Thứ Sáu, 1 tháng 5, 2015

CHUYỆN BA CHỊ EM NÀNG ĐỖ BÍCH (X)_NGÀN LẺ MỘT ĐÊM


Chị tôi tủi thân khóc nức nở nói:

- Em ạ! Chị khổ lắm. Anh rể em đã xài hết tiền của chị, lúc chị hết tiền thì lại rẻ khinh, đối xử rất tàn nhẫn, lại còn đuổi chị đi.

Tôi cảm thương hoàn cảnh của chị mình nên ôm lấy chị khóc rồi an ủi chị:

- Thôi chị cũng đừng buồn, đừng nghĩ đến con người tệ bạc đó nữa. Nhờ trời em cũng khá với mấy năm làm việc. Chị cứ ở đây với em, của em là của chị. Cha mẹ đã mất, chúng ta phải thương yêu nhau hơn.

Chị tôi rất cảm động, cũng ôm lấy tôi khóc.

Chúng tôi sống với nhau rất êm ấm trong một thời gian khá lâu. Rồi chị hai tôi cũng trở về với tình cảnh cơ hàn như chị cả tôi khi trước. Chị cho biết  cũng bị chồng bạc đãi và đuổi đi như chị cả tôi.

Chúng tôi ôm nhau khóc. Tôi cũng an ủi chị và cùng nhau sống trong tình thân thiết êm đềm.

Tôi rất vui mừng thấy các chị rất thương yêu tôi, nên hy vọng sẽ sống gần nhau mãi trong hạnh phúc sum vầy.

Nhưng chỉ hơn một năm thì hai chị lại tính lập gia đình với hai anh em kia, viện cớ là không muốn ăn bám tôi mãi.

Tôi như linh tính trước việc sắp xảy ra nên hết lòng ngăn cản, nhưng hai chị vẫn cương quyết làm theo ý mình.

Tôi thấy không ngăn cản nổi hai chị thì buồn bã vô cùng. Tôi khóc lóc nói:

- Thưa hai chị, nếu hai chị đã quyết thì em không dám cản. Nhưng xin hai chị nghĩ kỹ xem, còn gì vui thích hơn chị em sống vui vẻ bên nhau. Vì theo em thì đàn ông ngày nay rất ít kẻ chung tình. Hai chị đã phải một lần rồi, nên đề phòng thì hơn.

Hai chị tôi vẫn không nghe, và tôi đành gạt lệ đưa hai chị theo chồng với nhiều món quà và tiền mừng hôn lễ.

Chỉ gần hai tháng sau, hai chị tôi đã trở về trong nét mặt ủ dột, buồn bã nói với tôi:

- Em thật là khôn ngoan, thấy xa hiểu rộng, tuy còn nhỏ mà biết hơn hai chị rất nhiều. Hai chị đã bị lừa một lần nữa nên xin em nghĩ lại, cho hai chị được trở về sống bên nhau như xưa. Hai chị thề sẽ không còn nghĩ gì ngoài tình thương của chị em ta.

Tôi ôm hai chị vào lòng nói:

- Thưa hai chị, bao giờ em cũng là đứa em ngoan của hai chị. Xin hai chị đừng buồn nữa, em xin sẽ hết lòng giúp hai chị quên những nỗi đắng cay.

Từ đó, ba chị em tôi sống rất vui vẻ bên nhau. Cũng từ hôm ấy, công việc làm ăn của tôi ngày càng thịnh vượng, phát đạt nên chẳng bao lâu, tôi có được một số vốn khá to. Để có cách làm giàu cùng giúp hai chị tôi khuây khỏa trong lòng, tôi liền tổ chức một chuyến buôn xa bằng thuyền từ Bá Đa sang Ấn Độ.

Tôi mua một chiếc tàu, mướn thủy thủ rồi cùng hai chị mang hàng hóa lên đường vượt sóng gió.

Sau những ngày sóng lặng gió yên, chúng tôi đến Ấn Độ cách hai mươi hôm, tính từ lúc khởi hành.

Tàu cặp bến, chúng tôi đến một thành phố lớn dưới chân một ngọn núi cao.

Để hai chị ở lại nghỉ ngơi, tôi lên bờ một mình đi thăm thành phố, tìm xem  cách sinh hoạt của dân cư để chuyến sau định trước những món trong nước cần dùng.

Thành phố rất đông đúc, kẻ ngồi người đứng đông đảo. Ai nấy đều có nước da đen và nét mặt dữ tợn, lại cầm gậy gộc trông mới đáng sợ làm sao.

Tôi đến gần họ nhìn kỹ thì không thấy một ai cử động. Tôi thử đụng một người thì hoảng hốt khi thấy họ đã hóa thành đá. Những đôi mắt cùng chiếc miệng há hốc như giận dữ, kinh hoàng đều đứng nguyên như thế.

Tôi càng đi sâu hơn. Khắp nơi, tôi gặp đủ hạng người với đủ mọi dáng điệu, nhưng tất cả đều là những tượng đá đứng trơ trơ không hơn không kém.

Qua những dãy phố phần nhiều đều đóng kín, thỉnh thoảng mới có một cái mở, tôi còn nhìn thấy những hàng hóa, đồ vật ở các cửa hàng. Nhưng những người buôn bán đều là đá với đủ y phục, cử chỉ.

Những cửa sổ còn tỏa những làn khói bốc ra từ lò sưởi, nhưng tôi hiểu những người trong nhà cũng chỉ là đá mà thôi.

Được một lúc, tôi gặp một bãi đất trống. Qua hết nơi đó thì đến một ngọ môn sơn son thếp vàng, cánh cửa cổng mở rộng.

Tôi tiến vào thì thấy một chiếc lều vải căng thẳng, trước lều có một ngọn đèn đang cháy sáng. Trông cảnh tượng đó tôi hiểu ngay nơi đây là lâu đài của một vị quốc vương.

Không thấy dấu vết của một sinh vật nào ở đây, tôi liền vạch vải lều ra xem, cũng vẫn trống trơn không một bóng người. Nhìn ra xa tôi thấy những tên lính canh đứng gác, tất cả đều hóa đá.

Tôi bước thêm đến một sân rộng thì thấy rất đông người trong dáng điệu đi lại, nhưng vẫn là những người đá như tất cả mọi người trong nước nầy.

Tôi qua thêm cái sân thứ hai, cũng vẫn cảnh tượng im lặng vắng vẻ đến rợn người.

Tôi thấy một hành lang nối dài đến một cung điện uy nghi, những chấn song cửa sổ toàn bằng vàng và những bức màn che gió thì mới mảnh mai và xinh đẹp làm sao.

Nơi đó có nhiều hoạn quan với nét mặt đen bằng đá. Tôi lần vào trong thì thấy một căn phòng chưng dọn lộng lẫy. Trên chiếc giường bằng cây khảm ngọc gần đấy, một người đàn bà ăn mặc lộng lẫy, đầu đội vương miện, cổ và tay chân đều đeo đầy vàng ngọc, tay chống trên chiếc gối thêu với nét mặt đẹp xinh tươi, cũng hóa đá.

Nhìn khắp nơi, tôi hiểu ngay đây là thâm cung, còn người đàn bà nằm trên chiếc giường kia là hoàng hậu.

Đi dọc theo các phòng kế cận, nơi nào cũng rộng thênh thang với cách trưng bày đủ lối nhưng đều đẹp đẽ.

Tôi vào một căn phòng rộng có kê một chiếc giường gỗ mun trải nệm gấm. Trên đầu giường có một viên ngọc dạ quang chói lòa ánh sáng. Tôi đến gần nhìn kỹ thì thấy viên ngọc ấy to bằng trứng chim đà điểu.

Hai đầu giường có thắp hai ngọn nến nên tôi hy vọng gặp được người sống.

Các cánh cửa đều mở nên tôi tự do đi khắp nơi để xem những phòng tích trữ châu báu quý giá.

Cảnh tượng huy hoàng ở đây làm cho tôi mê mẩn, quên mất con tàu và hai chị mình đang chờ ở dưới bến.

Mãi đến lúc trời tối tôi mới giật mình nhớ đến nhiệm vụ của mình nên vội vàng tìm đường quay về thuyền.

Tôi đi mãi trong tòa lâu đài rộng rãi không biết đường ra. Cuối cùng, tôi lại trở về căn phòng rộng có hai ngọn nến chong bập bùng và viên ngọc dạ quang chói sáng.

Tôi leo lên giường nằm với ý định sẽ nghỉ lại đây một đêm, chờ sáng mai sẽ tìm đường về thuyền sớm.

Nhưng cái khung cảnh u tịch cùng những người trong nhà nầy cứ ám ảnh mãi làm tôi không sao chợp mắt.

Chừng khoảng nửa đêm, bỗng tôi nghe văng vẳng như có tiếng cầu kinh mà tôi thường nghe ở các ngôi đền.

Tôi mừng thầm vì tin sẽ gặp được một người còn sống sót, nên đứng lên cầm nến lần bước sang các phòng tìm nơi có tiếng người.

Qua mấy gian phòng nhỏ, tôi dừng chân trước cửa một phòng sang trọng mà bên trong tiếng cầu kinh vẫn còn đưa ra sang sảng.

Tôi nhìn qua cửa sổ vì cửa kính đã đóng. Tôi phải nhón gót mới nhìn thấy bên trong vì cánh cửa sổ cao hơn đầu tôi.

Giữa phòng, một tấm đệm gấm trải dài, bốn phía đèn thắp sáng choang. Những cây nến to giống như ở những thánh đường mà tôi đã nhìn thấy.

Trên tấm đệm hoa, một chàng trai trẻ tuổi, nét mặt tuấn tú xinh đẹp đang quỳ, tay cầm quyển thánh kinh chăm chỉ cầu nguyện. Tiếng đọc mới ấm làm sao.

Tôi lấy làm lạ khi thấy có người sống ở thành phố giữa lúc mọi người đều hóa đá nên tin chắc có sự huyền bí ở đây.

Chờ cho chàng trai trẻ đọc xong bài kinh, tôi bước đến gõ vào cửa.

Tiếng động làm cho chàng trai trẻ giật mình kinh hãi đưa mắt nhìn ra, nét mặt hoảng hốt.

Tôi thấy thế liền cất tiếng gọi:

- Xin ông làm ơn mở cửa hộ cho tôi với.

Chàng trai trẻ lo ngại bước ra mở cửa. Khi nhìn thấy tôi, chàng tỏ vẻ ngạc nhiên hỏi:

- Kìa, nàng là ai? Làm sao nàng đến được nơi này?

Tôi liền kể lại câu chuyện về cuộc hành trình của tôi. Nghe xong chàng liền nói:

- Chắc nàng cũng ngạc nhiên khi thấy tôi còn sống giữa đô thị này. Nếu nàng muốn, tôi sẽ kể cho nàng nghe chuyện thành phố hóa đá nầy.

Nghe xong chuyện chắc nàng sẽ không khỏi cảm thấy quyền lực vô biên của thượng đế.

Tôi nói : Xin ngài hãy làm ơn kể cho tôi nghe câu chuyện.

- Thành phố nầy là của cha tôi trước đây. Ai cũng nghe nói đến tên quốc vương Thanh Đạt với kinh thành giàu mạnh nầy.

Trong nước, từ vua đến quan và dân chúng, tất cả đều thờ Hỏa thần, nghĩa là theo đạo Nặc-Sông, mà vị Hỏa thần nầy lại chống lại thượng đế.

Tuy mọi người đều thờ thần Hỏa, nhưng tôi lại tin theo Hồi giáo, vì tôi may mắn có một người vú nuôi. Người nầy theo đạo Hồi và có truyền dạy cho tôi nghe về chân lý trong thánh kinh. Nghe lời dạy của người lão mẫu, tôi tìm được lý tưởng trong đạo Hồi và không phục tùng tà đạo của mẹ cha.

Ba năm trước đây, một hôm có lời khuyên từ trên không truyền xuống cho dân chúng:

- Hỡi dân chúng, mau hãy bỏ đạo Nặc-Sông, Hỏa thần để thờ thượng đế, nếu không toàn dân sẽ bị phạt.

Tiếng nói văng vẳng ấy gọi mãi suốt ba năm nhưng mọi người cũng không một ai giác ngộ.

Thượng đế thấy dân cứng cổ quá nên nhất định đưa tay xuống trút cả sự giận dữ trên đầu dân chúng.

Sáng hôm ấy là ngày cuối cùng của năm thứ ba. Trời vừa tờ mờ sáng, bỗng nhiên từ trên không trung, những tiếng nổ ghê gớm phát ra rồi tất cả dân chúng từ trong lẫn ngoài đều trở thành đá. Tai nạn đến thật bất ngờ nên mọi người vẫn nguyên dáng điệu của mình trong khi thành đá.

Cha mẹ tôi cùng chung một số phận với mọi người. Cha tôi là tượng đá đen trong cung điện, còn mẹ tôi thì đang ở trong cung, trên chiếc giường của người.

Cả nước chỉ có mình tôi thoát khỏi, vì tôi theo Hồi giáo. Từ hôm đó đến nay, tôi càng kính tin ở thượng đế hơn.

Đã hơn ba năm rồi tôi chưa hề nhìn thấy một người nào, ngoại trừ mấy tượng đá đầy dẫy trong cung cấm và ngoài kinh thành. Chắc thượng đế cho nàng đến đây để an ủi tôi trong cảnh sống cô đơn hiu quạnh nầy.

Câu chuyện và lời nói của chàng mới lý thú và duyên dáng làm sao. Tôi cũng vui vẻ nói:

- Thưa hoàng tử, chính tôi cũng tin rằng thượng đế đã sai tôi đến đây đưa hoàng tử thoát khỏi kinh thành tội lỗi này. Tôi sẽ đưa hoàng tử đến quê hương tôi, và chắc hoàng tử không chê xứ sở quê mùa của Bá Đa. Nếu ngài không luyến tiếc nơi đây, thì tôi xin hiến chiếc tàu của tôi cho hoàng tử tùy nghi sử dụng.

Chúng tôi bàn bạc cho đến lúc tàn canh. Sáng hôm sau, theo ý định, chúng tôi trở ra khỏi lâu đài, đến bờ biển.

Hai chị và đoàn thủy thủ của tôi, thấy tôi trở lại thì mừng rỡ vô cùng.

Tôi giới thiệu hoàng tử với hai chị, rồi bảo thủy thủ trở lên khiêng các đồ vật quý báu trên xứ xuống tàu. Phải mất rất nhiều ngày để khuân các báu vật ngọc ngà, toàn thứ quý giá, còn bao nhiêu đều bỏ lại.

Xong việc chuyên chở, tàu nhổ neo rời bến.

Những ngày lênh đênh trên mặt biển, chúng tôi và hoàng tử sống trong vui vẻ, thân mật.

Nhưng hai chị tôi thấy hoàng tử đối với tôi có vẻ thân mật hơn thì có vẻ ganh tị, nói:

- Em có vẻ thích hoàng tử và chàng cũng mến em quá nhỉ?

Chị cả tôi nói tiếp:

- Em sẽ tính thế nào với hoàng tử khi tàu đến Bá Đa?

Tôi mỉm cười nói giỡn:

- Thưa hai chị, em sẽ nhận chàng làm chồng.

Lúc ấy, hoàng tử cũng vừa đi qua nên chị cả tôi hỏi chàng:

- Thưa hoàng tử, ngài nghĩ sao khi nghe em tôi nói?

Tôi vì lỡ nói đùa nên đành nói luôn:

- Thưa hoàng tử, chắc ngài không chê tôi xấu?

Hoàng tử nhìn tôi mỉm cười nói:

- Thưa các bà, nếu thế còn gì bằng. Tôi chỉ sợ nàng nói đùa thôi.

Hoàng tử nói dứt lời thì tôi để ý thấy nét mặt của hai chị tôi sa sầm xuống.

Và từ hôm ấy, tôi nhận thấy cả hai như thiếu thành thật trong việc đối xử với tôi.

Hôm tàu đến một vịnh, chúng tôi rất hy vọng sẽ về đến nước nay mai, và rất vui mừng khi thấy biển lặng sóng êm.

Nhưng giữa vịnh Ba Tư hôm ấy, nhằm lúc đêm khuya, thừa lúc tôi đang say ngủ, hai chị tôi liền khiêng tôi liệng xuống nước và mang cả hoàng tử nhận chìm cho chết cả hai.

Tôi chới với giữa dòng và không hiểu nhờ một sự may mắn nào, sóng bỗng đưa tôi lên bãi một cách bình yên. Giữa lúc tối trời, tôi không hiểu mình đang ở nơi đâu. Sáng ra tôi mới thấy mình ở trên một hoang đảo cây cối chằng chịt bốn bề, chỉ có trời mây và sóng biển.

Tôi liền đi tìm thức ăn đỡ đói, nhưng cả hoang đảo không có vật gì để tôi đỡ lòng.

Quá mệt mỏi, tôi ngồi dưới một gốc cây to để nghỉ. Bỗng tôi nhìn thấy một con rắn to dài quá sức tưởng tượng đang rượt nuốt một con rắn nước. Động lòng thương hại con vật bé nhỏ, tôi liền nhặt một hòn đá to liệng trúng đầu con rắn.

Bị trúng đầu, con vật ngã ra chết. Con rắn nước được tôi cứu sống thì lại hóa ra một con chim bay lên không trung mất dạng.

Tôi vui mừng vì thấy mình đã cứu được một sinh vật, tôi liền nằm xuống bãi biển để dỗ giấc ngủ cho quên đói.

Một lúc sau, tôi nghe tiếng người gọi tên tôi rồi khi mở mắt ra, tôi thấy một người đàn bà ăn mặc sang trọng đang ngồi bên tôi từ lúc nào, tay bưng một mâm thức ăn ngon lành, bảo tôi:

- Thưa cô, tôi là con rắn nước mà cô đã cứu thoát khỏi con rắn to nuốt. Để đền ơn, xin cô hãy ăn cho khỏi đói rồi nghe tôi nói.

Tôi ngồi lại ăn những thức ngon lành kia thì người đàn bà dẫn ra trước mặt tôi hai con chó mực đưa cho tôi và nói:

- Hai con chó mực nầy là hai người chị của cô đã mưu toan hãm hại cô. Khi được cô cứu, tôi tìm hiểu rõ hoàn cảnh của cô và giận những kẻ gian dối. Tôi liền bay theo đánh đắm tàu của họ và biến họ ra thành đôi vật xấu xa nầy để trừng phạt họ. Cô cũng đừng lo vì số bảo vật tôi đã nhờ các bạn khuân hết về cất nơi nhà cô và tôi sẽ đưa cô về nhà cũ ở Bá Đa.

Nói xong, bà tiên liền ôm tôi và hai con chó mực và bảo:

- Những tội lỗi tày đình của họ, dù cho mang kiếp vật cũng chưa đáng, cô còn phải thay tôi trừng trị thêm. Tôi ra lịnh cho cô mỗi đêm phải đánh hai chị một trăm roi để trừng phạt cái tội đã liệng cô và hoàng tử xuống biển, làm cho hoàng tử chết đuối.

Trước khi từ giã, bà tiên còn dặn thêm:

-Nếu nàng trái lịnh ta thì nàng cũng phải hóa chó như hai người chị của nàng.

Tôi không kịp nói một lời kêu xin thì bà tiên đã biến mất. Tôi nhìn lại bên mình thì thấy hai con chó mực đang nhìn tôi có vẻ tủi thẹn.

Vào nhà, tôi thấy trong kho những báu vật của hoàng tử đem xuống tàu chất đầy cả kho.

Vì vậy tôi phải tuân lời. Cứ mỗi đêm, tôi rất đau lòng khi phải đối xử với các chị mình như thế, nên tôi khóc như hoàng thượng đã thấy. Đấy là tất cả sự thật về chuyện của tôi.

*

Nhà vua Phương Lạc Chi nghe xong câu chuyện liền hỏi Lý Minh và Lệ Phi:

- Còn các bà thì tại sao cũng lại khóc lóc theo và bà Lệ Phi, sao ngực bà lại đầy những sẹo thế kia?


CHUYỆN NÀNG LỆ PHI


Lệ Phi cúi đầu thi lễ, xong, nói:

- Tâu hoàng thượng, để tôi xin kể câu chuyện từ lúc cha tôi chia gia tài cho chị em tôi và tôi đem về nhà mẹ.

_______________________________________________________________________ 
Còn tiếp
 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét