Thứ Bảy, 29 tháng 7, 2023

ĐÓI - Thạch Lam

 

Một cơn gió lọt vào làm Sinh tỉnh giấc. Anh ta thấy cái hơi lạnh của mùa đông thấm qua lần chăn mỏng, và thấy người mệt mỏi vì suốt đêm đã co quắp trên chiếc phản gỗ cứng.

Sinh cuốn chăn ngồi dậy. Thế là, cũng như những buổi sáng khác, một cái buồn rầu chán nản, nặng nề ở đâu đến đè nén lấy tâm hồn.

Những đồ vật quanh mình ẩn hiện trong bóng tối lờ mờ khiến Sinh lại nghĩ đến cái cảnh nghèo nàn khốn khó của chàng. Một cái bàn con xiêu vẹo bên góc tường, một cái chõng tre đã gẫy dăm ba nan, một cái ấm tích mất bông và mấy cái chén mẻ, nước cáu vàng... Trong cùng, một cái hòm da, dấu vết còn lại, của cái đời phong lưu độ trước...

Tất cả đồ đạc trong căn phòng chỉ có thế. Mà đã lâu lắm, quanh mình Sinh vẫn chỉ có những thứ đồ tồi tàn ấy, đã lâu lắm chàng đến ở cái căn phòng tối tăm, ẩm thấp này. Những ngày đói rét không thể đếm được nữa. Tiếng gió vi vút qua khe cửa ban đêm chàng nghe đã quen, cả đến cái mệt mỏi lả đi vì đói, chàng cũng đã chịu qua nhiều lần rồi.

Sinh thở dài. Chàng nhớ lại cái ngày bị thải ở sở chàng làm, cái giọng nói quả quyết và lạnh lùng của ông chủ, cái nét mặt chán nản, thất vọng của mấy người anh em cùng một cảnh ngộ với chàng... Từ lúc đó, bắt đầu những sự thiếu thốn, khổ sở, cho đến bây giờ...

Một tiếng guốc ngoài hè làm cho Sinh ngẩng lên trông ra phía cửa: vợ chàng về. Nàng vén cái màn đỏ treo ở cửa bước vào. Sinh thoáng trông cái thân hình của vợ in rõ trên nền sáng, một cái thân thể mảnh dẻ, gầy gò trong chiếc áo the mỏng phong phanh. Cảnh tượng ấy làm cho chàng xót thương...

Vợ chàng đi lại cạnh giường, yên lặng nhìn Sinh không nói gì.

Sinh vơi lấy tay nàng kéo xuống bên mình, âu yếm hỏi :

- Em đi đâu mà sớm thế?

- Em lại đằng bà Ba ở cuối phố vay tiền.

- Thế có được không?

Vợ Sinh nhìn chồng, thở dài lắc đầu :

- Ai cho chúng mình vay bây giờ. Bà ấy còn nhớ đâu đến khi trước vẫn nhờ vả mình.

Sinh buồn rầu, nói một cách chán nản:

- Thói đời vẫn thế, trách làm gì. Nhưng bây giờ làm thế nào?

Chàng nghĩ đến cái thạp gạo đã hết, mà trong túi không còn được một đồng xu nhỏ... Đã hai hôm nay, chàng và vợ chàng thổi ăn bữa gạo cuối cùng, đã hai hôm, cái đói làm cho chàng khốn khổ...

- Làm thế nào?

Vợ chàng nhắc lại câu hỏi ấy, rồi cúi mặt khóc. Một mối tình thương tràn ngập vào trái tim chàng như một làn sóng mạnh. Sinh nắm chặt lấy tay vợ ôm vào lòng, đắm đuối, thiết tha. Chàng chỉ muốn chết ngay lúc bấy giờ để tránh khỏi cái nghèo khốn khó, nặng nề quá, đè ở trên vai...

Buổi chiều đến đem theo những cơn gió lạnh lùng. Sinh bắc ghế ra cái hiên nhỏ trước cửa phòng, tựa vào bao lơn nhìn xuống nhà... Chỗ chàng thuê ở là một căn nhà hẹp và dài, chia làm nhiều phòng. Mỗi gian phòng là một gia đình chen chúc ở, toàn là những người nghèo buôn bán ở các nơi.

Giờ này là giờ họ làm cơm. Trông thấy họ tấp nập làm lụng, Sinh lại nghĩ đến cái bếp nhà mình bây giờ vẫn còn tro lạnh, chàng lại lo không biết vợ đi từ sáng đến giờ sao mãi không thấy về, mà về không biết có đem cái gì không, hay lại chỉ một mối thất vọng như nhiều lần...

Nghĩ đến, Sinh lại đem lòng thương, thương người đàn bà xưa nay vẫn quen thói đài điếm phong lưu, mà bây giờ phải chịu khổ vì chàng... Hai bên gặp gỡ nhau trong một tiệc rượu dưới xóm cô đầu. Hồi ấy, chàng còn là một người có việc làm, còn là một người có lắm tiền. Quen biết nhau, rồi yêu mến nhau, chàng đã chẳng quản sự ngăn trở của nhà lấy nàng về. Đôi vợ chồng đã cùng nhau sống những ngày sung sướng, ái ân, những ngày còn để lại trong trí chàng một kỷ niệm êm đềm, mà mỗi khi nghĩ tới, chàng không khỏi bồi hồi. Rồi sự nghèo nàn đến, đem theo những cái nhọc nhằn, khổ sở, đem theo những ngày đói rét.

Tuy vậy, sự khổ sở chàng nhận thấy không làm cho vợ chàng bớt tình yêu đối với chàng. Cũng vẫn nồng nàn, đằm thắm như xưa, cái ái tình của đôi bên chỉ có thêm màu cay đắng vì xót thương nhau.

Cái hình ảnh một thân thể yếu đuối, mảnh dẻ in trên nền trời sáng buổi sớm mai lại thoáng hiện ra trước mắt Sinh. Chàng nhớ lại cái thất vọng không vay được tiền, đôi con mắt buồn rầu, đắm đuối nhìn chàng như ngụ biết bao nhiêu âu yếm, bao nhiêu hy sinh.

Một cơn gió đến làm cho Sinh thấy lạnh buốt tới xương. Chàng thấy đói, một sự đói vô cùng như trong đời chàng chưa thấy bao giờ. Đói như cào ruột, làm người chàng mệt lả đi, mắt hoa lên, trông vật gì cũng lờ mờ như lay động.

Khi còn đủ ăn, đủ mặc, chàng không hề để ý đến cái đói, không bao giờ nghĩ đến. Bây giờ chàng mới được hiểu biết cái đói như thế nào. Chàng rùng mình khi nghĩ đến trước cái mãnh liệt của sự đói, chàng cảm thấy sự cần dùng của thân thể trấn áp được hết cả những lệ luật của tinh thần.

Mùi xào nấu đồ ăn ở dưới sân nhà đưa lên làm cho chàng khó chịu vô cùng. Sinh cúi đầu trên bao lơn nhìn xuống xem họ làm bữa cơm chiều. Các thức ăn tuy tầm thường, nhưng Sinh lấy làm lạ rằng chàng chưa bao giờ thèm muốn những cái đó như chàng thèm muốn bây giờ. Mấy miếng đậu vàng trong chảo mỡ phồng dần trên ngọn lửa, mấy con cá rán bắt đầu cong lại làm cho chàng ao ước đến rung động cả người...

Không bao giờ chàng thèm muốn như bây giờ cái miếng ăn kia.

Trước kia, khi nghe chuyện người ta tranh giành nhau vì miếng ăn, chàng vẫn mỉm cười khinh bỉ. Chàng cho rằng miếng ăn là một sự không đáng kể, chỉ có cái thanh cao trong sạch của linh hồn mới là cần. Nhưng bây giờ, trong cái phút đói này, chàng mới thấy rõ cái cần mạnh mẽ của miếng ăn là thế nào.

Và chàng, trước kia phong lưu trưởng giả, trước kia khi đi qua đám bình dân bẩn thỉu và nghèo nàn này, chàng vẫn khinh và tự hỏi không biết họ sống để làm gì, sống để mà khổ sở, để mà đói rét, không biết sống đối vơi họ có ý nghĩa gì mà còn ham mê quyến luyến. Bây giờ chàng lại ao ước được một miếng ăn như họ để sống qua cái rét mướt bây giờ...

Một bàn tay nhẹ nhàng để lên trên vai Sinh quay lại, vợ chàng tươi cười, giơ ra trước mặt mấy cái gói giấy bóng, gọn gàng, sạch sẽ, mà chàng thoáng trông, Sinh cũng nhận biết ngay là những thức ăn được, mà rất ngon, ở các hiệu tây mới có. Mùi thịt ướp và mùi giò thoang thoảng đưa qua. Sinh rung động cả tay khi lần cởi những dây buộc chung quanh. Chàng sung sướng hỏi:

- Ồ! Ở đâu thế này? Em Mai lấy tiền đâu mà mua thế?

Mai nghe Sinh hỏi:

- Anh cứ ăn đi đã! Ăn cho đỡ đói, rồi em kể chuyện cho anh nghe. Thật là may quá, mà cái bà ấy thực phúc đức quá, anh ạ...

- Ai thế? Kể đi cho anh nghe.

Mai âu yếm nhìn chồng:

- Không, anh cứ ăn đi đã kia. Vừa ăn, em sẽ vừa nói chuyện...

Rồi nàng nhanh nhẹn đặt mấy cái gói giấy lên bàn, mở những tờ giấy bọc ngoài. Sinh nhìn thấy mấy miếng thịt ướp hồng hào, mỡ trắng và trong như thủy tinh, mấy khoanh giò nạc mịn màng, mấy cái bánh tây vàng đỏ...

Mai cất tiếng vui vẻ:

- Thế này nhé, em ở nhà đi cũng là đi liều chứ thật không biết đến nhờ vả ai được. Anh còn lạ gì các bạn hữu bây giờ: họ thấy mình nghèo khổ, thì ai người ta giúp, vì có mong gì mình trả lại người ta được. Vì thế em mới lang thang ngoài phố, nghĩ lúc bấy giờ cực thân quá, anh ạ, chỉ muốn đâm đầu xuống sông cho rảnh...May quá, vừa lúc ấy, lại gặp ngay bà Hiếu, một người quen biết từ trước. Bà trông thấy em, vồn vã hỏi han như người bắt được của...

Mai nói nhanh, liếng thoắng:

- Bà tử tế quá... Cho em vay tiền, lại còn hứa giúp vốn để em buôn bán nữa. Rồi nay mai, em đi buôn cau, anh nhé. Thật không ngờ có bà biết thương người đến như thế...

Sinh sung sướng:

- Nếu không thì chúng ta đành nhịn đói ngày hôm nay. Nhưng sao em mua hoang thế này?

Mai cúi đầu cười, hai má đỏ hồng, mấy sợ tóc rối tung trên trán càng tăng thêm vẻ kiều mỵ của nàng.

Nàng thò tay vào trong túi áo, rút ra một tập giấy bạc, vứt ra trước mặt Sinh rồi nhanh nhẹn vui vẻ bước vào trong nhà.

- Anh đợi em một lát, em đi lấy dao cắt bánh.

Nàng quay lưng đi, Sinh chợt trông thấy trên mặt đất một mảnh giấy gấp rơi xuống đất. Chàng vô tình cúi xuống nhặt lên mở ra đọc:

Em Mai,

Đây, anh đưa em số tiền anh đã hẹn. Em muốn lấy nữa, anh sẽ cho em nốt, nhưng thế nào tối nay em cũng phải đúng hẹn đến đấy, anh đợi...

Tờ giấy trên tay Sinh rơi lúc nào chàng cũng không biết. Một cái sức nặng nề như đè nén lấy quả tim, làm cho chàng ngừng thở. Hình như một giây phút, bao nhiêu cái hy vọng sung sướng của đời chàng tan đi mất.

Sinh tưởng có thể chết ngay trong lúc ấy. Cái đau đớn chàng cảm thấy thấm thía, và sâu xa quá.

Còn mong gì đó là một sự không thật, một giấc mộng nữa. Không còn phải ngờ vực gì, cái số tiền kia chính là cái số tiền bên trong thư này. Ai cho vay mới được chứ! Sinh nhớ lại những ngày đi hỏi tiền, những buổi trở về thất vọng và buồn rầu, những lời tha thiết và oán hờn của vợ chàng kể lại, về cái lãnh đạm, hững hờ của những người nàng quen biết. Bà Hiếu là bà nào! Chẳng qua là một sự bịa đặt ra để che mắt chàng.

Sinh thấy cơn giận dữ nổi lên mãnh liệt trong lòng; đôi môi chàng tự nhiên nhách lên một cách khinh bỉ, chàng run người lên, khẽ rằn từng tiếng:

- Đồ khốn nạn.

Quả tim buốt như có kim đâm. Sinh nắm chặt lấy thành ghế, nhìn cuốn bạc giấy để trên bàn, nhìn gói đồ ăn đang mở dở rồi cúi mình xuống nhặt tờ giấy gấp lên.

Một lát, yên lặng. Rồi Sinh nghe rõ tiếng tấm màn vải ở cửa vắt lên trước gió, tiếng dép đi nhẹ nhàng, gần đến bên chàng... Sinh cố hết sức cắn môi để đè nén cơn giận dữ đang sôi nổi trong lòng, nắm chặt tay hơn nữa cho khỏi rung động cả người.

Tay vuốt nhẹ trên tóc Sinh, vợ chàng đứng sát hẳn ngay bên người. Nàng giở giấy ra, lấy dao cắt bánh, vui vẻ:

- Anh xem bánh này có ngon không? Em mua ở hàng Trống kia đấy. Miếng thịt ướp này là hạng ngon nhất, em đã phải trả đến năm hào đấy, anh ạ. Để em cắt cho anh nhé. Hình như anh đói lắm thì phải. Em cũng thế. Thôi chúng ta hãy ăn cho no đã, rồi sẽ liệu sau...

Nàng cắt xong miếng thịt ướp, xếp lên đĩa, tươi cười nói tiếp:

- Kìa, anh ăn đi chứ? Thật là may cho chúng mình quá. Nếu hôm nay em không gặp bà Hiếu thì không biết chúng ta làm thế nào nhỉ?

Nàng vỗ vào vai Sinh, lay chồng:

- Làm thế nào? Lại nhịn như mọi hôm, chứ còn làm thế nào nữa, anh Sinh nhỉ! Anh nên cám ơn bà ta đi. Bà thật là một người tốt, hiền hậu biết thương người. Em vừa mở miệng hỏi, thì bà đã lần ruột tượng đưa ngay cho em 15 đồng tất cả đấy, anh ạ... Cuốn giấy bạc anh chưa đếm à? Em không nói dối anh đâu.

Cái giận của Sinh lên đến cực điểm: chàng không nén nổi nữa. Cái tên bà Hiếu làm chàng uất ức, vì chàng rõ những nhời giả dối của vợ chàng, giả dối một cách khôn khéo, tự nhiên như thật vậy... Mai lại đến nỗi như thế ư? Đôi mắt trong, cái khuôn mặt hiền hậu như thế kia không ngờ lại có thể giấu được những sự tối tăm như bây giờ...

Vùng mạnh cánh tay, Sinh hất Mai ra xa như người ta hất một con vật đáng ghê sợ. Mai lảo đảo lùi lại sau ngã dúi vào tường, vành khăn tung, tóc xổ. Nàng giương to con mắt ngạc nhiên nhìn chồng:

- Ô hay! Anh làm sao thế?

Sinh cất tiếng cười, hai hàm răng rít lên, cái tiếng cười ghê gớm như tiếng cười của một người điên:

- Làm sao à? Cô lại còn hỏi tôi tại làm sao nữa...Thôi, đừng vờ đi, đừng giả dối nữa...

Sinh mở bàn tay giơ ra tờ giấy gấp đã nát nhàu:

- Thế cái giấy gì đây mới được chứ?

Mai trông thấy mặt xám đi, hai tay ôm lấy đầu, người run lẩy bẩy. Giọng nói của Sinh càng thêm vẻ chế riễu, mỉa mai, chua chát:

- Bà Hiếu tử tế đấy! Úi chà! Nào là bà ấy tử tế, nào là thương người, nào là hiền hậu... Sao không nói, bà ấy hẹn đến đêm nay lại đến nữa.

Mai cúi đầu ôm mặt khóc nức nở. Cái tiếng khóc ấy không làm cho Sinh bớt giận, lại chỉ làm tăng thêm lên như ngọn lửa đổ thêm dầu. Càng nói Sinh lại càng thấy cái giận như sôi nổi, bồng bột trong lòng. Mai sợ hãi nép vào tường, thổn thức, ngập ngừng, khẽ gọi:

- Anh Sinh...Anh...

Sinh như không nghe thấy tiếng, nói luôn:

- Cô còn khóc làm gì nữa... Cô đi ngay đi, đi ra khỏi cái nhà này, tôi không muốn thấy mặt cô một phút nào nữa. Cô cầm lấy cái này...

Sinh giơ tay vơ cuốn giấy bạc trên bàn ném mạnh vào người Mai; giấy bạc tung ra rơi lả tả trên thềm. Chàng hất cả mấy gói đồ ăn xuống đất, những mẫu bánh, miếng thịt bắn tung tóe dưới bàn...

- Không ai thèm ăn những thứ khốn nạn này!

Rồi chàng mệt nhọc ngả người trên ghế, hai tay dây mỡ ôm lấy trán, không để ý đến Mai đang sợ hãi giơ tay về phía chàng cầu khẩn, van xin. Rồi nàng nấc lên khóc, kéo vạt áo che mặt, đi ra phía ngoài.

Sinh cúi đầu ngẫm nghĩ; cái giận dữ đã tan đi, để lại một nỗi buồn rầu chán nản vô cùng. Sinh thấy trong lòng nguội lạnh, một cảm giác lạnh lùng như thắt lấy ruột gan. Nghĩ đến những ngày đói rét khổ sở đã qua, đến mấy năm sống trong cảnh nghèo nàn, Sinh uất ức căm giận cho cái số phận của mình. Nhưng tại sao lại có thêm một sự đau đớn nữa? Tại sao Mai trước kia đã từng bao phen khổ sở cùng chàng, đến bây giờ đem thân bán đi lấy một vài đồng bạc, tại sao Mai lại làm sự khốn nạn như giờ...

Bao nhiêu đau đớn trong tâm can làm Sinh thổ thức, nghẹn ngào. Quả tim không đủ chứa nổi nỗi đau thương, Sinh gục xuống bàn.

Một cơn gió hắt hiu thổi đến làm cho chàng rùng mình. Bỗng nhiên tất cả người chàng chuyển động: chàng vừa thoáng ngửi thấy cái mùi thơm và béo của những miếng thịt ướp mỡ còn dính ở tay.

Cơn đói lại sôi nổi dậy như cào ruột, xé gan, mãnh liệt, ác hẳn cả nỗi buồn. Chàng muốn chống cự lại, muốn quên đi, nhưng không được, cái cảm giác đói đã lan ra cả khắp người như nước triều tràn lên bãi cát. Mỗi lần cơn gió, mỗi lần chàng ngửi thấy mùi ngậy béo của miếng thịt ướp, mùi thơm của chiếc bánh vàng, mũi Sinh tự nhiên nở ra, hít mạnh vào, cái mùi thơm thấu tận ruột, gan, như thấm nhuần vào xương tủy.

Sinh cúi xuống nhìn gói đồ ăn tung tóe dưới bàn, chàng lắm lét đưa mắt nhìn quanh, không thấy Mai đứng đấy nữa... Khẽ đưa tay như ngập ngừng, sợ hãi, Sinh vớ lấy miếng thịt hồng hào.

Sinh ăn vội vàng, không kịp nhai, kịp nuốt. Chàng nắm chặt miếng thịt trong tay, nhây nhớp mỡ, không nghĩ ngợi gì, luôn luôn đưa vào miệng...

Trong gói giấy, đồ ăn đã hết, chỉ còn những cái vụn nhỏ dính trên mặt giấy bóng mỡ. Sinh thấy nóng ran trong bụng. Chàng ưỡn người ra đằng sau khoan khoái thở dài. Nhưng chàng nhớ lại bức thư, cuốn giấy bạc, nhớ lại tiếng khóc thổn thức của Mai nép bên tường, nhớ lại những lời khinh bỉ, mỉa mai, chua xót. Chàng nhớ lại nỗi uất ức, đau đớn của mình...

Một cái chán nản mênh mông tràn ngập cả người. Sinh lấy hai tay ôm mặt, cúi đầu khóc nức nở.

 
THẠCH LAM      
 
(Trích từ tập truyện ngắn Gió Đầu Mùa)

Thứ Ba, 25 tháng 7, 2023

BỮA CƠM TRƯA - Nguyễn thị Vinh

 

Cánh cửa hé mở lộ ra khung trời bên ngoài. Vào mùa này mặt trời lên muộn. Đã gần sáu giờ sáng rồi mà mây vẫn xẫm không khí mới mờ mờ, trắng đục mầu sữa loãng. Hơi sương quện theo trong gió lùa qua cửa sổ, phả vào người bà Mùi, làm ớn lạnh hai bả vai, chạy dài suốt sống lưng.

Bà rùng mình, kéo vội chiếc chăn len đắp kín người. Suốt cả đêm, bà trằn trọc, ngủ không đầy giấc. Có mệt lắm chỉ chợp đi được một lát, rồi lại thức chong mắt ra. Tới bây giờ trời đã bắt đầu vào ngày thì suốt người bải hoải, đau nhức từng khớp xương, cứ như kẻ bị đánh đòn thù ấy.

Bà thầm nghĩ “Thì ra tinh thần và thể chất liên hệ mật thiết thật” câu chuyện xẩy ra từ bữa cơm trưa hôm qua, nó còn “hành” bà tới giờ. Bà nghĩ đến con gái lớn của bà, cô Bích đang còn ngủ với chồng con ở căn gác ngoài.

“Không biết đêm qua nó có ngủ được không, có còn ‘đau đớn’ vì thấy mẹ bị chồng ‘khinh miệt’ không?” Lúc xẩy ra câu chuyện vào bữa cơm trưa, ăn xong, bà buông đũa lên ngay đây nằm khóc thầm. Hình như con gái bà nói gì với chồng nó ở phòng ngoài. Cô Bích cố sức nói nhỏ giọng như sợ bà nghe.

Nhưng thằng chồng nó chốc chốc lại lớn tiếng “Tôi xử đến vậy thôi chứ, bộ muốn tôi phải lậy nữa hả…” Yên lặng một lát, nhưng bà biết trong phút giây yên lặng đó cô Bích vẫn cằn nhằn chồng, vì tiếng thằng Sâm con rể bà lại cất lên “Bảo bà ấy ở đây một mình đi, nếu có phải ‘cung phụng’ thì tôi cũng chỉ ‘cung phụng’ bà ấy thôi, chứ bắt tôi phải nuôi ‘lũ kia’ thì không khi nào.”

Nghĩ tới đây bà lại ứa nước mắt! Lũ kia là con người chồng sau của bà. Thằng Ái và con Ly. Chúng là em khác cha với cô Bích. Hồi Bích mới ba tuổi đã mồ côi bố, bà tái giá và sinh thêm hai đứa này đây.

Chúng nó đang nằm kia, trên mảnh chiếu trải trên sàn gỗ của căn gác nhỏ, cất thêm trên mé nhà bếp. Từ một năm nay, cha chúng nó mất, bà buôn bán thua lỗ, nên phải về ở với con gái lớn và con rể.

Mấy tháng đầu còn “dễ thở”! Lần lần mỗi ngày một chuyện, nay thì không khí trong nhà đặc quánh lại rồi! Mỗi ngày một chút, những chuyện gì ở đâu, cứ bất ngờ xẩy ra thật ngột ngạt hết sức. Bà đã cố gắng nhẫn nhục, trong khi con rể bà cố tình gây. Thằng Ái và con Ly luôn luôn là “đề tài” của mọi chuyện. Bà có mình Ái là con trai nên rất thương yêu. Thấy Ái và Ly bị hất hủi, bà lại càng xót, đem hết tình thương để bao bọc cho hai đứa. Ái mới có mười lăm tuổi, nhưng người cao tồng ngồng. Chân tay dài quá khổ. Đã nhiều lần bà xót xa khi bắt chợt Sâm “lườm lườm” nhìn Ái, lẩm bẩm nói: “Bất thành nhân dạng, thứ này chỉ sớm thành du đãng chứ gì.” Bà không hiểu sao rể bà lại ghét thằng Ái đến thế. Hình như cái vóc người cao “lêu nghêu” của nó mỗi khi ra vào làm vướng cả gian nhà này. Chắc Ái cũng cảm thấy thế, nên nó ít dám xuống nhà, cả ngày cứ ngồi thu mình trên căn gác “xép”, hoặc lỉnh ra phố. Có hôm nó về vào lúc cả nhà đang ăn cơm, bà đã thoáng thấy nó, nhưng nó không dám vào ngay. Đợi lúc ăn xong, anh chị nó đi ngủ trưa, mới len lẻn về, xúc chén cơm chan nước mắm lên gác ngồi ăn. Bà trông mà ứa nước mắt nhưng chả biết làm sao!

Bà cũng biết cô Bích vì bênh vực bà mà hàng ngày vẫn ngấm ngầm gây gổ với chồng. Từ ngày bà về đây, gia đình này cũng mất cả nếp sống bình thường, mọi thứ, mọi chuyện, đều thay đổi. Trước kia cô Bích vẫn mua gạo “Nàng Hương” cho chồng con ăn. Giờ phải đổi ăn thứ gạo Mỹ hạt tròn cho đỡ tốn. Cả thức ăn nữa chứ, mọi thứ mọi giảm. Phần tại lúc này quá đắt đỏ, phần nhà đông miệng ăn, cô Bích cố sức tằn tiện. Tô canh nho nhỏ ngọt chất thịt, trước kia cô vẫn nấu cho chồng con ăn, nay thành tô canh rau lớn, những đĩa sào thơm ngút, không còn được “trình diễn” thường xuyên trên bàn ăn nữa, mà chỉ còn là đĩa đồ kho cho mặn miệng. Cốt sao cả nhà ăn cho no bụng, qua bữa là được. Bà Mùi cũng không mong gì hơn thế. Nhưng khổ nỗi không khi trong nhà các bữa ăn cứ nặng chịch. Như vừa mới trưa hôm qua, cả nhà đã ngồi quanh bàn ăn, cơm đã xới ra bát rồi, mà rể bà cứ cố tình đi ra đi vào, rót chén nước, rửa cái tay. Cô Bích có vẻ tức cất tiếng giục thì chồng cô nói “Ai muốn ăn trước thì ăn đi, việc gì phải đợi.” Thế nhưng lúc con Ly mới cầm đũa gắp miếng đậu rán, bà Mùi chưa kịp đưa mắt cản thì nó đã bỏ vào mồm. Vừa đúng lúc Sâm ra tới, Sâm nói trống không:

“Cứ như đồ mất dậy.” Con Ly biết Sâm nói nó, đã mười hai tuổi rồi nên cũng biết tủi thân, nó cúi gằm mặt xuống chén cơm, mắt rưng rưng, miệng ngậm miếng đậu, nhai chệu chạo. Bà Mùi thắt cả ruột lại, ngây dại như kẻ mất hồn. Cô Bích cất tiếng cố gắng làm ra vẻ bình thường để xóa không khí căng thẳng:

- “Cụ” ăn cơm đi chứ, hôm nay chị Ba “trổ tài” nấu món cà bung, cụ thử coi có ngon không?

Bà Mùi gượng cười:

- Ừ… thì… cứ ăn đi, hôm nay ta chóng mặt quá, nó làm như muốn cảm.

Chị Ba “người làm” biết bà Mùi buồn, cầm bát cơm đặt hẳn vào tay bà Mùi:

- Bà ăn đi mà, con mới học bà Kim nấu cà bung lối Bắc đấy.

Cô Bích lại tiếp giọng có vẻ van lơn:

- Mẹ ăn đi, hay nếu mẹ mệt để con bảo nấu cháo mẹ húp cho khỏe.

Bà Mùi bắt chợt ánh mắt của cô Bích nhìn bà, nửa thương xót, nửa an ủi, làm bà suýt bật khóc. Bà cầm vội bát cơm cười cười:

- Nào thì ăn, nấu cháo… làm gì…

Giọng bà nghẹn lại, bà cầm đũa đưa mấy hạt cơm lên miệng cố nuốt cho trôi tủi cực.

Trong khi đó Sâm ngồi ăn như không cần biết có sự hiện diện của mẹ vợ, không cất được một tiếng mời, thản nhiên nói với bé Ánh:

- Con chan canh không? Đưa bố chan ăn cho mau nào.

Không khí trong bữa cơm dù nặng nề đến đâu rồi cũng phải qua. Sau đấy bà lên nằm vùi trên này, lấy cớ là “ốm” bỏ bữa cơm chiều không xuống. Thằng Ái và con Ly cũng ở luôn với bà. Chiều tối cô Bích đem lên cho mẹ và các em mấy miếng bánh mì chả. Cô bùi ngùi bảo mẹ:

- Hay… mẹ tìm chỗ cho các em… ở đỡ đâu ít ngày. Để con “tính” với Sâm… cho ngã ngũ ra. Con thật hết chịu được rồi… Muốn ra sao thì ra chứ.

Bà cố khuyên con gái:

- Thôi con, một đời người rồi cũng qua đi mau lắm. Con cố gắng chịu đựng cho con con nó hưởng. Con đừng trách chồng con, cũng tại mẹ tới đây làm xáo trộn cho các con.

Cô Bích chậm nước mắt:

- Gì thì chứ, con có một mẹ mà anh ấy xử như vậy, đâu con có chịu. Mẹ còn nhớ hôm tuần trước cái vụ con chó con đấy không? Mỗi ngày mỗi gây, mình có muốn nhịn cũng không được mà…

Bà Mùi ậm ừ… Bà quên sao được cái chuyện ấy chứ. Hình như Sâm cố tình gây không cho mẹ con bà ở thêm ngày nào nữa.

Một hôm Sâm đi xin đâu được con chó con mới sinh. Suốt đêm suốt ngày con chó kêu ăng ẳng “làm xấu” vung vít đầy nhà. Mẹ con cô Bích cố nhịn, được hai ngày, hết chịu nổi cô Bích bảo chồng:

- Anh đem con chó về nuôi làm gì, nhà đã chật, lại có mình chị Ba dọn dẹp sao cho hết việc…

Sâm quắc mắt, ngắt lời vợ:

- Á… à, nhà chật hả, nuôi một con chó không có chỗ hả…

Sâm tiếp cười khan:

- Thế mà tôi tưởng nuôi đến ba bốn con cũng còn được cơ đấy…

Biết chồng ám chỉ mẹ và em mình, cô Bích giận. Bất chợt, cầm tách nước đang uống dở ném vào Sâm, không kể phải trái, cô hét lên:

- Đồ khốn, ăn nói đểu cáng thế mà nghe được à! Tôi nói cho mà biết dù tôi có nuôi mẹ tôi đi nữa, cũng không ai có quyền nói tôi. Đã “ai” nuôi tôi ngày nào đâu. Hay lại chính tôi phải làm nuôi “báo cô” bao nhiêu năm rồi. Giờ có phải anh “ghen” ăn với mẹ tôi không, thì anh nói trắng ra đi!

Bốp… Bốp… Hai cái tát như trời giáng vào mặt. Cô Bích sợ mẹ chạy xuống trông thấy lại khổ cho mẹ. Cô cắn răng nhịn, một vệt máu rỉ ra bên khóe môi cô. Sâm buông vợ vào túm lấy con chó thẳng tay đập, con chó trước còn kêu ăng ẳng, sau lịm dần. Con Ánh còn nhỏ quá mới sáu tuổi đầu, phải chứng kiến chuyện này nó đứng chết run ở kẹt cửa, không khóc nổi, mắt mở lớn nhìn bố đánh con chó. Trên căn gác xép, thằng Ái và con Ly đang quýnh lên lay bà Mùi. “Mẹ ơi… Mẹ… Mẹ ơi…” Bà Mùi từ từ mở mắt nhìn hai con ứa nước mắt. “Mẹ không sao đâu đừng sợ.”

Nghĩ đến đây bà Mùi thở dài nói nho nhỏ:

- Người thương người phải xa nhau cũng khổ. Mà người ghét người, phải ở với nhau lại càng khổ hơn.

 
 
NGUYỄN THỊ VINH    
1973                 

Chủ Nhật, 23 tháng 7, 2023

HAI LẦN CHẾT - Thế Lữ

Tối hôm ấy, chúng tôi đi viếng một người bạn ở phố Hàng Bột mới từ trần. Lúc ra về đến giữa phố Sinh Từ thì trời đổ mưa, chúng tôi kéo cả lên nhà anh Tri. Tri bàn mọi người nên ngủ lại nhà mình để mai đi đưa ma cho tiện.

Anh em lâu không họp mặt, chuyện trò đến hơn mười hai giờ đêm.

Câu chuyện dồn cả vào sự nghiệp và tính nết Đàm văn Tâm, người thiệt mệnh.

Anh Tâm là một thiếu niên thông thái, có khiếu về khoa học và đối với bạn là một người tử tế thật thà. Anh ta không lấy vợ, cha mẹ mất sớm, bao nhiêu của cải của ông chú ruột để lại cho chỉ dùng vào công cuộc khảo cứu mà chúng tôi biết là có giá trị. Tâm cùng cộng tác với anh Đinh văn Mão, một người bạn học cùng chí hướng với anh ta. Sự nghiệp về khoa học của Tâm đang chừng có vẻ rực rỡ, thì bỗng không bệnh mà chết. Họ hàng không có, nên Mão đứng lên lo việc tang ma.

Cái chết đột ngột của một người bạn còn trẻ gây cho chúng tôi một thứ cảm giác phảng phất, lo sợ, nhất là vì đêm ấy lại mưa gió sụt sùi. Tính vui đùa của anh Tính cũng không làm bớt được lạnh lẽo, nặng nề trong gian phòng sáng bởi một cây đèn dầu hỏa. Tính nói :

- Chết sớm, càng được nghỉ sớm chứ sao?

- Anh thì anh chỉ thích nghỉ thôi. Giá có chết cũng không thiệt cho ai. Còn anh Tâm...

Tính gật đầu :

- Phải. Quốc dân thiệt mất một nhân tài...

Rồi lại tiếp luôn :

- Nhưng sống khôn chết thiêng, hẳn ngài nhớ đến bọn ta, sẽ về phù hộ.

Một người bạn mắng :

- Chỉ nói nhảm. Anh này việc gì cũng đem pha trò...

- Kìa! Pha trò đâu? Tôi nói thực đấy. Tâm chả nhiệt thành tin thuyết "Linh hồn hiển hiện" là gì? Phải không anh Ngôn?

Tôi đáp :

- Phải. Tâm hay bàn về vấn đề ấy lắm. Có lần anh hẹn tôi rằng khi nào chết sẽ về báo hiệu cho tôi biết. "Tôi chết, tôi sẽ về gãi chân anh".

- Y như trong sách của Camille Flammarion ấy nhỉ?

- Mà không phải là câu nói đùa đâu!

Tính nói nửa thực nửa bỡn :

- Nếu vậy, có lẽ anh Tâm sắp hiện lên giữa chúng ta...

Mọi người cùng cười thào lên một tiếng nhạt, rồi cùng ngồi im. Bên ngoài tiếng ướt át rì rào của mưa gió vẫn không ngơi. Tri ngẫm nghĩ thế nào chợt se sẽ nói :

- Ừ, thế ngộ anh Tâm hiện hồn lên bây giờ thì sao?

Nhưng câu ấy không có ai trả lời, rơi vào trong vực yên lặng mất.

Bỗng nhà dưới có năm, sáu tiếng gõ cửa, tôi toan nói một câu, liền nín lại. Tiếng gõ cửa ra dáng gấp, và cứ mạnh thêm.

Đức nói thầm :

- Hay là anh... Tâm về...

Tôi :

- Có lẽ nào?

Nhưng chúng tôi đồng lo sợ. Tiếng gõ nhà dưới ra chiều thúc giục - tiếng cửa mở rồi khép, rồi một lát thằng nhỏ đi lên, vừa ngái ngủ, vừa thưa vào :

- Thưa cậu, cậu Tâm lại chơi.

- Hử? Cậu Tâm nào?

- Thưa, cậu Tâm Hàng Bột.

Chúng tôi kinh ngạc nhìn nhau. Tri cau mày gắt :

- Mày nói láo! Còn cậu Tâm nào ở Hàng Bột nữa? Sao mày không hỏi xem ai?

- Bẩm, chính cậu Tâm... Cậu đang đi lên.

Chúng tôi như gặp luồng gió lạnh, nhìn ra thấy anh Tâm thực.

Tâm đứng ở khung cửa, đầu tóc bơ phờ, mặt mày ngơ ngác, mình mặc bộ quần áo trắng dài là bộ mặc cho anh ta lúc đặt nằm trong áo quan. Hơn một phút, chúng tôi không ai nói gì, ngồi đực ra như bị thôi miên. Sau, một người bạn đi đạo lấy tiếng dõng dạc hỏi :

- Nhân danh tình bằng hữu thiêng liêng của chúng ta, tôi xin hỏi vong hồn Đàm văn Tâm có oan ức điều gì không?

Tâm, hay linh hồn hiển hiện của Tâm không đáp, cứ trân trân nhìn chúng tôi một lúc lâu. Tiếng dõng dạc lại hỏi lên lần thứ hai :

- Nhân danh tình bằng hữu thiêng liêng... tôi xin hỏi vong hồn...

Thì Tâm bỗng đưa tay gạt đi, dịu nét mặt lại rồi thong thả nói :

- Tôi không phải là vong hồn... vì tôi chưa chết.

Chúng tôi vẫn không hiểu. Tâm lại nói :

- Phải. Tôi còn sống thực, có xương, có thịt, có máu chạy trong mạch... chứ không phải là một vật hư vô...

Rồi Tâm yên lặng tiến lên, nhìn mọi người một cách xoi mói, dò xét, rồi lại kéo một chiếc ghế ngồi. Chúng tôi bất giác ngồi giãn cả ra, thì Tâm buồn rầu, mỉm cười, nói :

- Không. Tôi không chết đâu, tôi chưa chết. Tôi muốn... tôi hỏi các anh: Tôi có thể tin ở sự kín đáo của các anh được không? Tôi có thể tin ở tình bằng hữu thiêng liêng của chúng ta mà anh Đào vừa nói, được không?

Chúng tôi trả lời :

- Được. Nếu anh có oan uổng điều gì...

- Tôi đã bảo tôi còn sống mà! Sống như các anh, thực thế.

- Ừ, chúng tôi muốn tin rằng thế, song anh Tâm đã chết thực, đã có giấy chứng nhận chôn, chúng tôi cũng đã đến viếng...

- Nhưng tôi chưa chết. Tôi ở trong săng dậy đây.

Yên lặng một phút. Sau tôi hỏi :

- Thế còn anh Mão ngồi coi bên săng? Anh ấy đâu?

Tâm bóp trán thở dài. Bỗng anh ngừng phắt lên, hai mắt lóng lánh, đột ngột nói :

- Mão chết rồi. Phải, chết rồi. Mà chính tôi, tôi, các anh nghe chưa? Tôi giết nó đấy...

- Sao lúc chập tối chúng tôi còn thấy anh Mão khóc, chúng tôi lại nhận rõ mặt anh trong săng?

- Nhưng tôi vừa giết Mão xong, giết vì bất bình, vì điên dại... Các anh hãy ngồi yên, tôi kể đầu đuôi cho nghe. Tôi thực là một người khổ sở hết sức!

Rồi Tâm ôm mặt se sẽ khóc trước năm bộ mặt kinh dị của chúng tôi. Một lúc lâu, anh ta mới lại nói :

- Tôi không ngờ đâu lại thấy những điều cay độc, mỉa mai đến như thế... Tôi tưởng phát điên lên mất - không ngờ đâu lòng người mà lại đến thế. Các anh thử xét mà coi. Các anh vẫn biết Mão với tôi là hai người bạn thân hơn ruột thịt, vì tôi thương anh ấy nghèo và chăm chỉ, lại muốn cùng theo đuổi một công cuộc với tôi. Chúng tôi thề suốt đời không lấy vợ, để đem hết tâm trí hy sinh cho khoa học. Trong hai năm trời Mão càng ngày càng tỏ ra một người có chí và hết lòng với bạn, nên tôi càng ngày càng yêu thêm. Tôi muốn cho Mão vững tin ở lòng thành thực của tôi, nên viết một tờ "chúc thư" để gia tài của tôi với sự nghiệp của tôi lại cho Mão. Đó là một điều gàn dở, nhưng trong lúc nồng nàn hăng hái ấy thì tôi có trông thấy xa đâu? Tôi có ý tỏ cho Mão biết rằng của tôi cũng như của anh ta, mà nếu bất hạnh tôi chết trước, thì bổn phận anh ta là phải đi cho tới mục đích bước đường mà tôi bỏ dở. Từ lúc tôi ký tờ giấy kia đến nay đã được hai năm rồi, không có điều gì hết. Mão vẫn yêu tôi, vẫn hết lòng làm việc với tôi như trước. Mà nếu rủi tôi chết sớm thì chắc Mão là người thương tôi hơn cả. Có ngờ đâu người bạn thân thiết ấy lại là một giống sài lang! Năm năm về trước, nguyên tôi vẫn mang một chứng bệnh thần kinh, thường khi đang yên bỗng ngã lăn ra bất tỉnh. Nhưng từ khi ông chú tôi mất, bệnh ấy như khỏi đứt, tôi không để ý đến nữa - rồi quên bẵng đi. Bệnh đó tới nay lại phát khởi lên xem chừng nặng hơn trước nhiều lắm. Mấy ngày trước tôi thấy những triệu chứng thứ nhất và bắt đầu lo. Song tôi vì bận viết một bài khảo biện rất dài cho một tạp chí chữ Pháp, nên không kịp nói chuyện với Mão. Ba giờ sáng hôm qua, lúc buông bút đi ngủ, bỗng tối sầm mặt lại, ngã gục xuống rồi từ đó lịm đi...

Lúc mở mắt ra thì thấy mình bị ép hai bên trong một xó tối và khó thở, tôi định tâm vừa nghĩ vừa sờ soạng mãi mới biết là mình nằm trong săng. Nhưng trông lên thấy mờ mờ có ánh lửa soi vào hai bên nắp săng và lắng tai còn nghe thấy quả lắc đồng hồ tích tắc đưa chuông điểm. Tôi đoán rằng tôi ngất đi đã lâu lắm - vì bụng thấy đói dữ - có lẽ mọi người tưởng chết thực và đã cho mình vào săng sắp sửa đem chôn. Tôi nâng nắp săng thì thấy còn mở, bèn yên lặng ngồi lên. Lúc ấy mới biết là hơn mười hai giờ đêm. Mão đang xem một tờ giấy bỗng quay ngoắt kêu lên một tiếng khẽ. Tôi cười để cho hắn khỏi sợ và nói: "Tôi không chết đâu... Sống đây mà!"

Mão vẫn trừng mắt nhìn tôi. Thấy tôi cười nói tự nhiên và chờ anh ta nâng hẳn nắp săng đỡ tôi dậy, thì như đã hơi định thần, hắn nhìn tờ giấy mà tôi nhận ra là tờ "di chúc" rồi lại nhìn tôi. Bỗng nhiên hắn rảo bước lại bên chiếc quan tài, mắt long lanh một cách lạ thường, rồi nhanh tay ấn mạnh tôi xuống đậy nắp săng lại.

Trước tôi còn ngờ hắn hoảng hốt vì sợ hãi quá, sau bỗng nghĩ ra một điều rất ghê gớm: Mão muốn giết tôi.

Phải rồi... tờ "chúc thư" mà hắn làm bộ không nói đến bao giờ... cái gia tài quan trọng của tôi... mà đối với mọi người thì tôi đã chết. Phải. Tôi chết là hắn được hưởng, mà tôi đã không chết thực thì hắn giúp tôi chết nhân thể, ai biết đấy là đâu?

Trong có một giây đồng hồ mà tôi cũng thoáng thấy được cái kế hiểm độc của bạn với cái tình thế nguy hiểm bấy giờ. Tôi căm giận không biết ngần nào, đấm nát tay lên cái nắp săng, nhưng cái nắp bật hé được lên lại bị ấn xuống. Chân tôi không bị buộc trói như thói thường trong lúc khâm liệm, nhưng không thể cử động được dễ. Bên ngoài, tôi nghe thấy tiếng chân vội vàng chạy xa dần. Tôi đoán chắc hắn đi tìm cái gì để đè lên mặt săng cho nặng thêm. Nhân cơ hội tôi thét lên một tiếng rất dữ, đạp một cái hết sức mạnh, nắp săng bật ra một chỗ, tôi ngồi dậy thì hắn đã tiến đến, cái ống tiêm thuốc độc cầm ở một tay. Tôi vùng đứng lên, vừa sợ vừa giận. Hắn bước tới, tôi liền níu lấy tóc, nghiến răng ấn đầu hắn xuống rồi nhảy xổ lại đè lên mình hắn: cái ống tiêm rơi xuống, vỡ tan ra. Hắn bị tôi cưỡi lên ngực, hai cánh tay bị dập dưới đầu gối tôi, và cổ bị hai bàn tay tôi thắt vào đến hai mươi phút. Tôi càng nhìn cái mặt thú vật của nó, cái bộ mặt mà mới hôm trước đây, tôi còn yêu quý, thì cơn giận cứ bốc lên mãi, tôi bóp ghì lấy cổ nó mà vẫn không rõ là mình làm gì. Lúc nó đã tắt thở rồi, tôi mới buông tay ra. Bấy giờ đúng mười hai rưỡi.

Tôi không sợ hãi, không hối hận, không vội vàng, vì không cho sự giết thằng khốn nạn ấy là một tội ác. Tôi xốc nó lên, bỏ vào săng đậy nắp lại tử tế, thu xếp ít tiền bạc, giấy má, định gieo thành một mối bí mật, rồi đi.

Nhưng tôi nghĩ lại ngay, nên thuê xe đến gọi anh Tri kể cho anh nghe để cùng với anh khu xử việc này... Lúc tôi vào bước lên đây, trông thấy các anh, tôi thú thực rằng hơi có ý nghi ngờ các anh... đồng lòng với Mão. Bởi vì... các anh xét hộ, tôi bị một kẻ tâm giao độc nhất xử với tôi một cách ghê gớm như thế... làm cho tôi tưởng phát điên lên mất, tôi tưởng rằng ở đời này thế cả... họ thấy lợi là họ quên cả tình nghĩa... Các anh tha thứ sự nghi ngờ ấy cho tôi.

Tâm nói đoạn thở dài một tiếng rất cay đắng, gục đầu xuống sụt sùi. Chúng tôi ngồi lặng nhìn nhau...

Đêm hôm ấy, chúng tôi không ngủ, sau bàn nên để anh Tâm ở yên một chỗ, dựa theo cái ý kiến mà Tâm đã nghĩ tới, xoay việc án mạng kia thành một thiên bí mật để không ai dò được manh mối ra sao.

Chúng tôi làm như người ngạc nhiên trước nhất về chuyện này, đi trình các nhà chuyên trách đến khám xét chỗ ở của Tâm và thản nhiên, trả lời rất khéo những câu hỏi mà chúng tôi đã đoán biết từ trước.

Bỗng nhiên, ngay sáng hôm ấy, đang khi tra vấn kỹ lưỡng thì anh Tâm lại lù lù hiện ra, nói rằng mình đi vơ vẩn suốt đêm, rồi đem kể hết đầu đuôi việc xảy ra đêm trước.

"Tôi đã giết người, các ông dẫn ngay tôi vào ngục".

Đó là câu nói sau cùng của anh ta.

Cuộc thẩm vấn, chúng tôi cố chạy cho mau chóng và rất công minh, nên một tháng sau, lúc ra tòa, Đàm văn Tâm được trắng án. Chúng tôi cũng không được vui mừng lắm, vì Tâm vẫn giữ vẻ nhẫn nhục, rầu rĩ như hôm mới bước chân vào đề lao.

Anh cám ơn công săn sóc của chúng tôi, rồi tự giam mình trong gian nhà phố Hàng Bột, nhất định không tiếp ai cả: sống ở đấy một cách yên lặng, kín đáo, bảo là một cách thầm vụng cũng được, như muốn cho người ta quên mình đi.

Một hôm, người đầy tớ già của Tâm đến nhà anh Tri nói rằng chủ mình đã hai hôm nay ở tịt trong phòng. Chúng tôi đến, phá cửa vào xem thì thấy anh ta gục đầu lên bàn trên một tờ chúc thư để của cải cho các viện tế bần, người lạnh ngắt và cứng đờ.

Lần này thì anh Tâm chết thật. 

 
THẾ LỮ       
 
(Rút từ tập truyện ngắn "Bên Đường Thiên Lôi", 1936)
 

Thứ Hai, 17 tháng 7, 2023

KẺ NỔI DẬY - Nhật Tiến

 

Trời nắng. Nắng đến độ căn nhà mái lá lụp xụp của ba Sinh biến thành một cái nồi rang nóng bỏng. Mái lá rộp lên. Mặt bàn mặt ghế muốn vênh lại. Dưới đất cũng chẳng hơn gì, dẫm chân lên chỗ nào cũng thấy nóng, ly nước hắt xuống chỉ trong một chốc là mất tăm chẳng còn để lại dấu vết. Nhưng hậu quả quan trọng nhất là cái nóng đã khiến ba Sinh tự ý mỗi ngày đi tắm một lần, vào khoảng xế trưa lúc mặt trời hiện ra thành một khối lửa chiếu đúng vào giữa khuôn cửa sổ mặt tiền, hướng tây của nhà gã. Chỉ lúc đó ba Sinh mới cảm thấy thực thụ cần thiết những dòng nước mát lạnh mà vợ gã thuê với giá cắt cổ sáu đồng một đôi. Trên bộ ngực còm cõi, lép xẹp của gã, từng giọt mồ hôi rỉ ra ở giữa những cái xương sườn, chảy ngoằn ngoèo xuống cái bụng gầy tóp rồi bò xuống hai cẳng chân nhỏ như hai cái ống sậy bám đầy gân xanh. Gã la lên hùng dũng:

– Trời này mà không tắm thì có mà chết ngộp! Còn nước không má Sáng?

Vợ gã, má thằng Sáng, vào giờ ấy bao giờ cũng chỉ luẩn quẩn ở mé đằng sau để tìm lấy một vài hơi đất ẩm mát. Có khi chị bì bõm hàng giờ trong buồng tắm. Với thân hình vạm vỡ và đầy sinh lực của chị, sức nóng như muốn làm nổ tung bộ ngực đầy đặn căng lên như hai cái bình sứ.

Hôm ấy ba Sinh chợp mắt, trở dậy vào lúc xế trưa. Dưới lưng gã, mồ hôi đọng thành vũng. Hèn chi hắn nằm mơ thấy mình tắm biển với một bầy con gái xinh như mộng, y hệt như cái tuồng cinema mà gã mới coi hôm trước. Rạp chớp bóng bình dân ở xóm gã. Năm đồng hai phim, xem suốt ngày. Gã đầy đủ thời giờ xem hai xuất để so cô này với cô kia, “giã” này với “giã” kia, tuồng này với tuồng nọ. Nhưng nói chung thì với gã, tuồng nào thì cũng hết chỗ chê cả. Bởi chưng ông chủ rạp rất khéo léo trong cái việc chọn phim đem chiếu. Nếu phim La Mã thì cũng thoát y hay cao bồi bắn súng, cưỡi ngựa, còn xoàng ra thì cũng tác giăng với bắp thịt cuồn cuộn mà mỗi lần xuất hiện trên màn ảnh là gã lại cười rú lên với lũ trẻ ồn ào ngồi chung quanh:

– Trời! Thằng khổng lồ! Đùi gã còn bự hơn cả người tụi bay đó thấy hôn!…

– Trời!…

– Trời!…

Và gã cứ tấm tắc như vậy cho đến lúc bước ra khỏi rạp, trời chập choạng tối, thành phố đã lên đèn.

Một ngày của gã là một ngày nhàn hạ. Gã ốm yếu nên chẳng giúp gì cho vợ ngoài việc phụ giúp với thằng Sáng, đứa con trai độc nhất thổi cơm và dọn dẹp cửa nhà. Năm nay gã ba mươi mốt, vợ gã hai mươi chín, còn thằng Sáng thì đã mười hai tuổi. Mười mấy năm ăn bám vợ, nghiễm nhiên đối với gã sự đó trở thành một lẽ tự nhiên. Vợ gã cũng chẳng phàn nàn điều gì cả. Đối với chị Sinh, hình ảnh một người chồng xanh như tầu lá, gầy như một cây sậy, yếu đuối như một con sên suốt ngày tha thẩn với cái chổi đập ruồi, hay ngủ còng queo trên mặt phản đã biến thành một vật quen thuộc trong nhà, nào khác gì cái bàn, cái ghế, hay cái chậu rửa bát cũ kỹ, sứt mẻ ở sau nhà. Đối với chị, gã chỉ làm phiền chị thỉnh thoảng vào lúc về đêm. Chẳng phải không hứng tình, nhưng sự yếu đuối của gã chỉ làm chị thêm khó chịu. Sự khó chịu nhiều khi đã khiến chị bò lên gác xép nằm ngủ một mình sau khi đã rút cái thang tre ọp ẹp. Có lẽ cũng vì vậy mà hai người hiếm hoi chỉ có mỗi một thằng Sáng đó chăng?

Sự hững hờ của chị Sinh đã khiến ba Sinh cách biệt với vợ như một kẻ đứng ở bên kia bức tường thành. Gã khó mà tìm hiểu được chị đang nghĩ gì, sửa soạn làm gì? Thậm chí nghề nghiệp của chị, gã cũng chỉ hiểu một cách lơ mơ là chị giữ chân mối lái, hay giao hàng gì đó. Tuy vậy sự cách biệt không làm gã giảm lòng yêu vợ mà trái lại càng có vẻ nồng nàn thắm thiết (nhất là sau khi gã lại được xem một tuồng trong đó nữ tài tử lại thủ một vai thật anh hùng).

Càng xa xôi, gã càng thấy vợ bí hiểm, huyền hoặc và mới mẻ như một kẻ mới quen biết nàng hôm qua. Chỉ có khác một điều là nàng đã là vợ gã, có con với gã. Thật là chắc ăn. Gã rất tự hào về sự ấy.

Khi tỉnh ngủ, gã thấy bên tai vọng lên tiếng nước dội ì ào. Trên mặt phản đối diện, thằng Sáng đã bỏ đi chơi tự lúc nào. Căn nhà vắng lặng, nồng nực và như muốn ngộp lên vì hơi nóng. Gã nhỏm dậy, rón rén đi vào sân trong. Chị Sinh đang tắm rửa sau tấm liếp xộc xệch. Một dòng nước ngầu bọt xà bông chảy vòng từ trong ra ngoài, ngấm vào chân gã cảm giác mát lạnh. Gã tiến lại gần và cố kiễng chân lên. Cặp mắt của gã với tới một khe hở lớn. Gã thấy mảng lưng nhễ nhại của má Sáng hồng lên dưới những tia nắng le lói lọt qua kẽ vách. Mặt gã đượm đầy vẻ tự mãn và bỗng nhiên gã cất tiếng cười hì hì. Chị Ba Sinh đang cúi xuống bỗng ngửng phắt dậy và hét:

– Ai đó?

Ba Sinh chợt đỏ bừng mặt lên và ấp úng:

– Tui… tui nè!…

Người đàn bà la lối:

– Trời đất ơi! Chơi cái trò gì mà rắn mắt quá vậy. Có bước ngay đi không tui la làng lên bây giờ.

Phản ứng bất ngờ của vợ khiến gã cụt hứng. Gã bẽn lẽn lùi lại phía cửa bếp, bực dọc ngồi xuống cái bậc cửa ọp ẹp và đưa mắt nhìn ra ngoài nắng. Ánh nắng buổi trưa gay gắt rọi lên mảnh sân đất vuông bằng cái chiếu ứ đọng từng vũng nước. Những vẩy bọt xà bông còn đọng lại trên mặt nước long lanh phản chiếu ánh sáng tạo thành những quả bóng ngũ sắc nom lộng lẫy như vẩy cầu vồng lúc trời mưa. Trên mặt tường nham nhở vôi và vữa, bóng của những đợt hơi nước bốc lên in thành sợi khói treo rung rinh. Mồ hôi của gã vã xuống, ướt sũng cái quần cộc cạp xoắn xuống quá rốn, ống quần vê tròn lên tận bẹn. Ba Sinh thè lưỡi liếm hai vành môi khô héo và cố nuốt vào cổ họng rúm nước bọt đang dẻo quánh lại. Ở trong phòng tắm, chị Sinh bỗng ngừng dội nước và nói vọng ra:

– Bước đi chưa, hả … ả?

Sinh nổi cơn cục cằn, cất giọng càu nhàu:

– Người ta ngồi đây chớ ai đã làm gì. Bày đặt lắm chuyện quá há!

Nàng gắt lên:

– Bộ hết công chuyện rồi sao ngồi đó.

– Hết rồi.

– Làm được những “kí” gì mà mà hết rồi?

– Thì cơm đó! Nhà đó! Quần áo đó! Đâu vô đó hết trơn.

– Chèn ơi, có ba cái quần người ta thay hồi hôm còn nguyên đó mà hô hết trơn cái giống gì.

– Ớ! Sao biểu quần trắng đem cho thợ giặt ủi? Cấp này sang trọng lắm mà.

Chị Sinh cười khẩy:

– Chớ sao không. Bộ muốn kiếm ra tiền mà ăn mặc lôi thôi như con mẹ dại được đó hả.

Sinh ngập ngừng rồi nói đại một điều mà gã đắn đo mấy ngày liền mà rồi gã vẫn chưa nói được ra:

– Chèn ơi! Khối người khố rách áo ôm mà người ta vẫn kiếm ra tiền!…

Cánh cửa liếp bỗng bật mở và cả một nửa người trắng như sữa của chị Sinh thò ra. Chị trợn mắt lên nhìn chồng với tất cả vẻ giận dữ và cong cớn:

– Sao! Anh nói sao? Anh muốn cái gì kia chớ. Đó! Anh ăn bận khố rách áo ôm vô rồi đi kiếm công chuyện mà mần đi.

Sinh chột dạ, ngồi xích vô cánh cửa rồi ấp úng:

– Chả sao hết đó. Mà có điều đây không biết thì đây hỏi.

– Hỏi cái gì?

– Hỏi coi má thằng Sáng buôn cái gì?

– Chẳng buôn bán gì hết á. Mà điều vẫn có tiền. Anh chịu chưa?

– Chẳng buôn bán gì mà có tiền thì chỉ có điều làm đĩ!

Chị Sinh hắt ngay chậu nước vào mình anh Sinh rồi gầm lên:

– Phải rồi! Tôi làm đĩ đó. Nhưng làm đĩ để nuôi anh, anh biết chưa. Nếu giỏi như người ta thì sao anh không đứng dậy đi mần nuôi vợ, nuôi con đi.

Sinh hậm hực:

– Được rồi! Tui nuôi. Tui đi mần. Công việc bây giờ thiếu gì.

Chị Sinh đáp lại bằng một chuỗi cười. Tiếng cười của chị như có cạnh sắc cắt từng khúc ruột của gã đàn ông ốm yếu. Gã bỏ chỗ ngồi, vùng vằng lên nằm vật trên phản gỗ. Sự nổi dậy của gã tuy bất ngờ và ngắn ngủi nhưng cũng đủ làm người gã nhược ra. Mình gã dán xuống phản. Mồ hôi lại chảy sâm sấp đằng sau lưng. Đã nhiều lần gã cảm thấy nhục nhã nhưng chưa bao giờ gã thấy nhục nhã bằng lần này. Gã tưởng tượng vợ gã không còn chia xẻ với gã một đôi chút nào về cuộc sống của mụ. Ngày xưa, hồi gã bắt đầu thất nghiệp, và chị Sinh thay thế gã cái quyền ăn trên, ngồi trốc ở trong gia đình, chị cũng không đối xử với gã tàn nhẫn như thế. Mỗi lần đi cất hàng về, bao giờ chị cũng hỏi thăm gã một câu, kể cho nghe một vài mẩu chuyện về việc làm ăn của chị, và nhất là chị không có diêm dúa quá lố như bây giờ. Công việc của chị mỗi ngày một dễ dàng, tiền bạc chị đem về vừa đủ cho ba Sinh có thuốc hút, tiền ciné, tiền mua những gói kẹo Tây ngồi nhấm nháp suốt mấy xuất liền trong rạp hát. Từ một người lớn, ba Sinh bỗng trở thành một đứa con nít không thua gì thằng Sáng hàng ngày rong ruổi với cỗ bài cào lê la khắp hang cùng ngõ hẻm.

Nhưng nếu sự việc chỉ cứ như vậy tiếp diễn thì Ba Sinh đã yên phận với vị trí của gã. Đàng này cứ mỗi ngày chị Sinh một đổi khác thêm, mái tóc của chị dăm ba ngày thay một kiểu chải, đôi long mày trau tria từng sợi lông tơ, những cái móng tay mài mài giũa giũa hàng giờ đến phát sốt ruột. Đến một hôm lão Sớm ở bên cạnh vách hắt vào gã một câu:

– Nè! Chỉ “le” quá cỡ, tôi “nghi”!

Sinh hỏi:

– Nghi cái gì?

Lão Sớm cười gục gặc:

– Chèn ơi! Sao mà đồ bỏ đến vậy được. Còn nghi cái gì nữa.

Ba Sinh càng ngẩn ngơ:

– Tui hỏi thiệt đó. Ông nói nghi cái gì kia?

Lão Sớm kéo ngay tai Sinh xuống, thì thào. Gã đàn ông la lên:

– Tầm bậy! Ông nói tầm bậy tui xách dao bầu tui rượt đa!

Lão Sớm cười ha hả:

– Rượt đi! Bay rượt tao tới đâu thì tao cũng nói vậy đó. Mày hổng tin mày đi theo nó, tao coi.

Thật là giản dị mà gã không nghĩ ra. Chưa bao giờ gã nghi ngờ gì về sự trong sạch của vợ gã cả. Mà kiểm soát lại điều đó có khó gì. Khi vợ gã đi, gã chỉ việc lót tót đi theo. Nếu quả đúng như lời lão Sớm thì sức mấy mà chị Sinh dấu diếm được gã. Về việc này, Sinh chưa kịp thi hành thì vợ gã đã nói toẹt vô mặt gã. Và cho tới lúc đó gã mới thấy rằng tìm hiểu việc làm của vợ thì dễ, nhưng sau đó sẽ làm gì nữa mới là một chuyện vô cùng nan giải. Từ mấy năm nay, ăn không ngồi rồi quen thân, gã sinh lười biếng và tiêu hao cả chí phấn đấu. Hơn nữa, những biến chuyển ở bên ngoài cuộc sống đi quá mau lẹ khiến gã cảm thấy như bất lực, không thể tham dự được cho dù chỉ một công việc gì nhẹ nhàng, nhỏ mọn. Trong thâm tâm, gã muốn mãi mãi sống như một đứa trẻ, như đã một năm nay gã từng làm thế. Ban ngày lo nấu nướng, giặt gịa. Chiều tối lảng vảng trước mấy rạp chớp bóng bình dân. Gặp phim hay đã coi rồi thì vô coi nữa để cười nói ngả nghiêng hay cãi nhau om xòm với một lũ trẻ lốc nhốc ở những hàng ghế chung quanh. Rồi gã sẽ làm sao đây, khi gã châm ngòi cho cuộc cách mạng trong gia đình gã nổ bùng. Đến bây giờ gã mới thấm thía, thấy rằng nếu không tự lập, tự cường thì chẳng thể làm cách mạng, cách mung gì hết ráo.

Còn đang loay hoay với những ý nghĩ lộn xộn ở trong đầu thì gã thấy thằng Sáng sầm sập ở đâu chạy về. Tóc nó rã rượi, mặt đỏ rừ vì nắng, khắp người thấm đẫm những mồ hôi làm bở ra từng bợt ghét và đất trổ loang lổ trên lớp da đen trùi trũi. Một tay nó thủ ra sau lưng quần, một tay nó cầm xấp bài cào nhỏ bằng hai đốt ngón tay. Nó thở hổn hển như một lực sĩ vừa dự xong một cuộc đua dài. Sinh trừng mắt lên hỏi:

– Mày đi đâu về mà điệu bộ như quân cướp ngày vậy hả?

Sáng vừa thở vừa cười:

– Cướp thiệt đó ba! Tại tụi nó tháu cáy tui, tui mới quơ hết trơn hết trọi. Đ.m. nó chia làm hai cánh vây tui lại mà tui cũng chạy vuột như thường.

Sinh nói:

– Tổ cha mầy! Mầy cứ đánh đu với tụi nó lắm, có ngày nó cho ăn dao con chó. Tao đã dặn mầy chỉ chơi ở quanh quẩn xóm gần đây? Sao mầy không nghe tao gì hết trơn hả!

Sáng không đáp len lén luồn qua chỗ Sinh đứng và đi vào nhà trong. Nó gặp má nó cũng vừa ở nhà tắm đi ra. Chị Sinh ẩm ướt sau làn áo phin mỏng. Mái tóc chị búi ngược lên để lộ cái cổ cao và trắng nõn. Bộ ngực của chị dính sát vào những khoảng áo ướt sũng, căng tròn như hai cái cóng sứ. Chị nhìn thằng Sáng với cặp mắt lạnh lùng. Dưới mắt chị, nó càng ngày càng như cây cỏ dại mọc vươn lên giữa một khoảng đất hoang tàn. Đầu tóc nó bù rối, lủa tủa chĩa ra ở hai bên mang tai. Khuôn mặt nó lúc nào cũng nhếch nháp dính đầy những vết bẩn. Chiếc sơ mi cộc của nó không bao giờ cài hết hàng nút, để phanh ra bộ ngực cháy đen vì ánh nắng. Còn hai cặp đùi của nó chị ví như hai khúc gỗ mốc thếch bám đầy rêu và mốc bẩn. Thằng bé thấy mẹ vội vàng xoắn cỗ bài và những tờ giấy bạc vào cạp quần. Cánh tay của nó đưa lên ngang mũi quẹt dài một cái. Những giọt mồ hôi nhoét ra kéo theo một vết đất dài. Một lát, nó lui cui ở “gác măng dê” lục lạo đồ trong khi mẹ nó lại bàn giở gương lược ra gỡ đầu.

Căn nhà lặng yên được một lát, bỗng thằng Sáng ngứa mồm kể lể:

– Tụi nó khôn hết chỗ chê. Bốn thằng chơi mà ba thằng ăn cánh với nhau rồi. Tui rút Đầm thì tụi nó lên Già, tôi lên Già thì tụi nó có Ách…

Sinh ngắt lời nó:

– Từ giờ tao cấm đó nghen. Hay ho gì cái cờ bạc bịp…

Sáng cãi;

– Nhưng nó bịp chớ tui đâu có bịp…

– Mầy không bịp nhưng cứ cờ bạc vào là hư thân mất nết đi rồi. Bộ mầy tưởng mầy có thể sống đời vào nghề cờ bạc đó sao. Tổ cha mầy, học hành thì không lo học, suốt ngày chạy lót tót như chó điên.

Sáng bị mắng ngang xương, nên cụt hứng, cứ cắm cổ vào lùa cơm mà không nói. Sự im lặng của nó làm ba Sinh phải nói nhiều. Mà càng nói thì cơn giận của gã càng tăng. Bỗng nhiên gã gọi thằng bé lại gần trong lúc nó còn đang húi lúi đơm canh vào bát. Gã thọc tay vào cạp quần nó moi ra những quân bài để rơi lả tả xuống mặt đất. Gã lại hét lên:

– Tổ cha mầy! Ông đốt hết nghe hôn. Từ bữa mai mà ông còn thấy mầy chới với đến cỗ bài thì ông giết. Còn tiền bạc nầy nữa. Tao cũng cấm mày giữ luôn.

Thằng Sáng vùng lên:

– Tui không đánh nữa thì thôi chớ gì. Tiền của tui sao lấy đi.

– Tiền của cha mầy tao cũng lấy. Cho mầy giữ để mầy quen chân tót ra “ngoải” hả. Mà tao nói cho hay, tiền này tao gài lên mái bếp chớ tao hổng thèm xài cái thứ bẩn thỉu, dơ dáy này đâu nghe! Tiền bất lương mà, ai thèm ngó ngàng tới.

Nói rồi gã vo viên nắm giấy bạc lẻ của thằng Sáng đứng dậy… Thằng Sáng trườn người theo níu lấy. Gã đàn ông ốm yếu mất đà chúi người đi. Thằng Sáng được thể nghiến răng bẻ mạnh năm ngón tay của bố đang nắm chặt lấy mấy đồng bạc. Bị đau bất ngờ, Ba Sinh không dằn được cơn tức, quay phắt lại đá thằng con trai một cái thật nên thân. Thằng bé lộn đi một vòng ngã sấp ngay dưới gậm ghế. Thế là nó gào lên và cất mồm chửi bới loạn xạ. Sự hỗn hào của nó làm gã đàn ông với ngay lấy thanh củi ở góc bếp xông ra. Gã phang vào người thằng Sáng bất kể chỗ nào trên thân thể của nó. Sáng đau đớn chồm ngay dậy lao tuốt ra ngoài cửa, co giò vừa chạy vừa văng tên tục của ba Sinh ra, chửi văng mạng.

Trong lúc ấy chị Sinh vẫn thản nhiên ngồi chải tóc và nhổ lông mày ở mặt bàn. Tắm rửa xong, người chị mát như một hòn thạch. Khuôn mặt bầu bĩnh, đầy đặn. Cặp mắt đen và to. Mũi thẳng. Vành môi tươi mỏng và đỏ hồng. Ít khi chị cười, nhưng mỗi lần xỉa răng, chị để lộ hai hàm răng trắng đều và bóng. Ở trong nhà, chỉ có một mình chị là xài bàn chải và thuốc. Thằng Sáng thì chả nói làm gì, còn đến Ba Sinh cũng chỉ có thói quen xúc miệng ba hồi bằng gáo nước giếng và nhổ toẹt lên vách đất. Gã thường nói:

- Tui xài không quen, “xức” thuốc vô miệng nó trôi xuống họng. Cay thấy bà!

Cái tính bẩn thỉu ma bùn ấy trước còn làm chị Sinh khó chịu, sau riết rồi chị cũng chẳng thèm quan tâm tới. Đối với gã, chị thấy gã không hơn gì một tấm bình phong cho phép chị ngang nhiên lao mình vào cuộc sống đầy rẫy phức tạp ở ngoài cuộc đời.

Thoạt tiên chị làm ăn buôn bán một cách lương thiện, cho dù chị bị mất mát đôi ba nụ cười, mấy khóe mắt đưa tình lả lơi với những kẻ có thể án ngữ công cuộc làm ăn của chị. Nhưng thời buổi này, đồng tiền chỉ dễ kiếm khi người ta vứt bỏ cái đạo đức, lương thiện vốn dĩ đã chẳng còn đủ ma lực để khiến cho người ta làm ngơ trước những mớ tiền ngốt mắt mang đến dửng dung. Cho nên, một ngày nào đó hồi ba tháng trước, người bạn hàng trẻ tuổi và thân thiết của chị Sinh bỗng một hôm thẩy ra trước mặt chị một cọc tiền toàn giấy năm trăm và thủng thẳng nói:

– Mầy kiếm trong bao lâu mới đặng chừng này?

Chị Sinh ngơ ngẩn:

– Tới già chưa chắc có!

– Vậy làm theo tao đi. Không đầy nửa buổi đâu cưng.

Chị Sinh hốt hoảng:

– Mầy… mầy… hả?

Cô bạn nheo mắt, mỉm cười. Một lát cô ta tiếp:

– Mất mát gì đâu cưng. Cho chồng con có tiền xài. Cho mình bớt phải so kè từng cắc mỗi lần mua sắm.

Vài ngày sau, chị Sinh sa ngã. Trong tay một anh lính viễn chinh. Trong căn nhà xinh xắn và cực kỳ sang trọng của cô bạn gái cũng cực kỳ thân thiết.

Sửa soạn xong, chị Sinh xách bóp đi ra cửa. Sinh nhất quyết bò dậy hối hả mặc áo đi theo. Ra đến đường cái, chị Sinh vẫy được một cái xe. Chị leo tót lên ngồi. Chiếc xe bon bon chạy. Ba Sinh lúng túng đứng nhìn theo. Một chiếc xe buýt trờ tới. Gã líu ríu trèo lên. Đến đầu phố, chiếc xe kềnh càng bị kẹt lại. Bốn bề xe cộ chi chít như mắc cửi. Gã không còn thấy tăm hơi mầu áo quen thuộc của vợ gã ở nơi nào nữa. Cuộc cách mạng của gã thất bại ngay từ phút khởi đầu. Nghe lão Sớm thì thật là dễ. Chỉ một vấn đề xe cộ nho nhỏ thôi đó nghen, gã đã thấy mình bất lực hoàn toàn.

Chiều hôm đó, gã không vô rạp chớp bóng nữa, mặc dầu hôm đó thay tuồng mới. Vở tuồng mà gã đã tính coi từ tuần trước nhan đề “Kim Đảo Ma Đầu Huyết Thần Chưởng” toàn bộ hai hồi tô màu nói tiếng Việt.

Lần đầu tiên trong hơn một năm trời thất nghiệp của gã, gã đi vào chợ nốc mấy xị rượu đế với tôm khô. Ngồi trong quán cóc, một mình gã ngậm ngùi gậm nhấm những nỗi đau khổ của mình. Đến lúc cơn say bốc lên, gã khật khưỡng cuốc bộ trở về. Như một kẻ được tiêm một liều thuốc hồi sinh, gã cương quyết sẽ thí mạng của mình với sự ngạo nghễ của vợ gã. Gã thề nguyền sẽ bắt mụ đàn bà cắt bỏ những móng tay dơ dáy, đốt bỏ những thứ quần áo lụa là hoa hoét, và những thứ phấn son lủng củng, bất lương mà chị Sinh chất đầy trong hộp gỗ.

Tối hôm đó, thằng Sáng giận bố đi biệt không thấy trở về. Còn chị Sinh thì cho tới lúc gã buồn ngủ ríu mắt, cũng chẳng thấy tăm hơi. Quanh co, đứng ngồi từ chập tối, lưng gã mỏi nhừ, tay chân gã bải hoải. Gã cũng không còn nâng nổi con dao bổ củi mà gã dự tính dùng làm vật phòng thân để đối phó với vợ gã. Đến gần nửa đêm, gã nằm ngáy tít thò lò trên phản gỗ, không đóng cửa, không buông màn, cũng không cả tắt ngọn đèn lù mù mà gã câu nhờ điện hàng xóm.

Sáng hôm sau, gã tỉnh dậy thật sớm. Gã thấy chị Sinh còn ngủ li bì ở mé divan bên kia. Trong giấc ngủ, nom chị hồn nhiên và tươi tắn như dạo nào hai người mới cưới nhau. Gã nghĩ đến con dao bổ củi và thốt nhiên rùng mình. Mấy xị rượu quả là thứ ma túy ghê gớm. Nếu hôm qua gã gặp chị trong cơn say túy lúy, gã nghĩ có lẽ gã đã phạm tội đâm chém vào lớp da thịt mịn màng và thơm tho đó rồi. Bây giờ, vào một buổi sáng tinh mơ, bầu không khí đầy vẻ yên tĩnh và mát mẻ, gã tự thấy có đầy đủ sáng suốt để bào chữa cho chị:

– Nếu nó làm đĩ thì nó đã chẳng nói ra. Nếu nó nói ra thì nó không làm đĩ.

Thốt nhiên, gã thấy mình là một kẻ sành sỏi về tâm lý đàn bà và gã yên tâm với cái lý luận giản dị đó. Gã vui sướng kiếm guốc lần ra nhà sau rửa mặt và xúc miệng toèn toẹt lên vách đất. Một lát gã trở vào lom khom chui vào mùng, chỗ chị Sinh đang ngủ. Hành động làm chồng của gã có vẻ bất lương, và gã cảm thấy rõ ràng mình đang phạm tội, cho dù phạm tội với chính ngay người đàn bà đã từng có con với gã. Bỗng gã tìm thấy một lá thư do chị Sinh giấu ở bên trong mảnh quần lót. Gã tò mò đem ra dưới đèn sáng lẩm nhẩm đọc. Lá thư do chị Sinh viết cho người bạn thân bây giờ đang ở Đà Nẵng mà chị chưa kịp gởi đi. Trong thư chị than thở với cô bạn về cái thai đang nằm trong bụng chị, một kết quả cụ thể sau nửa năm ăn nằm với một người ngoại quốc.

Ba Sinh đặt cái thư lên mặt bàn và lầm lũi đi xuống bếp. Gã nghĩ đến con dao bổ củi và những dự tính mà gã định thi hành từ tối hôm trước. Nhưng hơi rượu đã hả đi rồi, không còn chút ma lực nào khiến gã có đủ can đảm hành hạ thân thể người đàn bà mà trước đó vài phút gã còn tìm thấy những cảm giác êm ái và mát rượi. Bỗng gã nghĩ đến tấm thân đọa đày của gã mà gã chịu giam hãm một cách đui mù trong suốt thời gian ăn không, ngồi rồi. Gã nghĩ đến thằng Sáng và cuộc đời của nó sau này. Tất cả đều là hư hỏng và nhơ nhớp đến độ gã chẳng còn mong muốn hay hy vọng điều gì. Nhìn ra chung quanh, bỗng gã ghê sợ tất cả những đồ vật quen thuộc mà gã đã từng dùng hàng ngày. Nồi cơm, trạn bát, đống củi, hay những manh quần, manh áo vắt rải rác ở chung quanh, không vật nào bây giờ lại không mang một ý nghĩa mỉa mai và nhục nhã.

Gã đứng dậy tiến lại cái gầu kéo nước và tháo ra một đoạn thừng. Trong căn bếp tranh tối, tranh sáng của một ngày sắp rạng đông, gã âm thầm sửa soạn cho quyết định cuối cùng của gã.

Đến khi gã buộc chặt một cái nút cuối cùng thì có tiếng lạch cạch của thằng Sáng nậy cửa bước vào. Nó dặng hắng đánh tiếng rồi len lén lên gác xép như một con chó đi hoang khép nép trở về; một lát, nó cựa mình trên đống chiếu và nói mê lảm nhảm những tiếng tục tĩu mà người ta chỉ nghe thấy trong đám bạc. Ở phía nhà ngoài, hơi thở của chị Sinh vẫn đều hòa và thoải mái.

Gã ba Sinh lắng nghe rồi nhắm mắt và chui đầu vào vòng dây còn ẩm nước.
 

Nhật Tiến     

(Trích trong tập truyện “Giọt Lệ Đen”)
 

Thứ Sáu, 14 tháng 7, 2023

HOA VÔNG VANG - Đỗ Tốn

 

Hồn lưu lạc chưa hề thờ một chúa
Yêu một người ta dâng cả tình thương
H. C.

Ngày ấy Đẩu là một chàng trai mười tám, lòng đang tưng bừng mới nở, trông ai cũng đẹp. Suốt ngày vui cười, sẵn sàng yêu đương, chàng thấy tương lai toàn mầu rực rỡ. Đang đầy tin tưởng thì một hôm chàng gặp Phượng Trinh, một nữ sinh tóc còn cặp sau gáy. Tuy không biết nàng bao nhiêu tuổi nhưng Đẩu cứ cho là mười sáu, và chàng nhủ thầm: “Chỉ mười sáu mới có thể có được cặp mắt sáng thế”.

Lúc ấy là một buổi trưa mùa đông; dưới gió qua vòm cây, Phượng Trinh đang cười trong ánh nắng rung rinh cùng mấy chị em bạn học. Đẩu có mộng ước gì đâu thế mà sao khi vừa gặp, chàng đã vội ngây người đứng ngắm rồi kêu khẽ: “người trong mộng của ta đây rồi”. Tay xách cặp, chân đi đôi guốc phi mã gót cao, lúc ấy Trinh mặc áo mầu xanh gió thổi tung bay thấp thoáng ánh mặt trời. Thế là lòng trai mới mẻ vội chọn nàng giữa trăm bông thắm ; Đẩu đi xa xa theo Trinh về... thì ra Trinh đi qua nhà chàng, nàng ở phố gần đấy.

Từ đấy mỗi ngày hai buổi học tan, Đẩu vội vàng đạp xe thật nhanh về để ngắm Trinh qua, và những chiều nào được nghỉ sớm thì chàng đi bộ lên gần trường Trinh học đứng đợi nàng về để lẳng lặng đi theo sau. Song vì quá yêu, chàng đâm nhút nhát nên chỉ dám nhìn thôi, vả lại Đẩu e Phượng Trinh cho lẫn mình vào con nhà phường-phố bậy bạ nên chàng chỉ theo xa xa. Theo đến gần nhà mình thì Đẩu đi sang bờ hè bên kia rảo bước về cửa nhà đứng đợi. Lần nào chàng cũng nhìn Trinh đi ngang qua! với đôi mắt si ngây... và cũng đã nhiều lần chàng đi theo đến tận nhà Trinh. Cứ như thế mãi, dần dần Trinh cũng hiểu, vì có nhiều bận Đẩu thấy Trinh đã vào trong sân rồi vừa đóng cổng vừa đưa lén mắt ngượng ngập trông trộm lại chàng. Phượng Trinh cũng đã để ý tới chàng trai si-mê mình.

 Mỗi chiều đi học về nàng thường đi thật chậm vui chuyện ríu rít cùng hai chị em bạn về cùng đường - có bận Đẩu thấy giữa một chuyện vui Trinh đứng lại vui thú cười rũ rượi để rơi cả cặp sách ; như một con chim non say nắng mới, Trinh luôn luôn ríu rít cười nói rả rích làm vui cả lòng, Đẩu đứng nhìn.

Từ ngày gặp đôi mắt nhung huyền ảo tươi sáng của Phượng Trinh lòng Đẩu đã mang một nỗi yêu thương khôn cùng. Chàng dò hỏi các bạn quanh vùng về người mơ ước thì biết Trinh theo đạo gia-tô, ngoan ngoãn. Gia-đình Đẩu cũng theo đạo gia-tô, nhưng là con trai nghịch ngợm, chàng không bao giờ đi lễ nhà thờ và cũng chẳng cần biết Đức Chúa Trời là ai. Tuy thế từ ngày biết là sáng chủ nhật nào Trinh cũng đi lễ ở nhà thờ thì mặc dầu trời có rét mướt, Đẩu cũng dậy sớm đi lễ rất ngoan chứ không ngủ trưa nữa. Hôm nào được trông thấy Trinh, hôm nào được luồng mắt đen của nàng nhìn lại, dù là bất ngờ, Đẩu cũng thấy sung sướng hát nghêu ngao rầm cả nhà. Và tối tối chàng lại thường đi qua nhà Trinh để được trông thấy cây dừa, cây trúc đào trong sân trước cửa... chỉ thế thôi cũng đủ cho Đẩu trở về ngủ những giấc mơ yên lành mà luôn luôn Trinh hiện ra tươi cười.

Tuổi trẻ chỉ có một lần mới mẻ nhất: Đẩu yêu không có tận cùng bờ bến. Sách học của chàng chỉ nhằng những tên Phượng Trinh viết đủ các kiểu.

Sau những ngày đi nhà thờ thì Đẩu mới biết là có nhiều chàng trai khác cũng đi nhà thờ ngắm Trinh như chàng... nhưng chưa có ai được lọt vào mắt đen! Riêng Đẩu được nàng để ý. Đẩu cũng cho một phần là do gia đình chàng mà Trinh đã biết, tỏ ra chàng không phải là con nhà bậy bạ, tình chàng là tình chân thật.

Mỗi lần sáng chủ nhật đi nhà thờ, hễ Đẩu thấy dưới luồng mắt của mình Trinh e-lệ luống cuống bước mau hoặc nép vào bên người chị dâu là chàng cũng đủ thấy vui sướng cả ngày, mấy ngày.

Hoa mai đã nở! Mùa đông qua! Tết đến! Bên bát thủy-tiên hương thơm vấn-vít, lòng trai run run, lần đầu Đẩu cầm bút viết mấy lời chúc mừng năm mới... anh viết cho Trinh.

Rồi một buổi đầu xuân Đẩu hỏi Tân, một cô bạn học của Phượng Trinh, thì Đẩu mới biết Trinh là tên gọi ở nhà, chứ “ở trường chỉ gọi nàng là Phượng thôi”. Tân lại nói cho Đẩu biết là các bạn ở lớp đã biết chuyện Đẩu theo Phượng và trêu chế Phượng nhiều lắm nhưng Phượng không hề cãi lại mà chỉ đó mặt cười chạy trước những dịp cười của các bạn...

- “Phượng yêu Đẩu rồi đấy”...

Tân nói thế làm Đẩu sung sướng ngây cả người rồi hỏi:

- Thật à?... Thế thì tôi chết mất!

Chàng trai mới có mười chín, mỗi khi sung sướng quá là chỉ kêu chết.

Từ đấy Đẩu là người sung sướng. Có khi chàng đứng nói chuyện một mình với bờ thang là thường ; có bận người chú vui tính của Đẩu bắt gặp, cười bảo:

- Đứng cười một mình thế thì chó nó cũng biết.

Thế là hai chú cháu nhìn nhau cười hể hả... và lòng Đẩu vui tưng bừng, bình tĩnh mất hết, có lúc chàng ôm lấy thằng nhỏ hét:

- Tao yêu mầy lắm.

Rồi Đẩu viết một lá thư mà chàng đã tốn bao công nắn nót gọt dũa. Những ngày ấy là những ngày sung sướng hồi hộp mà bao cảnh mộng xôn xao trong lòng! Tới một hôm Đẩu dừng xe đạp ở bên đường đợi xe Trinh đi học về qua. Từ xa Đẩu đã nhận được chiếc xe; đến lúc trông rõ Trinh, Đẩu ngượng nghịu cố mỉm cười làm Trinh cũng phải buồn cười luống cuống thẹn ngoảnh đi. Đẩu đạp xe theo, nhưng mãi cũng không dám đi gần, chàng cảm động quá. Được nửa phố, Đẩu lấy hết can đảm đạp xe lên đi kèm cạnh xe Trinh. Giọng nói đã lạc cả tự nhiên Đẩu ngập ngừng:

- Chào Trinh.

Trinh cũng cảm động và thẹn, nàng chỉ đỏ mặt mỉm cười đưa chiếc mù-xoa lên miệng bẽn lẽn cắn, mắt long lanh rộn ràng bao lời êm ái.

Trời, luồng mắt làm Đẩu choáng váng ngây ngất muốn nói mà chẳng nên lời, Đẩu thò tay thả phong thư vào xe Trinh. Như sực tỉnh, Trinh vẫn mỉm cười cầm phong thư đem đưa trả lại miệng kêu khẽ, giọng rất thanh:

- Ấy chết!

Nhưng Đẩu đã hãm xe lùi lại phía sau.

Hồi hộp đợi mấy hôm cũng không thấy Phượng-Trinh trả lời, Đẩu suốt ngày băn khoăn trông ngóng người đưa thư ! Rồi có một buổi kia Đẩu gặp Tân, nàng nói:

- Đẩu bỏ một lá thư vào xe Phượng phải không? Phượng nhờ tôi nói với Đẩu từ rày đừng làm thế, lỡ người ngoài người ta trông thấy thì người ta coi Phượng vào hạng người gì!... có muốn nói gì cứ nói thì hơn...

Nghe xong Đẩu tươi tỉnh đưa tay lên gãi gáy bừng bừng sung sướng rồi đáp:

- Lúc ấy còn nói thế khỉ gì được mà nói!

Chẳng biết Phượng-Trinh có hiểu cho anh như thế?... Chỉ biết sau đó, Đẩu luôn luôn viết thư nhờ Tân đưa thì Trinh nhận. Nhưng mê say chàng đòi hỏi quá nhiều! Đôi lúc Trinh cũng đáp lại, nhưng nói sao được tấm lòng thành thực si-mê của chàng trai mười chín, kể sao được hết nỗi bồng bột! Tuy Trinh có trả lại song ít lắm, chẳng đủ lấp một chút trong không gian to tát của lòng Đẩu. Trinh đã trả lại ít hay chính Đẩu đòi mong quá nhiều!... Nhưng lấp sao được lòng anh thuở ấy, lấp sao được biển cả đương lúc sóng tình dồn dập gào thét.

Chàng trai yêu đắm đuối buổi ban đầu thì còn đâu là bờ bến! Đẩu không cần, không nghĩ gì ngoài “Phượng-Trinh của anh” ra. Bữa nào được Trinh đi học về đã vào đến trong nhà mà còn ngó lại một cái là chàng đủ sung sướng ầm-ỹ. Những hôm ấy có ai tra hỏi gì đâu mà Đẩu cứ vui mừng kể cho chị nghe nào Trinh mặc áo mầu gì, Trinh nhìn lại thế nào v.v... và có cả lần Đẩu khoe: “Chị ạ, hôm nay lạnh trời, cô Trinh mặc một cái măng tô hơi ngắn hơn áo trong một tí, nhưng em trông lại càng thấy đẹp chị ạ, một vẻ đẹp riêng”.

Dần dần chị dâu của Trinh cũng biết Đẩu yêu Trinh (có lẽ Trinh nói) vì nhiều lần gặp Đẩu chị nhìn chàng trai rồi nhìn cô em chồng cười tinh ranh làm Trinh xấu hổ bám nép vào tay chị cười.

Những lúc đó Đẩu sung sướng đứng nhìn bộ tóc cặp xõa xuống lưng rung rinh vui thú.

Có một ngày chủ nhật Đẩu cùng cha đi săn bắn về mệt, nên hôm sau Đẩu nằm nghĩ ở nhà rồi viết một lá thư cho Tân, trong thư chàng nói: “Thế nào, Tân đã xin hộ Trinh cho tôi một tấm hình chưa, cố vào nhá, trăm sự nhờ Tân đấy! À, hôm qua tôi vừa đi săn về, mệt và mệt, phải nằm nhà nghỉ... nhưng nhớ Trinh lắm...”.

 Vài hôm sau Tân nói nàng có cho Phượng xem mảnh thư ấy, và mặc dầu nó nguệch ngoạc nhỏ bé, Phượng cũng đã xin lấy mảnh thư đó. Và Đẩu sung sướng đến ngạt thở khi Tân bảo:

- Thư nào của Đẩu. Phượng cũng giữ cất đi cả...

Thôi, hồn Đẩu phơi phới như lên tới trời xanh!... và những lúc ấy, những lúc quá tin tưởng ấy, anh đã tưởng đời anh sẽ theo một con đường nhất định.

Nhưng tính Đẩu cũng rất trẻ con, trong thư luôn luôn chàng viết những câu không đâu, chẳng hạn: “Cái mũi của Trinh trông ngon như viên kẹo đra-giê (dragée là loại kẹo viên, bên ngoài bọc đường, bên trong có chocolat hay hạt hanh nhân hoặc bánh) ấy” hoặc “tôi thích bắt Trinh mang thả lên đồi có để xem Trinh ca hát chạy nhảy như một con sơn ca”. Tuy thế Trinh cũng vẫn chỉ trả lời: “Thư Đẩu viết vớ vẩn lắm”... nhưng Trinh sung-sướng.

Một hôm Đẩu đang đứng ngóng đợi xe Trinh qua thì có một nữ sinh đi qua tươi cười nhìn chàng. Lòng trai đang đầy nhựa mạnh, sẵn. sàng yêu đương không cưỡng được trước nụ cười cùng đôi mắt đa tình của cô học-sinh tinh-nghịch, Đẩu nhận ngay mối tình dễ dãi!... tuy trong lòng chàng, Phượng-Trinh vẫn là vị chúa có một ngai riêng cao quý mà không ai chạm tới được ; lúc nào Trinh chả là hoa thơm cỏ quý của lòng anh, nhưng trong một lúc, chỉ trong một lúc thôi, Trinh đã thoáng có ý tưởng rằng Đẩu cũng chỉ như một chim trời, thấy rừng xanh thì xà xuống để mai mốt lại bay đi!... Trinh buồn !... nàng hơi ngờ!

Một hôm Đẩu viết thư cho Trinh trong có câu “thời gian trôi chảy, tuổi trẻ qua mau. Trinh còn đợi đến bao giờ mới đáp lại tiếng gọi của lòng tôi!” thì nàng trả lời: “Đã có người đáp lại rồi còn gì!” Chàng trai chết đứng người, chàng tự nguyền rủa mình, rồi chàng buồn lo hối hận, vật vả thâu đêm.

Làm thế nào Trinh hiểu được bây giờ, làm thế nào...?

Song mặc thế tình giữa hai người vẫn bền chặt, nhưng cũng vẫn mơ hồ.

Đã mấy tháng trời theo đuổi mà vẫn chưa lần nào Đẩu được Trinh hẹn hò cho gặp riêng một lần. Người thiếu nữ ngoan ngoãn van tin ở tình chàng trai, nhưng chỉ sẵn lòng đợi chàng đến hỏi làm vợ. Tình yêu mà nàng hiểu là thành thực chỉ có thể đưa tới cuộc hôn nhân... mà Đẩu cũng thành thực muốn thế, song mới có mười chín tuổi chàng đã tính đến chuyện vợ con sao được! Vả lại chưa được cùng nhau hẹn hò một câu, chàng trai chưa dám chắc gì mà dạm hỏi... tuy đã bao lần trong mắt Phượng-Trinh chàng tưởng được thấy hạnh-phúc. Chàng đọc thấy, nhận thấy một vẻ gì dịu-dàng xô đẩy lòng chàng.

“Hay đó chỉ là một hạnh-phúc đơn sơ khó kiếm” Đẩu vẫn băn khoăn tự hỏi thế những lúc không hiểu.

“Ừ, sao không hẹn với nhau một câu, sao không thả hết tình yêu?” Nhưng duyên số...

Rồi có một ngày chủ-nhật mà gió đã nóng, Đẩu đang lang thang ở phố thì thấy một giọng nói vui vẻ bay đến tai hỏi:

- Phượng đâu? Sao lại đi chơi một mình thế? Không đi với Phượng à?

... Tiếp theo là một dịp cười. Đẩu ngơ ngác nhìn lên thì ra Tuyết, cô bạn học cùng lớp với Phượng-Trinh đang đứng trên bao lơn tươi cười nói xuống. Đẩu mỉm cười cám ơn. Độ năm phút sau bất ngờ Đẩu gặp Phượng-Trinh thật. Nàng mặc áo mầu tím đang đi mua hàng may áo nực cùng hai chị. Gặp Đẩu, Trinh bẽn lẽn không dám nhìn, nhưng có một lần Đẩu bắt gặp mắt Trinh ghé qua gáy chị nhìn trộm mình làm chàng sung sướng run cả người. Hôm sau Đẩu vội nhờ Tân đưa cho Trinh một lá thư, trong có đoạn:

“Hôm qua đi phố chơi, tôi đang lang thang thì nghe thấy một giọng nói từ trên trời bay xuống hỏi “Phượng đâu? Sao lại đi chơi một mình thế, không đi với Phượng à? tôi nhìn lên thì ra Tuyết, Trinh ạ - Đấy, đối với tất cả thì Phượng là của tôi đấy, thế mà tôi cứ chưa dám chắc! Trinh thử hỏi hộ cô Phượng, cô Phượng có cái mũi xinh xinh ấy mà, xem Phượng có phải là của tôi không?”

Tuy thế Trinh cũng chỉ trả lời lại Đẩu: Thư Đẩu viết vớ vẩn lắm”.

*

Thời gian qua mau! Hoa cánh phượng đã phơi sắc đỏ rực rỡ dưới nắng gay gắt. Thế là mùa hè đã tới mà hai người vẫn chưa có một lời hò hẹn tuy trong lòng họ thành thực yêu nhau! Người thiếu nữ nền nếp giữ gìn theo luân lý cổ truyền đã đưa chàng trai vào nơi rừng rậm của tình yêu. Đẩu cảm thấy Trinh yêu chàng đấy, nhưng không hiểu được tại sao nàng lại không cho gặp riêng. Mùa hè đã vô tình chia rẽ mối tình thơ ngây: không còn ai đưa hộ thư của Đẩu đến tay Trinh nữa.

Song tuy xa cách, Đẩu vẫn một lòng tin vào duyên số, tin vào tình yêu, tin vào Trinh, chàng vẫn còn nhớ rõ những lúc Trinh từ trong nhà e-lệ nhìn ra, những nụ cười bẽn lẽn những gót chân luống cuống bước mau, những đôi mắt ngượng ngùng bắt gặp... đôi mắt tươi sáng như trăng nước thu trong đã bao lần làm chàng ngây ngất, Đẩu đã vẫn bảo: “Thật anh chưa từng thấy một đôi mắt đẹp hơn trong đời mà anh có nói thì chắc em lại chớp mau e thẹn”. Để tự an ủi trong những ngày xa cách, Đẩu chỉ biết nhớ lại..

Nghỉ hè xong thì Tân ở quê, không ra đi học nữa. Trinh theo học một trường khác, thế là không còn ai đưa thư hộ Đẩu nữa. Chàng chỉ biết đứng nhìn theo xe Phượng-Trinh. Sao Đẩu không đến bên nàng mà thổ lộ nỗi lòng? có lẽ chàng e ngại! Chàng trai mới mười chín tuổi ấy mà! Ở đâu thì chàng hung hăng lắm nhưng trước mặt người yêu thì chàng ngoan ngoãn như một con hươu non. Vả lại Đẩu vẫn tin là Trinh yêu mình, hơn nữa chàng sợ lỡ đến bên làm Trinh phật ý thì sao. Năm ấy hai người ít gặp nhau lắm.

 Một hôm sắp tới mùa hè, Đẩu đi qua nhà Phượng-Trinh... Nhìn vào, chàng thấy Trinh đang bế một đứa cháu nhỏ, con của người anh nàng ; Trinh yêu trẻ con lắm, Đẩu đã thấy nhiều, chiều vừa đi học về là nàng vứt cặp chạy vội vào giành lấy đứa bé ở trong tay u nó. Hôm nay Trinh cũng đang tươi cười bế cháu, nhưng khi nhìn ra thấy Đẩu đương ngắm mình, nàng liền nghiêng đầu hôn đứa nhỏ, mắt đắm đuối vẫn không rời chàng trai.

Đẩu ra về sung sướng đến đau khổ, chàng biết là chiếc hôn đó riêng tặng chàng. Bữa nay cũng như đã bao lần đôi mắt ướt của Phượng-Trinh làm lòng chàng xao xuyến ngây ngất. Nhưng càng thấy Phượng-Trinh cũng yêu mình mà không được thổ lộ nỗi lòng Đẩu càng đau khổ bứt rứt.

 Dần dần thời gian qua, không làm sao được, Đẩu đành lẳng lặng buồn rầu trông mối tình xa cách dần không phương gì nối lại. Tuy biết là chia rẽ nhưng chẳng hiểu tại sao tự đáy lòng sâu, Đẩu vẫn có một tia tin vu vơ, cái tin vô lý của lòng trai chưa hề biết thất vọng.

*

Những giấc mộng đẹp sao hay ngắn ngủi, tuổi trẻ mê tình qua mau như đàn mòng khoang vun vút bay qua cánh đồng rộng để vội vã lẩn biến vào cảnh trời đông u ám ; nghĩ hè năm sau đã lại tới, rồi tới mùa thu ! Một hôm đương ở rừng quê thì Đẩu được bạn viết thơ cho biết Trinh đi lấy chồng: “Cưới chạy tang, bố chết... trông Trinh chẳng vui gì sốt cả v.v...”.

 Như những vết thương đứt quá mạnh làm ta tê đi không thấy đau, mấy ngày đầu Đẩu không thấy buồn ; nhưng sau, nhiều lúc tự nhiên chàng thấy như mất mọi mục đích trong đời, chàng cảm thấy chán nản. Tuy thế chàng vẫn yêu Trinh như trước và vẫn mang máng tin là Trinh yêu mình. Đẩu vẫn nói một mình: “Cứ để mặc anh tin em nhá.”

Chẳng nỡ trở lại ngay chốn cũ, lấy cớ vì năng thức đêm đọc sách nên tâm thần suy nhược, nay cần tĩnh dưỡng, Đẩu ở tịt lại nơi đồi quê tĩnh mịch. Lang thang giữa chốn núi sông điệp điệp, bạn cùng cỏ cây xanh tốt, chàng mong sẽ thấy lại nỗi yên vui... nhưng ngày tháng qua, biết mấy lần trăng rằm đã mọc sau đồi có mà cũng chỉ đủ rọi thêm choáng váng vào cõi lòng tỉnh thức bâng khuâng.

Chàng trai muốn quên mau, song những ngày buồn nản qua không vội vã nên có lúc ngừng ngựa mơ màng ngắm lá vàng bay giữa rừng vắng chàng lại đau thương nhắn hỏi:

- Gió ơi, sao làm tình chóng đứt?...

Hoa tình rụng rơi, bình tĩnh cũng dần dần trở lại, nhưng lòng Đẩu đã bớt tin tưởng!

 Với gió đông về, cuộc đời học-sinh lại nối tiếp ; giữa chốn bạn bè nao nức vui tươi nơi nhà trường, lòng trai đã nhanh bước mau trở lại yêu đời. Rồi một bữa đến, một bữa đông lạnh mà ánh mặt trời chợt bừng sáng chan-hòa giữa gió lạnh vang-vang, đê-mê đứng ngẩn trông theo một tà áo tươi mầu đương phấp-phới đi vào trong nắng gió, Đẩu lại thấy lòng bỗng rộn đập tưng bừng. Cứ thế mà qua mãi, người đời tha hồ bảo yêu có một lần, Đẩu chẳng tin, hoa thì tàn nhưng lòng luôn luôn nở lại, cũng vì thế sau Phượng-Trinh biết mấy chuyện tình thơ ngây đã thành hình rồi tan vỡ! - đôi khi tan vỡ vì những cái không đâu, vì một lời hiểu lầm, vì một chút tự-ái, vì... - Trời! Kể sao cho xiết những nỗi vô lý ở chốn tình-trường: chỉ vì lòng trai quá bồng bột si mê nên tình chẳng bền đậu ! Tuy thế nhiều hôm bất ngờ tình cũ lại vẫn lên trong lòng, Đẩu lại đem ảnh Phượng-Trinh ra ngắm rồi rầu rầu nói sẽ: “Nhưng chưa có mối tình nào đẹp như tình em... Trinh ạ”.

*

Khá lớn lên, chàng trai sớm vội đua theo các bạn vào cuộc đời chơi bời phóng đãng ; dần dần chàng đã trở thành khôn khéo ; quen ra vào nơi tửu điếm nên chàng nói dối đã không ngượng lời, mắt đầy gian trá, nhưng lúc ấy thì người đời lại tin chàng. Từ một đứa trẻ, Đẩu đã trở thành một người... và những mối tình dễ dãi ở mọi chốn chơi bời cứ tiếp tục mà qua mãi. Giữa các cuộc vui nhả nhớt, chàng đắm say tươi cười ; thật lòng trai quên sầu cũng dễ như yêu... nhưng lòng anh đã kém trong sạch, bây giờ khó tìm đâu cho thấy được vẻ sợ sệt nhút nhát si ngây thuở mười tám: một ít vẻ đẹp đã mất.

Đẩu đã yêu khắp nơi đến nấc cùng đâu chàng cũng yêu đến si dại, tuy thế vị ngọt hoa tàn của chuyện qua vẫn mang-mang ủ ấp lòng Đẩu một nổi nhớ thương nhẹ nhàng như làn gió thoảng của một buổi sớm nào êm dịu xa-xôi. Đẩu vẫn chẳng thể quên được người xưa, luôn luôn lòng chàng như nhớ tiếc mối tình ngây thơ cũ, như thiếu chút nắng dịu, thiếu vẻ nồng-nàn mà mắt Trinh chiếu lại. Đã bao lần yêu, đã bao lần sóng gió trong lòng, thế mà khi lắng hết chỉ riêng hình Trinh còn lại như vẫn còn sau cơn bão táp một cây cổ thụ. Chuyện qua đã ăn rễ sâu vào tận thớ tim Đẩu.

Sau đó ít lâu, Đẩu thôi học và về ấp ở với cha mẹ. Hồn Đẩu phức tạp, chàng yêu đồng núi quê hương nhưng chàng cũng không quên làn không khí say sưa của cuộc đời chơi bời: từ nơi ấy Đẩu luôn luôn trở về thủ đô. Một hôm gặp Tuyết, nàng nói cho Đẩu biết:

- “Phượng khen Đẩu bây giờ ngoan lắm, về quê làm ăn rồi, lần nào đến nhà tôi chơi, Phượng cũng nhắc đến Đẩu.

Ngây cả người, Đẩu không hiểu sao Phượng-Trinh lại biết mình về quê làm ăn, “mà mình có làm ăn gì đâu!”... Nhưng Tuyết đã nhìn chàng nói nhỏ:

- Phượng vẫn yêu Đẩu lắm...

Trời, Đẩu muốn khóc lên được! Thấy Đẩu ngây đờ yên lặng, Tuyết mỉm cười nói tiếp:

- Lần nào gặp tôi, Phượng cũng nhắc đến Đẩu cũng như Đẩu gặp tôi cứ hỏi chuyện Phượng ấy mà... sao hai người không lấy nhau nhỉ...

... Rồi Tuyết kể:

- Ngày sắp cưới Phượng ấy, Phượng có chạy đến tôi ; tôi có hỏi sao không lấy Đẩu có hơn không thì Phượng nói: “Tại Đẩu không đến hỏi... mà đợi thì biết Đẩu có ý định lấy Phượng không mà đợi cơ!.. . Phượng bảo “Chả lẽ em lại mang trầu cau đến hỏi Đẩu à?...’’

Nghe xong, Đẩu đau đớn hỏi trách: “Sao Tuyết không nói cho tôi biết ngay từ ngày ấy”... thì Tuyết trả lời:

- Ngày ấy tôi cũng hơi có ý tìm Đẩu nhưng hình như Đẩu ít khi có mặt ở Hà-nội thì phải...

Khẽ gật đầu, Đẩu đứng lặng bâng khuâng...

Từ đấy chàng chỉ biết mang câu duyên-số ra để tự an-ủi, và cũng từ đấy chàng càng tin chắc rằng chẳng bao giờ nữa Phượng-Trinh quên chàng, Đẩu vẫn nhủ thầm:

- Ai quên được những ngày đẹp đẽ trong đời...

Chuyện qua Đẩu vẫn giữ quý như một kho vàng. Lắm lúc bâng khuâng nghĩ lại, Đẩu vẫn thường cau có tự hỏi: “Sao lại cứ nhớ, sao không quên đi cho tâm hồn được thư thái”... nhưng rồi chàng lại nói ngay: “Không, đừng bắt ta quên... Ở đời có những vết thương êm ái. Như ta lúc này ai dám bảo nhẹ buồn là khổ khi đó là dư âm của một thời rạo-rực trở về vang lại trong hồn” Những khi ở Hà-nội, Đẩu vẫn hay đi nhà thờ, nhưng nay không phải vì ai nữa mà vì tin tưởng ở đạo giáo. Vả lại xuân đâu chỉ có một lần, chàng không muốn bỏ một cái gì của những ngày tuổi trẻ tươi thắm đã qua.

Một hôm vô tình Đẩu đi ngang qua nhà vợ chồng Trinh. Nhìn vào, chàng thấy Trinh đương đứng trong căn vườn nhỏ trước nhà như mơ-màng. Có thế thôi mà về nhà chàng cũng sung sướng mãi, và cả ngày nhắc nhở “có lẽ phút này Trinh đương nghĩ đến ta, có lẽ.. có lẽ!” Rồi trên quyển sổ tay biên trăm thứ lặt vặt, chàng viết mấy dòng: “Có lẽ như ngày nào, đôi mày hơi đưa lên, em nhìn vào nơi nào không định. Nghĩ gì thế em? Em, trông gì ở nơi xa ấy, có phải là anh? Em, sao chẳng đáp lại tiếng gọi của lòng anh?”

Viết thế, Đẩu lại nhớ tới câu mà trước kia Trinh trả lời “đã có người đáp lại rồi còn gì”, thế là chàng lại tự đấm vào má vò đầu bứt tóc hối hận. Trinh bây giờ đã hiểu lòng chàng mà sao Trinh ngày ấy lại trả lời chàng thế! Phượng-Trinh có hiểu đâu lòng trai thuở ấy đương thời mới nở, say sưa cảnh đẹp, yêu mến cỏ hoa, mê giọng chim tiếng hót, khao khát tình yêu... như một con hươu non xông vào rừng thẳm để tìm cỏ quí, nhưng anh đã ăn cả cỏ dại lá lạ ở dọc đường! Hoa đẹp nhiều quá, lòng đang mới mẻ, anh giữ sao được không hái một hai bông gần. Đôi lúc nghĩ lại Đẩu vẫn bực tức kêu lên:

- Họ bảo thế là bạc tình... thật họ không hiểu, nhưng ta nói làm sao được! Ta không bao giờ bạc tình mà chỉ nhiều tình quá...

Nhưng tháng ngày qua đi, càng lớn lên càng bận công việc nhiều, ngoài những giấc mơ ngắn ngủi chả mấy khi Đẩu còn được gặp Trinh như xưa, mà cũng chả mấy khi Đẩu gặp được Tuyết để nàng kể cho nghe ít truyện về người cũ. Nhưng cứ mỗi khi Tết đến, mỗi lần ngửi lại hương thủy-tiên nhắc nhở xa khơi, mỗi lần thấy xuân về nở trên cành đào là Đẩu lại thấy hoa tình cũ như cũng nở lại trong lòng mình, vì thế Tết nào chàng cũng vẫn gửi lời chúc mừng năm mới đến người xưa. Tuy chỉ vài giòng ngắn ngủi Trinh cũng hốt hoảng đọc vội, đoạn cầm ép lên ngực nhìn trời chớp mau ; những lúc đó đôi mắt đen trong sáng lại mờ ánh lệ

Họa hoằn có một đôi khi bất ngờ gặp lại trên đường, từ xa Đẩu thường đứng lại bên vỉa hè vờ vĩnh đợi ai để ngắm Trinh qua.... và cặp mắt nhung diễm lệ lại mở to xao động ánh tươi vui khi vô tình đặt tới người cũ.... rồi thôi, cả hai đều bâng khuâng không cười nói với bạn nữa, mà chỉ yên lặng để nghe tiếng lòng thỏ thẻ xôn xao.

Ngắm Trinh qua một buổi rất gần, Đẩu thấy cặp mắt huyền của nàng đã kém vẻ tươi cười như thầm bảo ‘‘em không được sung sướng”. Đẩu biết Trinh đã hiểu lòng mình, nhưng còn đâu nữa! Khi hai người biết được là tình sẽ bền chặt mãi mãi thì ai hay chả đã quá muộn rồi. Tuy thế Đẩu vẫn sung sướng với mối lỡ-làng mà chàng biết sẽ là nguồn an ủi cho chàng suốt đời, sẽ là của cái vô giá của tuổi trẻ mà chàng còn giữ lại được. Đẩu nhận thấy vẻ trong sáng của đôi mắt người yêu sẽ mãi mãi là ánh sáng của đời chàng. Tình yêu xui Đẩu đôi khi có những mộng tưởng không ngờ, cũng như lắm lúc chàng tin rồi ra sẽ có ngày giọng Trinh nói khẽ bên tai: “Ước gì chúng ta cùng trẻ lại.”

Bất ngờ một hôm Đẩu gặp lại Tuyết, hai người vui vẻ trò chuyện xa gần, nhưng rồi cũng nhắc đến Phượng-Trinh... Đẩu hỏi:

- Vừa rồi mới gặp, tôi trông Trinh như có vẻ buồn ấy... gia đình Trinh có chuyện gì không vui không?

Tuyết cười đáp:

- Sao Đẩu lại hỏi thế, Phượng-Trinh ngoan lắm, chồng Phượng chẳng trách Phượng điều  gì cả... bố mẹ chồng cũng vậy...

Đẩu nhíu đôi mày, nói:

- Không biết tại sao tôi trông Phượng như không được vui ; Phượng có được sung sướng không?”

Tuyết thoáng cười:

- Đẩu cũng biết tính Phượng trẻ trung vui đùa là thế, mà chồng thì tính nết như ông cụ ấy...

Tuyết ngừng lại, mắt chớp bâng khuâng rồi mỉm cười nhìn Đẩu nói tiếp:

- Lấy Đẩu thì cố nhiên là vui hơn... À, ngày xưa ấy mà, dạo Phượng chưa đi lấy chồng ấy, một lần Phượng thấy trong sách ảnh của tôi có tấm ảnh của Đẩu chụp ngồi ở đống rơm, thế rồi Phượng cứ lấy, làm tôi phải đòi mãi

Đẩu đứng yên lặng bùi ngùi trong sung sướng ! Thấy bạn có vẻ buồn tiếc, Tuyết hạ giọng:

- Thôi chả cần Đẩu ạ, hình Đẩu ở trong tim Phượng tôi tưởng cũng đủ rồi.

Từ đấy mỗi lần gặp người yêu cũ là Đẩu thấy như mình đương sống lại thời mê say thuở mười tám. Trong mắt Phượng-Trinh chàng thấy lại một ít tuổi nhỏ, một chút nắng sưởi cho lòng chàng ấm dịu, chút nắng thừa của một thời xa xôi. Những lúc đó. Đẩu chỉ biết đứng nhìn theo cho tới nẻo đường đã khuất mà tà áo Trinh còn phấp phới bay, rồi chàng bàng hoàng ngẩn ngơ nói một mình:

- Trời ơi, đôi mắt đen quá, sáng quá, phải chăng là những tấm gương phản chiếu mầu tươi sắc thắm của những ngày rực rỡ...

*

Tới một hôm chẳng hẹn trước, Tuyết rủ Đẩu đến nhà Phượng-Trinh chơi. Gặp lại bao nỗi ngượng ngùng. Trinh cười sung sướng, song bẽn lẽn cũng nhuộm hồng đôi má ; còn Đẩu thì ngây ngất cảm động ngắm bạn lòng cũ. Trước mặt chàng trai giọng Trinh nói chuyện với Tuyết mất cả tự nhiên ; Đẩu ngồi nhìn lòng lâng lâng sung sướng ; có một lúc Trinh mỉm cười e lệ quay sang hỏi Đẩu:

- Hình như dạo này không hay gặp ông đi lễ.

Phượng-Trinh gọi Đẩu bằng “ông”! Nhưng làm thế nào, nàng đã có chồng! Nghe Trinh gọi mình như thế, Đẩu thấy nhói vào tim, nhưng hiểu tình thế mới, chàng vội trả lời:

- Độ này tôi ở nhà quê luôn... thỉnh thoảng mới về Hà-nội thành ra Trinh không gặp...

Ngừng một giây, Đẩu mỉm cười nói tiếp:

- Với lại ngày xưa tôi có đi lễ bao giờ đâu... từ ngày biết Trinh tôi mới đi nhà thờ đấy chứ... Trinh đã cứu vớt một linh hồn mà Trinh không biết...

Răng trên khẽ cắn lên môi dưới e-thẹn, Trinh mỉm cười đỏ hồng cả má rồi đưa ngón tay lên miệng cắn cắn cảm động, đoạn nàng nhìn Tuyết cười ngượng nghịu cất tiếng bảo:

- Đi lễ thế thì chả... được phúc.

Nhưng mắt nàng sáng ngời, phải chăng vì duyên cũ! Ánh sáng ấy cũng đủ khêu lại lòng Đẩu ngọn lửa đã gần tàn ; và trông Trinh cười đắm say, Đẩu thấy nụ cười tươi thắm ấy như đưa chàng vào một vườn nắng nhẹ gió vừa. Đẩu ra về với ít hoa nở lại trong lòng, với ít tin tưởng rằng sẽ chẳng bao giờ hương tình cũ đến nỗi tan bay hết. Đời còn tươi đẹp và tươi lại vườn tình đang úa. Đẩu sung sướng trở lại nơi đồi núi quê và mang theo trong tim đôi mắt tươi cười của Trinh, đôi mắt trong sáng như tráng làn nước trong đã bao lần làm anh ngây ngất khi buổi đầu dịu dàng nhìn lại...

Vài hôm sau, một chiều vừa cưỡi ngựa đi chơi núi về thì Đẩu nhận được một phong thư, trong có đoạn Tuyết viết: “Hôm qua Phượng lại nhà tôi chơi và bảo: “Bữa nọ, lúc vào tới phòng tiếp khách, thoạt trông thấy Đẩu, Phượng choáng váng ngạc nhiên đứng dừng lại...”

Thôi thế cũng đủ làm Đẩu sung sướng đến rưng rưng nước mắt. Tay vẫn cầm lá thư, lơ đãng, chàng lững thững đưa bước ra phía đồi sau nhà. Trời mát! Tóc thoảng nhẹ bay phất phơ trên trán... bâng khuâng vô tình đứng trông mấy bông vông-vang phất phơ bên bụi cỏ đương kín đáo cúp lại trong gió chiều êm đềm, Đẩu lại thấy lòng bỗng tràn đầy tin tưởng như buổi mới... và man mác hy vọng, chàng nhủ khẽ:

- Hoa còn có loài chiều hôm cúp vào để sớm mai nở lại em ạ, thì tình ta sao chả có lúc nối theo...

 
ĐỖ TỐN      
 
 

Thứ Ba, 11 tháng 7, 2023

NGÀY XƯA ẤY - Phạm Ngọc Lư

 


 
 
 
 
 
 
 
  
 
 
 
 
 
 
 
Cô bé nhỏ ơi, mười lăm chưa?
Cho tôi xin bím tóc cài nơ
Che mái đời quanh năm gió tạt
Lớp hiên tình dột nắng xuyên mưa
 
Mười bốn mười lăm lớn rồi đây
Có bao đường chỉ trên bàn tay
Xin cô trói muôn đời tôi lại
Đừng thả tôi về kiếp chim bay 

Bé nhỏ sao má thẹn má hồng
Mắt nheo mắt nguýt, khổ tôi không
Van cô đừng ra chơi bến nước
Thấy thuyền mà mơ chuyện sang sông

Mười chín hai mươi này tiểu thư
Lạc đâu rồi cái bé năm xưa
Lối nào quên nón rơm guốc mộc
Phương nào bay áo mộng khăn mơ

Ngày cô ra bến nước rửa chân
Nước vô duyên nhắc chuyện qua sông
Trời xui tôi làm con thuyền giấy
Bím tóc cài nơ chở rối lòng

                                 PHẠM NGỌC LƯ

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 42)

Thứ Bảy, 8 tháng 7, 2023

THƯ THI - Hoàng Ngọc Tuấn

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
(Phần bổ túc cho truyện Thư Về Đường Sơn Cúc)
 
 Ngày... ngày, tháng... tháng, năm... năm.

Bạn lớn

Có nhận được thư viết trên giấy hồng của em không
Chắc người đưa thư đã làm mất
Vì nếu nhận được
Sao anh im lìm, câm và lười như thế
Nhớ viết một dòng cho em yên tâm
Rằng anh không phải là nhân vật chính
Của đoạn kết truyện "Không còn ai trả lời"
Một hôm đi qua cầu là đi luôn không trở lại
Đừng cấm em tưởng tượng
Nên em đã tưởng tượng rằng mọi chuyện thế là tan đi
Làm em đạp xe đạp một mạch xuống biển
Tìm vài cọng cỏ chong chong chích vào tay mình
Nhưng mùa hè này tháng sáu mùa hè
Cỏ đã khô vàng héo úa bay bời đâu mất
Hè ơi đã đến cổng trường vừa khép
Học trò nôn nao vui buồn chia tay nhau
Thầy chia tay cô, Hiệu Trưởng chia tay ông Giám Học
Bác gác dan chia tay bà bán nước mía
Và anh thì không đợi đến mùa ly biệt
Anh đã chia tay em lâu rồi phải không
Mùa gặp đầu tiên mùa thương thứ nhất mùa quên cuối cùng
Cuộc đời là chi đôi lứa là chi mà lạ lùng như thế
 
 
2
 
Có bao giờ anh để ý đến
Những lá cỏ non bé nhỏ và hay buồn
Hay bị lãng quên nên thường hay tủi thân
Mắt nó ướt mắt nó ướt
Anh không tin sao
Đó, những hạt sương mai những hạt sương chiều
Những hạt sương khuya óng mềm là bằng cớ
Ôi nước mắt cỏ non
Làm sao mặn bằng nước mắt em
Không những mặn mà còn thêm vị chát
Như hôm nào anh đã ví em
Với những gì chua non nhất của cõi trần
Với những gì đắng chát nhất của trần thế 


3

Gởi đến anh
Những trang cảo thơm lần giở
Tagore:
"Những ai ở gần em
Đều không hiểu rằng
Lời nói của họ chỉ đem em vào lòng anh
Những ai yêu em
Đều không hiểu rằng
Tình yêu của họ chỉ đem em vào lòng anh"
Thêm nữa, Nikos:
"Cặp mắt cô ghi uổng công hình ảnh... của người yêu dấu
Trong một vài năm nữa
Ta còn nhớ được đôi mắt chàng xanh hay đen"
Thì em sẽ nói
Đôi mắt chàng xanh hay đen là tùy theo mắt em
Vì mắt anh đã hơn một lần bị nhốt trong mắt em rồi đó


4

Một năm dĩ nhiên có ba trăm sáu mươi lăm ngày
Ta chỉ có chừng năm ngày gặp nhau
Thì có gì đâu mà anh thêm thắt thành chuyện trường thiên
Thế mà than ôi anh đã vẽ vời bịa đặt
Còn nhiều hơn, còn quá sức tưởng tượng
Thế có phải là anh đang tập ghét em
Sau khi đã tập quên những lời anh hứa
Anh yêu thương của em anh còn nhớ gì không
Những lời anh hứa với em trong hầm gió


5

May cho anh là em chưa kịp giận anh
Đã đến ngày khai trường chao ơi biết bao bận rộn
Làm em quên cả giận hờn
Để em kể cho anh nghe ngày em đến trường
Buổi thứ nhất mở đầu năm học mới
Áo trắng mới cặp mới giày mới nón mới
Chỉ có chiếc ví tay nho nhỏ màu hồng là cũ
Từ tháng tư năm ngoái anh đã cho em
Mà lâu nay em vẫn còn cất giữ
Như đã giữ cuốn truyện thần tiên Alice nhiều hình màu
Và băng nhạc dầu đã mòn vì phải xoay biết bao nhiêu vòng
Trong những đêm nhớ anh đành tìm nhạc thế người
Nốt nhạc rung theo tiếng đàn trầm
Bàng hoàng mê như lần hôn đầu sảng sốt
Theo hơi khói thuốc anh còn vương
Trong những bao thuốc lá rỗng không bị vò nát
Và những hộp diêm cũng rỗng không
Mà em cũng còn cất giữ
Thôi... phải quên đi những điều đó
Vì ngày mai là khai giảng rồi
Em phải dậy sớm trước nhất lên trường dành chỗ
Chiếm cho được một ghế ngồi bàn đầu
Để chiêm ngưỡng dung nhan thầy cô cho rõ
Và để mình được nhớ rõ mặt mày
Hầu kiếm thêm vài điểm cảm tình sau khi làm bài thi lục cá nguyệt
Năm nay em đã lên lớp mười hai mà vẫn như thuở nào
Thời còn lớp sáu sớm tinh mơ là hối hả đến trường
Với bánh mì và vở mới thơm phức ngon lành trong cặp
Ngày mai ngày mai trường lớp cũ
Nhớ quá đi sân cỏ và bạn bè
Thành thực mà nói
Em bây giờ thương anh ít hơn là thương ngôi trường nhỏ
Em đang đợi ngày mai


6

Sao anh không báo trước cho em
Những điều anh làm đã phai ố đi chân tình cũ
Bây giờ em thương tiếc biết bao
Cái tình bằng hữu vong niên ngày trước của ta
Trong vắt như trăng sương đã trôi qua
Mà lẽ ra không nên vương chút bụi
Alissa Alissa Alissa
Thiên nữ quên mình, chịu đi qua "khung cửa hẹp"
Nàng đã một lần giống em mà giờ khác xa em
Anh đâu biết ở đây cả nhà giận thiên hạ giận
Em cũng giận, oán ghét và thương anh lẫn lộn
Con sói rừng hung hăng cô độc của em
Con sói hồn tươi trẻ mà đôi môi già cỗi của em
Anh.


7

Chiều đó anh đi mô mà mất biệt
Em chờ anh suốt buổi
Trong sân giáo đường nhiều người ra kẻ vào
Quỳ gối hứng những giọt nước thánh
Con đường với nhiều gốc cây to tưởng chừng như có anh đang đứng nấp
Nhưng mà vẫn không
Trời bỗng đổ cơn mưa bất ngờ
Em ướt như chuột tóc rối vào nhau coi xấu ghê đi
Mưa trút bên ngoài và mưa lăn trong góc mắt em
Em nhất định mình sẽ không khóc
Lắng nghe trên môi những giọt nước mưa mặn
Nhìn xuống áo mình đã lấm dấu bùn trên đường lầy
Chiếc áo dài hồng của lần gặp đầu tiên anh còn có nhớ
Và buổi tối dần xuống
Anh vẫn đi mô không thấy về
Trời ơi đi đâu đi hoài đi hủy
Báo hại mình em đứng rã rời trong bóng tối
Tủi buồn như con mèo đói (thật thế, em đang đói bụng)
Thiên hạ xa xôi người đâu có biết
Có kẻ "người dưng khác họ"
Em đang chờ hôm nay


8

Đã thật xa nơi chốn của anh mới bình tâm trở lại
Mặc dầu mình có quá nhiều điểm khác biệt nhau
Nhưng mà em vẫn cứ thương anh, nghe không
Nhưng giấc mộng chung lối trọn đời
Chắc là không bao giờ thành tựu
Em muốn xa anh xa anh trong năm mười năm nữa
Để trắc nghiệm cái đầu óc dễ quên dễ chán của anh
Anh có chờ em được không
Chắc là không
Thì thôi, bổn phận của em là phải tan phải biến
Là những vết bút chì loăng quăng dễ dàng bôi xóa
Hãy cầm bằng em như là một bóng ma
Thực là hồn, xác là hư
Đã một thời yêu thương
Đã một thời gần gũi
Mà giờ đành thăng thiên


9

Nhìn lại em coi
Như rơm rạ xác xơ cỏ úa tầm thường đen đúa lọ lem
Với những ngả rẽ đợi chờ trước mặt
Rối mù như mưa, thị thành núi lạ sách vở gia đình
Đất đai vô tình trái tim bệnh hoạn
Và những vết mực xạ trong hồn
Theo bàn tay anh khắc trên tay em
Một lần, nhiều lần, thế là chẳng phai mãi mãi
Nhưng mà mình vẫn phải quên nhau
Cho cuộc đời anh thênh thang
Cho cõi sống em yên bình gỗ đá


10

Quên chưa
Nếu chưa
Sáng thức dậy nhớ gượng cười và nhớ em
Tối đi ngủ nhớ cười gượng và gọi tên em
Để cho em ngoài này hắt hơi vài cái
Cho em tỉnh ngủ
Vì mấy ngày hôm nay đâm ra lười quá
Học hành chẳng vô
Bực mình quẳng vở
Ôm lấy đàn tranh 
Tập tành khảy khúc
Tình tang tang tình


11

Ai bảo lỡ nuôi hồn nhau
Bằng những lá thư như xoài sống tê răng
Có nuôi thì cũng có ngày sổng chuồng mất biến
Lâu nay mình dường như lạ mặt
Thế là đã lạc nhau
Thế là đã đứt mất cái mỏng manh hơn tơ trời
Thôi đây là lá thư cuối cùng
Giấy mực này có giúp ích gì nhau đâu
Rồi sẽ đi đến đâu
Những lá thư về đường Sơn Cúc rồi sẽ đi đến đâu
Những lá thư từ đường Sơn Cúc rồi sẽ đi đến đâu
Ngày hôm nay có lẽ em nên chấm dứt
Em sẽ không viết gì cho anh nữa
Dầu em đã nhận lấy sâu trong người
Những khốn khó anh mang những nỗi đau anh chịu
Đã như bệnh truyền nhiễm lây vào người em
Em sẽ giam anh suốt đời
Trong một ngăn của tim óc và da thịt
Trong ngăn nhớ cất kỹ đến ngàn sau
Em sẽ nhốt anh chung thân mãi mãi
Trong cánh đồng tuổi nhỏ có rào quanh
Cánh đồng thơ ngây thứ nhất của tình xanh
Xanh như làn da run run thở buổi đầu tiên
Xanh một lần tái tê, xanh một đời lạnh ngắt


12

Thôi nghe
Nhưng làm sao ly thân nhau đây
Có dễ dàng như Twinky xoay ba vòng trên bờ biển
Thế là quên
Có thật dễ dàng
Xoay mình ba vòng là quên đi tất cả
Anh thử cùng em xem
Xoay ba vòng trên đất
Xoay ba vòng trên đất
Lảo đảo trái tim tháng ngày mai sau chóng mặt.

                                                   HOÀNG NGỌC TUẤN

(Trích từ tạp chí Văn số tháng 3-1975)