Thứ Tư, 29 tháng 11, 2023

MỘT THUỞ BIẾT BUỒN - Nguyễn Sơ Khanh

 

Sau khi mạo chữ ký của lão giám thị để ký vào tờ giấy phép ma tôi đọc lại lần nữa trước khi nhờ thằng bé trực mang giấy đi: Kính giáo sư. Xin giáo sư cho phép học sinh Ngô thị Hoàng Phố đến văn phòng có việc cần gấp, khi đi nhớ mang theo sách vở. Giám thị. Xong tôi ngồi xuống trên bực xi măng cầu thang và đường hoàng rút thuốc ra châm lửa hút mặc dù luật lệ ở đây cấm học sinh không được hút thuốc lá trong trường. Khói thuốc sẽ giúp tôi có đủ can đảm khi đứng trước mặt em, và tôi mỉm cười một mình khi nhớ đến buổi chiều hôm qua. Buổi chiều thật đẹp và sau khi tan học tôi đã đưa Hoàng Phố về nhà trên con đường ngập đầy lá me với những lời tình tự thì thầm và câu nói bất hủ của nàng: Em ghét anh lắm, thi sĩ của em ạ! Lúc ấy tôi chỉ muốn cho chiều ngừng lại hẳn, còn tôi, tôi sẽ nằm xuống mà chết cứng trong đôi mắt đẹp vô ngần của nàng. Nhưng tiếc rằng tôi không phải là Thượng Đế để có đủ phép mầu chiều chuộng nàng nên phải buồn bã mà nhìn thấy nhà nàng đã hiện ra ở cuối con đường. Nàng ngước mắt nhìn tôi và tôi biết rằng đã đến lúc chia tay. Song tôi không muốn trả chiếc cặp táp của nàng tí nào cả. Tôi nắm một đầu còn nàng nắm một đầu, chiếc cặp bắt đầu rên rỉ! Có lẽ nó thấy sợ những buổi chiều và ghét hai kẻ yêu nhau này lắm. Tôi chỉ muốn giữ nàng lại một tí nữa thôi đủ thì giờ để tôi có thể nói một câu hơi thừa nhưng chắc chắn là sẽ làm cho nàng sung sướng: Em đẹp lắm, ly cà phê sữa của anh ạ! Nhưng nàng nhăn mặt, giận dỗi buông chiếc cặp và chạy vào nhà mặc tôi đứng ngớ ngẩn nhìn theo với một dáng dấp khôi hài không chịu được. Tôi lắc đầu đem chiếc cặp đặt trước nhà nàng rồi lủi thủi ra về. Có lẽ nàng giận tôi thật rồi, buổi trưa Hoàng Phố đi học với đám bạn của nàng, nàng không thèm nhìn tới tôi nữa! Tôi thấy  bứt rứt không ít và tôi chỉ còn có một cách liều lĩnh gọi nàng ra lúc này để ra xin lỗi mà thôi.

Tôi đứng dậy quay lưng về phía cầu thang, một tay thọc vào túi quần, một tay kẹp điếu thuốc đang cháy dở khi có tiếng guốc bắt đầu gõ đều đặn ở phía trên. Tiếng lộp cộp càng lớn thì tim tôi càng đập mạnh, tôi hồi hộp tưởng chừng có thể vỡ lồng ngực ra mà chết được. Mặt tôi nóng ran và chân tay hình như nổi gai ốc cả lên. Tôi cố lấy lại bình tĩnh trước khi những bước chân của Hoàng Phố dừng lại ở nấc thang cuối cùng. Nàng yên lặng và tôi cũng vậy. Dù không giao ước trước tôi và nàng cũng biết rằng hai đứa đang chơi trò ú tim! Trò chơi khá hồi hộp và thú vị. Nàng tin tưởng là nàng sẽ thắng còn tôi, tôi không có một hy vọng nào hết trơn! Hình như với nàng tôi luôn luôn là kẻ thua cuộc. Tôi thấy hạnh phúc ở những lần như vậy và lần này tôi cũng đành thua nàng một keo nữa. Bằng tất cả sức mạnh tôi xoay người lại ngập ngừng cười với nàng. Hoàng Phố bỗng phá ra cười, tiếng cười trong veo như những viên đá đập vụn trên chén chè đậu xanh đánh ở quán Phượng. Tôi như bị thôi miên bởi cái nốt ruồi đen độc đáo của nàng, đôi má hồng hào, ngon lành như những quả mận đầu mùa. Nàng thôi cười hóm hỉnh nhìn tên "bại tướng" một lúc rồi hỏi:

- Anh gọi Phố phải không?

Tôi cười, nụ cười như một lời tự thú mà kẻ đối diện dù có dốt đến đâu đi nữa vẫn hiểu được đầy đủ ý nghĩa. Nàng lườm tôi nũng nịu:

- Vậy mà làm "người ta" hết hồn.

- "Người ta" cho anh xin lỗi đi.

Nàng lắc đầu nguầy nguậy:

- Xin lỗi suông vậy à?

- Một chầu ciné ở Hưng Đạo vậy?
 
Nàng ngần ngừ:

- Phim gì?

- Chuyện tình Roméo và Juliet.

Nàng bĩu môi:

- Chả thèm!

- Thèm đi, phim này hay lắm. Nó được rút ra từ một vở kịch nổi tiếng của Shakespeare mà. Anh đã coi một lần rồi mà vẫn thèm coi lại.

Tôi đã nói dóc. Phim chẳng hay tí nào cả tuy đoạn cuối khá bi thảm và hai tài tử đóng vai chính khá dễ thương. Nhưng điểm mà tôi thích nhất trong phim này là rất nhiều lần thằng Roméo và con Juliet ôm nhau hôn dữ dội, dữ dội đến nỗi rung chuyển cả màn bạc. Điều này cũng có nghĩa là tôi muốn nói với Hoàng Phố rằng, khi người ta yêu nhau không phải người ta chỉ ngồi nhìn nhau, xách cặp táp cho nhau, hoặc nói với nhau những câu chuyện tầm phơ... mà người ta còn tặng một "món quà" rất lịch sự và đầy đủ ý nghĩa cho nhau. Dĩ nhiên là "món quà" đó không thể chứa nổi trong những tiếng "anh yêu em" hay "em yêu anh". "Món quà" đó có giá trị vượt bực và thánh thiện vô cùng mà đã nhiều lần tôi muốn tặng nàng nhưng nàng chưa đồng ý.

Thấy nàng im lặng mãi, tôi gọi khẽ:

- Hoàng Phố!

- Gì?

- Hôm nay trông Phố đẹp như một cánh hoa champa.

Hoàng Phố làm mặt giận nhưng tôi thừa biết là nàng đang sung sướng thầm. Không có một cô gái nào lại không muốn con trai khen mình đẹp trừ phi cô gái ấy không đẹp tí nào hết và lời khen có tính cách mai mỉa. Hoàng Phố thì khác, nàng quá xứng đáng để tôi không phải thẹn với chính mình khi thốt ra một câu nịnh đầm hơi quá lố.

Tôi nhắc lại một lần nữa:

- Đi nha cô bé!

Tôi thường hay gọi những đứa con gái mà tôi đã gặp là cô bé, Hoàng Phố có vẻ không bằng lòng, hẳn nàng thích làm người lớn. Hình như tất cả những cô con gái vừa đến tuổi dậy thì đều nghĩ rằng mình đã ra người lớn.

Nàng nhìn tôi ngần ngừ:

- Bỏ học à?

Tôi buồn buồn nhìn nàng:

- Hoàng Phố không chiều anh sao?

- Em sợ lắm.

- Sợ gì?

- Có gì anh chịu nha.

Tôi đáp bừa:

- Ừ! Có gì anh chịu hết.

Thế là tôi dụ được nàng bỏ học để đi ciné với tôi. Trời chiều hôm nay bỗng dưng đẹp lạ lùng, tôi dắt nàng ra khỏi trường và hai đứa thả bộ theo đường Hoàng Diệu. Tôi yên lặng như sợ tiếng nói làm mất đi những rung động thần tiên... Nắng còn ở trên cao, cô đọng trên những cánh điệp vàng cuối mùa, con đường lát sỏi và tôi cố đi chậm lại để nhìn rõ dáng dấp nàng nổi bật dưới những tàn lá cây loang lổ, tà áo trắng nhẹ nhàng vờn trong gió, hai bím tóc xanh xanh lắc lư theo nhịp. Ở nàng thoát ra một vẻ liêu trai kỳ lạ và tôi như ngụp lặn trong những cảm giác nôn nao tưởng chừng có thể chắp cánh bay tít lên không gian vô tận...

Nàng bỗng quay lại cười hỏi tôi:

- Sao anh đi chậm vậy?

- Tôi bước lên nhìn nụ cười làm nốt ruồi đen như hạt đậu của nàng ở dưới cằm rung rinh, Hoàng Phố thẹn thùng cúi đầu tránh ánh mắt của tôi. Tôi hỏi:

- Phố còn giận anh?

Nàng nhìn tôi bằng đuôi mắt:

- Khó mà giận anh lâu được.

- Cả đêm anh không ngủ được!

- Thế thì làm gì?

- Hút hết hai bao Bastos luxe.

Tôi đã nói láo, đêm hôm sau khi đã uống hết chai Soda tôi đã làm một giấc ngon lành cho đến sáng bét, tôi cảm thấy ngượng khi phải nói dối với nàng ; đó là một điều bất đắc dĩ mà chắc chắn rằng không phải chỉ có một mình tôi thực hành. Tuy nhiên Hoàng Phố vẫn tin, bằng chứng là nàng đã nhăn mặt gắt khẽ:

- Nhiều quá vậy? Anh không sợ bị ung thư à?

Tôi đưa một ngón tay lên trời:

- Anh sẽ bỏ.

Tuy nói thế nhưng lúc ngồi trong rạp hát tôi vẫn lôi thuốc ra hút tì tì, em nói mặc em, thuốc lá bỏ thế nào cho được! Nếu có ai hỏi tôi ở đời ghét cái gì nhất và yêu cái gì nhất tôi sẽ không ngần ngại mà trả lời rằng tôi ghét nhất những ai bảo tôi bỏ thuốc và yêu nhất những đứa con gái dễ thương như Hoàng Phố chẳng hạn.

Rạp hơi vắng nên tôi có thể yên trí sẽ không gặp những đứa bạn tò mò của nàng nhưng rồi kết cuộc tôi chỉ ngồi yên hút thuốc, còn nàng cứ gục đầu xuống đất vì cuốn phim mà nàng cho rằng mang nặng tính chất công xúc tu sỉ. Những dự tính của tôi lúc nãy đều theo khói thuốc mà loãng dần, có lẽ tôi không có ngón nghề lợi dụng mặc dù tôi rất muốn. Có lẽ tôi đã bất lực rồi trước đôi mắt của Hoàng Phố. Mãi cho đến khi cuốn phim gần chấm dứt tôi mới dám cầm tay nàng và gọi nhỏ:

- Hoàng Phố!

- ......

- Anh hôn em nhé?

Hoàng Phố im lặng và tôi không cần biết là nàng có bằng lòng hay không tôi cũng bắt chước thằng Roméo cúi xuống trên mặt nàng. Khi tôi ngẩng đầu lên tôi mới khám phá ra một điều rằng: môi con gái nhất là môi Hoàng Phố có hương vị ngòn ngọt lẫn đăng đắng và nóng hôi hổi như hương vị của ly café đen mà tôi đã uống ban sáng.

Buổi sáng ở tỉnh lỵ thật là buồn bã, nhất là ở cái buổi sáng mà tôi phải tiễn Hoàng Phố lên xe rời thành phố. Nàng đi đâu? Hẳn là không xa lắm nhưng tôi cảm thấy lờ mờ rằng tôi sẽ xa nàng vĩnh viễn. Tự dưng mắt tôi trĩu nặng và lòng tôi cay cay ; trời nắng ráo song hồn tôi lạnh lẽo vô chừng, tôi đốt cả ba điếu thuốc nhưng đối với cái lạnh lạ lùng này thuốc là trở nên vô dụng! Hoàng Phố ra đi là mặc nhiên với tôi thành phố cũng đi luôn, đi hết, không còn con đường mỗi chiều tôi đưa nàng về nhà, căn nhà có giàn hoa giấy đỏ như màu chiếc xe sắp chở nàng đi ; không còn trường học, lão giám thị để tôi có thể trốn học ra Quán Phượng ngồi tìm bóng nàng trong khói thuốc. Tôi đã mất tất cả rồi: tay tôi, chân tôi, mắt tôi, đầu tôi, tim tôi, ruột tôi... Thậm chí đến cả một mớ chữ nghĩa góp nhặt hằng bao năm trời tôi cũng đã trót gởi vào đôi mắt mơ huyền của nàng cả rồi. Tôi buồn, buồn quá đỗi! Hoàng Phố đã hiện ra cho tôi một thuở mới biết yêu, mới dám dắt con gái đi chơi mà khi hôn còn ngớ ngẩn hỏi trước ; rồi Hoàng Phố biến mất cho tôi một thời biết nhớ, một thuở biết buồn.


NGUYỄN SƠ KHANH      

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc Xuân Hồng 1973)

Chủ Nhật, 26 tháng 11, 2023

NHỮNG MẨU THUỐC LÁ - Mường Mán

 
 - Anh ơi, Thục buồn!

- Khi không rứa bơ kêu buồn?

- Dạ, buồn lạ lùng.

- Hì hì... Buồn trông con nhện giăng tơ, nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai à?

- Không, buồn trông chênh chếch sao mai, sao ơi sao hỡi nhớ ai sao mờ.

- Buồn tầm bậy, vớ
vẩn. Chừ là buổi chiều, sao mai ở mô mà trông?

- Chiều hả! Rứa thì chiều chiều ra đứng ngõ sau, trông về quê mẹ ruột đau chín chiều.

- Thôi đừng trông, đừng thèm đau nữa.

- Vẫn đau, thích đau.

- Kệ chó em.

- Kệ mèo anh.

- Ơ hay! Thục định cãi nhau à?

- Dạ.

- Ngon lành chưa! Mỗi lần cãi nhau anh khô cả cuống họng.

- Thục sẽ mua cà rem cho anh mút.

- Cãi nhau đói bụng lắm.

- Thục mua bánh mì cho anh gặm.

- Gặm như chuột rứa à?

- Dạ.

- Em nghĩ anh thuộc loài gặm nhấm hay răng?

- Anh là chuột. Tim Thục là củ khoai lang, trước khi gặp anh tim Thục lớn hơn quả trứng gà, chừ anh gặm tim Thục chỉ nhỏ bằng hột xí muội.

- Tim Thục vẫn còn lớn hơn tim con muỗi.

- Thục đền anh.

- Ừ, để vài bữa anh mua cho Thục một trái tim nhân tạo to bằng quả dừa.

Hai người cười. Tiếng cười gã con trai tròn tròn, tiếng cười người con gái nhòn nhọn, thanh thanh. Buổi chiều gầy dần theo những chiếc lá lìa cành bối rối tìm chỗ đậu. Có cỡ mười chiếc lá rơi nằm trên mặt bàn, cạnh 2 ly nước dừa. Rất nhiều chiếc bàn kê rải rác dọc bãi cỏ, dưới hàng cây không rõ tên. Dòng sông chiều không có nắng để rực rỡ nữa, lặng lẽ trôi trong một thứ màu trầm, thanh tịnh, não nùng.

Gã con trai và người con gái ngồi cách xa những cặp trai gái khác nên, câu chuyện trao đổi giữa họ chỉ có những chiếc lá quanh chỗ ngồi nghe thấy. Họ nói chuyện không đầu không đuôi gì cả, hình như là hơi vô duyên nữa, vì thế những chiếc lá không thèm lên tiếng góp chuyện, chúng nằm im, xa lạ.

- Thục làm xong chiếc áo gối cho anh chưa?

- Sẽ xong!

- Sẽ là răng?

- Nghĩa là Thục chỉ mới bắt đầu làm từ hôm qua.

- Răng dám hứa với anh cách đây cả nửa tháng?

- Ờ ờ, tại vì nghĩ hoài, Thục vẫn chưa tìm ra chữ chi, câu chi để thêu trên mặt gối.

- Chừ nghĩ ra chưa?

- Dạ rồi.

- Câu chi?

- Thục định thêu câu: "Chúc anh ngủ ngon, nhưng cấm mơ thấy người khác".

- Eo ơi chi mà dài như toa xe lửa xuyên lục địa rứa?

- Dài mới đủ nghĩa.

- Cắt bớt câu "nhưng cấm..." đi, dở ẹc.

- Trời ơi, Thục tính nối thêm, anh lại bảo cắt bớt.

- Nối thêm nữa à? Thêm câu chi nữa?

- Nối thêm cả câu như ri: "Chúc anh ngủ ngon, nhưng cấm mơ thấy người khác ngoài em, anh mơ bậy là chết".

- Dễ sợ chưa. Làm răng anh  kiểm duyệt được giấc mơ của anh?

- Không biết, kệ chó anh.

- Anh hối hận ghê.

- Hối hận chi?

- Hối hận đã nói Thục thêu cho anh cái áo gối.

- Thôi hí, Thục xé nghe.

- Bậy nà. Để anh nghĩ coi. Thục cấm mơ thấy người khác, nhưng lỡ anh mơ thấy ông già, bà già anh thì được chứ?

- Dạ được.

- Mơ thấy ông hàng xóm?

- Được.

- Mơ thấy cô láng giềng?

- Không, không được.

- Mơ thấy bà già bán xôi mỗi buổi sáng?

- Được. Thôi, anh đừng ví dụ nữa, định chọc tức em há? Nói tóm lại, anh chậm hiểu ghê, cho anh mơ thấy ông già, bà già tóc bạc răng long líp ba ga, nhưng cấm anh mơ thấy mấy con choai choai, tụi con gái cỡ tuổi Thục.

-Anh hối hận ghê.

- Lại hối hận chi nữa, anh lắm chuyện ghê.

- Hối hận đã quen Thục, yêu Thục.

- Đây khó rứa đó. Ai có chán thì nghỉ dài hạn đi.

- A, ngon lành!

- ...

- Ủa, khóc à? Anh xin lỗi, xin lỗi.

Đúng là vô duyên ỏm. Nói chuyện gì đâu đâu rồi khóc. Mặt gã con trai nom thật buồn cười. Hắn nhìn chăm người bạn gái môi hơi he hé nửa ngạc nhiên nửa sùng bái, đôi mắt hết nhìn bạn lại nhìn 2 ly nước dừa và những chiếc lá vàng đượm cong cớn trên mặt bàn. Nãy giờ không ai uống nước, những cục đá bềnh bồng sững sờ trong ly, trắng lốp mấy lát dừa tươi mỏng dính. Hai ly nước trông tinh khiết một cách lẻ loi, tội nghiệp. Gã con trai chợt mỉm cười rất bâng quơ. Cùng với môi cười, hắn quẹt diêm châm một điếu thuốc. Gói thuốc vừa rút từ túi áo ra đặt nằm kênh trên bàn, kê ép lên 2 chiếc lá. Gói thuốc màu đỏ sậm, hiệu Dunhill. Phần dông con gái không ưa người tình hút thuốc lúc ngồi với mình (để rồi lúc xa lại quay quắt nhớ mùi khói gây gây "hắn" nhả ra một cách khoái trá, đáng ghét). Hẳn là cô Thục cũng chẳng ưa gã bạn trai hít khói thở phì phì như ống khói tàu lửa. Cô khẽ cau mày, ngầm cho rằng sự hút thuốc của hắn là một hành vi khiêu khích, vả lại ta đây đã cấm rồi mà, không nhớ sao?

Nếu ví bàn tay của Thục nãy giờ nằm im lìm trên mặt bàn là một bông sen ngủ, thì lúc này bông sen ấy chợt cựa mình thức dậy, xòe cánh ra vươn tới cầm lấy gói thuốc, mở nắp và, với sự tiếp sức đắc lực của bàn tay còn lại, những điếu thuốc tội tình bị bẻ gãy làm đôi. Người con gái tỉ mỉ sắp xếp những mẩu thuốc gãy thành vòng tròn như thể tự bày cho mình một trò chơi mới lạ, dĩ nhiên trò chơi nhuốm màu âm thầm ảm đạm vì gã con trai không hề tham dự.

- Tối nay về nhà, Thục nên uống thuốc an thần trước khi đi ngủ.

- ...

- Hoặc thức luôn tới sáng, đừng ngủ.

- Răng rứa?

- Nếu ngủ thì nhớ đừng mơ.

- Mặc kệ, cứ mơ.

- Thục sẽ mơ thấy những điếu thuốc hiện hồn về đòi mạng.

- Còn anh, đêm nay anh mơ thấy chi?

- Mơ thấy hàng trăm ông già bà lão tóc bạc răng long, chống gậy lụm cụm.

- Không thèm mơ thấy em phải không?

- Có, có chứ. Anh sẽ nhất định bắt anh phải mơ thấy Thục.

- Mơ thấy Thục khóc hay cười?

- Thục mếu, Thục xõa tóc, mặc áo chùng đỏ, tay cầm đũa thần gõ chết hết những đứa con gái cỡ tuổi Thục trên khắp mặt địa cầu. Cuối cùng chỉ còn anh và Thục, mình sẽ làm một túp lều tranh thờ 2 trái tim vàng khè. Chịu chưa.

- Thục hối hận ghê.

- Hối hận chi?

- Hối hận vì đã không chịu ở lì trong bụng mạ, sinh ra đời làm chi để chừ gặp anh, yêu anh, nghe anh nói toàn chuyện tào lao.

- Anh đề nghị mỗi lần nghe anh nói xong Thục nên rửa tai kẻo bị nhiễm trùng.

- Trùng chi?

- Trùng tào lao.

Hai kẻ trẻ tuổi yêu nhau nói chuyện thật kỳ dị. Một người nào khác nghe chuyện họ hẳn là không hiểu mô tê chi hết. Người con gái bây giờ mắt ráo hoảnh, trong vắt, sáng choang, cô đã quên trước đây mấy phút cô khóc. Cơn khóc bị đuổi về miền nào thật xa hun hút trong trí tưởng. Họ đang ngồi bên bờ sông, dưới gốc cây như dưới bóng hạnh phúc. Và, mỗi câu đối thoại trao đổi như là mỗi miếng hạnh phúc ngon ngọt đưa mời nhau. Nếu họ chụm đầu sát nhau hơn chút nữa chắc tuyệt vời hơn vì, người ta sẽ lầm tưởng (họ) là 2 con chim đang mớm mồi nuôi nhau. Không ai để ý tới buổi chiều, chiều tủi thân, chiều vơi mau. Đêm đem mục xạ tới quét lên đầu cây lá. Người con gái xóa vòng tròn thuốc lá trên mặt bàn, đến lúc gã con trai tham dự trò chơi, hắn dồn những mẩu thuốc gãy vụn vào cái bao rỗng, nhét vào túi áo chemise, cười thinh lặng.

- Mai anh vượt đèo, về Huế.

- Đừng nhắc, em buồn.

Sau câu nói yếu ớt của người con gái, không khí vụt chùng hẳn xuống.

Gã con trai không dưng nhắc nhở đến sự rời xa của hắn, ngày mai. Dưới mắt người con gái từ phút ấy 2 ly nước dừa, những chiếc lá khô nở trên mặt bàn chợt khoác thêm một vẻ đẹp khác, vẻ đẹp buồn bã của giã từ.

Gió mênh mông đuổi bắt nhau trong cuộc tìm kiếm không cùng. Gió thổi buốt qua trí tưởng người con gái làm bật lên hình ảnh ngọn đèo ngày mai gã con trai phải vượt để trở về quê quán hắn. Khuôn mặt gã con trai nghiêng lệch qua khoảng sáng hắt chếch từ ngọn dèn ngoài lộ vào là có thực, người con gái vẫn nhìn thấy hắn hết sức thần thoại, nàng tưởng chừng khuôn mặt ấy sẽ vụt tan biến đi. Nàng bỗng ước ao hắn biến thành một vật gì đó thật nhỏ, một chú bé tí hon chẳng hạn, để nàng cầm giữ chắc trong tay, không cho hắn thoát.

Chiếc răng khểnh, hai lúm đồng tiền : duyên trời cho người con gái. Đường ngôi rẽ thẳng tắp thả chùng hai lọn tóc mơ mòng. Gã con trai đờ dẫn chiêm ngưỡng nhan sắc cô bạn. Hắn muốn uống nhan sắc ấy thật no, để dành cho những ngày sắp tới.

- Về thôi em.

Người con gái rời chỗ ngồi mang theo một chiếc lá trên tay. Hai chiếc bóng nương tựa nhau trôi khoan thai trên mặt lộ.

Chiếc lá ngậm chặt giữa hai bờ môi người con gái, chắn giữ tiếng khóc của nàng.

Gã con trai lấy gói thuốc, cứ mười bước hắn lại thả rơi một mẩu thuốc vụn xuống đường. Con đường từ bờ sông dẫn tới khu Duy Tân, tới ngõ nhà nàng rải rác những mẩu thuốc lá. Người con gái nhủ thầm tinh sương sớm mai nàng sẽ theo dấu thuốc lá ra bờ sông - buồn nhớ một mình.


MƯỜNG MÁN      

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số  60)


Thứ Năm, 23 tháng 11, 2023

BẮT ĐẦU - Thạch Lam

 

- Chị nhung ơi, ra đây em bảo cái này.

Nhung vẫn cúi nhìn trên mũi kim, không ngửng lên. Nàng chỉ bảo:

- Loan bảo gì?

- Cái này hay lắm. Chị cứ ra đây rồi em nói cho mà nghe.

- Thế thì thôi. Tôi còn bận khâu áo mới cho em Bích đây.

Loan không nghe, nhất định gọi:

- Chị cứ để đấy ra với em, câu chuyện hay lắm cơ. Ði chị!

Nhung hơi bực mình về tính nũng nịu của em. Nàng bỏ chiếc áo mới xuống thúng đi ra:

- Nào xem cô em nói gì mà cần thế.

Loan quay ghế lại nhìn chị, nhoẻn cười, hai mắt long lanh sáng:

- Chị xuống đây, gió mát lắm chị ạ.

Trên mảnh vườn, nắng lóe qua các hàng cây. Nhung dẫm trên cỏ mềm, đến ngồi xuống chiếc ghế mây bên cạnh em. Thấy Loan có vẻ tinh nghịch nàng nghiêm giọng bảo:

- Chuyện gì thì nói đi. Ðừng có đùa mà chết với tôi đấy.

Hai mắt Loan vẫn long lanh, nàng vội làm mất nụ cười sắp nở trên môi, ghé lại sát tai chị, má hơi đỏ vì thẹn:

- Chị... này chị, bao giờ... anh Minh xuống chơi, chị nhỉ?

Nhung bật cười, tát sẽ vào má em:

- Thế mà ngỡ gì, cô chỉ làm tôi bỏ giở công việc. Anh ấy xuống chơi bao giờ thì hỏi anh ấy chứ hỏi gì tôi.

Nhung toan đứng dậy bỏ đi, nhưng Loan vội nắm lấy áo chị, năn nỉ:

- Không, chị hẵng ngồi đây một chút đã. Sáng nay em thấy mẹ nói rằng ngày mai cậu Bình sẽ xuống.

Lần này đến lượt Nhung đỏ hồng má. Chị gắt với em:

- Cô chỉ hay được cái nói bỡn thôi.

- Không, em nói thật đấy. Mẹ nói với thầy rằng... rằng muốn cho chóng xong việc thì bảo cậu Bình xuống, và thầy đã viết giấy rồi.

Nhung lặng yên một lát rồi hỏi em:

- Vậy cậu ta xuống một mình à?

- Chắc thế. Nhưng cậu Bình thì còn cần ai nói giúp nữa. Cậu ta cũng như người nhà rồi còn gì.

- Ai biết đâu đấy!

Loan nắm lấy tay chị, cãi lại:

- Chả phải thế là gì, chị lại còn chối.

Nhung yên lặng không đáp.

Loan cũng thôi nói. Nàng thong thả và dịu dàng nghĩ ngợi, vì nhắc đến tên Bình nên hình ảnh Minh thân yêu – Minh của nàng - lại hiện ra trước mắt, hình ảnh một người thiếu niên tinh nhanh, hai mắt sáng, luôn luôn đưa tay vén lại mái tóc xõa trên trán. Con người đáng yêu quá! Loan e thẹn nhớ lại những lúc chàng sẽ lén cầm tay nàng, bên góc vườn. Tim nàng đập mạnh lên và một cảm giác êm dịu tràn lấn vào người.

Buổi chiều đã đến. Nắng xiên ngang sát mái nhà đến phớt trên ngọn cỏ. Cả một chùm lá cây liễu to đứng giữa sân đúng vào ánh nắng, tơ liễu buông chùng sẽ rung động vì gió nhẹ. Những lá mảnh và dài trong như lụa mỏng và sáng như mi của các cô thiếu nữa vui tươi.

Hai chị em Loan ngồi nhìn cảnh vườn ruộng bày ra trước mặt. Cây cối xanh tươi và um tùm bao bọc lấy mấy căn nhà gạch của trại nàng. Chiều nào hai chị em cũng bắc ghế ra ngồi trên thảm cỏ trước thềm nhà xem sách hay nói chuyện để đợi cơn gió mát ngoài cánh đồng đưa vào. Nhưng buổi chiều nay đối với hai người êm dịu hơn mọi buổi chiều.

Loan đưa mắt nhìn đưa mắt nhìn trộm Nhung, nàng thấy chị có vẻ tự lự nghĩ ngợi; đôi lông mày dài và đen sẽ nhíu lại một cách Loan đã trông quen, khiến nét mặt Nhung hơi nghiêm trọng. Nàng đoán chị đương nghĩ việc gì quan trọng - việc cậu Bình, chắc thế. Loan kính trọng sự suy nghĩ của chị, lặng yên hít thở mạnh không khí trong theo gió tràn vào; ngực nàng nở lên, sút nhẹ vào lụa mỏng và mát của tấm áo; một cảm giác ấm cúng lan dần khắp thân thể nàng, dẫn nàng vào một sự êm dịu dễ chịu. Loan muốn ôm lấy một người nào - một sự quấn quít trong sạch và lành thôi; nàng nghĩ đến Minh rồi mỉm cười.

Bỗng nhiên Loan quay lại; mẹ nàng đã đến bao giờ mà nàng không biết. Loan nghe thấy chiếc ghế kêu răng rắc dưới sức nặng của mẹ vì bà phán người to béo, rồi nét mặt hiền từ và quen thuộc của mẹ làm thân mật cuộc hội họp. Mắt bà phán cũng long lanh sáng. Mẹ nàng đang rối trí lắm, Loan nghĩ thế. Chắc bà có điều gì muốn nói.

- Mẹ không vào trong phố chơi à?

Bà phán để tay lên đùi, nhìn về phía nàng:

- Chả vào nữa. Hôm nào các bà ấy cũng dắt đánh tổ tôm đến sáng mệt quá.

Nhung nói chen :

- Mẹ hay thức khuya thế mệt người lắm.

Bà phán nhìn chị lặng yên. Loan muốn nói chuyện nữa, nhưng bỗng nàng hiểu rằng ngồi đây là thừa. Bà phán có vẻ đợi nàng đứng dậy đi ra chỗ khác để nói câu chuyện quan hệ hơn. Loan nhìn chị, Nhung cúi mặt xuống chân, lông mi dài phớt bóng má hơi ửng đỏ. Nhung cũng đang chờ đợi câu chuyện gì quan trọng. Ồ, thế ra chỉ có nàng là không quan trọng thôi ư? Loan có cảm tưởng xưa nay mẹ và chị Nhung vẫn coi nàng như con trẻ, chỉ những chuyện nhỏ nhặt và ngọt ngào mới để nàng nghe.

Hơi phật ý một chút, Loan thu gọn giầy ở dưới chân nói chữa ngượng:

- Gió mát quá! Ra cánh đồng chơi một tí mới được.

Nàng đứng dậy uyển chuyển trong tấm áo lụa mảnh. Ðến đầu vườn, Loan quay lại: quả nhiên chị Nhung với mẹ đang chụm đầu vào nhau. Lại chuyện nhân duyên của chị Nhung chớ gì. Làm sao mà phải bí mật thế. Hai người cứ việc lấy nhau có được không? Thật là giản dị quá, mà hình như không ai nghĩ ra.

Loan vừa đi vừa rứt lá trong vườn, nghĩ ngợi. Thái độ chị Nhung khiến Loan lấy làm lạ. Ít lâu nay chị thành ra đứng đắn nghiêm trang. Chị không cười đùa luôn với Loan nữa. chỉ tại cái việc lấy chồng thôi. Cậu Bình cũng đáng yêu đấy chứ. Lấy Nhung thì thực xứng đôi. Loan cũng biết mang máng rằng từ ngày nhà cậu Bình nghèo, thì bà Phán không muốn gả Nhung cho cậu nữa, tuy có lời giao ước cũ. Loan thấy bất bình cho cậu và giận mẹ; nghèo thì nghèo chứ làm sao. Nhưng mẹ làm thế chẳng vì chị Nhung đó ư? Loan còn nhớ một hôm, nghe thấy mẹ nói với thầy:

- Bây giờ lấy nó chị con Nhung sẽ khổ. Mình làm cha mẹ phải liệu cách thương con chứ.

Chuyên người nhớn thực rắc rối! Loan chẳng hiểu ai phải cả, chỉ thương chị Nhung hình như chị suy nghĩ nhiều về việc ấy. Chị yêu cậu Bình lắm thì phải. Cũng như Loan yêu Minh.

Loan bước ra cổng. Cánh đồng lúa xanh rờn hiện ra trước mắt. Trên giời, giải quạt hồng tím xòe rộng từ phương đông sang phương tây. Trong sương mù xuống, tiếng ếch nhái vang vang từng dịp một, nhẹ nhàng lên cao trên không. Giá có Minh ở đây, để cùng đi chơi thì Loan sung sướng quá, Loan ngồi xuống vệ cỏ bên đường, táy máy rút chiếc cỏ may. Minh cũng nghèo như Bình, chả khác gì. Loan mơ màng nghĩ: sau này mẽ cũng ngăn cấm không cho Loan lấy Minh ư?

Nhưng ý nghĩ ấy chỉ thoáng qua, Loan chỉ thấy yêu mà thôi. Tâm hồn nàng nẩy nở đón tình yêu như cái cây non đón nước mưa. Nàng yêu Minh như đứa trẻ mới bắt đầu yêu, say sưa và lóa mắt vì chính cái tình yêu của mình. Loan thở dài nhẹ, bao giờ Minh xuống đây. Anh ấy đã hẹn kỳ nghỉ này thế nào cũng về chơi nhà Loan. Hai người lại len lỏi trong vườn như mọi khi, dưới con mắt vui vẻ của thầy mẹ, Loan nhớ lại nét mặt hồng hào của Minh lúc quay lại đưa tay vuốt tóc xõa trên trán. Tình yêu mến thần tiên!

Trong nhà đã lên đèn, Loan mới trở về. Nét mặt chị Nhung và mẹ làm sao ấy, khác với ngày thường. Một vẻ quan trọng còn phảng phất trong dáng điệu hai người. Loan đoán chắc có chuyện gì xẩy ra. Mắt chị Nhung hơi đỏ, như vừa mới khóc, nhưng có một tia sáng sung sướng khi chị nhìn mọi người. Bà Phán có vẻ nghĩ ngợi, ngồi thần người đến nỗi Loan đến gần bên mà cũng không biết. Loan bực tức vì bị để ra ngoài một câu chuyện quan trọng. Nàng bước đến bàn uống nước, rót nước vào chén và giơ cao vòi ấm lên cho nước kêu to, mà cũng không ai để ý.

Ðến lúc mang đèn vào phòng đi ngủ, Loan liếc mắt nhìn chị, chờ đợi một câu nói. Nhưng Nhung không hé miệng, hai môi mím chặt một dáng quả quyết. Mặc không chú ý đến nữa, Loan lên giường nằm. Nàng kéo cái chăn mỏng lên cằm, khoan khoái ruỗi chân tay trên đệm. Lần thứ hai ngực nàng căng nở dưới vải mịn mỏng manh; một cảm giác thấm thía đê mê dâng lên ngập cả người ngàng vào trong đó, như lúc tắm bể. Loan ngậm miệng vào vành chăn, ruỗi hai chân thẳng ra, rồi yên lặng nhìn tấm màn trắng dịu màu sữa dưới ánh đèn. Nàng trông thấy Minh mỉm cười với nàng trên đó. Gian phòng ấm cúng trở nên tịch mịch quá... Một tiếng nấc sẽ; Loan lắng tai nghe: chị Nhung. Nàng nghiêng mình nhìn sang giường chị. Nếp màn vẫn rủ yên, và hơi thở Nhung vẫn đều đều, Loan nghe nhầm chăng? 

- Chị Nhung, chị Nhung...

Tiếng nàng Loan nghe lạ hẳn. Không có tiếng trả lời; hơi thở Nhung vẫn đều. yên bụng, Loan trở lại với cái mộng xinh đẹp của mình. Sung sướng, nàng nhắm mắt, để cho bóng tối đến, mát và rực rỡ, bao bọc cả tâm hồn, thân thể nàng.

Nửa đêm, Loan sực thức dậy; nàng bâng khuâng mở mắt nhìn; đèn sáng hơn và căn phòng như đầy cái hoạt động kín đáo của người. Loan nghĩ ngay đến chị Nhung, chị Nhung đâu? Nàng chống tay lên trông ra ngoài: chị Nhung ngồi cúi mình trên bàn, trước ngọn đèn. Bóng chị mênh mang chiếu trên tường; Loan tung chăn ngồi dậy. Nhung như chợt nghe thấy tiếng động vội cúi xuống nữa, nghiêng mặt đi.

- Chị Nhung, chị làm gì thế?

Yên lặng; Loan nhô hẳn người ra ngoài màn nhìn: lạ chưa, chị Nhung... Loan tưởng nhầm chăng? Nhẹ nhàng nàng bước đến sau lưng chị, đặt hai tay lên vai Nhung, cúi đầu xuống má chị, cảm động:

- Chị, chị khóc đấy ư? Làm sao chị khóc?

Nhung không trả lời. Một lát, chị đưa khăn lên lau, đặt tay lên tay Loan, rồi ngửng lên nhìn em, một nụ cười qua nước mắt:

- Chị có làm sao đâu. Em chưa ngủ ư?...

- Em...

Loan chẳng nói nữa. Tâm sự chị Nhung, em biết làm sao? Nàng ngồi xuống bên chị, âu yếm:

- Chị cũng đi nghỉ đi thôi, đêm khuya rồi.

Ánh ngọn đèn trở nên dịu và thân mật. Mắt chị Nhung còn long lanh ướt qua mấy sợi tóc rối trên trán. Hai chị em nhìn nhau, và Loan thấy yêu kính và thương chị quá.

Chị Nhung buồn khổ cái gì? Loan nghĩ đến câu chuyện quan trọng giữa mẹ với chị Nhung ban nãy, vẻ bần thần nghĩ ngợi của mẹ... Nàng tự nhiên mỉm cười, tưởng tưởng thấy hình ảnh Minh và nói:

- Em vừa mới nằm mê xong thì chị dậy.

Nhung thở dài sẽ, quay mặt đi, rồi bảo em.

- Thôi, đi nghỉ đi.

Hai chị em lặng bước vào màn.

Loan vừa kéo chăn lên đầu, hé trông sang bên, thấy chị Nhung đương buông nếp màn xuống, tay vẫn để yên, mắt nghĩ ngợi nhìn em. Loan vội vàng rụt đầu vào, chùm chăn lên ngủ.

Chị Nhung sắp về nhà chồng rồi.

Thế là xong: mẹ đã bằng lòng cho chị lấy cậu Bình. Hôm nhà trai dẫn đồ lễ đến, Loan sung sướng quá, chạy đi tìm chị. Nhưng Nhung đang ngồi khâu áo như mọi khi ở trong buồng; Loan đến gần ngay cạnh, nhí nhảnh nói:

- Em xin mừng cho chị và cho anh Bình đấy!

Nhung bồng em lên trên lòng, hôn vào má. Mắt nàng long lanh sáng:

- Em tôi chỉ được cái thế thôi!

Loan áp người vào chị, nói đùa:

- Từ giờ thế là chị hết khóc nữa nhé.

Nhung nhìn ra xa, ửng đỏ hai gò má; Loan thấy trong cái vui của chị có lẫn một chút buồn, một nỗi e ngại xa xa, như một chút sương mờ lúc bình minh. Nàng biết chị Nhung sắp đi đến một tương lai gần gụi, một thế giới khác; chị sắp dự vào một cuộc đời mới, chính tay xây đắp lấy hạnh phúc hay đau khổ riêng. Hai chị em rồi sẽ xa nhau. Loan quàng tay lên vai chị âu yếm. Sự thân mật rất lâu.

Hôm nay ngày đón dâu; Loan vui vẻ lắm, vì trong nhà tấp nập kẻ ra người vào rộn rịp. Nhà cửa trang hoàng lộng lẫy, dẫy bàn phủ khăn giải trắng mới nguyên, đầy giỏ hoa đủ các màu. Tất cả họ hàng trong nhà đều có mặt; Loan nhanh nhẹn đi trong đám người ấy. Thỉnh thoảng nàng lắng nghe các bà cụ nói đến chị Nhung, rồi thì thầm nói đến nàng, tay chỉ kín đáo.

Nhưng trong lòng Loan đang hân hoan một sự chờ đợi vô cùng: Loan đợi Minh, vì hôm nay thế nào chàng cũng về ăn cưới chị. Nàng mong đợi từng chuyến tầu. Sao Minh mãi chưa đến?

Bỗng tự nhiên đang trong câu chuyện với bà cô Loan yên hẳn người lại: chàng đã vào. Có lẽ chàng đang bỏ mũ, mớ tóc xòa trên trán, mắt đưa nhanh, hơi ngượng nghịu, lúng túng... Loan không quay lại, không nhìn ra. Nàng nghe thấy mẹ nói: "- A cậu Minh, cậu đã xuống... mời cậu vào..." và tiếng Minh trả lời khe khẽ; Minh ngồi xuống ghế. "Chàng đang nhìn mình", Loan thấy thế. Nàng lại tiếp nốt câu chuyện với bà cô. Bấy giờ trong nhà đông quá; nhưng ý nghĩ ấy không làm nàng nóng ruột, cả các người chung quanh, cả những câu thừa tiếp với bà cô. Những cái đó không làm Minh xa nàng, Loan vẫn cười nói, vẫn nghe, vẫn đối đáp, như trong một giấc mộng; nàng thức ở lòng nàng và ở trong lòng Minh.

Sung sướng, Loan đi tìm chị Nhung ở trong buồng, má hồng trong áo mới, giữa đám các cô phù dâu. Chị Nhung trông đẹp quá, đẹp thần tiên, cao quý. Loan lại gần nhí nhảnh toan đùa bỡn chị, nhưng nụ cười nàng dịu đi và nàng cắn môi lại, vì chị Nhung vừa mới nhìn Loan, một cái nhìn hơi nghiêm trang, thoáng buồn. Loan thấy trong lòng man mác, như lờ mờ hiểu một sự mà Loan không biết là sự gì. Nàng yên lặng đứng bên chị, nghe giọng cười nhỏ của các cô phù dâu.

Một lát bà Phán vào, Loan thấy mẹ có vẻ bằng lòng và sung sướng, cười vui vẻ trước dáng điệu lễ phép của các cô phù dâu. Mẹ nhìn chị Nhung âu yếm, hiền lành; nhìn các cô Lan, Hồng, Thu Bích, rồi nhìn Loan nói đùa:

- Còn con bé này nữa. Sang năm tôi gã chồng cho em, các chị lại về ăn cưới nhé!

Bốn cái miệng xinh thưa, bốn nụ cười tươi quá: Vâng ạ.

Loan chợt nghĩ đến Minh, thẹn quá ửng đỏ cả hai gò má, rồi chạy với ra ngoài.

Ðêm đến, trong nhà lại yên tỉnh hẳn. Chị Nhung về nhà chồng rồi... không biết bay giờ chị đang làm gì? Loan nhìn sang bên giường chị, chiếc chiếu thường giải vẫn ngay ngắn, một cái gối cũ trơ vơ. Giường nàng ấm cúng hơn. Minh đã trông thấy chưa? Loan thử đoán xem chàng thức hay ngủ, hay ngồi xem sách bên ngọn đèn... Nàng hồi hộp. Lúc chiều, nghe thấu mẹ mời Minh ở lại, Loan mừng quá, vờ cúi mặt xuống tráp trầu. Vì thế bây giờ Minh mới ở gần bên mà nghĩ đến nàng.

Sung sướng, Loan đưa mắt trong các đồ vật bầy trong phòng, các đồ vật đã quen sự có mặt của chị Nhung, Loan thấy các thức ấy có một vẻ vui tươi và vô lý của những đồ vật mà nàng trông ngày còn nhỏ kỳ nghỉ hè. Nàng đến bên cửa sổ, nhìn ra vườn. Bóng trăng xanh rót qua vòm mảnh lá cây chiếu vào. Gió thổi hiu hiu mát hai bên cổ nàng, tóc phất phơ. Loan nhớ đến mái tóc xõa của Minh khi chàng quay lại gọi nàng, ngày nào, ở trong vườn. Dưới làn áo vải mịn, thấm thía... Ngực Loan nở ra, nàng thở mạnh, tay nắm chặt chấn song cửa. Chị Nhung đâu? Ðộng phòng hoa chúc, bốn tiếng ái ân, bên cậu Bình mà chị yêu; chị đang bắt đầu cuộc đời mới, đầy hoan lạc, nhưng sao mắt chị nghiêm trang?

Bóng trăng chếch soi tỏ vào trong buồng. Loan ngửi thấy các mùi hương thơm ngoài vườn càng đậm thêm, man mác. Loan cũng yêu, yêu say sưa, sung sướng. Bóng tối dưới vòm cây thân mật, như giục gọi; lối đi trong vườn quen thuộc giữa hai bên là lối đi nhỏ ấm cúng vô cùng.

Loan sẽ thở dài. Nàng rung động, dùng dằng dưới tiếng gọi quyến rũ. Rồi Loan rón rén, vuốt lại mái tóc; nàng nhẹ nhàng đi ra, đứng lại ở cửa, nghe tiếng tim đập mạnh dưới làn áo. Một bước, một bước nữa, bực thềm thấp xuống ngoài hiên; cỏ vương trên bàn chân hơi lành lạnh vì sương...

- Em Loan...

Nàng đã đến giữa vườn rồi, bàng hoàng nhìn quanh như trong mộng. Minh đã chờ ở đấy từ bao giờ... Hai cánh tay chàng sẽ ôm lấy người Loan, miệng chàng ghé lại gần, Loan sung sướng quá, nhắm mắt lại.

... Nàng tỉnh dậy bên cạnh Minh, bên người chàng, dưới bóng cây mát Loan muốn nói nhưng không biết nói gì. Nàng mở lòng ra đón một sự hân hoan lạ, một thế giới khác nàng mới bước vào.
 
 
THẠCH LAM      
 
(Trích từ tập truyện Nắng Trong Vườn)
 

Thứ Hai, 20 tháng 11, 2023

VAI PHỤ - Thanh Nam

 

Bây giờ, mỗi lần đi coi hát, nhìn thấy những diễn viên thủ những vai phụ, tôi lại chợt nhớ đến Liêm. Tôi nhìn lên những diễn viên đó (những diễn viên mà suốt một vở tuồng chỉ xuất hiện vào khoảng độ mười phút trở lại) lòng se sắt một nỗi buồn. Hình ảnh của họ là hình ảnh của Liêm mười năm về trước. Cũng những vai trò tầm thường ấy, cũng những câu nói ngắn ngủi ấy, có khi là một vai lính hầu suốt buổi hát chỉ chờ để “dạ” một tiếng thật lớn, có khi là một vai tướng cướp, một tên côn đồ hung dữ mà vở tuồng chưa qua khỏi màn đầu đã bị giết chết. Tôi nhìn họ, nghĩ đến những chiếc tầu nằm ở những ga hẻo lánh, suốt đời chỉ giữ có mỗi một nhiệm vụ là đẩy giúp những con tầu chính lên khỏi một đoạn đèo dốc. Ngày xưa, đã có lần tôi ví Liêm là chiếc đầu tầu xe lửa đó.

Liêm với tôi quen nhau hết sức tình cờ. Ngày ấy tôi đi theo một đoàn hát cải lương lưu diễn quanh năm tại các tỉnh miền
Bắc. Tôi giữ vai trò cũng không lấy gì làm quan trọng lắm trong đoàn hát này. Suốt ngày, tôi chỉ có một nhiệm vụ là cùng với một anh soạn giả chính trong đoàn, sáng tác những vở mới. Công việc thật nhàn hạ. Cốt tuồng thì đã có anh soạn giả nhà nghề nghĩ ra, cả đến lớp lang và những bản ca trong vở, tôi càng không phải nghĩ đến. Tôi chỉ có việc viết đối thoại hoặc sửa lại những bản ca cho nó có vẻ… văn chương một chút. Những lúc rảnh rang, tôi thường la cà đi thăm những diễn viên trong đoàn. Phần nhiều tất cả đều ở ngay rạp hát. Bên dưới các bục gỗ dùng làm sân khấu của rạp là những gia đình tài tử hạng trung. Còn những người phụ diễn, những tài tử chỉ cần có mặt mười phút trong một đêm thì ở ngay trên sân khấu. Khi khán giả đã về hết rồi và những chiếc đề-co đã được dỡ đi thì họ kê lên đó những chiếc ghế bố.

Cứ như vậy mà ngủ, không mùng, không chăn. Vào những tháng lạnh, họ ngủ chung với nhau, ba bốn người đắp chung một chiếc chăn. Cuộc sống của họ không hơn gì những người phu sân khấu, những công nhân khuân dọn đề-co. Còn đào kép chính lẽ dĩ nhiên là đời sống sáng sủa hơn. Họ được ở trong những phòng riêng, ăn uống cũng riêng biệt. Liêm thuộc vào hạng tài tử phụ, bởi vì anh chuyên môn đóng những vai lính hầu, người ở và đôi khi trong một vài vở tuồng huyền bí anh được thủ những vai quái vật. Cả bộ mặt đẹp trai của anh bị vẽ xanh đỏ lòe loẹt và phần nhiều bị che giấu sau những chiếc đầu ác thú gớm ghê. Sở dĩ tôi chú ý tới Liêm giữa số hàng chục diễn viên phụ của ban hát là vì anh không giống như những người kép hát khác.

Cuộc sống của anh không hùa theo đa số. Có nhiều người sau khi vãng hát là kéo nhau đi ăn uống hoặc xà vào một tiệm hút nào đó nằm cho tới sáng, buông trôi cái đời mà họ cho là nghệ sĩ, song Liêm thì thật là khác hẳn. Tôi đã để ý nhiều lần và thấy ở Liêm có nhiều nét đặc biệt, nổi bật lên giữa đám người sống trà trộn đó. Ngay cả từ dáng dấp đến cách nói năng, mỗi thứ ở người Liêm đều biểu lộ ra sức sống phong phú mãnh liệt. Khi được nói chuyện với Liêm rồi, tôi lại càng thấy sự nhận xét của tôi là đúng và không khỏi ngạc nhiên về sự có mặt của anh ở trong đoàn hát này. Nhất là sự có mặt ấy lại chẳng có vinh dự gì. Tôi nghĩ, một người như anh với trình độ học thức tương đối khá, anh có thể dễ dàng kiếm được một chân thư ký ở ngoài, vừa có tiền vừa đỡ cực nhọc, mà tại sao anh lại lao đầu vào đi theo đoàn hát để tự đày đọa, rẻ rúng cái thân mình như vậy? Cũng vì sự thắc mắc đó mà chúng tôi chóng trở nên thân thiết với nhau, Liêm cho tôi biết qua về gia cảnh của anh.

Cha mẹ buôn bán, những người anh của Liêm đều có một địa vị xứng đáng trong xã hội. Nghĩa là gia đình anh thuộc vào hạng trung lưu nếu không muốn gọi là giàu có. Tôi biết là khi nói về gia đình mình Liêm đã hết sức thành thật. Tôi hỏi tại sao anh không trở về với gia đình hoặc là theo đuổi việc học, hoặc là tìm một việc làm gì hợp với khả năng hơn thì anh chỉ im lặng rồi nói lảng sang chuyện khác. Từ khi biết Liêm, tôi bao trùm lấy con người anh. Có lúc, tôi đoán là Liêm đã thi trượt mảnh bằng Tú Tài nên phẫn chí mà tự làm hư hỏng cuộc đời hoặc giả anh là một người có tâm hồn phiêu đãng thích cuộc sống giang hồ nay đây mai đó. Cũng có khi tôi lại khoác cho anh một bộ mặt si tình. Tôi nghĩ đến câu chuyện một anh học sinh vì mê một cô đào hát mà bỏ gia đình để đi theo đoàn hát làm một chân khuân vác đề-co và thấy rằng rất có thể Liêm đang đóng vai trò của anh học sinh kia.

Song, bằng ấy giả thuyết đưa ra, tôi vẫn chưa thấy hài lòng. Cuộc sống của Liêm ví như những con sóng ngầm ở dưới đáy đại dương, sự luân lưu của nó không bao giờ hiện lên mặt. Liêm vẫn có vẻ mãi mãi là một con người bí mật đối với tôi, nếu câu chuyện mà tôi sắp kể lại dưới đây không xảy ra.

Cuối năm đó, đoàn hát của chúng tôi về diễn ở một tỉnh duyên hải miền Bắc. Bà chủ gánh có yêu cầu chúng tôi viết cấp tốc một vở tuồng mới để kịp diễn trong buổi đầu năm. Đây là một dịp để cho đoàn hát thâu tiền mạnh nhất trong năm, nếu có được một vở tuồng mới ăn khách.

Anh soạn giả chính của đoàn đã bàn luận với tôi suốt cả một đêm về cốt truyện để viết. Tuồng La Mã, Nghìn Lẻ Một Đêm, loại ca vũ nhạc diễm huyền, loại phiêu lưu, loại xã hội, v.v… được nêu lên để thảo luận. Sau cùng, chúng tôi đồng ý đưa ra một vở tuồng “xã hội, tâm lý, ái tình” thuộc các loại “Lan và Điệp.” Bởi vì chúng tôi nghĩ rằng các loại đó bao gồm đủ cả ái tình và nước mắt cũng như những trận cười hoan hỉ, rất hợp với thị hiếu của đa số khán giả. Công việc bắt đầu. Lần này, nhiệm vụ của tôi nặng hơn. Tôi vừa phải nghĩ cốt chuyện lại vừa phân cảnh, soạn lớp và viết luôn đối thoại. Anh bạn soạn giả chính vì còn mắc viết tiếp vở tuồng mới khác nên chỉ giúp tôi công việc soạn lời ca. Trong thời gian tôi viết vở tuồng mới này không lúc nào là Liêm không có mặt bên cạnh tôi.

Về sau, anh ta biến thành một thư ký riêng của tôi. Viết xong trang nào tôi lại giao cho Liêm đánh máy thành nhiều bản để tiện kiểm duyệt và trao cho các tài tử tập dượt. Để cho vở tuồng có được kết quả chắc chắn về mặt diễn xuất, tôi yêu cầu họ tập luôn từng màn đã xong trong khi tôi đang viết màn tiếp. Lẽ dĩ nhiên, cũng như bao nhiêu vở trước, hai vai chính đều giao cho hai tài tử chính của đoàn. Hai người này tôi phải nói rằng, đối với họ tôi không có cảm tình cho lắm, mặc dù họ là những cây tiền của đoàn hát. Vở tuồng của tôi nếu có thành công hay không một phần lớn trông cậy vào họ. Nhưng nói về diễn xuất thì họ là những kẻ bừa bãi nhất. Những giờ tập dượt ít khi được họ tôn trọng.

Đã vậy, họ lại ỷ vào cái tài “cương” của họ mà không chịu học vở đến nơi đến chốn. Chỉ có bài hát là họ bắt buộc phải học kỹ vì họ biết khán giả thích nghe họ hát hơn là xem tài diễn xuất của họ. Tuy biết vậy, song tôi cũng đành chịu, không dám động đến họ. Có một điều lạ là trong vở tuồng, Liêm chỉ đóng một vai rất nhỏ trong màn đầu, nhưng tất cả những buổi tập anh đều có mặt và rất chăm chú theo dõi cách thức của các tài tử. Những lúc đó tôi thấy anh như một nhà đạo diễn ngồi coi các tài tử diễn thử. Anh ngồi vào hàng ghế góc rạp trong làn ánh sáng nửa vời, nét mặt linh động lạ thường. Tôi nghĩ đến giấc mơ của tất cả những diễn viên phụ. Chắc Liêm cũng đang ước mơ một ngày nào đó sẽ được thủ những vai như tài tử chính trong đoàn.

Nghĩ vậy tôi càng thấy thương Liêm hơn. Buổi tối, hôm tập xong màn chót vở tuồng, tôi rủ anh sang một tiệm cà-phê gần đó và muốn cho anh thấy rằng dù anh chỉ là một kép phụ, rất phụ, trong đoàn tôi vẫn coi anh như một nghệ sĩ, tôi liền ngỏ ý muốn anh cho ý kiến về vở tuồng. Lúc đầu thì tôi nghĩ rằng hỏi anh là để cho có chuyện mà thôi, nhưng sau tôi đã vô cùng kinh ngạc khi thấy anh đưa ra những nhận xét xác đáng lạ thường. Ngoài một vài chỗ yếu của vở tuồng mà tôi đã phải đồng ý với anh, anh lại còn có những nhận xét thật là tế nhị về sự diễn xuất của các vai. Anh không hề bỏ qua một cử chỉ nào của mỗi diễn viên. Anh phê bình cặn kẽ đến nỗi mà trong một lúc, tôi thấy vở tuồng hoàn toàn hỏng về mặt diễn xuất. Tôi không hiểu Liêm đã học những kinh nghiệm diễn xuất ấy ở đâu. Trong sách vở hay qua kinh nghiệm của những năm tháng đi theo đoàn hát.

Sau buổi nói chuyện đó tôi càng thấy quý mến Liêm hơn. Và dù không thể nào làm theo ý kiến của anh để sửa đổi lại hoàn toàn vở tuồng, tôi cũng đã cố gắng can thiệp để cho các tài tử phải sửa đổi vài đoạn diễn xuất trong vở.

Thế rồi, ngày diễn vở tuồng đó tới. Một việc không may xảy ra. Trước hôm diễn một ngày, Lộc vai chính trong vở bị khản đặc tiếng. Cả đoàn chỉ trông cậy vào vở này. Nếu Lộc khản tiếng thì vở tuồng coi như phải bỏ vì không có một nam diễn viên nào có thể thay Lộc được. Bà chủ gánh cuống quýt. Chúng tôi thi nhau đi tìm thuốc cho Lộc. Nhưng tất cả đều vô hiệu. Lộc vẫn không thể nào nói được thành tiếng chứ đừng tính đến chuyện hát nữa. Chết một nỗi là đoàn hát đã quảng cáo rùm beng từ một tháng trước vở tuồng này và lại là dịp đầu năm không thể nào tìm vở khác thay được.

Sau cùng, tôi chợt nghĩ đến Liêm, không hiểu tại sao lúc đó tôi lại cho là Liêm có thể thay Lộc được và, táo bạo hơn nữa, tôi lại đem ngay ý kiến đó đề nghị với bà chủ gánh và anh bạn soạn giả kiêm đạo diễn của đoàn. Lúc đó thì mọi người cùng tưởng là tôi nói đùa, về sau thấy bộ mặt quả quyết của tôi thì mọi người lại nghĩ là tôi điên. Nhưng, dù muốn dù không cũng là một cách giải quyết cuối cùng.

Mọi người cho gọi Liêm tới. Như tôi đã nói, mặc dù chỉ là một kép phụ, nhưng Liêm là một tài tử đẹp trai nhất đoàn, nên cái khuôn mặt của anh cũng đã gây được một phần tin cậy cho bà chủ gánh hát. Đến lúc tôi bảo anh đọc thử một đoạn trong vở thì đề nghị của tôi được chấp thuận ngay. Thế là cả ngày hôm sau mọi người lại bắt đầu tập dượt lại vở tuồng cho ăn khớp với nhau.

Điều mà không ai ngờ tới là Liêm thuộc vở một cách nhanh chóng lạ lùng. Chỉ có một đêm mà anh đã thuộc gần hết đối thoại trong vở. Bà chủ gánh bấy giờ mới thấy yên tâm và chỉ còn tiếc là giọng ca của Liêm bị yếu quá, không thể nào làm cho khán giả quên Lộc được. Buổi tập hôm đó, tôi thấy Liêm sung sướng ra mặt. Chưa bao giờ tôi thấy nét mặt của anh tươi sáng như thế. Chỉ có một điều đáng buồn là cô đào chính khi thấy mình bị đóng với Liêm, một kép phụ tầm thường, thì liền biểu lộ sự bất mãn ra bằng cách thờ ơ trong việc tập dượt. Chúng tôi phải dùng đủ mọi cách để khuyến khích nàng song tình thế chẳng thay đổi được một chút nào. Trong khi tập, nàng không chịu đứng cạnh Liêm lấy cớ bị mệt, ngồi trên chiếc bàn nhỏ và nói:

– Tôi quen quá rồi, khỏi cần dượt thêm cho tốn công. Chỉ ngại anh Liêm chưa đóng vai chính bây giờ mới cần phải tập thôi.

Rồi tới những đoạn hai người tình tự với nhau, trong khi Liêm để hết tinh thần vào sự diễn tả từ điệu bộ cho đến lời nói thì nàng… vừa… ăn nho vừa diễn một cách gượng gạo. Tôi thấy mặt Liêm tái đi. Mồ hôi lấm tấm trên trán vì tức giận. Ngay đến tôi cũng thấy khó chịu và chướng mắt vì cử chỉ đó. Tôi biết là Phượng – cô đào chính – đã mang sẵn một thành kiến không tốt đẹp đối những anh kép phụ như Liêm. Có lẽ nàng nghĩ rằng đóng với một diễn viên không có tên tuổi như Liêm thì cái danh tiếng của nàng sẽ bị mất hết.

Tuy nhiên, buổi tối hôm đó, vở tuồng cũng được khai diễn. Người coi đông như nêm cối. Mới tám giờ mà vé đã bán hết phải bán lố tới vé ngày hôm sau. Trước giờ mở màn, Liêm gọi tôi ra một góc sân khấu, nói khẽ:

– Bao nhiêu năm trời tôi chờ đợi phút này.

– Liêm có cảm động không?

– Có, nhưng ít thôi. Anh nên đứng nhắc vở giúp tôi. Tôi sợ một vài đoạn chưa được thuộc lắm.

Tiếng chuông reo báo hiệu giờ khai diễn. Nhạc bắt đầu nổi. Tôi thấy Liêm đứng sau một tấm cánh gà, nhẩm lại vở. Trông anh lúc bấy giờ thật là đẹp. Chưa bao giờ tôi thấy một diễn viên nào tôn trọng vở tuồng bằng anh. Còn Phượng thì hình như không để ý gì tới buổi diễn cả. Nét mặt nàng buồn như đến nhà có tang. Nàng đủng đỉnh thay áo, vẽ mặt và hầu như không hề chú ý – dù chỉ một giây ngắn ngủi – tới Liêm. Tới lúc vở tuồng bắt đầu, Phượng bước ra sân khấu như một cái máy. Nàng đã đóng sai lạc hết cả ý nghĩa vai trò của nàng nhưng khán giả vẫn cứ hoan nghênh như thường. Tôi đặt hết tin tưởng vào Liêm và hy vọng nhờ vở tuồng này, anh sẽ bước lên một địa vị khá hơn trong làng sân khấu.

Giờ phút nghiêm trọng đã tới. Liêm xuất hiện trên sân khấu giữa tiếng ổn ào của khán giả từ dưới vọng lên:

– Kép mới, kép mới!

Tôi nghe tim mình như ngừng đập và không ngớt cầu mong cho Liêm trấn áp được những tiếng ồn ào kia. Đúng như ý tôi muốn, Liêm tỏ ra bình tĩnh. Đứng trong hậu trường nhìn ra, tôi không khỏi khen thầm cho tài diễn xuất già dặn của anh.

Hết màn thứ nhất. Tôi thở ra một hơi dài như vừa trút được gánh nặng. Liêm chạy đến nắm tay tôi:

– Tất cả sự thành công của tôi đêm nay là nhờ anh.

Tôi khuyến khích Liêm mấy câu rồi chạy lại chỗ Phượng gợi chuyện:

– Chị thấy Liêm đóng sao? Khá đấy chứ?

Giọng Phượng lạnh lùng đến tàn nhẫn:

– Khá? Tôi mong khán giả cũng nghĩ như anh.

Biết nàng không bao giờ có thể đồng ý với mình được, tôi bỏ đi chỗ khác. Ít nhất, trong tôi lúc đó cũng chớm nở một niềm kiêu hãnh vì đã khám phá ra một tài năng mới của sân khấu. Và tôi yên tâm chờ đợi màn thứ hai. Lần này cũng như màn trước, theo sự nhận xét của tôi, Liêm vẫn đóng trọn vai trò của mình. Tôi nhìn thấy tương lai của anh bắt đầu mở rộng từ phút này. Và, tôi nghĩ đến những vở tuồng sắp viết để cho Liêm có thể trổ được hết tài nghệ diễn xuất. Từ trong sân khấu, tôi ném cho Liêm một cái nhìn trìu mến. Liêm cũng trả lời tôi bằng một nụ cười tin tưởng.

Nhưng, bỗng nhiên từ dưới sân khấu, tiếng rì rầm mỗi lúc một lớn và chuyển thành những lời phê bình ầm ỹ mà đến nỗi đứng trong hậu trường, tôi cũng nghe thấy rõ hết:

– Diễn gì mà chỉ toàn thấy nói từ đầu tới cuối thế này! Sao không thấy hát gì cả.

– Văn Lộc đâu? Văn Lộc? Kép chánh đâu?

Những tiếng Văn Lộc, kép chánh được truyền từ miệng người nọ sang người kia, phút chốc vang lên như một lời đòi hỏi cương quyết. Tôi thấy Liêm bắt đầu bối rối không còn tự nhiên như trước nữa. Anh đã cố gắng để trấn áp những tiếng ồn ào kia, nhưng lần này thì hoàn toàn thất bại.

Một vài tiếng huýt sáo nổi lên.

Rồi đến tiếng ghế lọc xọc báo hiệu một vài khán giả đứng dậy bỏ về. Bà chủ gánh mặt cắt không còn hột máu chạy lại cạnh tôi:

– Làm thế nào bây giờ hả ông? Họ mà đòi vé bây giờ thì thật chết hết!

Tôi cố tìm một vài câu nói để cho bà vững dạ nhưng chính tôi lúc bấy giờ, tôi cũng đã bắt đầu lo sợ. Cũng may là màn hai đã hết. Liêm bước xuống. Liêm bước vào, ngã ngồi ngay xuống một chiếc ghế gần đó, không nói không rằng. Còn Phượng thì nét mặt sa sầm, nặng chĩu, nói một câu còn đau đớn hơn cả những tiếng ồn ào của khán giả:

– Thật các người đã giết tôi. Tôi đã nói ngay từ đầu mà không ai chịu nghe tôi cả, đi bắt tôi đóng chung với một anh kép không có tên tuổi như thế thì khán giả hoan nghênh làm sao được.

Liêm bỗng chồm dậy nhìn Phượng định nói một câu gì đó, song không hiểu nghĩ sao, anh lại ngồi xuống ghế rũ ra như tàu lá héo.

Chúng tôi không còn biết làm thế nào hơn là ra xin lỗi khán giả và hứa sẽ diễn lại vở tuồng này khi nào kép Văn Lộc khỏi bệnh.

Màn thứ ba mở lên. Bên dưới, khán giả chỉ còn một nửa. Và cứ thế khán giả lần lượt bỏ về gần hết khi biết tin là kép Văn Lộc bị khản tiếng. Khi vở tuồng chấm dứt, một không khí nặng nề bao phủ hậu trường. Tôi biết là nếu có mặt ở đó thì chắc chắn sẽ phải nghe một câu nói không đẹp đẽ gì của bà chủ gánh hát, bèn bỏ ra ngoài và có ý định rủ Liêm đi chơi đêm đó để an ủi anh. Nhưng, cả đêm hôm đó, tôi không thấy mặt Liêm ở đâu.

Ngày hôm sau, chương trình bắt buộc phải đổi lại. Chúng tôi phải diễn một vở tuồng Tàu để chờ cho Văn Lộc khỏe lại mới có thể diễn tiếp được vở mới. Và, như vậy có nghĩa là Liêm lại trở về vai trò cũ của mình trong đoàn hát, anh không hề có một ý kiến gì về chuyện này. Nét mặt anh già hẳn đi sau đêm diễn xuất thất bại. Tôi ít gặp anh và có cảm tưởng rằng anh muốn trốn tránh tất cả mọi người, ngay cả tôi nữa.

Một tuần sau, Văn Lộc khỏi bệnh, chúng tôi lại bắt đầu chương trình quảng cáo cho vở tuồng được diễn tiếp. Đêm đầu tiên của buổi trình diễn lại này, khán giả vẫn đông nghẹt rạp. Và khi Văn Lộc bước ra sân khấu từng hồi vỗ tay nổi lên. Tôi nhìn sang phía Liêm. Lúc ấy anh đang ngồi phụ với người kéo màn. Mặt anh gục lên hai bàn tay. Toàn thân anh rúm ró lại như chiếu bị rách, mỗi lần từ dưới sân khấu vọng lên những tràng vỗ tay khen thưởng Văn Lộc.

Hết màn hai, tôi không thấy Liêm đâu nữa. Vì còn vướng nhắc tuồng nên tôi không thể đi tìm Liêm ngay lúc đó được. Tôi biết mỗi một tiếng vỗ tay khen thưởng Văn Lộc lúc đó là một nhát dao chém vào người Liêm. Tôi thấy anh bỏ đi như vậy là hợp lý. Vì nếu còn ngồi lại, Liêm sẽ còn khổ tâm hơn nữa khi thấy từng xấp bạc từ dưới ném lên sân khấu để thưởng cho tài diễn xuất của Văn Lộc và nghe thấy từng tiếng suýt soa, rên rỉ của khán giả vẳng lên khi Văn Lộc vào sáu câu vọng cổ quá mùi.

Thấy vở tuồng ăn khách, bà chủ quyết định cho diễn mười đêm liền. Và quả nhiên như dự tính của bà, chín đêm sau đêm nào cũng chật rạp!

Một tháng sau khi xảy ra câu chuyện trên thì Liêm đã rời khỏi đoàn hát. Anh bỏ đi một cách hết sức kín đáo đến nỗi hai ngày sau người ta mới khám phá ra sự vắng mặt của anh.

Người kép phụ đó như bao nhiêu người kép phụ khác đều chịu chung một số phận hẩm hiu: có mặt hay không, ở sân khấu hay ở trong hậu trường, chẳng ai cần để ý tới. Thiếu Liêm, đoàn hát vẫn không có một chuyện gì thay đổi. Một anh công nhân đề-co được chọn vào thay thế cho Liêm.

Người ta làm việc bình thản như khi ta thay bức ảnh cũ trên tường. Tất cả mọi người không còn một ai nhớ đến Liêm nữa. Chỉ có tôi. Tôi không sao quên được Liêm. Hình ảnh của anh đè nặng trong tôi. Cho mãi tới bây giờ, tôi đã rời xa đoàn hát cũ, không còn làm cái nghề soạn tuồng cải lương nữa, và đã mười năm rồi, mỗi lần đi coi hát nhìn những vai trò không quá mười phút trong một vở tuồng, tôi lại nhớ tới Liêm, nhớ đến những con tầu suốt đời làm cái việc đẩy những con tầu khác vượt khỏi những đoạn đèo dốc…
 

THANH NAM        


Thứ Sáu, 17 tháng 11, 2023

KHỞI HÀNH - Lê Tất Điều

 

Tôi chú ý và khoái nhất cái lối bước lên thang của Nhiên. Lúc thường anh ta đã có dáng đi là lạ, hơi ngất ngưởng như coi thường quả đất dưới chân mình, nhưng dường như vẫn thiết tha hướng về phía trước. Lúc anh ta lên thang, ngay khi đặt chân lên bậc đầu tiên, anh ta đã có vẻ hoàn toàn lạnh nhạt với cuộc đời. Anh ta dừng lại một chút ở bước đầu như để nghĩ ngợi, suy đoán. Lưng và đầu thật thẳng, hơi ngả về phía sau, nét mặt bình thản, thường mơ mộng bâng khuâng. Rồi bàn chân trước trở nên sống động, đưa cả thân người lên một cách vững chắc, có tính toán kỹ lưỡng. Những bước tiếp theo không nhanh, không chậm, chiều cao không làm cho anh ta bước lệch lạc.

Lên tới bậc thang cuối cùng bao giờ Nhiên cũng dừng lại một chút và anh ta nghiêng đầu, ngước mắt nhìn xung quanh thật nhanh, Nhiên vuốt lại tóc một cách hờ hững và trở lại với dáng bước uể oải của một kẻ biết đời có nhiều chuyện đáng chán mà vẫn không muốn nản lòng. Nếu cử chỉ có thể diễn tả được ít nhiều tính tình của con người thì cách lên thang của Nhiên đã nói được khá rõ ràng những khía cạnh đời sống nội tâm của anh ta.

Nếu Nhiên đến đây với chúng tôi sớm hơn năm tháng thì có lẽ những ngày đầu tiên trong cuộc đời kiếm sống của tôi đã bớt đi được khá nhiều kỷ niệm khó chịu.

Buổi sáng hôm tụ họp trước cửa bộ giáo dục để chờ sự vụ lệnh cử đi nhận việc, chúng tôi - bạn đồng học và sẽ là bạn đồng nghiệp của nhau - bàn tán xôn xao:

- Phen này không biết phải đi đâu đây?

- Trong niên học thằng nào càng lười, càng bướng thì bây giờ càng phải xa đô thành, đến miền rừng núi gần Tiên, Phật để tu tâm sửa tánh.

Tuy đã được một cách mơ hồ quãng đường xa kể từ đô thành đến nơi mình sắp nhận việc (nhờ ở sự dò theo bảng kết quả cuộc thi cuối năm, đếm tên số người đè trên đầu mình) tôi vẫn cảm thấy hồi hộp vì không rõ trong bốn phương trời đông, tây, nam, bắc mình sẽ được ném về phương nào. Nắm được tờ sự vụ lệnh trong tay, ngỡ ngàng nhìn tên cái tỉnh lạ hoắc ghi trên đó, thật tưởng như định mệnh của mình không phải do Trời định, mà do chính những chữ viết bằng nguyên tử xanh nguệch ngoạc trên tờ giấy dầy. Thấy thiên hạ xúm lại quanh anh chàng có tấm bản đồ toàn quốc trải rộng bên một gốc cây để hỏi han chất vấn về đường đi nước bước, tôi cũng chạy đến lay vai anh ta:

- Này, tỉnh K. ở đâu?

- Tỉnh K. à? Ối xa lắm bồ. Trong niên học đi bát phố cho lắm vào.

Anh ta cúi xuống bản đồ cầm cái thước kẻ nhỏ đo ngang, đo dọc rồi lẩm bẩm tính:

- Một, hai, ba, bốn... bốn mẫu rưỡi, tính ra là hơn bốn trăm cây số.

Không ngờ sự lười học, sự nghịch ngợm của mình lại biến thành quãng đường dài đến thế. Nước Việt cụt mất một nửa, còn ngắn ngủn, phải đi xa đô thành bốn trăm cây số thì hẳn sẽ tới một nơi nào mà lơ đễnh một chút mình có thể bước nhầm sang nước láng giềng. Tôi cười ruồi để cám ơn anh chàng có bản đồ rồi chạy một mạch về nhà sửa soạn hành lý lên đường. Bây giờ cuộc đua có một phạm vi nhỏ hơn, tôi chỉ còn phải thi nhanh chậm với những vị đồng nghiệp cũng đang khởi hành đến tỉnh K.

Tôi phải đổi xe ba lần mới tới tỉnh và càng tới gần tỉnh càng phải đi loại xe chạy chậm, xơ xác tang thương hơn.

Lại một phen nữa hồi hộp chờ đợi vì tỉnh K. cũng có đủ bốn phương đông, tây, nam, bắc.

Sau khi nhận một tờ giấy nữa tôi ra bến xe cùng hai ông bạn đồng nghiệp, đồng học có số phận giống tôi. Tự nhiên cả ba cảm thấy thân thiện và thương nhau hẳn lên. Ba đứa ngồi dụm lại ở một góc xe nét mặt cùng lộ vẻ hoang mang. Bài diễn văn nhắc nhiều đến cách xử thế của ông ty trưởng làm cho chúng tôi còn cảm thấy lo lắng. Anh tài xế và anh lơ xe nhìn chúng tôi hơi nhiều có lẽ vì thấy những bộ quần áo chúng tôi mặc quá sang trọng đối với vùng này nhưng chúng tôi lại đinh ninh là người ta đang dò xét tư cách nhà giáo của mình, và khi cần ho khẽ một tiếng tôi cũng vội vàng rút khăn tay ra trịnh trọng che miệng cho hợp vệ sinh.

Cả hai ông bạn tôi đều giữ thái độ lầm lì. Sơn người mập lùn, tròn trặn, gọn gàng như một quả xoài tượng, hắn có dáng đi vội vàng, láu táu, mắt mũi miệng hắn thì cái gì cũng được xếp theo hình chữ bát cả, lông mày và mắt song song nhau, cặp nằm theo chiều dấu sắc, cặp nằm theo chiều dấu huyền, hai bên mép cũng đi chéo trở xuống ngẩn ngơ như miệng trẻ nhỏ. Thoáng trông hắn có vẻ hiền lành, nhìn kỹ đôi mắt nhỏ, cái mũi hơi khoằm mới nghi rằng tính tình hắn không được rộng rãi.

Tịnh cao, gầy, nghiêm nghị đến độ thành ra lừng khừng, anh học cùng lớp với tôi trong trường sư phạm, lấy vợ từ hồi chưa thi bằng trung học. Sau khi cưới vợ anh bắt đầu học dốt và sinh tật hút thuốc lào sòng sọc, nói năng thích gật gù như các cụ lý, cụ xã, lại lười chải đầu, và thường lấy những cái kẹp tóc nhỏ của vợ để kẹp cho tóc khỏi xõa xuống trán, rồi luôn luôn đem phổ biến sáng kiến đó cho anh em noi gương, đỡ tốn tiền mua Brillantine. Sau khi có đứa con đầu lòng, anh sinh tật gọi bạn đồng lớp là: "các chú" hay "chú em" và xưng "ta" ngon lành. Thấy bạn bè hay đùa nghịch Tịnh khó chịu và khinh bỉ ra mặt, cho là một lũ trẻ con. Nhưng kiếm trong số bạn đồng nghiệp không có kẻ nào cũng là bố trẻ con như mình, Tịnh đành miễn cưỡng giao thiệp với chúng tôi, tuy vẫn giữ thái độ kẻ cả. Ngồi nghe giáo sư giảng Tịnh khoanh tay, mở to mắt như muốn nuốt chửng từng câu nói vào trí nhớ, nhưng lại chậm hiểu hơn hết và lúc làm bài thường phải lợi dụng chiều cao của mình để ngó sang tờ giấy của hai "chú em" bên cạnh.

Hồi mới nhập học được ít hôm, chúng tôi thấy Tịnh lớn tuổi hơn cả tưởng anh là loại người hơi ngu đần nên xúm xít lại đồng thanh bầu anh làm trưởng lớp. Không ngờ về sau tất cả những tên phá kỷ luật hay bỏ giờ một cách bí mật đều bị anh kê tên và báo cáo rất đầy đủ lên ông giám thị. Cả lũ hoảng hồn vây quanh Tịnh kỳ kèo. Tịnh giữ vững lập trường và lên giọng khuyên nhủ anh em bằng những lời giảng của vị giáo sư già dạy môn luân lý. Một vài tên ức quá trả thù bắng cách đặt cho anh cái biệt hiệu là "Tịnh gàn đểu".

Bây giờ, số điểm kém cỏi bằng nhau trong kỳ thi cuối năm đã đẩy ba chúng tôi ngồi chung một chuyến xe về làm việc ở cùng một nơi.

Chuyến xe càng lúc càng đi sâu vào những vùng hoang vắng, có khi con đường đất đỏ nhỏ hẹp hẳn lại như bị hai cánh rừng rậm mịt mù ở hai bên chèn ép, bóp nghẹt. Tôi mệt bã người mà không sao nhắm mắt ngủ gật gù được như người bạn đồng hành. Lắm lúc lại nẩy ra cái ý nghĩ chua chát là mình giống như bọn anh em thằng bé tí hon trong truyện xưa, bị chính phủ ghét đem bỏ vào rừng cho cọp tha, đỡ tốn tiền phát lương. Đây là lần đầu tiên tôi cảm thấy rợn người khi nghĩ rằng đất nước mình quá rộng.

Anh Tịnh cũng mở to mắt phân vân nhìn rừng cây và đường dài. Tôi kêu:

- Khiếp! Xa quá, đi mãi chưa tới nơi.

Tịnh thắc mắc thật sự:

- Sao toàn rừng thế này nhỉ? Họ định cho mình vào đây dậy khỉ à?

Và Tinh rướn người, nắm lấy thành ghế phía trước, hỏi to:

- Này bác tài! Sắp tới chưa đấy?

- Chạy cỡ hai chục phút nữa.

- Trong đó có trường học không?

- Có chớ. Thiếu gì. Mấy thầy là thầy giáo hả?

- Vâng. Chúng tôi mới...

Tôi vội bấm vào đùi Tịnh để anh khỏi tiếp tục khai lý lịch quá đầy đủ và chi tiết.
 
Sau khi qua một chiếc cầu gỗ hẹp, ngắn có những nhịp kêu lắc rắc đe dọa, chiếc xe dừng lại ở đầu một con đường đất nhỏ. Một người đàn bà nhanh nhẹn bước xuống, đứng lên lề đường, ngửa cổ chờ anh lơ xe trao trả mấy cái thúng để trên nóc xe. Anh lơ ném cho chị ta bộ quang gánh và hai cái thúng. Chị ta cúi xuống lật chiếc mẹt che thúng, kiểm soát rồi bỗng kêu lên:

- Thiếu mất hai cái bánh tét nè.

Bộ mặt chợt linh động hẳn, chị ta đứng kiễng hai chân, nói với anh lơ xe:

- Anh coi trên đó coi.

Anh lơ đi lại rậm rịch trên nóc xe mấy bước rồi nói vọng xuống:

- Không có.

- Sao không có? Mua năm cái giờ thấy có ba.

Vừa nói người đàn bà vừa đi ra phía sau xe vén quần áo rồi nắm lấy chiếc thang sắt leo lên. Cuộc tìm kiếm diễn ra hơi lâu. Anh tài xế giơ cánh tay phải lên trời đập nhẹ xuống bánh lái, lắc đầu than:

- Trời đất!

Trên nóc xe có tiếng anh lơ càu nhàu:

- Chị buộc không kỹ lưỡng, nó sút dây rớt xuống chớ gì.

Giọng nói của người đàn bà cũng hậm hực không kém:

- Nói vậy nghe lọt sao? Đồ người ta gởi theo thì phải coi chừng cho người ta chớ. Bộ anh cho tôi quá giang không ăn tiền hả?

Người tài xế sốt ruột gõ thình thình vào cửa xe và thò đầu ra ngoài hét:

- Lẹ lẹ cho bà con đi. Muốn ngủ luôn ở đây hả?

Người đàn bà leo xuống, phân trần:

- Nếu rớt thì rớt hết năm cái chớ sao còn ba. Xe chạy làm mất hết trọi đồ rồi bắt hành khách phải chịu thiệt, đâu có được.

Thấy chị ta đã đặt chân xuống đất, anh lơ xe không cãi nữa, anh ra lệnh:

- Rồi... chạy đi.

Tiếng "đi" kéo dài một cách khoan khoái, thoát nợ. Nhưng máy xe vừa rú lên, xe chưa kịp chuyển bánh thì thình lình, người đàn bà đùng đùng chạy lên, đứng cản trước mũi xe. Cơn giận dữ làm chị ta thở hổn hển. Anh tài xế giật mình hét lên:

- Làm gì vậy? Muốn bị xe cán chết sao?

- Cán coi!
 
Qua làn kính trước xe tôi thấy khuôn mặt người đàn bà tái ngắt, mắt nhìn trừng trừng khiêu khích thách đố. Giọng quyết liệt của chị chứng tỏ rằng chị sẵn sàng dùng mạng sống của mình để bắt người ta trả lời minh bạch về hai khoanh bánh tét bị mất tích của chị. Hành khách thở dài sườn sượt. Tiếng máy xe rú ầm ĩ hòa với tiếng hành khách xôn xao che lấp hẳn những câu nói của người đàn bà. Chị ta dang hai tay đặt lên mui nhưng có lẽ bị nóng, chị rụt lại và nắm lấy chiếc đèn xe.

Anh lơ xe nhảy xuống, có vẻ đã chịu thua sự lì lợm của người đàn bả. Anh ta nắm cánh tay chị kéo dần vào lề đường, miệng năn nỉ ngọt ngào hơn:

- Trời ơi! Nó rớt mất rồi thì tôi biết làm sao. Bộ chị tưởng tôi lấy cắp hai cái bánh của chị hả?

Đưa được người đàn bà vào sát lề, anh lơ thình lình giơ tay phất một cái ra hiệu cho xe chạy. Anh tài chỉ chú ý đến cái phất tay thoát hiểm đó và anh gài số đạp ga. Chiếc xe chồm lên như một con ngựa bị người ta đâm kim vào mông, và anh lơ buông người đàn bà, nhảy tót lên phía sau xe đứng vừa lau mồ hôi vừa chửi đổng. Tôi quay lại xem phản ứng của người đàn bà nhưng chỉ còn thấy bóng chị ta mờ mờ sau một đám bụi đỏ ngầu., Những câu chửi chắc là dữ dội lắm của chị ta cũng không đuổi kịp theo xe.

Tịnh chép miệng phê bình:

- Dân ở đây gớm quá nhỉ.

Tôi ghé tai nghe Tịnh thì thầm:

- Phụ huynh học sinh ở đây bà nào cũng như bà này thì đời tụi mình tàn.

Quả thực người đàn bà này đã làm tôi kinh hãi.

Lúc ấy, trông về tương lai tôi thấy cái gì cũng đáng sợ cả. Bên phải là rừng, bên trái là rừng, đằng trước là con đường càng lúc càng gập ghềnh. Tôi muốn được lùi lại đằng sau, lùi thật nhiều, lùi mãi cho đến cái thời còn là một anh bé con ăn bám cha mẹ ngày ngày thảnh thơi cắp sách đến trường.

*

Trường gồm có năm phòng gỗ làm theo kiểu nhà sàn, có bốn cầu thang ngắn lên xuống. Ông hiệu trưởng già, để râu, đeo cặp kính trắng mắt tròn, mặc bộ quần áo bà ba dẫn đầu một phái đoàn gồm có một thầy giáo, hai cô giáo và gần mười đứa trẻ con tò mò, đi đón chúng tôi. Người nào cũng có vẻ hân hoan. Ông hiệu trưởng báo ngay cho chúng tôi một tin mừng:

- Năm nay nước lên sớm. Chừng nửa tháng nữa gặp mưa lớn nước sẽ ngập hết sân trường, mình được nghỉ dạy ít nhất cũng cỡ một tháng.

Sơn ngẩn ngơ hỏi:

- Năm nào cũng ngập vậy hay sao ông?

- Năm nào cũng vậy. Trường này đặc biệt mà.

Cô giáo trẻ tuổi, khá xinh đẹp, đủ bắt tôi nở một nụ cười thật tươi sau khi tôi đã bị quãng đường dài mấy trăm cây số hành cho mềm người, bảo chúng tôi:

- Các thầy may lắm. Nếu đến trễ ít hôm có khi các thầy phải vào trường bằng thuyền.

Nàng vừa nói vừa cười nên lúc ấy tôi lại tưởng nàng nói đùa. Cô giáo Hoan, đã đứng tuổi, nhất định đòi xách va ly dùm để tôi đỡ lúng túng trong việc vén quần nhảy qua những vũng bùn lớn. Nàng hỏi han chúng tôi rất thân mật nhưng thái độ vẫn nghiêm trang, và đặc biệt rất ít cười. Sau này tôi mới rõ lý do của sự nghiêm trang đó : Hoan có hàm răng vẩu và chiếc răng cửa hơi thô, nàng bị mặc cảm vì hàm răng đó, lúc nào nàng cũng đinh ninh rằng người khác có âm mưu chọc cười để xem răng nàng. Vì thế chúng tôi có tán dóc đùa cợt đến thế nào cũng chẳng làm cho Hoan cười lớn được.

Một trong năm căn phòng của nhà trường được chia đôi: một nửa là phòng làm việc của hiệu trưởng, một nửa dùng làm nơi tạm trú cho chúng tôi.

Ngay trong buổi tối hôm đầu tôi đã cảm thấy nhớ nhà và thương thân. Suốt thời thơ ấu cho đến ngày đó tôi ít có dịp xa gia đình, mà có đến đâu thì cũng được tả phù, hữu bật, chẳng bao giờ phải tự lo những việc vặt. Sơn đi ngủ thật sớm. Tịnh lôi trong va li anh ra nhiều bánh trái chia cho tôi ăn, nói là để giữ sức. Sau đó anh ta cũng nằm dài, kê lọ dầu nóng vào mũi, thỉnh thoảng hít một hơi. Tôi mở cửa sổ nhìn những ngọn đèn dầu tối mù mù trong những căn nhà ở gần trường, nghe tiếng côn trùng kêu ran như thác đổ trong rừng. Ý nghĩ thành thực lúc bấy giờ là thấy mình tệ quá, kém cỏi quá. Tôi thấy tôi học dốt, tôi nhớ ra là tôi đã hay đùa nghịch, không chịu cố gắng, rồi tôi thấy cả sự tôi... xấu trai nữa.

Sáng hôm sau học trò kéo đến đầy sân trường. Ánh nắng buổi sớm, tiếng trẻ cười đùa làm cho dẫy lớp nghèo nàn chợt như bừng tỉnh, linh động. Tôi bắt đầu cảm thấy hào hứng, hăng hái hơn. Lớp học của tôi tính cả thầy trò thì vừa đúng được hai chục mống, có vài đứa cao hơn thầy. Trong buổi học đầu, thấy nói thầy mình ở Saigon đến, chúng sung sướng kiêu hãnh ra mặt, chúng ngắm thầy mãi không chán làm như thầy chúng vừa từ trên trời hạ gót xuống trần gian. Hầu hết lớp là những học trò đúp hai ba năm. Ở đây không có trường trung học, lại xa tỉnh, nên cuối năm học trò lớp nhất dù giỏi, dở, dù thi đậu hay thi trượt đều phải học đúp lại hết, nếu cha mẹ chúng không thích để chúng ở nhà. Ấy thế mà có đứa học đi học lại mấy năm vẫn còn dốt, không theo kịp chương trình. Buổi đầu chưa hiểu rõ học trò, tôi hăng hái vung tay vung chân đọc một bài diễn văn khai mạc rất dài. Lũ trẻ ngồi ngẩn mặt, chẳng hiểu quái gì, nhưng vẫn phục thầy. Mấy đứa lớn đứa nào cũng mập mạp, đen trũi, trán gồ bướng bỉnh nhưng hiền như tượng đất. 

Lúc ấy tôi không hề biết rằng những tiếng "taxi" "xích-lô" "chiếu bóng" v.v... đối với phần lớn trẻ nhỏ ở đây là những danh từ hoàn toàn trừu tượng, nếu không chú ý thì bài giảng của mình lập tức thành một bài văn tối nghĩa, bí hiểm. Phải mất hơn một tuần giải thích, tìm hiểu vấn đề ngôn ngữ của chúng tôi mới được giải quyết ổn thỏa. Tuy vậy thỉnh thoảng vẫn có chuyện bất ngờ, ở lý lịch học sinh trong mục "nghề nghiệp của cha" có đứa ghi "Nghề nghiệp cha: cha đánh xe bò vô rừng chở gỗ cho người ta!" Một số khác kê ra những nghề lạ lùng rắc rối mà tôi cũng chịu không định nghĩa nổi.

Cô giáo Hoan giới thiệu cho chúng tôi một bà già thổi cơm tháng, ông hiệu trưởng thì đưa chúng tôi đi trình diện các nhân vật có uy quyền trong vùng, ông có vẻ khoái vì mỗi lần có thêm nhân viên là một lần địa vị ông được nâng cao thêm một tí. Sự khó khăn lúng túng ban đầu qua đi. Đeo cà-vạt, ăn nói trịnh trọng, nghe lũ học trò gọi là thầy mãi rồi cũng đâm cảm thấy mình đúng là người lớn. Mấy ông hương chức tiếp đón chúng tôi bằng những bữa ăn khá thịnh soạn. Xem ra chưa truyền thụ cho học trò được mấy tí đạo đức mà ông thầy đã học được thêm nhiều tật xấu: uống rượu, ăn uống nói năng khề khà, chậm tiến.

Nhưng chính những điều mới lạ đó lại giúp mình quên nhớ nhà, không chán nản và quen dần với cuộc sống mới.

Những lúc thật cảm thấy buồn rầu và trơ trọi tôi hỳ hục viết thư gửi cho gia đình và nhất là các bạn hữu ở Saigon. Thật là ngốc, tôi cứ tưởng là các bạn, thấy tôi phải đi xa, sẽ thương hại và săn sóc tôi hơn. Ngờ đâu chúng nó khoái làm những việc vô ích hơn là viết thư cho tôi. Thư gửi đi nhiều, thư trả lời chỉ có hai mà cái nào cũng mỏng dính, tác giả lại viết một mặt giấy như viết bài đăng báo, chữ thì to lớn nghênh ngang, tình thân kéo dài được độ hai chục dòng là đã đến mục biểu diễn chữ ký bay bướm, đạo bằng hữu hết đất đứng được bào chữa bằng một câu mơ hồ "thư sau sẽ nói nhiều".

Khi đã quen, tôi bắt đầu cảm thấy vùng này có nhiều điểm dễ chịu. Dân chúng sống tụ tập quanh ngôi nhà thờ - một trong ba cơ sở được xây cất bằng gạch ngói - dưới mái những căn nhà tranh nằm thành dẫy, thành hàng dài. Một số khác sống ở men rừng thỉnh thoảng lại ngả một ít gỗ để kiếm thêm đất trồng trọt. Họ nghèo tiện nghi nhưng giầu thực phẩm, nhất là món thịt rừng. Thỉnh thoảng, sau cuộc săn bắn thành công của một vị phụ huynh học sinh, chúng tôi lại được thưởng thức những món ăn lạ.

Phần lớn dân ở đây đều có vẻ hiền lành, ít nói. Những tiếng động do đời sống của họ gây ra chẳng bao giờ át nổi tiếng gió ào ào trong những cánh rừng mênh mông ở xung quanh. Bây giờ họ không còn lo vụ cọp về phá làng nhưng vẫn sợ hãi con sông lớn mỗi năm gây lụt một lần. Người đàn bà, đã một lần đứng chắn đầu chiếc xe đò để đòi người ta trả lời về hai khoanh bánh tét bị thất lạc của mình, chắc chắn không có mặt trong số những phụ huynh học sinh chất phác của tôi.

Lũ học trò ngoan hơn tôi tưởng. Chỉ cần trừng mắt một cái là lấy lại ngay được trật tự cho lớp. Các gia đình luôn luôn giúp đỡ nhà trường bằng cách bắt con cái chịu đựng một kỷ luật sắt. Một lời phê xấu ở trường có thể biến thành năm sáu roi đòn ở nhà. Chúng có nhiều tài vặt và một số có sức làm việc không thua gì người lớn. Trong lớp ông thầy là kẻ nói ba hoa chuyện trời, chuyện đất, đem đến cho chúng nhiều cái lạ thì ra khỏi lớp ông thầy lại là kẻ vụng về ngớ ngẩn nhất. Chúng có nhiều tài năng khiến thầy chúng phải kinh ngạc: có đứa bắn ná bách phát bách trúng, có đứa kê ống xì đồng vào miệng và thổi rụng chim như chơi. Lâu lâu lại có đứa đem biếu thầy một món quà chúng kiếm được trong lúc theo cha đi rừng vừa để tỏ lòng mến thầy vừa để tạ tội nghỉ học không xin phép. Hoặc là chúng đem đến một con sóc, hoặc là chúng đem đến một con "cheo" giống hệt một con nai được thu nhỏ, bốn cái cẳng chân chỉ lớn chưa bằng chiếc đũa coi thật xinh, có đứa lại buộc dây vào cổ một con khỉ dắt đến, nếu mình ra mặt từ chối chúng sẽ bắt chước lối xử thế của cha mẹ, bỏ đại quà tặng rồi chạy biến mất. Vì thế chúng cho chim chóc, khỉ vượn gì tôi cũng phải nhận rồi giao lại cho chúng nhờ nuôi giùm.

Ông hiệu trưởng đã già nên hơi hách một chút cho phải phép. Hình như ông luôn luôn sợ chúng tôi chê tài điều khiển trường ốc của ông. Trong những câu chuyện tâm sự thân mật ông hay nhắc đến cái "hồi xưa" tang thương của nhà trường. Trong hồi xưa ấy hẳn nhà trường phải xấu xí, tồi tàn lắm, bởi vì năm căn phòng gỗ không được đẹp đẽ gì của "ngày nay" vẫn thường làm ông kiêu hãnh. Anh chàng tùy phái thì lười hết sức và đôi khi lẩn thẩn như kẻ mất trí. Anh ta chỉ chịu khó lau cái bàn làm việc của ông hiệu trưởng, còn cái mặt ghế ngồi của ông thì bốn góc vẫn đầy bụi, chỉ có khoảng giữa, sau khi ông hiệu trưởng ngồi mới sạch được một vùng hình tròn.

Cô giáo Hoan vẫn tốt bụng và luôn kín đáo với hàm răng vẩu. Năm hai mươi mốt tuổi nàng đã được một chàng trai dạm hỏi, nhưng cuộc tình duyên không thành. Từ đó cuộc đời luôn luôn xê dịch đã khiến nàng không đủ thời gian để kiếm một người chồng vừa ý. Năm tháng chồng chất mãi mặc cảm thua kém và nỗi buồn cô đơn lên tâm hồn nàng. Trong câu chuyện Hoan giữ giọng nhún nhường thái quá và đôi khi tự khinh bỉ sự thiếu nhan sắc của mình đến độ thật đáng thương. Nàng có cái nhìn khắc khoải, chán nản nó chứng tỏ linh hồn nàng bất mãn vì đã phải đóng đô suốt đời trong một thể xác thiếu hấp dẫn. Tuy thế, trong lúc nói chuyện nàng có rất nhiều ý nghĩ thâm thúy, duyên dáng.

Chỉ có cuộc sống chung với Sơn và Tịnh lại hay làm tôi khó chịu. Tịnh tỏ ra làm việc rất hay nhưng càng ngày càng trở nên lừng khừng. Suốt ngày Tịnh nói chuyện vợ con và quanh quẩn chế tạo các kiểu điếu hút thuốc lào tạm thời. Anh đọc rất nhiều sách thuốc đông tây và một số sách nói về các thuật cầu cơ, thôi miên, luyện phép chịu đựng v.v..., rồi anh phổ biến những điều anh hiểu biết cho chúng tôi. Anh bắt chúng tôi kê giường theo đúng chiều đi của "tia vũ trụ", bữa ăn nên tiêu thụ nhiều rau "cải soong" để có nhiều chất bổ. Tịnh ham đánh cờ và mỗi khi thắng hay thua một trận hơi đặc biệt là anh kể đi kể lại, bắt chúng tôi nghe mãi. Trong những buổi họp thường lệ của nhà trường Tịnh càng trình bày nhiều cử chỉ lạ lùng. Anh kéo một chiếc ghế ra ngồi xa mọi người, khoanh tay chăm chú nghe được chừng năm phút rồi bắt đầu xoa cằm nhổ râu hoặc cắt móng tay lách tách. Đôi khi anh lừng lững đi lên bàn chủ tọa lấy một chiếc đinh ghim (kim gút) rồi dùng đầu nhọn xỉa răng và đầu kia để ngoáy tai.

Sơn cẩn thận và tỉnh táo hơn Tịnh nhưng cách đối xử lại có nhiều điểm khó thương hơn. Hắn ghét sự chung đụng và bảo vệ những cái gì của hắn một cách triệt để. Một sự dùng nhầm đồ đạc cũng khiến hắn tỏ vẻ khó chịu. Buổi tối hắn hay đi một mình đến quán uống nước mặc dầu chẳng bao giờ hắn từ chối lời mời của tôi và Tịnh trong những ngày chúng tôi mới lĩnh lương, cao hứng muốn ăn nhậu.

Một lần, đáng lẽ đi theo Tịnh xem mấy ván cờ, tôi lại bỏ về ngang vì cảm thấy hơi nhức đầu. Vừa đẩy cửa bước vào tôi đã nhìn thấy Sơn ngồi xổm trên giường trước một cái mẹt nhỏ đựng năm sáu quả trứng, rau và muối tiêu. Thấy tôi, Sơn lúng túng quệt miệng, nhưng tôi còn lúng túng hơn hắn nhiều. Tôi cười vui và hỏi to:

- Không đi chơi đâu hả?

Một cánh tay Sơn giơ lên, lưỡng lự, hắn ngồi bệt xuống giường hai mắt mở to chào đón. Hắn liếm môi rồi chỉ vào mấy quả trứng mời:

- Nhậu chơi vài trái, bồ.

Tại sao hắn lại lúng túng đến thế, để rồi tôi mang mãi trong lòng một hình ảnh thiểu não về hắn? Cái cảnh ấy có một vẻ gì vụng trộm khổ sở quá, nó khiến tôi vừa buồn rầu vừa sợ hãi. Tôi cảm thấy bị hạ thấp xuống một cách đáng chán, tôi tưởng như Sơn là một hình ảnh xấu xí của tôi trong gương.

Và cứ thế, hai anh bạn này thỉnh thoảng lại trình bày một cử chỉ làm cho lòng tin tưởng của tôi sa sút dần.

Một nhận xét của các bậc đàn anh đi làm trước khá đúng trong trường hợp của tôi. Ở tỉnh nhỏ thiếu các trò giải trí, nếu ta không tìm được nguồn vui ở bạn bè thì chỉ còn thú đọc sách nếu đọc sách mà không hết thời gian nhàn rỗi thì ta sẽ đâm ra thèm lấy vợ.

Thiếu sự săn sóc chiều chuộng của gia đình, thiếu bầu không khí ồn ào, vui tươi của những người thân thuộc tôi bỗng mơ tưởng đến đôi cánh tay mềm mại, dịu dàng của một cô gái. Trong sự mơ tưởng đó đã có nhiều ý nghĩ nao nức, thiết tha thực sự nó thúc đẩy lòng ham phiêu lưu của một gã con trai trước thế giới phong phú của ái tình.

Sao, cô giáo trẻ đẹp độc nhất ở đây lại có đôi bàn tay mềm mại dịu dàng đó. Da nàng thật là trắng lại càng trắng thêm dưới đôi mắt phải nhìn quá nhiều những đứa học trò đen đủi của tôi.

Mỗi khi nghe ai nói, nàng có cặp mắt nhìn bâng khuâng và môi dưới nhè nhẹ bậm môi trên như đang ngậm một nụ cười mỉm. Khuôn mặt nàng lúc đó vừa có vẻ khiêm tốn lại vừa tinh quái một cách kín đáo. Tôi thích những nét biến chuyển mong manh trên mặt nàng.

Sao phải phụ trách một lớp năm tương  đương với lớp mẫu giáo. Lũ học trò bé nhỏ, ngộ nghĩnh và dễ thương như cô giáo. Sao có cái roi lớn treo ở đầu bảng nhưng lại chưa hề đánh học trò cái nào. Vì thế mỗi khi nàng ra đường thường có tiếng trẻ nhỏ reo to:

- Tụi bay ơi, cô giáo tao kìa.

Có đứa túm lấy vạt áo cô mà toét miệng cười. Thỉnh thoảng Sao lại than với tôi:

- Khiếp! Lũ học trò nghịch ngợm quá.

Tôi an ủi nàng:

- Lo làm quái gì. Rồi chúng cũng nên người cả. Mai sau lại có khối đứa làm quan làm tướng đấy mà.

Nhưng có lẽ tất cả sự duyên dáng đáng yêu của nàng được thể hiện trong giọng nói, một  giọng nói mềm, trong và thiết tha đặc biệt của những cô gái miền Bắc khi các nàng đang thủ thỉ nhắc lại một kỷ niệm về một mùa thu buồn xa xôi nào đó.

Những buổi tối có trăng Hoan, Sao và ông giáo già thường đến nói chuyện với chúng tôi. Sao thích ngồi trong ánh trăng và quay lưng về phía cánh rừng nổi gió ào ào. Giọng nói của nàng  thường bắt tôi nhớ đến những con đường quê dài thơm, những quán ngói đứng bơ vơ giữa cánh đồng lúa và những bông hoa gạo đỏ ối có mùi hương nồng nàn rơi nằm rải rác trên mặt đường hoặc bám chênh vênh ở những cành cây cao như sắp chạm vào bầu trời xanh, rộng rãi đến bâng khuâng. Có khi đó là hình ảnh một con cò trắng đứng ủ rũ giữa một cánh đồng chan hòa nắng trưa, hay một đàn chim nhỏ bay mãi về phía ngọn núi xanh xa tắp trong cái lạnh gây gây của một buổi chiều đầy sương thu và những cảm giác buồn hoang mang.

Lúc đầu tôi tưởng tôi muốn gặp Sao luôn chỉ vì giọng nói của nàng.

*

Ông hiệu trưởng báo tin cho chúng tôi biết có một nhân viên mới sắp về. Nhưng ông nói thêm rằng chắc anh ta là người tính tình khó khăn nóng nảy bất thường. Anh ta đã cãi nhau với hiệu trưởng và bị đổi về đây hẳn vì lý do ấy.

Vì thế chúng tôi, tuy vui mừng sắp được thêm một kẻ chia bớt gánh nặng, vẫn đón Nhiên với những cử chỉ thân mật dè dặt.

Nhiên đến với chúng tôi bằng một dáng đi đặc biệt, nó như đã mệt mỏi vì đường dài. Nét mặt anh ta bình thản, trầm tĩnh khác hẳn với bộ mặt hấp tấp, nóng nẩy mà tôi tưởng sẽ gặp. Một tay xách chiếc va li, một tay khoác áo mưa, và khi lên thang tự nhiên anh ta chiếm được cảm tình của tôi ngay. Trong mỗi cử chỉ Nhiên đều giữ một thái độ lịch sự vừa phải và hình như anh ta không thích dùng nụ cười của mình để khiến mọi người hài lòng.

Thêm một người cư trú căn phòng của chúng tôi hẹp lại và những mảnh đất nhỏ bắt đầu trở nên quí giá đối với những người như Sơn. Sơn thu đồ đạc lại một cách khó khăn. Hắn ngắm khoảnh đất của tôi, của Tịnh để so sánh. Nhiên nhận ra điều đó, nói ngay:

- Thêm mình thì căn phòng này có vẻ chật đấy nhỉ.

Câu nói đó làm cho khuôn mặt Sơn sáng sủa lại một chút.

Trong va li của Nhiên có nhiều thứ lặt vặt quá khiến tôi ngạc nhiên. Từ viên thuốc đau bụng, lọ dầu, chai cồn 90º đến một cuộn chỉ và mấy cái kim anh ta đều có đủ. Một người thích ôm đồm, quen với sự vướng víu vợ con như Tịnh cũng không có một cái va li đầy đặn, cẩn thận đến thế. Tôi hỏi:

- Anh sợ ở đây không có thợ may hay sao?

Nhiên vuốt tóc, cầm cuộn chỉ lên nhìn rồi cười:

- Mình đã sống độc thân tám, chín năm nay rồi. Nhiều khi phải tự vá lấy quần áo. Có những lúc không nhờ và cũng không thuê ai được. Đâm ra phải cẩn thận.

Chúng tôi hỏi về vụ Nhiên cãi nhau với ông hiệu trưởng trước của anh ta, Nhiên kể:

- Chuyện cũng chẳng có gì, mình thì nóng tính và lão ấy thì đần.

Những ngày đầu Nhiên ít nói, có vẻ lạnh lùng kín đáo. Buổi chiều anh ta hay ngồi ngả người trên một chiếc ghế kê ở khoảng hiên đầu trường. Anh ta gác hai chân lên thành lan can gỗ và đọc sách cho đến lúc bóng tối đến và đàn muỗi vo ve bay trên đầu anh ta.

Trong những đêm trăng, chúng tôi tụ họp ở sân trường nói chuyện - vì có phái nữ nên câu chuyện chỉ gồm các đề tài tranh luận về nhân tình thế thái, hoặc vui hơn là mục kể các tật lẩm cẩm của ông hiệu trưởng già - Nhiên cũng góp mặt, nhưng chỉ ngồi yên nghe người khác nói. Cô giáo Hoan thường mang đến những gói thức ăn lặt vặt như kẹo, lạc rang, và cuộc họp mặt chỉ chấm dứt khi chúng tôi không còn cái gì để nhai nữa.

Tôi đinh ninh là Nhiên còn buồn rầu vì chưa quen với chỗ ở mới. Lúc trước, đã có lần tôi nẩy ra cái ý muốn bỏ việc về đô thành kiếm nghề khác vì quá chán nản.

Một lần tôi hỏi:

- Nhớ nhà hả?

Nhiên trả lời:

- Nhớ nhà nào? Làm gì có nhà mà nhớ?

- Sao lúc nào mặt mũi cũng rầu rầu thế?

Nhiên mỉm cười, tôi chịu không hiểu câu trả lời trong nụ cười mỉm ấy. Nó vừa có vẻ nói rằng Nhiên không hề buồn rầu, nó lại vừa tố cáo rằng cuộc đời anh ta chẳng có gì đáng gọi là vui cả. Trong cách ngước mắt nhìn, trong cử chỉ vuốt nhẹ mái tóc trước khi mỉm cười, Nhiên có vẻ một người thường bị những ý nghĩ thầm kín làm băn khoăn, chán nản.

Thế rồi, bỗng dưng một buổi chiều Nhiên để lộ cho tôi thấy một phần cá tính đặc biệt của anh ta.

Lúc ấy đã gần cuối buổi học, Nhiên bỏ lớp sang đứng ở cửa lớp tôi, nhìn quanh rồi nói:

- Bên này cũng tối tăm quá. Phòng tôi những đứa ngồi bàn cuối không còn trông thấy chữ trên bảng nữa mới phiền chứ.

Quả thực, hồi này trời chóng tối. Sau khi mặt trời lặn được một lúc, có nhiều cơn gió lớn thổi đến, lạnh gai người. Rừng cây nổi những tiếng ào ào buồn nản. Nhất là những hôm trời đổ mưa lớn. Gió mưa bao kín trường. Những tấm ván kêu than như sắp phải lìa nhau. Các cửa sổ đều phải đóng kín. Và ông thầy chỉ còn biết ngồi chờ cho hết giờ, trong khi lũ trẻ lợi dụng bóng tối và mượn cớ tránh mưa ngồi túm lại nói chuyện, cười đùa khúc khích. Ông hiệu trưởng cũng biết rõ tình trạng này nhưng ông cho rằng dù sao như thế vẫn còn khả quan hơn "ngày xưa". Trong những ngày trước đây đã có lần một khoảng mái tranh, rộng bằng chiếc chiếu, của nhà trường thình lình bị mưa to làm sập xuống giữa buổi học khiến thầy trò hoảng sợ chạy như đàn vịt.

Tôi bảo Nhiên:

- Điều kiện ánh sáng như thế này thì nhất định là phản khoa sư phạm rồi. Lũ học trò tôi đêm nào cũng xách đèn ra ruộng bắt ếch, mắt chúng tinh như mắt cú, thế mà nhiều đứa không chép bài nổi, lúc cuối giờ.

Nhiên có vẻ băn khoăn, lo lắng về vấn đề này thật sự. Anh ta dang tay chống lên hai bên khung cửa và thở dài, nhìn xuống đất.

Ngày hôm sau, buổi họp thường lệ của nhân viên nhà trường bắt đầu mất hẳn không khí tẻ nhạt.

Mọi lần, chúng tôi chẳng có gì để bàn luận. Ông hiệu trưởng nói và nghe một mình. Câu nói hấp dẫn nhất của ông là : "buổi họp đến đây bế mạc". Tịnh cho đó là một giờ ngoáy tai và cắt móng tay lý thú nhất. Tôi ngồi ngắm Sao và Sơn thì lim dim mắt, chẳng hiểu thức hay ngủ. Các đề tai phần nhiều vu vơ, không liên can gì đến trường chúng tôi. Có khi cả tháng chúng tôi phải bàn luận về vấn đề trông coi học sinh cho chúng khỏi bị xe cán. Nhưng, thực ra, ở nơi này, nếu có một kẻ chán đời muốn tự tử bằng xe hơi, hắn phải đi bộ nửa cây số và ngồi chờ xe còn mệt.

Buổi họp hôm đó, Nhiên bỗng trình bày một mạch về những điều thiếu sót có thể sửa đổi được của nhà trường, rồi anh ta đề nghị:

- Chúng ta nên lui giờ học lại sớm hơn nửa tiếng.

Ông hiệu trưởng bỏ cặp kính trắng xuống. Ông ngồi im nhìn hết người nọ đến người kia, có vẻ ngạc nhiên. Hình như những ý nghĩ của Nhiên làm tổn thương đến niềm tự hào của ông về nhà trường. Ông nói:

- Tôi tưởng mình có thể tùy theo hoàn cảnh địa phương mà đặt thời dụng biểu. Nhất là hồi này buổi sáng, mặt trời mọc sớm.

Ông hiệu trưởng ngập ngừng rồi hỏi:

- Anh chị em nghĩ sao?

Sơn tỉnh táo lại. Tịnh ngước mắt nhìn. Một vài cánh tay giơ lên. Cuối cùng thì ai cũng đồng ý với Nhiên. Điều đó khiến ông hiệu trưởng có vẻ buồn, mặt ông xịu lại.

Giờ học được đổi lại. Một vài phụ huynh học sinh thắc mắc, đến văn phòng hỏi. Ông hiệu trưởng cho gọi Nhiên, kẻ đã đẩy ông vào cuộc phiêu lưu này, đến giải thích. Ông muốn cho Nhiên thấy rõ kết quả sáng kiến của anh ta. Cái lối chống đối các sáng kiến của ông hiệu trưởng xem ra không có ảnh hưởng đến các quyết định của Nhiên.

Trong buổi họp sau, anh ta nói về cái cây trồng trước cửa lớp anh ta. Cây thấp, mục, lại có quá nhiều tổ kiến. Những hôm trời nổi gió to, kiến bay vào lớp, đậu trên đầu trên cổ học sinh. Chúng la hét chạy tứ tung, mất hết trật tự. Thế rồi, ông hiệu trưởng lại uể oải làm vừa lòng anh ta, đánh ngã cây xuống.

Nhưng cái ý nghĩ táo bạo nhất của Nhiên có lẽ là: sửa lại sân trường. Sân trường quá thấp, sau mỗi trận mưa biến thành một vũng nước khổng lồ. Lớp học cao nên không việc gì. Nhưng lũ học trò mỗi đứa có hai bàn chân tải bùn vào lớp. Sàn lớp nhầy nhụa, bẩn thỉu. Chàng lao công được dịp càu nhàu suốt ngày. Học trò thiếu đất chơi đùa nẩy sinh ra lắm sáng kiến tai quái. Thầy cô chỉ sơ ý một chút là chúng té nước vào người nhau. Rồi thưa gửi ầm ĩ thật bực mình.

Đầu tiên, Nhiên đề nghị học trò lớn và trích quỹ thuê thêm một số nhân công, đắp một con đường từ cổng trường vào tới chân thang dẫn lên lớp học. Như thế giải quyết được cái họa: lớp học biến thành chuồng heo. Nhưng ông hiệu trưởng tỏ vẻ khó chịu ra mặt. Có lẽ đã từ lâu, ông bắt đầu nghi ngờ Nhiên muốn vượt quyền ông.

Lúc này, ông không xịu mặt, ông nhếch môi cười hơi mỉa mai:

- Không phải bây giờ có ông Nhiên đến tôi mới nghĩ đến điều đó đâu. Tôi đã lo vấn đề này từ lâu. Nhưng chẳng làm gì khác được. Trường mình nghèo. Có món tiền niên liễm thì đứa nào cũng ì ra không chịu đóng. Thúc như thúc nợ cũng chẳng ăn thua gì. Nếu được, tôi đã đắp lại cả cái sân trường rồi. Ông xem có cách nào khác không?

Giọng châm biếm của ông hiệu trưởng có nhiều tính cách thách thức. Nhiên đứng dậy, vuốt tóc. Trong mỗi cử chỉ nhỏ nhặt, anh ta có vẻ cương quyết lạ thường. Nét mặt anh ta vẫn như mệt mỏi, không hề hăm hở, hiếu thắng. Sao đột nhiên quay lại, mở to mắt nhìn anh ta, phân vân, thắc mắc. Nhiên hơi cúi đầu, vuốt nhẹ cánh tay như muốn tìm tin tưởng ở đó:

- Chúng ta có thể tổ chức một buổi ca nhạc...

Ông hiệu trưởng phì cười:

- Lũ học sinh trường này thì làm gì được?...

- Mình sẽ cố dạy chúng. Có thể nhờ một số cơ quan khác giúp nữa...

Ngửa hẳn người ra ghế, ông hiệu trưởng quay mặt nhìn ra sân như chán nản lắm:

- Dù có tổ chức được thì cũng chẳng ăn thua gì. Dân ở đây nghèo quá!

Sao góp ý kiến:

- Mình có thể chia vé ra làm hai loại: một loại trả bằng tiền dành cho những ông tai mắt. Một loại trả bằng công... đắp đất.

Mọi người phì cười. Nhưng ý nghĩ ngộ nghĩnh đó lại là một giải pháp rất hay. Nhiên nói:

- Vâng. Tôi tin rằng dân chúng ở đây không tiếc công đâu. Nhất là, công việc này lại có lợi cho con cái của họ.

Ông hiệu trưởng im lặng một chút rồi ông nhìn thẳng vào mặt Nhiên:

- Vậy thì ông lãnh nhiệm vụ tổ chức nhé.

Nhiên nhìn quanh:

- Vâng, được. Hẳn các bạn đồng nghiệp cũng sẽ giúp tôi.

Các đồng nghiệp được gọi đến xem ra vẫn có vẻ lạnh lùng. Ai cũng ngần ngại công việc khó khăn. Tịnh bảo tôi:

- Thằng Nhiên này cũng khỉ thật. Tự nhiên bày đặt để đeo gông vào cổ cả bọn.

Nếu tôi là Nhiên, tôi đã thất vọng và bỏ ý tổ chức ca nhạc ngay buổi học hôm sau. Nhiên phải đi từng lớp để "tuyển lựa tài tử". Anh ta chật vật mãi mới kiếm được mười đứa học trò có làn da trắng và mặt mũi sáng sủa. Đến lúc Nhiên dạy hát, chúng ngẩn ra và nhìn nhau cười khúc khích. Ở đây cái máy thu thanh cũng là một vật hiếm và quí. Lũ trẻ chưa được dịp làm quen với ca nhạc.

Hơn một tuần lễ, ngày nào cũng phải làm việc ngoài giờ dạy học. Nhiên chưa thể khiến lũ trẻ hát đúng nhịp một bài ca dài. Chỉ có một vở hài kịch là tạm được.

Một buổi tối, Nhiên thở dài nói với chúng tôi:

- Ít mục quá thế này thì không xuôi. Anh em có đóng kịch được không?

Tôi cười:

- Đóng cũng được. Nhưng phiền lắm. Nếu tụi mình lên sân khấu nhăn nhở pha trò thì còn dạy dỗ làm sao được.

Chúng tôi chẳng ai muốn giúp đỡ Nhiên nữa. Và chúng tôi bắt đầu chờ anh ta thất vọng, bỏ cuộc. Tịnh nói riêng với tôi:

- Mình đã phải ở cái đất này thì cốt sao cho qua ngày. Bày đặt làm gì cho mệt xác.

Tư tưởng đó làm châm ngôn của anh ta từ lâu.

Chợt, một hôm Sao cho chúng tôi xem ban vũ của nàng. Nàng cũng đã âm thầm làm việc. Lũ trẻ nhỏ dễ uốn nắn. Nàng dạy chúng những điệu múa nhịp nhàng. Chúng múa thật hay. Nét mặt đứa nào cũng ngây thơ, ngộ nghĩnh. Tiếng hát của chúng ríu rít như tiếng chim. Thế là, tự nhiên cả bọn bị khích động, hăng hái một cách bất ngờ.

Hôm sau, Sơn khám phá ra hai quái kiệt trong lớp hắn. Một đứa có tài nhào lộn. Còn một đứa có tài bắt chước tiếng hổ gầm, chim kêu, gà gáy. Đứa sau có nét mặt ngô nghê, tóc lởm chởm, lại cao lỏng khỏng nó sẽ chọc cười khán giả thật dễ dàng. 

Tịnh bắt đầu lạnh nhạt với các kiểu điếu hút thuốc lào. Anh cắm đầu đọc mấy quyển sách dạy ảo thuật rồi tập luyện và chế tạo dụng cụ. 

Tôi đề nghị với Nhiên:

- Chúng mình không đóng kịch để khỏi mất uy tín với học sinh. Nhưng chúng mình có thể đồng ca được. Ta nên dành tất cả các vở kịch cho học trò.

Ông hiệu trưởng chịu khó đi hỏi ý kiến các vị tai mắt trong vùng. Còn phụ huynh học sinh thì họ đã biết rõ tất cả những cuộc sửa soạn vĩ đại ở nhà trường. Lũ học trò về nhà kể từng chi tiết. Tuy nhiên, họ chưa rõ mục đích của chúng tôi. Một số lại đinh ninh là nhà trường sắp sửa phải đón một nhân vật quan trọng nào.

Điều bất ngờ thú vị nhất là, trước hôm trình diễn, một số người ở gần trường đến xin giúp một tay trong công việc dựng sân khấu. Để đỡ tốn gỗ, chúng tôi phá một đoạn rào gỗ bao quanh hành lang. Nối thêm ít tấm ván là có một sân khấu vuông vắn. Sân khấu lộ thiên vì không có vải che nhưng vẫn có màn kéo tử tế. Hai bên cánh gà có treo hai cái đèn măng-sông.

Khoảng đất dành cho khán giả hơi mềm và ẩm ướt. Anh lao công phải huy động cả vợ con gánh đất rải lên những vũng bùn. Một số học sinh lớn được nghỉ học để trợ lực. Những phụ huynh học sinh đi qua cổng trường đều ngừng lại nhìn vào. Họ hân hoan như đang xem học sinh sửa soạn một đại hội. Sự nhộn nhịp của nhà trường hầu như lan ra khắp vùng.

Ông hiệu trưởng lên quận mượn được một ít nhạc cụ. Và chi thông tin có hứa cho mấy tài tử đến giúp vui, chúng tôi chỉ phải lo chỗ ngủ và đừng để họ nhịn đói.

Đem được một ít kèn trống về, ông cho vào tủ khóa tịt lại. Chúng tôi đòi lấy ra tập dượt thì ông cứ ngẩn ngơ, chỉ sợ chúng tôi làm hỏng kèn trống. Như thế ông sẽ phải đền hoặc từ giã vợ con đi ở tù. Chúng tôi vừa điều đình vừa thề sống, thề chết ông mới chịu mở tủ...

Đúng ngày trọng đại, một số nữ khán giả bồng con đến đi quanh quẩn trong sân trường từ buổi chiều. Nhiều người vạch màn ra ngó vào cái sân khấu trống.

Còn hơn hai giờ nữa mới khai mạc, khán giả đã lục đục kéo đến. Một số vị "tai mắt" trong vùng ăn mặc thật chững chạc. Người nào cũng mặc áo dài và tay phe phẩy cái quạt. Vẻ trịnh trọng của họ khiến mình phải cảm động. Họ ngồi xuống những cái ghế thấp. Và những người nặng cân thì lại thấy cái ghế của mình càng lúc càng thấp hơn.

Cô giáo Hoan cắt cho các học sinh giữ trật tự mỗi em một cái băng đỏ đeo ở cánh tay. Các nhân viên này biết chào hỏi rất lễ phép. Chỉ có vài chú nóng tính định dùng đấm đá để giải quyết với đám khán giả lỏi tì nên suýt gây hỗn độn trước lúc khai mạc.

Khán giả đứng ngồi chật ních cả sân trường.

Trong đời tôi chưa có lần nào tôi được thấy một buổi hát mà khán giả với tài tử lại thương yêu, dành cho nhau nhiều thiện cảm đến thế. Các mục được sắp đặt thật lộn xộn, ấy thế mà khán giả cứ thi nhau reo hò.

Thằng nhỏ biết bắt chước tiếng hổ, tiếng gà vừa bước ra là mọi người đã bật cười rồi. Nó đứng ngẩn ra rồi ấp úng:

- "Kính thưa... kính thưa..."

Bó quên béng mất hai tiếng "quí vị". Không văn hoa gì cả nó nói luôn:

- "Đây là tiếng hổ gầm!"

Và nó khom người, đặt hai tay lên miệng gầm một hồi. Nó cảm động quá nên tiếng gầm cũng chẳng giống cho lắm. Nhưng khán giả vẫn suýt soa khen ngợi.

Màn ảo thuật của Tịnh cũng thành công hoàn toàn. Anh biểu diễn trò nuốt dao, biến hóa trứng thành con gà, hóa giấy báo ra tiền v.v... Có một điều đáng tiếc là trò hấp dẫn nhất: lấy chim bồ câu trong khăn mặt ra, bị hủy bỏ. Mấy hôm trước chúng tôi góp tiền mua cho Tịnh 4 con chim để biểu diễn. Nhưng rồi cao hứng, chúng tôi lại thịt chim nấu cháo ăn dần hết.

Khi các thầy, cô trình bày một bản đồng ca, khán giả nhỏ reo hò hoan nghênh hăng hơn cả. Chúng nó gò người xuống, nhấp nhổm trên ghế nghiến răng vỗ tay như điên, như dại. Tôi nhìn bốn năm cậu học trò của tôi cứ há mồm hết cỡ để gào lên ca ngợi thầy nó.

Nhưng những màn hài kịch, những màn vũ mới thực là tuyệt diệu. Lũ nhỏ mặc váy kết bằng lá, đi thành hai hàng nhảy múa đã làm cho khán giả hoàn toàn ngẩn ngơ. Dưới ánh đèn măng-sông, nét mặt họ như dừng lại trong một niềm vui tuyệt vời. Các ông già ngồi hàng ghế "danh dự" ngừng quạt. Nhiều bà mẹ chỉ tay về phía con mình trên sân khấu rồi vội vàng cúi đầu cười. Hình như sự kiêu hãnh quá đáng đã làm các bà phải ngượng ngùng. Lũ trẻ cứ thản nhiên múa, hát. Ánh sáng làm cho chúng xinh đẹp, ngộ nghĩnh như những đứa bé trong tranh. Khán giả không ngờ rằng con cháu họ lại có tài đến thế. Khi màn đóng lại, họ còn ngơ ngẩn. Nhưng không ai biết hô "bis". Mặc dầu, nét mặt họ đã chứng tỏ họ muốn xem tài con họ năm lần, mười lần nữa.

Một vị phụ huynh không nén nổi sung sướng đã len ngay vào "hậu trường". Khán giả bồng ngay tài tử tí hon đặt lên vai mình và công kênh ra ngoài. Ông ta nhìn mọi người và cười mãi. Sự hân hoan đến với họ thật bất ngờ. Chúng tôi cũng không ngờ đến sự thành công ấy.

Cuộc vui phải tan sớm vì càng về khuya lũ châu chấu, cào cào, thiêu thân bay đến bu quanh mấy cái đèn càng nhiều. Chúng rơi lên đầu tóc quần áo khán giả làm cản trở cuộc trình diễn. Mấy bài ca bớt hay vì chẳng tài tử nào dám há to mồm.

Lúc bế mạc, khán giả vẫn quanh quẩn bên sân khấu. Cái hộp gỗ đựng tiền vé "tùy nhân tâm" cũng được cả các vị không thuộc hàng ghế danh dự chiếu cố đến. Vài ông già ở lại, vào phòng chúng tôi để nói chuyện với nhân viên nhà trường.

Nhiên và ông hiệu trưởng ngồi chính giữa, nhận những lời khen ngợi. Tóc Nhiên hơi xõa xuống. Chiếc cà vạt hơi lệch. Sự mệt mỏi của anh ta thật đẹp và hùng. Anh ta hoàn toàn chinh phục được cảm tình của mọi người. Trong số những người vây quanh Nhiên có cả Sao. Nàng cười tươi quá! Nàng ngồi trên ghế, khoanh tay một cách nghiêm trang. Nhưng đôi mắt nàng thì phản lại vẻ hiền lành ấy.

Với cái nhìn gắn chặt vào từng cử chỉ của Nhiên, Sao cứ hướng mãi về phía hắn, thiết tha, ngơ ngẩn. Nàng giống như một trái bóng nhẹ vừa tuột dây bay vội vào trong lòng trời xanh...

Tôi biết rằng từ lúc ấy tôi mất hẳn Sao. Tôi cần đôi cánh tay mềm dịu săn sóc của nàng. Nhưng nàng cần bàn tay ưa phá phách, xây dựng của Nhiên. Nhiên biết thích những điều anh ta phải làm.

Cũng may tôi chưa nói về tình yêu của tôi cho Sao nghe. Con trai không sợ đói khát, đau đớn, nghèo khổ. Nhưng con trai rất sợ hèn và thua kém.
 
Chỉ có một điều cay đắng là, nếu có thể coi Nhiên như tình địch, anh ta là một kẻ tình địch hoàn toàn chiếm được lòng cảm phục của đối thủ.


LÊ TẤT ĐIỀU