chúng ta hôm nay. Có vẻ như do một thi sĩ của cung đình sắp đặt dựng lên nhằm ca tụng vượng khí của triều đại. Riêng truyện Vương Thôi có khí vị đặc biệt. Mẹ Vương Thôi sợ sấm. Ngày thường Thôi ra đồng làm việc, mà hễ trời nỗi cơn sấm sét là lật đật chạy về nhà cho mẹ bớt sợ. Khi mẹ chết rồi, mỗi lần sấm sét là Thôi lại vội vàng chạy ra ôm mộ mẹ mà nói: "Có con đây, mẹ đừng sợ." Tâm hồn Vương Thôi có cái gì chất phác đơn giản của một người nông thôn quê mùa, khiến ta tin là hoàn toàn có thật. Và không cần cố gắng, khỏi phải lý giải, hễ đọc lên là lòng mỗi chúng ta đều xúc động rưng rưng.
Trong câu truyện cổ của ta có chuyện Bát Canh Hẹ. Một tù nhân một hôm nhìn vào mâm cơm thấy có bát canh hẹ liền khóc òa bảo người cai ngục: "Tôi biết mẹ tôi vừa tới thăm tôi, nhờ ông chuyền cho bát canh hẹ này. Vì hồi ở nhà mẹ tôi thường nấu canh hẹ cho tôi ăn."
Truyện kể một vị hiền giả nọ (Hán Bá Chu), một hôm phạm lỗi bị mẹ đánh. Ông khóc tức tưởi nhiều hơn mọi lần. Mẹ hỏi: "Lần này mẹ đánh ít, sao con khóc nhiều?" Thưa: "Những lần trước mẹ đánh nhiều, ngọn roi mạnh, con khóc vì đau. Lần này mẹ đánh ít, ngọn roi nhẹ, con thấy ít đau, nhưng con biết sức mẹ đã yếu, mẹ đã già, nghĩ vậy mà con khóc." Sách vở ghi biết bao nhiêu gương hiếu.
Mà nào phải lục tìm trong cổ văn mới thấy gương mẹ hiền biết cách thương con. Mẹ của người bạn cùng quê với tôi, anh Phạm Ngọc Ân, vốn không biết chữ quốc ngữ như mọi bà mẹ thời đó. Khi Ân học vỡ lòng, anh lẫn lộn M với N, P với Q... rồi sang vần ngược thì càng tha hồ lẫn lộn. Cha giận vừa nạt nộ, vừa vụt roi. Mẹ thương con, lén đứng dòm, lẩm nhẩm nhớ để rồi bày lại cho con. Kết quả là bà đọc được Quốc ngữ và sau đó Ân học hành giỏi, làm tới chức thanh tra giáo dục. Ân nay đã đông vầy con cháu và mẹ già đã nằm yên dưới ngôi mộ bên sườn núi Ngân Sơn.
Chỉ không lưu ý đó thôi, chứ hình ảnh mẹ con diễn ra quanh ta đầy đẫy, vạn trạng thiên hình kể sao cho siết! Mẹ ẵm con đi chợ, mẹ bồng con đi nhà thương, mẹ dắt con tới trường... Trên sân: gà mẹ dẫn gà con bươi rác. Trên đồng cỏ: trâu mẹ đứng yên cho trâu con sục mõm vào bầu vú, mắt nhìn hiền từ, thỉnh thoảng âu yếm liếm vai liếm lưng. Con cò luộm thuộm, vụng về, cái cổ dài ngoẵng, cặp chân lêu khêu vậy mà từ lưng chừng trời khéo xếp đôi cánh đáp xuống nhẹ nhàng cạnh bầy con, dùng cái mõm nhọn hoắt để sú mồi, để rỉa lông âu yếm... Tình mẹ con quả là thứ tình cảm thiêng liêng khó giải khi ta nhìn cặp mắt vàng lợt đó như thiếu vắng sự thông minh, cái cổ quá mảnh quá dài làm khó khăn biết bao cho sự dẫn truyền tình cảm.
Cho chí cỏ mộc vô tình cũng gợi xúc cảm mẹ con. Cây chuối mẹ và bầy chuối con xúm xít. Cây ổi mẹ và lũ ổi con ngơ ngác vây quanh. Lũ cây con như rất cần mẫn nhìn mẹ mà bắt chước, mà nhại theo hình dáng mẹ, cố gắng sao cho giống mẹ.Trên đời không ai yêu thương ta bằng mẹ. Người tình dẫu thủy chung cũng chỉ yêu ta với điều kiện: Hoặc là ta đẹp, hoặc ta có tài. Mẹ thì không, xấu xí cũng thương, xấu xí càng thương như nhằm bù lại những thiệt thòi cho con, như ngầm nhận sự xấu xí là do lỗi mẹ.
Không đến nỗi quá lời nếu nói rằng với mẹ, con là tất cả. Khi có con, mẹ bình tâm vạch vú cho con bú, áo xống xốc xếch, quần xăn quá đùi cũng không còn thấy ngượng. Có con là như đã đủ rồi. Không như những bạn lấy chồng năm mười năm mà chưa con, vẫn cứ thẹn thùng kín đáo.
Ðúng, đã có đủ rồi. Vì có con, mẹ mới yên tâm, mẹ vừa hãnh diện. Con là tác phẩm tuyệt hảo của mẹ, là vật báu thiêng liêng mà mẹ vẫn không hiểu làm sao mà mình có đủ khả năng tạo thành. Cái sinh vật nhỏ đó dần dần lớn lên, có trí thông minh, thân thể phát triển vẹn toàn để có thể trở thành danh nhân, trở thành vĩ nhân. Càng thêm hãnh diện, càng được đền bù bởi mẹ mang thân phận đàn bà, từ mới sinh ra đã chịu mọi thiệt thòi. Làm con gái đâu được cha mẹ nuông chiều bằng con trai. Lớn lên phải phụ tay trong bếp, dọn dẹp trong nhà. Sự thiệt thòi đeo đẳng suốt đời chỉ vì là thân phụ nữ. Luân lý thời xưa khắc nghiệt bắt người đàn bà không được bước đi bước nữa, phải ở vậy thờ chồng nuôi con. Trải bao cuộc chiến tranh, bao nhiêu góa phụ chôn vùi tuổi thanh xuân, đến khi nhắm mắt xuôi tay là coi như xóa sạch cuộc đời, vĩnh viễn không còn dấu vết. Cho dẫu có được sắc chỉ "Tiết hạnh khả phong" hoặc dãy vòng hoa và bài ai điếu.
Rốt cuộc dường như niềm vui lớn nhất trên đời là khi sinh được đứa con. Tình yêu chồng dần dần sớt qua con và nếu gặp trường hợp đớn đau phải hy sinh đời mình để cho con sống thì hầu như mọi người mẹ đều nuốt nước mắt nhận cái chết về mình, ít cần lưỡng lự.
Nước ta có hai bậc quần thoa xuất chúng Bà Trưng và Bà Triệu, được ca ngợi là cân quắc anh hùng, hào quang xuyên suốt lịch sử. Nhưng không thấy sử ghi là hai bà có được đứa con. Khiến có hôm xúc cảm nhìn cảnh mẹ con vui vầy của những bà mẹ, "mẹ của Quỳnh Chi, Thanh Hải, Nhật Thành"... Tôi chợt ngậm ngùi nghĩ đến hai bà: 
Tôi chợt nhớ về Bà Trưng, Bà Triệu, 
Chưa một lần được gọi tiếng "con ơi!" 
Vì nghĩa lớn, xả thân mình lo liệu, 
Phần ấm êm: xin nhường hết cho người. 
Phần ấm êm là đứa con, là tình mẹ con, dẫu rằng thế tục tầm thường nhưng không phải dễ mà có được.
Tôi, thuở ấu thơ không được sống gần mẹ, đã vậy mới mười một tuổi mẹ đã từ trần. Theo cha đến chùa một lần là nhân lễ mãn tang mẹ. Lớn lên mới biết lễ Vu Lan báo hiếu nên cứ mỗi lần xé tờ lịch nhìn thấy ghi tháng bảy âm lịch là lòng u hoài nghĩ đến mẹ. Có một thôi thúc nhẹ nhàng, một háo hức tiềm ẩn muốn được làm một cử chỉ báo ân. Nhưng mẹ còn đâu? Ðành tìm trong chỗ bạn quen thân có ba người còn mẹ già, ngày Vu Lan tự tay đem một tặng vật nhỏ, gọi là góp lời cầu nguyện cùng bạn. Rồi âm thầm nghĩ đến tích Mục Liên Thanh Ðề, nhớ đến quê hương xa cách, ngôi chùa làng vắng vẻ tịch liêu. Ðến ngôi mộ của mẹ tôi, của bác tôi, của ông bà tôi nằm rải rác quạnh hiu nơi sườn núi cuối thôn. Ðến những vị xuất gia đã cát ái từ thân, giờ này đang trì chú hộ niệm. Nhưng cát ái từ thân đâu có nghĩa là không nghĩ đến mẹ? Ðại đức ơi, thầy nghĩ đến mẹ tha thiết như thế nào? Hòa thượng ơi, thầy nghĩ đến mẹ bồi hồi như thế nào?
Hiện rõ cái đầu bạc phơ của hòa thượng, chân mày sợi dài trắng xóa, dáng đứng như chỏm núi cao. Như đỉnh Hy Mã Lạp Sơn tuyết phủ. Ðỉnh núi tuyết uy nghi có biết báo ân mẹ không? Những bụi sim quây quần dưới chân núi rì rào nhớ mẹ. Mẹ là hột sim do con chim bay qua thả rơi xuống đất. Cây bồ đề cổ thụ thân lớn mấy người ôm, tàn lớn phủ sườn núi cũng xào xạc nhớ mẹ. Mẹ là hột bồ đề rất nhỏ ngẫu nhiên ngọn gió bay mang tới. Nhưng hùng vĩ như Hy Mã Lạp Sơn thì mẹ là ai? Tôi đành âm thầm lắc đầu vừa tưởng như nghe ầm ầm những chuyển động tạo sơn quăn quại dựng nên dãy núi. Thành ra núi cô đơn.
Ở nhiều nước văn minh trên thế giới, người ta thỏa thuận lấy một ngày trong năm đặt là ngày lễ mẹ (Mother's Day.) Vào ngày đó, các con dẫu ở xa cũng cố gắng tụ hội về quanh mẹ, dâng hoa tặng quà, đọc lời chúc tụng và vui vầy tiệc tùng. Trên ngực áo mỗi người còn rực rỡ một đóa cẩm chướng màu đỏ. Những người con nào mà mẹ đã qua đời thì lạnh lẽo nơi ngực áo một đóa hoa cẩm chướng màu trắng.
Ở ta, từ thập niên 50 nhiều địa phương nhân ngày lễ Vu Lan đã tổ chức nghi thức bông hồng cài áo: ai còn mẹ thì được gắn một hoa hồng đỏ, ai mất mẹ thì một đóa hồng trắng. Một cách để nhớ mẹ, để tôn vinh mẹ, để mừng mẹ còn tại thế, để xót xa nghĩ đến mẹ đã qua đời.
Bản thân người mẹ Việt Nam không đòi hỏi được tôn vinh. Vào thế hệ tôi, người mẹ gần như chỉ lúc thúc ở nhà dưới, nhà ngang, lăng xăng suốt ngày và hạnh phúc với muối dưa, với con cháu. Cha già được thong dong ngồi hút thuốc, được thưởng thức tách trà sớm, được nhấm nháp ly rượu buổi hoàng hôn, chớ mẹ thì hầu như không biết hưởng thụ là gì. Cả ngay khi số tuổi chồng chất, đóng vai bà nội, bà ngoại. Có một thời gian, láng giềng tôi là một gia đình giàu. Khi người vợ sinh đứa con lên bốn tháng, người ta nhắn về quê nhờ bà kế mẫu già, nghèo, tới coi sóc giùm nhà. Một hôm qua khung cửa tôi thấy bà ngồi vá quần cho đứa nhỏ. Tôi ngạc nhiên bồi hồi đứng nhìn. Trẻ con dưới một tuổi lớn mau, quần áo vải mới, mặc không vừa nữa thì bỏ một chỗ, quần áo vải cũ, rách thì ném làm giẻ lau, ai hơi đâu nheo mắt ngồi vá? Thôi, hiểu rồi, tâm lý người mẹ, người mẹ quê, người mẹ nghèo, tần tảo, quên mình, người mẹ của thế hệ tôi đó. Thời nay có khá hơn, có biết vị kỷ hơn, nhưng có được bao nhiêu người con, dẫu đã thành đạt, nhớ đến Ngày lễ Mẹ? Nhiều bà mẹ tổ chức kỷ niệm sinh nhật cho con hằng năm, có tiệc, có cắm nến trên cái bánh to, có chụp hình... Nhưng này các con, sao sinh nhật mẹ, các con không gom một bó hoa ngắt hoa dại trong vườn, ngoài rào cũng được sáng sớm trao tay mẹ? Nếu mắc cỡ không nói được thì có thể viết trên mảnh giấy nhỏ: "Con mừng sinh nhật mẹ" chẳng hạn. Ðó, vì đa số các con vô tâm mà phải mượn lễ Vu Lan để cài một đóa hồng.
Nhưng rằm tháng Bảy không chỉ là ngày nhớ mẹ, báo ân không chỉ có báo ân mẹ. Còn có phần hiếu thảo dành cho cha. Rộng hơn, dân tộc ta còn nhận ngày này là ngày xá tội vong nhân, chú nguyện cho thập loại chúng sinh vừa mở rộng lòng bố thí cho người nghèo khó nơi dương thế. Lòng nhân ái tựa biển, tràn khắp bao la trong tiếng chuông ngân vang ngày lễ.
Hãy thương yêu mẹ hết lòng, săn sóc ân cần, hầu hạ trìu mến, nhất là khi mẹ già yếu, bệnh hoạn xấu xí bẩn thỉu. Hãy nhớ lại thuở mình còn nhỏ, mặt mũi chưa được trơn láng như hiện giờ, ỉa đái ngay trên mình mẹ, và khi lên năm lên mười mẹ phải nhịn phần mẹ để mua món ăn ngon, sắm cái áo đẹp cho mình. Hãy xúc động sụt sùi mà cầm tay mẹ, nhìn mặt mẹ, theo dõi bước đi dáng ngồi của mẹ. Không như tấm lịch đẹp treo tường, tấm năm sau sẽ thay tấm năm trước, không như cái bàn gỗ mộc sẽ đứng mãi đó nếu ta không tự ý phế bỏ. Mẹ thì không, dẫu ngó vững chắc nhưng sự sống vốn rất dễ rung rinh, chẳng chóng thì chầy, rồi cũng tới một ngày thậm chí có thể chỉ trong khoảng chốc ta sẽ chỉ còn thấy được mẹ trong trí nhớ. 
VÕ HỒNG