Thứ Bảy, 27 tháng 5, 2023

CĂN NHÀ CỦA MẸ - Thế Uyên

 

Mỗi người đều cần có một quê hương để trở về vào tuổi già hay vào những thời kỳ mệt mỏi hay chán nản trong đời. Bởi thế, ai mất quê hương thực sự của mình, đều phải tạo ra quê hương mới bằng cách này hay bằng cách khác.

Rời miền Bắc sau 1954, mang lũ chúng tôi vào Nam, bố mẹ tôi đã từ bỏ nhiều thứ trong đó có quê nội và quê ngoại, một quá khứ khá dài những vui buồn, và căn nhà đã tạo dựng bằng công khó của hai người, nhất là bằng dấu vết những bàn chân nhỏ cùng các tiếng khóc tiếng cười của đứa bé đã sinh ra và lớn lên trong đó. Tết năm ấy, tết tha hương đầu tiên, bố mẹ tôi không hề buồn bởi vì hai người chưa già và trừ người con lớn còn ở trong quân ngũ nơi xa, gia đình tôi sum họp đầy đủ trong căn nhà cũ kỹ tồi tàn không điện không nước của khu Bàn Cờ. Tết năm ấy, năm của hòa bình, hầu hết những người dân hai miền còn đầy hi vọng ở tương lai.

Rồi ngày tháng theo nhau qua. Niềm hi vọng ở tương lai của mọi người có còn nguyên vẹn như thế không, tôi không biết. Tôi chỉ biết vào một ngày cuối năm, thứ hi vọng ở tương lai của gia đình khiêm tốn của tôi đã suy giảm nhiều. Lý do thật giản dị: bố tôi, cột trụ của gia đình, đã thấm mệt, đã chịu thua cuộc đời, đi vào tuổi già. Ông đã cam chịu làm một công chức nhỏ cho một cơ quan thuộc binh chủng lo làm nhà, xây cầu cho quân đội. Ông không còn nói tới lo xin ra báo, mở nhà in, tái lập thời kỳ huy hoàng của ông trong những năm còn trẻ. Trong một đêm khuya đi chơi về, bắt gặp ông còn thức soạn chống giấy tờ cũ – những tấm thiếp mời ông buổi lễ này, tiệc rượu nọ của cả một thời kỳ đã qua – dưới ánh đèn dầu lù mù và trong tiếng xe chạy ào ào trên con lộ lớn trước nhà, tôi đột nhiên cảm thấy từ thâm tâm một cái gì thúc đẩy tôi ngồi xuống đấy với ông, nói gì chưa biết, nhưng phải ngồi... Hình như đây là lần đầu tiên tôi lờ mờ ý thức được thế nào là cô đơn của một người thất bại về già bó gối chịu thua. Trong căn nhà tồi tàn này, có đầy đủ vợ con nằm ngủ yên chung quanh, nhưng có những nỗi cô đơn tự bản chất đã không sao chia sẻ nổi...

Tôi đã tới ngồi chiếc ghế bên này chiếc bàn mộc, vơ vẩn đọc những tấm thiếp cũ xưa ấy, nghe người già ngồi bên kia nói về cuộc đời, về tuổi trẻ, về những ước vọng vang bóng một thời. Ông nói ông đã làm thất vọng nhiều người, trong đó có mẹ tôi, con gái duy nhất của một gia đình nhiều danh tiếng về văn học cũng như về đấu tranh cách mạng. Ông đã quá rong chơi, quá phung phí tuổi trẻ, để rồi tới lúc này không còn gì. Không một danh tiếng, cũng không cả gia sản. Và vì dù sao cũng là kẻ cuối cùng của một dòng kẻ sĩ lâu đời, ông đã vừa phải khước từ một đề nghị chính trị nhiều bá đạo nhưng cũng nhiều quyền lợi của chính quyền đương thời... Như vậy ông chỉ còn một đời sống khiêm tốn để sống, cuộc đời của một công chức già và một căn nhà nhỏ mới được cơ quan cấp phát cho trong một cư xá hỗn hợp, căn nhà ông hẹn tôi mai sớm tới sở kiếm ông để cùng sang nhận. Trong khuya, không biết là vào giờ nào của đêm, ông trầm giọng: “... Sau này, bố chỉ ao ước các con làm được cho bố một căn nhà tranh ba gian hai chái trên nền đất nện, trước nhà đào một ao nhỏ có cầu ao dẫn xuống mặt nước nuôi bèo để không cho xanh um, ở ven đô nào cũng được.”

Tính ông chuyên đoán nên bố con ít khi nói chuyện nhiều, chưa kể có thời kỳ tôi còn ghét ông vì bị bắt phải làm những điều ông muốn và tôi không ưa. Những đêm nay, lần đầu tiên từ khi lớn lên, tôi hiểu bố được một phần nào. Một thoáng nghẹn ngào lẩn khuất với tình thương mến. Tôi cất tiếng nói, nói rất nhiều. Bây giờ đến lượt ông ngồi nghe tôi nói về những ước vọng của tôi – những ước vọng dĩ nhiên thật cao xa của một thanh niên mới lớn.

Chẳng biết ông có tin các lời đao to búa lớn ấy của tôi không, nhưng ít nhất buổi nói chuyện trong đêm cũng làm hai bố con dễ chịu với nhau hơn khi cùng đến nhận căn nhà nằm đầu dẫy của một khu nhà dành cho binh sĩ và nhân viên quân chính. Căn nhà nhìn ra bãi cỏ hoang đầy vòng kẽm gai cũ rỉ, sát vách bên là một đống khối bê-tông lớn xếp hỗn độn do đạo quân viễn chinh Pháp bỏ lại, căn nhà vào mùa mưa thì nước ngập và mùa nắng thì mái tôn hừng hực chói chang.

Gia đình tôi dọn tới ở căn nhà ấy và ở thật lâu. Mẹ tôi vốn có tài thích ứng về mọi sự và nhất là về nhà cửa ruộng vườn. Bãi cỏ hoang, mẹ tôi phát cỏ, cuốc đất lên làm thành vườn. Mẹ tôi trồng nhiều cây trứng cá, vì chúng “… vừa chóng có bóng mát, vừa chóng có trái cho chúng này chọc ăn.” Mẹ tôi đục thêm cửa sổ bên hông nhà và khi bọn tôi kêu lên khôi hài là nhìn qua đó thấy đống đá non bộ (các khối bê-tông ấy) đẹp như thế mà thiếu hàng trúc thưa, bà đi trồng hai rặng mía vì “... đốt mía đẹp kém gì trúc mà lại ăn được.” Cứ với quan niệm dung hòa mỹ thuật với thực phẩm ấy, khu vườn nhà tôi dĩ nhiên không thể thiếu vài luống sắn thân và lá thật đẹp mỗi khi trời xanh cao và nhiều nắng. Trong căn nhà nhỏ, và trong khu vườn vừa đẹp vừa ngon do mẹ tôi tạo dựng ấy, chúng tôi đã sống những ngày thật vui và nhiều hạnh phúc. Anh Lam tôi đã đưa chị dâu tôi về ngồi dưới bóng mát của các cây trứng cá nở đầy hoa trắng, đêm trăng trông như có sương đọng. Tôi đã từng đưa người yêu của tôi, người sẽ theo gót chị Lam về làm dâu thứ trong căn nhà này, đi giữa hai luống sắn, ven rặng mía dưới vòm hoa ti-gôn. Tôi đã từng bắc thang đưa nàng lên mái nhà, nơi đứa em trai đã sửa cây, xếp cành thành một vùng nho nhỏ như tổ chim - một chỗ để hôn nhau. Rồi đứa em gái kế đã hôn người yêu ngoài bờ cỏ sau bụi tre, đã khóc đã cười và đã đi lấy chồng cũng từ trong căn nhà của bố và khu vườn của mẹ...

Những năm tháng vui tươi rồi cũng qua đi, chiến tranh đã bộc phát dữ dội làm phân tán lũ con và gửi những sợi tóc đốm bạc lên mái tóc bố tôi. Từ lâu rồi, ông suy yếu nhanh vì bệnh lao. Đêm Trung Thu chót, khi chúng tôi treo đèn xếp đầy vườn, trên ngọn cây sắn ẻo lả, trên cành cây, trong lùm tre và bày cỗ ăn bánh uống trà vui vẻ ngoài vườn, ông chỉ còn đủ sức ngồi thu người trên ghế, vừa hút thuốc vừa ho nhìn ra. Bởi thế, khi bước chân vào quân trường, tôi đã nghĩ không hiểu rằng khi chết, ông liệu có được bao đứa con bên giường...

Và tin ông chết trong bệnh viện Cộng Hòa chết một mình, đến với tôi khi vừa tập trận ở một bãi xa về. Trong khi chờ đợi giấy phép bạn bè đang chạy tứ tung xin hộ, tôi ngồi ở một bệ xi-măng ven Võ đình trường, nhớ tới ông trong những ngày gặp chót - gặp thật ngắn vì thời hạn đi phép đã chẳng dài bao nhiêu, tôi lại dành hầu hết cho Thi và cho tôi. Lần phép chót, khi tôi mặc xong quân phục, cầm mũ đi ra, ông đã gọi giật lại, ngập ngừng hỏi tôi còn tiền hay không. Tôi mở ví ra còn hơn ba trăm, chia cho bố một nửa... Nước mắt tôi rớt trên cát vỡ các hình ngôi sao nâu, nhưng tôi không kìm giữ vì biết rằng tối nay, vì ở gần Saigon nhất, tôi sẽ là đứa con độc nhất về kịp với mẹ. Trong căn nhà, trong khu vườn, tôi cần trấn tĩnh. Còn ở đây, Võ đình trường trải dài vắng ngắt trong rạng chiều... Tôi chỉ khóc ông một lần nữa sau khi mộ đã đắp, ông đã yên nghỉ trong một nghĩa trang xa lạ, yên nghỉ vĩnh viễn trước khi tôi thực hiện nổi giấc mơ nhỏ của ông trong tuổi già, là làm một căn nhà tranh ba gian hai chái trên nền đất nện, trước nhà có một ao nhỏ thả bèo cho xanh…

Ông chết đi, sau khi tiền tử tuất đã trả, cơ quan đòi lại căn nhà đã cấp phát từ bao năm. Mẹ tôi có báo cho tôi biết, nhưng thân làm lính trấn thủ lưu đồn, tôi làm gì được. Chẳng lẽ để các con nhỏ đi ở nhờ bà con họ hàng, mẹ tôi tới cơ quan cầu xin. Chồng chết không gia sản, các con trai đã đi lính hết, mỗi đứa một sư đoàn xa… Thế rồi mẹ tôi được cơ quan chấp thuận cho tạm trú ở khoảng đất ngay sát nhà. Còn căn nhà, vẫn phải trả.

Mất căn nhà nhưng còn được khu vườn, mẹ tôi đi vay tiền, xin vật liệu về chất đống, nhưng chưa khởi công vì còn đợi tôi về “cất nóc” hay “thượng lương” chi đó. Tới kỳ về phép, ngồi giữa đống gỗ ngổn ngang, tôi uống trà với mẹ trong khu vườn mà sốt ruột chỉ muốn đi – vì Thi ngồi ngay bên, trong vòng tay và bây giờ hai đứa tôi không cần “một chỗ để hôn” nữa, mà cần tìm một chỗ để yêu nhau. Xong tuần trà, mẹ tôi gọi tôi ra khởi công làm nhà. Tôi nhăn nhó vì sợ mất nhiều thì giờ, nhưng thực ra không có gì: tôi nâng một cái sà gỗ đầu tiên cho mẹ tôi đóng. Thế là xong lễ cất nóc cho một ngôi nhà.

Nhưng căn nhà của mẹ tôi hẳn phải không giống như mọi người. Thiếu gỗ, mẹ chỉ làm có ba vách, vách thứ tư là tường căn nhà cũ. Dù chỉ ba vách cũng vẫn thiếu gỗ nên cả mặt tiền chỉ làm gỗ phân nửa dưới,  còn nửa trên đóng lưới, trong làm màn ngoài treo mành tre. Căn nhà trống trải đến nỗi mỗi khi có gió lớn thổi, lá khô theo các khe hở rơi lả tả đầy nhà và khi mưa lớn thì đúng là cơn gió bốn bề. Một căn nhà “gần” thiên nhiên đến mức tối đa, chim làm tổ trên đình màn và đêm khuya dế kêu ri rỉ dưới gầm giường. Nhưng quả là một căn nhà kiểu liêu trai cho một hàn sĩ trẻ và tôi đã nhiều lần mời bạn văn đến uống rượu nhân dịp xuất bản những tác phẩm đầu tiên trong nơi này, trong căn nhà của mẹ và khu vườn của mẹ.

Rồi thời gian qua nữa. Sau khi phiêu bạt nhiều đơn vị của ba vùng chiến thuật, tôi mới được đổi về Saigon. Khi ấy cấp chỉ huy binh chủng sở hữu khu nhà quyết định dùng khoảng đất trong có khu vườn của mẹ dự trù làm bể bơi hay sân quần vợt chi đó và xe ủi đất cơ hữu đơn vị đã tới san bằng. Khi tôi về, cứ như Từ Thúc về trần, khu vườn đã biến mất không còn đấu vết. Mẹ tôi chỉ nói là đã hết sức năn nỉ mấy người lính mới giữ được một cây trứng cá duy nhất bây giờ đã gần như cổ thụ mọc sát vách nhà. Tôi thoáng buồn rầu khi hiểu tại sao mẹ tôi không tới năn nỉ xin các cấp chỉ huy khu đó, mà chỉ đi nói với mấy người lính lái xe. Và tôi không đủ can đảm để hỏi mẹ tôi khi năn nỉ, liệu có nói các con bà đều là lính như họ, ủi thì ủi, chớ ủi nhà mẹ già em nhỏ của chúng bay không...

Một thời gian sau mẹ tôi theo hai đứa em gái chót lên Đà Lạt và tôi cùng gia đình riêng mới tạo dựng, dọn về nhà mẹ ở. Trước khi đi, mẹ dặn coi chừng là có tin đồn sắp có lệnh dỡ nhà trả đất vì cấp chỉ huy binh chủng định biến khu này thành cư xá sĩ quan. Mẹ chẳng dặn thì tôi cũng coi chừng. Làm sao nỡ để mất của mẹ, căn nhà của cả một thời kỳ, căn nhà duy nhất bọn tôi có được kể từ khi xa miền Bắc.

Rồi lênh dỡ nhà đến thật. Tôi làm đơn xin, viện lẽ thượng cấp đã định cấp phát lại khu này cho sĩ quan thì dù có là dân bộ binh chân lấm tay bùn, tôi cũng là sĩ quan xin được lưu cư ở khoảng đất nhỏ bé. Đất là đất chung của quân đội và huynh đệ chi binh... Nhưng một buổi sáng đẹp trời, một văn thư gửi tới cho biết phải dỡ nhà đi, và “vì tình nhân đạo, cho đương sự một thời hạn ba tháng để thi hành lệnh này.” Tôi chưa chịu thua, xin đủ giấy tờ chứng tỏ là nhà có ba lính, thì lính anh, lính em và lính tôi đều không có nhà, dù là nhà mình mua hay cấp phát.

Nhưng tôi đã thất bại, hoàn toàn thất bại. Lệnh dỡ nhà, trục xuất khỏi cư xá được giữ nguyên và không gia hạn thêm lấy một ngày. Còn kèm thêm khẩu lệnh phụ là tới ngày không đi sẽ cho xe bulldozer tới ủi tất và cho An ninh tới bắt. Tôi đành gọi người vào dỡ nhà, bán vật liệu – vật liệu còn bao nhiêu giá trị sau bao mùa mưa mùa nắng và nước ngập. Bán được năm ngàn đồng, gửi lên cho mẹ, mẹ lại cho trở lại để “các con lấy tiền mà dọn nhà.” Thế rồi đến ngày chót, lại một ngày đẹp trời nữa, tôi dọn nhà, Khi buổi sáng trở dậy, mặc bộ đồ trận vào, tôi thấy hơi buồn bã và chua xót.

Rút kinh nghiệm, từ giờ bọn tôi lo kiếm đất trước đã trước khi nghĩ đến chuyện làm nhà khác cho mẹ. Do một tình cờ, anh Lam tôi quen với tỉnh trưởng vùng Đà Lạt. Anh liền nói với người bạn ấy cấp cho mẹ tôi một mảnh đất – trên vùng ấy, núi đồi thiếu gì. Lời yêu cầu ấy được thỏa mãn, các con của mẹ tôi đã có dịp chế bà là “tân địa chủ” và tôi đã có cơ hội để ước mơ là khi nào chiến tranh chấm dứt, các con trai buông súng trở về cầm cưa vác búa vào rừng lấy gỗ về mà làm cho mẹ tôi, lúc đó chắc tóc đã bạc như sương, một căn nhà nhỏ ven một đồi thông nhiều gió lộng.

Trong khi chờ đợi “căn nhà viễn mơ” của ông anh bao năm chỉ biết tranh đấu tới, tranh đấu lui, nghèo mạt rệp ra không đi đến đâu – lời mấy đứa em gái tôi – thì chúng ra sức làm việc để dành tiền mua  nhà, một căn nhà nhỏ thôi, tồi mấy cũng được, miễn là có đất rộng một chút, để rồi “mẹ gõ cho nó mấy cái là thành nhà ở được, cuốc cho nó mấy nhất là thành vườn, vừa ăn được vừa ngắm được.” Mà chúng làm việc thực. Tôi và Thi lên chơi, coi chúng đi làm mà chóng mặt. Quả thực là đầu tắt, mặt tối. Nhưng rồi một đứa em gái cùng chồng đã dành dụm được tiền mua một căn nhà gỗ tồi ở đầu một thung lũng nghèo. Và mẹ tôi đã vác búa, vác cuốc ra, các con cháu xúm lại, đến khi tôi lên lần nữa, căn nhà đó đã sửa xong, xinh xắn, và ngoài vườn theo đúng truyền thống của mẹ tôi, cây su-su leo hiên ngang lên cành mận, phong lan treo dưới dàn bí, rau thơm xen kẽ với cúc vàng, riềng và gừng cạnh dẫy thược dược...

Các con trai không có nhà thì nhà con gái, con rể cũng là đẹp rồi. Con nào chẳng là con. Tôi tưởng thế là mẹ kể như có nhà. Nhưng tôi lầm. Trước tết năm nay, một bà mợ trong họ chết. Khi biết rõ tin tức, mẹ tôi nói: “Mợ ấy chết sau khi con cái đã thành đạt cả cũng sướng. Nhưng chết ở nhà con rể thì cũng chưa được gọi là hoàn toàn.” Mẹ tôi chỉ nói thế thôi, nhưng tôi và Thi hai đứa đưa mắt nhìn nhau im lặng. Lại phải tính đến chuyện chung sức các con làm nhà cho mẹ thôi.

Tôi liền hỏi khoảng đất ngày trước mẹ được cấp phát hiện giờ ra sao... và được mẹ cho biết một vị tỉnh trưởng sau đã nhân danh một công bằng xã hội nào đó đã thu hồi lại rồi. Tôi và Thi lại im lặng nhìn nhau vì trong mấy ngày rong chơi lang thang thành phố miền núi này, hai đứa đã thấy biết bao nhà cửa chiếm đất công xây cất bừa bãi…

Thế là đến cuối năm nay, khi cả gia đình chuẩn bị ồn ào đón xuân cùng thiên hạ, thì mẹ tôi rút cuộc đất cũng không mà nhà cũng không. Và buổi sáng mồng một tết, nhìn mẹ tôi đứng dưới tam quan chùa Linh Phong lộng gió từ dưới các thung lũng lên, tôi nhận ra mái tóc mẹ tôi đã gần như bạc trắng hết dưới ánh nắng đầu xuân, bạc đã gần như sương.

 
THẾ UYÊN           
 viết cho vu lan, 1970      

  

Thứ Ba, 23 tháng 5, 2023

TỰ TRUYỆN GIỮA MÙA HÈ - Hoàng Ngọc Tuấn

 

 Qui Nhơn, tháng Sáu, 1973.

Tôi mất tự do vào đầu mùa xuân 73, kể từ ngày mười một Tết. Đến tháng tư, trước ngưỡng cửa mùa hè, tôi bị đưa ra Diêu Trì một nơi cách thành phố Qui Nhơn khoảng mười lăm cây số.

Qui Nhơn đâu phải là nơi xa lạ. Đây là chốn cũ, trước đây tôi đã sống hơn hai năm ở thị trấn ven duyên hải miền Trung này. Thôi, âu cũng là một dịp về thăm lại một phố phường mang nhiều kỷ niệm êm đẹp ngày xưa, dầu dĩ nhiên là chẳng bao giờ sống lại những tình cảm vô tư trẻ dại như ngày xưa được nữa.

Tôi về chốn cũ. Đất đai, núi đồi, biển cả là những "cố nhân" duy nhất còn đây mãi mãi không hề thay đổi, còn tất cả những thứ khác, tất cả những người thân quen cũ, giờ đây đã hoàn toàn biệt bóng hay nhạt nhẽo lạ lùng.

Trở lại Qui Nhơn. Sống thế nào đây, thấy gì đây, biết làm gì đây? Vài hàng trong lá thư của Trịnh Công Sơn an ủi: "... Có điều rất an tâm là thấy Tuấn gần như có thể làm việc trong bất cứ hoàn cảnh nào và mọi nơi. Về lại Qui Nhơn coi như về lại trong câu chuyện tình nào đó của Tuấn đã viết mà thôi. Cách đến chỉ có khác một chút..."

Ông Sơn ơi, lần này "cách đến" khác những lần về trước nhiều lắm chứ. Lần trước, về bằng máy bay Air VN, xách va-ly rộn rã ra khỏi phi trường ở trung tâm thành phố, leo lên một chiếc xích-lô đạp bảo chạy vòng vòng chậm rãi khắp nơi trước khi về nhà để bồi hồi nhìn ngắm những lề đường cũ, tăng thêm thú vị cho chuyến trở về. Lần này, lạc quan mà suy nghĩ, đỡ tốn tiền hơn vì đi bằng máy bay quân sự.

Không lạc quan và cũng không bi quan, suy nghĩ một cách thành thật và sáng suốt, thì sự khác biệt giữa những lần trở về này đủ làm rúng động đau buốt tâm hồn, đủ thôi thúc dằn vặt để có thể viết một cuốn tiểu thuyết trong tương lai, một tác phẩm phân biệt nơi đâu là quê nhà yêu thương, nơi đâu là vùng đất lưu đày khổ ải, nơi đâu là thung lũng cội nguồn của hạnh phúc, nơi đâu là hỏa diệm sơn đốt cháy thiêu hủy nhân tính và tình người...

Nhưng đó là chuyện về sau, không sớm thì muộn cũng sẽ đến.

Bây giờ, vì hoàn cảnh khó khăn tù túng đè nặng trên người tôi chỉ có thể viết ra vài chuyện nho nhỏ và vụn vặt, ôn lại một vài kỷ niệm riêng tư, những ý nghĩ lộn xộn không đầu không đuôi, những điều cảm nhận vội vàng thiếu sót chưa đủ chân tay... Đó là những lời phát ra từ một trái tim quá lớn mạnh chứa đựng trong một thân thể quá yếu mệt, bị nhốt trong một thời đại quá khô cạn.

Tóm lại, Tự Truyện Giữa Mùa Hè bắt đầu mà chưa biết dần dần sẽ đi đến đâu, chưa biết đoạn cuối sẽ kết luận như thế nào. Như một chuyến đi lang bang không biết chỗ dừng chân tạm nghỉ và đích đến. Và cũng không mang theo đủ hành trang, thực phẩm, tất cả đều lượm lặt trên đường.
 

Biển không còn đẹp nữa

Xe chạy từ Diêu Trì vào thành phố Qui Nhơn, đường gập ghềnh đầy bụi đỏ vì ổ gà, trời nắng gắt, những ngọn núi chạy dọc hai bên đường. Ở đây, tôi thấy đủ tất cả bầu không khí của một vùng đất chiến tranh. Đầy xe nhà binh vội vã, đầy những người mặc đồ lính mệt mỏi, và súng đạn nặng nề đeo lê thê trên người. Ruộng đất khô cằn, hương lúa chỉ thoang thoảng mơ hồ, cầu gãy, màu xanh của đồng ruộng không bao la chạy đến mút chân trời, chung quanh là núi, núi chập chùng ngăn cản, chặn lối.

Tôi cảm thấy nao nao hồi hộp khi xe bắt đầu vào trung tâm thị xã Qui Nhơn. Mười năm nay tôi đã không nhìn thấy thị trấn này. Khoảng vào năm 63, tôi đã rời Qui Nhơn ra đi và lúc ấy chẳng bao giờ nghĩ đến có ngày mình trở lại. Vì gia đình tôi không còn ở đây nữa, miền biển này cũng chẳng phải là nơi du lịch lý tưởng như Đà-Lạt, Nha-Trang hay Vũng-Tàu. Một mối tình bồng bột của tôi cũng đã vỡ nát trong thuở làm học trò lang thang ven biển. Nghĩa là Qui Nhơn chẳng còn một người quen thân nào chờ đợi tôi trở về. Không ai còn biết tôi, tất cả đều đã quên tôi dầu tôi vẫn còn giữ mãi trong tâm trí rất nhiều hình ảnh đẹp lẫn xấu, thơ mộng lẫn thô kịch của thành phố này. Tôi vẫn còn nhớ mãi những người bạn thân hoặc sơ, những người con gái đến gần hay thoáng vội trong đời tôi ở đây. Mấy năm nay, những ngụn cát nóng của biển Qui Nhơn vẫn còn vương vấn lấm tấm trong người tôi, như những vết mực đã loang trên áo trắng một lần là không bao giờ xóa sạch, từ đó những chữ được viết ra vẫn còn váng vất, bị níu kéo trong vùng ký ức, nhảy múa những kỷ niệm xinh đẹp và buồn rầu về phố cũ (Dấu chân người về, Có bao nhiêu cánh buồm trên biển, Canh bạc của một vài người, Tuổi Trẻ Tuổi Trẻ...)

Mười năm qua, từ một cậu học trò lơ đãng trong lớp Đệ Tam B3 trường Cường Để, tôi trở thành một người đàn ông vẫn còn đãng trí ngơ ngác giữa đời, một thanh niên kéo dài sự học của mình trên những con đường trắc trở gian nan, vĩnh biệt học đường để học... ngoài đường không thầy cô dẫn dắt. Và không có một năm học nào mang nhiều kỷ niệm vui buồn học trò bằng năm Đệ Tam trường Cường Để, bởi vì sang năm Đệ Nhị, tôi vào Sàigòn học và ở thủ đô này không còn tình thầy trò, tình bạn bè thú vị đẹp đẽ như các lớp học tỉnh nhỏ nữa.

Khi xe đã vào thành phố, ngôi nhà đầu tiên mà tôi mong muốn được thấy lại là trường Cường Để. Vẫn không khác trước mấy, dĩ nhiên là được xây cất thêm vài lớp mới, cát trắng và những tàn lá nhỏ dương liễu vẫn còn vương vãi đầy trên sân trường. Để xem, tôi còn nhớ được những gì, những thằng bạn nào đã cùng tôi đùa phá trong phòng lớp nhỏ trên lầu một: Khoa ở gần nhà thường rủ đi học, Thiều cận thị đá bóng chạy góc trái, Hùng cận thị, Xuân bảnh trai, Khánh gảy đàn guitar rất nghề, Dũng đen con nhà bán sách, Bửu-nhỏ cùng tôi đứng ở sạp báo mân mê tờ báo Văn số 1 mới ra lò với một tâm trạng "hiếu học, ưa suy nghĩ", Bửu-lớn có võ Bình Định gia truyền, Sơn cao giữ "gôn" thay tôi sau một pha tôi làm thủ môn ôm bóng bay luôn vào trong lưới, Chanh học giỏi nhất lớp, Sương chuyên hô hào xuống đường biểu tình, Cừ chuyên rủ tôi đánh bi-da và đi chọc gái... Nữ sinh trong lớp chỉ có lèo tèo vài mạng, tôi không nhớ rõ lắm vì hồi đó tôi chọc phá con gái thì tài chứ chưa bao giờ dám nói chuyện đàng hoàng và nhìn ngay mặt một đứa con gái, tôi chỉ nhớ một nàng vì có cái tên đặc biệt: Mai Lâm Tuyết Hường, mảnh khảnh, mắt ướt, cười chúm chím rất điệu, con nhà làm thầu khoán gạch bông, bây giờ nghe đâu vẫn chưa chồng (nhưng dĩ nhiên là không phải chờ tôi đâu).

Và hồi đó, tôi chơi thân với tất cả bọn trong lớp, tôi là một người bạn nhỏ được mọi người khoái. Tôi chơi với tất cả những "phe nhóm" đối nghịch nhau. Bọn học gạo có cảm tình với tôi vì tôi học không tệ lắm và thỉnh thoảng cũng đứng nhất vài môn. Bọn "nhất quỷ nhì ma..." cũng kéo tôi làm đồng chí trong những vụ cúp cua đi tắm biển hay la cà ở những quán bi-da, quán nước. Bọn thể tháo gia cho tôi ở trong đội bóng chuyền, bóng tròn ; tôi chơi tệ nhất nhưng lại hăng hái mang chanh tươi, đá lạnh theo ủng hộ gà nhà. Bọn có "tâm hồn văn nghệ" cũng nể tôi vì tôi thường "sơ mi" môn luận văn và học thuộc lòng được vài cái tên cỡ lớn như Albert Camus, Jean Paul Sartre v.v... Năm này tôi cũng đã bắt đầu làm thơ, gởi bài đăng báo với nhiều bút hiệu thay đổi hàng tháng (nhưng chẳng có báo nào thèm đăng thơ tôi cả). Tóm lại, năm theo học lớp Đệ Tam trường Cường Để là năm học vui tươi, thích thú, sống động, đáng ghi nhớ nhất trong đời học sinh của tôi.
 
Mười năm qua, Qui Nhơn đã thay đổi nhiều. Tôi, bạn đồng học của tôi, chúng tôi cũng đã thay đổi nhiều. 1963 - 1973 chúng tôi lớn lên, trưởng thành, vào đời trong một giai đoạn tàn bạo gay go nhất của thời chiến. Phần lớn chúng tôi đều đã đi lạc ra ngoài đường bay lý tưởng mộng mơ thời nhỏ. Mười năm qua, ngày nay còn lại mấy kẻ ngày xưa từng ngồi bên nhau miệt mài sách đèn dưới một mái trường. Một số đông đều đi lính, giờ mang cấp bực Trung úy, Đại úy hay đã chết. Một số trở thành phế nhân. Một số trốn lính hay đào ngũ. Một số ít may mắn và xuất sắc hơn, ăn học thành tài, ngày nay có những địa vị vững vàng trong xã hội. Một vài người mất tích. Đó là một vài điều tôi được biết một cách thiếu sót và mơ hồ do một người bạn cùng lớp tình cờ gặp lại, bùi ngùi ôn những chuyện xưa dưới một quán cà phê trong trại lính (Tr/úy Thiều, cận thị, đá bóng bằng chân trái).

Còn tôi, mười năm qua, đã có gì mới lạ. Có lẽ ngày nay, so với những bạn học cũ, tôi là kẻ đã sống trong những hoàn cảnh đột ngột biến đổi không ngừng nhiều nhất. Ngay cả trong lúc tôi viết những dòng này, tôi cũng chưa biết được trong mười ngày tới, tôi sẽ ở đâu, bị đưa đi đến đâu, bị làm gì và được làm gì, chỉ chắc chắn một điều là sắp thêm những thay đổi trong đời sống. Mười năm nay, tôi không có một công việc, một nghề nghiệp gì lâu bền, không một nơi ăn chốn ở nào lâu bền, không có một người bạn hay người tình nào gắn bó lâu bền, không có một thú vui nào lâu bền. Tôi sống trắc trở, khó khăn, trôi nổi, ham muốn, thất bại, hoang phí, đói khổ. Tôi sống bồng bột say sưa lẫn tỉnh táo một cách chán chường lạnh nhạt. Mười năm trước, không bao giờ tôi nghĩ rằng phải nợ nần ai từng đồng để kiếm một bữa cơm hay thuốc hút. Không bao giờ tôi nghĩ rằng mình có thể bị một người nào đó giận ghét. Không bao giờ tôi nghĩ rằng mình lại đi nhờ cậy chịu ơn một ai. Không bao giờ tôi nghĩ rằng mình lại sống bất hợp lệ, trốn tránh luật pháp hay bị cầm tù... Thế mà, mười năm qua, tôi đã lần lượt sống hết với tất cả những tình cảnh bất ngờ ngoài ý muốn đó. Chỉ còn một điều duy nhất an ủi, một điều không đi ra ngoài "chương trình", không "lạc đề" là hơn mười năm trước, tôi đã từng say mê viết nên những bài thơ bài văn vớ vẩn, đến ngày nay, trong tôi vẫn còn nguyên vẹn và lớn mạnh hơn nữa niềm say mê đó, và tôi thà chết còn hơn là đánh mất khả năng và ước vọng viết thiêng liêng kỳ diệu  này.

Sau mười năm chịu đựng lẫn giang rộng tay nhận lấy làn sóng vật chất do những người lính Mỹ viễn chinh đổ vào thành phố, thành phố Qui Nhơn đã đồ sộ hơn về một vài phương diện, và cũng đã tàn tạ hơn về những khía cạnh khác. Những người ít tiền đều lần lượt bỏ thành phố này mà đi trước tình trạng vật giá đắt đỏ nhảy vọt theo lối tiêu xài của người ngoại quốc. Còn lại chen chúc trong thị trấn một giai cấp mới tranh sống làm giàu mau lẹ: gái điếm, ma cô, cờ gian bạc bịp, chủ bar, khách sạn, những người chạy "áp phe" buôn đồ Mỹ... Sống nhẫn nhục thiếu thốn trong bóng tối là những người công chức, giáo sư, quân nhân bị ràng buộc ở mảnh đất cát nóng hỗn loạn này. Ngày nay lính ngoại quốc đã ồ ạt kéo nhau ra đi, sau khi đã ồ ạt đến, bỏ lại sau lưng cả một tỉnh lỵ xơ xác trần trụi, những tòa building xây dở dang, những quán bar ế khách, những ổ nhện xuống giá bắt đầu chào đón vui vẻ khách chơi bản xứ, những bóng tối sa đọa trong góc quán với những cô cậu học trò phi "sì-ke", những đứa con hoang hai dòng máu đồng minh thân hữu...

Qui Nhơn, giờ đây tôi về lại thất vọng vì không tìm thấy những vẻ đẹp như ngày xưa tôi đã từng quen thuộc, những con đường phố vắng người dửng dưng buồn tẻ, bụi bặm, nóng bức mùa hè, nhạc thời trang kệch cỡm trong những quán kem, lẻ tẻ vài Hippy cóp nhặt mẫu Saigon... Đáng tiếc bây giờ là mùa nghỉ hè, thiếu vắng những tà áo tha thướt của mấy cô học trò trường Sư phạm, trường Nữ Trung học và trường Trưng Vương... Vắng mặt những thiếu nữ này là một thiệt thòi rất lớn cho Qui Nhơn, họ thuộc về một đạo binh dũng cảm, cứu vãn nét son của tỉnh nhỏ âu sầu.

Tôi và một vài người bạn, chúng tôi ngồi uống bia trên bãi biển. Một quán nước xập xệ, tầm thường, áo quần giặt treo bừa bãi trên sân. Nhưng nhờ có chút bia lạnh và những ngọn gió biển mằn mặn từ ngoài khơi thổi vào, cộng thêm với một vài câu chuyện "trà dư tửu hậu" thân mật giữa bạn bè, tôi cảm thấy khoan khoái đôi chút. Năm chiếc ghế thấp vây quanh chiếc bàn lỏng chỏng vỏ chai và tàn thuốc. Năm người ngồi nhâm nhi nói chuyện vặt. Chúng tôi giống nhau ở một điểm là đều lần lượt đi qua những chặng đường ngoài ý muốn lẫn đúng theo ý muốn: học hành, đi lính, viết văn, làm thơ v.v... Bốn người trên đều xuất thân từ nghề dạy học, hiện đã có vợ và từ một con trở lên. Tôi chưa bao giờ đi dạy học, chưa bao giờ có vợ. Đó là điểm khác biệt đầu tiên.

Tôi nhìn ra biển. Thuyền phơi ngổn ngang trên cát. Xa xa những cánh buồm, rặng núi và hải đảo, ngọn hải đăng trên đỉnh núi phía tay trái, Ghềnh Ráng với nấm mồ của Hàn Mặc Tử phía tay phải.

Biển như hẹp lại, cạn khô và đờ đẫn. Trước kia, tôi dẫm những dấu chân lỗ chỗ trên bãi cát ướt và lặng người nhận thấy biển cả bao la bát ngát, chuyển động mãnh liệt, sóng tung tăng bọt trắng kiều diễm biết bao nhiêu. Ngày nay, biển Qui Nhơn trước mắt tôi không còn đẹp nữa. Thời gian hay sự già cỗi đã gây nên điều tai hại đó? Giữa tôi và biển, ai là kẻ đã thay đổi trong mười năm qua?

Tôi hoang mang không biết rõ. Tôi hút thuốc, uống bia, hít gió, nhớ lại những ngày qua cực khổ mệt mỏi của mình, tôi buồn quá đỗi...


Sáng tác

Trong vòng ba tháng nay, tôi viết được khá nhiều. Giữa chốn tăm tối, nóng bức, tù túng, tôi viết tiếp được một nửa cuốn truyện dài Tôi và Em, bởi thế một phần lớn tác phẩm này chứa đầy sự khao khát ánh sáng và không khí trong lành bát ngát của tự do. Trang cuối của Tôi và Em chấm dứt, sau một vài tuần sự sáng tác bị ngưng lại vì những vụ di chuyển, lên đường rất là mệt nhọc, đến Qui Nhơn, trong một doanh trại nằm dưới chân núi, tôi viết liên tục được 4 truyện ngắn khá ưng ý (Hôn Lễ, Đôi Môi Dạ Hương, Hẹn mỗi Tuần, Lời Cầu Hôn) và sau khi viết xong bài tùy bút có tính cách tự truyện này, tôi sẽ bắt tay ngay vào dòng thứ nhất của một truyện dài mới, bản phác thảo đã có trong đầu óc tôi, đôi chỗ lờ mờ, đôi chỗ dần dần đậm nét nhưng chắc chắn cuốn truyện dài này sẽ hoàn tất vào tháng 8-73.

... Loạt truyện ngắn của tôi, viết trong tháng này, không hiểu sao lại mang rất nhiều ám ảnh về chuyện hôn nhân, cưới vợ, lấy chồng... Hay đó là điềm báo trước một tai nạn khủng khiếp dịu dàng, đau khổ vui vẻ nhất, sắp sửa đổ xuống trên đầu tôi. Than ôi, "tam thập nhi lập", các cụ ngày xưa đã nói thế, năm nay tôi mới có 26 cái xuân xanh thôi mà.

Sáng tác văn chương. Viết. Đó là hoạt động tôi theo đuổi không hề ngừng nghỉ. "Bất cứ lúc nào, bất cứ ở đâu". Tình yêu, theo thiển ý của tôi, thà là yêu nhiều, yêu dư còn hơn là yêu ít hay không yêu gì cả. Viết, đối với tôi cũng thế. Thà là viết nhiều, viết dư còn hơn là không viết gì cả. Thời gian và sự biến đổi của cảm tính văn nghệ sẽ tự động gạn lọc giùm những sáng tác của tôi, một vài tác phẩm sẽ bị bỏ quên nhưng dần dần tôi tin chắc rằng nó sẽ được phục hồi.

Tôi sáng tác, chưa hề bị ràng buộc bởi những đòi hỏi, yêu cầu của bất cứ một ai. Tôi không bị lệ thuộc vào bất cứ một điều kiện của một cơ quan, tổ chức, một chủ nghĩa, một tờ báo hay một nhà xuất bản nào. Độc giả, khối đa số thầm lặng này rất quan trọng vì có thể mang lại nhiều hoặc ít những quyền lợi vật chất và khích lệ tinh thần cho các tác giả, cũng không thể yêu cầu tôi viết nên bất cứ điều gì. Tôi bị quyến rũ chút ít bởi các tác giả lớn quốc tế và những trào lưu văn chương tiền phong nhưng tôi không nằm trong quỹ đạo của bất cứ ai, bất cứ dòng văn chương nào. Lần lượt, tôi theo dõi các khuynh hướng khác nhau và những thay đổi về hình thức, kỹ thuật của văn chương: cổ điển, lãng mạn, tả chân, hiện thực, tâm lý, tân lãng mạn, siêu hình... tiểu thuyết luân lý giáo dục, tiểu thuyết luận đề và đặt vấn đề, tiểu thuyết biện thuyết cho chủ nghĩa chính trị, tiểu thuyết mới, tiểu thuyết "chữ đẻ ra chữ" gần như là phát sinh từ vô thức... Tôi sung sướng được thưởng ngoạn ít nhiều tinh hoa của tất cả những bộ mặt phong phú khác biệt nhau của mọi dòng sáng tác, và tự nhủ rằng tất cả những dòng sông đó đều có chung một nguồn lớn lao duy nhất. Tính chất của nguồn gốc đó là đặc tính lớn lao đầu tiên của văn chương. Văn chương, đó là ý thức sáng suốt về giá trị của con người, một giá trị không phải chỉ được biểu hiện bởi một thân xác hữu hạn và một kiếp sống phù du, mà còn được kết tinh nuôi dưỡng bền vững, rộng lớn, lâu dài hơn nhờ sự sáng tạo của tinh thần. Sự sống của một tác phẩm thường lâu dài hơn một tác giả. Sự hiện diện của một tác phẩm cũng bao quát ở nhiều  nơi, đậm nét, ăn sâu hơn là một khuôn mặt mo nhỏ bé của tác giả. Trên bình diện sinh lý, nhà văn cũng tầm thường như bất cứ người tầm thường nào. Hắn cũng phải, cũng cần, cũng khoái ăn, ngủ, làm ái tình, bài tiết theo đúng tứ khoái thông thường như mọi người khác. Hắn chỉ đặc biệt thấy cần thiết, ao ước có thêm một cái khoái, đệ ngũ khoái, đó là sự viết.

Tôi không thấy có sự khác biệt giữa những điều mà người ta thường gọi là văn chương dấn thân và văn chương thuần túy, văn nghệ vị nghệ thuật hay văn nghệ vị nhân sinh. Rốt cùng, giá trị nội tại vững mạnh của một tác phẩm (dầu mang bất cứ một chủ đích nào hay không có chủ đích nào cả) quyết định sự sống và ảnh hưởng của tác phẩm đó giữa lòng nhân gian. Tất cả những tác phẩm văn chương đích thực của những tác giả thực sự mang ước muốn và có đủ khả năng sáng tạo, đều là "dấn thân", dấn thân hiểu theo nghĩa đã viết nên được bất cứ điều gì bắt nguồn từ đời sống, từ cảm xúc, từ nỗ lực hiện tồn và từ khát vọng thăng hoa hay cải thiện ý nghĩa của cuộc đời. Như thế, những điều viết ra đó quay trở lại, nhập cuộc, phục vụ cho con người. Tôi tin tưởng rằng văn chương không thể hướng về sự hủy diệt, cái chết hay hư vô.

Dầu có những tác phẩm mang đầy bầu khí hư vô và cũng có nhiều nhà văn đã tự sát, nhưng dầu cho y có tự sát, thì đó chỉ là sự tự hủy thân xác chứ không phải tự hủy tác phẩm của y. Mỗi chữ nào y đã viết ra được là một chiến thắng đối với hư vô, là dấu hiệu của sự hiện thân giữa đời, là bằng chứng của ý thức muốn sống và làm người. Khi một nhà văn trở nên mệt mỏi hoang mang, không còn sáng tạo được nữa, nghĩa là không còn chiến đấu được nữa để chống chọi với bóng tối hư vô bao trùm đeo đuổi trên cuộc đời y như một con ma vô hình truyền kiếp, có thể y sẽ tự tìm đến cái chết, sau khi đã để lại cho đời những tác phẩm cứu sống con người. Hemingway, kết thúc đời mình bằng cách tự sát, sau khi đã dốc hết tim óc mình vào những tác phẩm bất hủ, mở đầu, khai sinh, cứu vãn cho rất nhiều sinh mệnh trên toàn cầu. Bởi thế mỗi nhà văn lớn đều mang trong người một bất tử tính. Sau khi y chết, tác phẩm của y, nghĩa là chính linh hồn, linh khí của y vẫn còn sống mãi với con người. Và không một tác phẩm nào lại mang tính chất cô đơn, biệt lập với cuộc đời. Tác phẩm văn chương sống chung, chia sẻ, đối thoại, hòa hợp, giao cảm với những người nào chọn lựa nó. Bởi thế, một tác phẩm văn chương đích thực lúc nào cũng chống lại sự cô đơn, sự lạ mặt, ngộ nhận, hư vô và sự chết. Điều ấy đưa đến kết luận, những người sáng tạo nghệ thuật là những chiến sĩ bảo vệ và nuôi dưỡng cho cuộc tồn sinh sống động, ấm cúng, hợp quần, thân ái của nhân loại. Những nghệ sĩ là chiến sĩ vô danh mà người ta không thể tìm ra một loại huy chương nào đủ xứng đáng để tưởng thưởng cho họ. Không có một vòng hoa nào, dầu lộng lẫy đến đâu, lại có thể đủ xứng đáng để choàng cho họ. Tiền bạc và danh vọng chỉ làm thỏa mãn vuốt ve thân xác chứ không thỏa đầy được trọn vẹn con người nghệ sĩ. Phần thưởng lớn nhất, ước muốn lớn nhất của một nghệ sĩ, là được tự do sáng tạo, tự do chọn lựa một con đường sáng tạo, tự do sống một cuộc đời sáng tạo, và tự do gởi đến mọi người trọn vẹn những công trình sáng tạo mà không bị chút đẽo gọt, hạn chế, kiểm soát hay sửa đổi méo mó...

Nhưng đáng buồn thay, đến giờ phút này tôi vẫn chưa có được những điều mong muốn khiêm nhường và đơn giản đó...
 

Sàigòn, Văn nghệ và Tiền bạc

Gần bốn tháng nay tôi không có mặt ở Sài-gòn. Thời gian xa cách đô thị xô bồ thân ái này quả thật quá dài đối với tôi. Tôi quá nhớ, quá thèm về Sài-gòn, từ mười năm nay tôi dính liền với chốn phố phường này như một con nai tơ giữa rừng xanh. Rừng đe dọa đầy dã thú, nguy hiểm, chằng chịt gai góc nhưng chẳng thể nào bỏ rừng được.

Giờ đây ở Qui Nhơn, trong một hoàn cảnh thật đặc biệt và khó khăn, ngày về Sàigòn trở nên xa xăm quá.

Tôi nhớ lại những ngày sống ở Sàigòn. Cái gì lôi cuốn tôi mạnh mẽ nhất tại thành phố này? Chỉ có hai thứ : văn nghệ và tiền bạc. Không phải là tình yêu. Thời gian gần đây tôi cũng đánh mất khá nhiều tình bạn hữu. Bọn nó đi đâu cả, làm ăn, lấy vợ đẻ con, lưu lạc đâu mất hết rồi. Nhiều lắm là chỉ còn lại một người : Trịnh xuân Tịnh, đó là người bạn thân nhất của tôi trong thập niên 70 (Đến đầu năm 1980, chắc chúng ta sẽ ít đi chơi với nhau hơn vì vợ ai nấy theo).

Tình yêu? Tôi rất ít bận tâm về tình yêu, gần như là không. Một điều nói ra thật khó tin, nhưng có thực, là tôi, tác giả của hàng chục truyện tình ái, hiện nay chẳng có ai là người yêu cả, chẳng có một mối tình nào cả. Tôi gần như không biết yêu ai, có lẽ tôi chỉ yêu tôi. Có lẽ tôi giống như lời nhận xét của một nhân vật nữ trong tập truyện Chuyện hai người: "Tình yêu? Anh mà biết gì về tình yêu?" Đàn bà, con gái, cô bé... thi nhau bay lượn đẹp mắt như bươm bướm trong sách tôi, nhưng cũng chỉ sống đẹp trong sách, gấp sách lại, các nàng bay biến, tác giả khốn khổ này chẳng có tài nào đuổi theo bắt kịp. Nhiều khi tôi nghĩ rằng tôi có thể điên cuồng hay chết sầu não vì tình, nhưng thật ra không phải, qua bao nhiêu vụ thất tình lớn nhỏ đủ thứ, tôi vẫn sống nhăn, vẫn tỉnh táo, vẫn vui vẻ rong chơi như thường, dĩ nhiên là phải hơi đau đau một chút trước những vụ chia lìa, đổ vỡ nhưng rồi lại an ủi tự nhủ: thôi, chắc gì mình yêu thật, chắc gì người ta yêu thật, đó chỉ là "hình như là tình yêu" thôi mà. Câu thần chú "hình như là tình yêu" đó quả là một liều thuốc tiên quý báu.

Rốt cuộc, chỉ có hai thứ đeo đuổi sát nút đời tôi như hình với bóng. Đó là văn nghệ và tiền bạc. Tôi điêu đứng khổ sở vì chúng, tôi hăng say sung sướng cũng vì chúng.

Ở Sàigòn, mỗi sáng tôi thức dậy sớm và ra khỏi nhà vào đúng 7 giờ. Đều đặn như một ông công chức chăm chỉ. Thật ra tôi có đi đến một sở làm nào đâu, tôi có công việc gì đâu. Tôi dậy sớm, kéo dài vụ uống cà phê tại quán đầu ngõ trong một giờ đồng hồ. Hút nửa bao thuốc lá cũng trong khoảng thời gian đó. Vừa nhìn ra ngoài đường xem xe cộ người người chạy qua chạy lại, vừa lẩm nhẩm những chữ những câu nào chợt xuất hiện bất ngờ lộn xộn trong đầu. Đôi khi tôi xem sửa lại mấy trang bản thảo vừa viết trong đêm qua. Rồi tôi nhíu mày liếc coi đồng hồ tay như một chính khách danh tiếng có nhiều cuộc hẹn quan trọng. 9 giờ: Tôi ra khỏi quán. Đi đâu bây giờ? Tôi chẳng hẹn ai, chẳng ai hẹn tôi cả.

Tôi lững thững cuốc bộ, chậm chạp và cẩn thận. Hoặc tôi đi xe "lam", không chậm chạp và không cẩn thận theo ý muốn tôi được. Đi đâu bây giờ? Hoặc tôi lên nhà xuất bản Trí Đăng, hỏi thăm, thúc giục hay đứng nhìn chiếc máy in đang rầm rập phóng ra từng cahiers sách của tôi, nói chuyện vẩn vơ với ông chủ một chút, mượn tiền, đòi tiền... rồi về. Hoặc tôi lên nhà xuất bản An Tiêm hỏi thăm, thúc giục hay đứng nhìn mấy cô thợ đóng xếp từng trang sách của tôi, nói chuyện vẩn vơ với ông chủ một chút, mượn tiền, đòi tiền... rồi về.

Ngày nào cũng chừng đó chuyện. Chỉ thỉnh thoảng, không khí tại nhà An Tiêm mới lạ và vui vẻ hơn một chút, đó là lúc tôi mượn tiền một cách tha thiết và thú thực là hết sạch tiền rồi. Ông chủ cười cười thú thực là cũng hết sạch tiền rồi. Trời đất bỗng u ám, dầu chưa có mưa lớn khách vẫn cố tình ngồi lại. Hai kẻ hết sạch tiền ngồi bên nhau, bỗng trở nên tương đắc thân mật. Lên gác chơi, nghe nhạc chơi, nhậu chút chơi... Xong rồi, không tiền trong túi biết đi đâu bây giờ, thế là tôi ở lại nhà An Tiêm suốt ngày. Chuyện trò nổ ra như bắp rang. Ông chủ than thở về những khó khăn : thời buổi lộn xộn ít người bỏ tiền ra mua sách, giá giấy công in tăng khủng khiếp, tiền bạc thiếu hụt, nợ nần... Ông chủ say sưa nói về những dự tính tương lai, nào là mua máy in, in thêm loại sách "De Luxe", mở caféteria, thành lập hệ thống phát hành toàn quốc, làm tạp chí văn nghệ, tổ chức triển lãm sách... vân vân và vân vân... Ông chủ đem ra khoe những ấn bản họa phẩm danh tiếng, sách quý, những mẫu chữ mới lạ đặt mua từ ngoại quốc... Ông chủ hăng hái nói với tác giả, sẽ in sách anh đẹp tối đa, kỹ lưỡng tối đa, phổ biến rộng rãi tối đa, hết sức là "siêu tuyệt"... Tác giả ngồi ngây người sung sướng như được người yêu thủ thỉ âu yếm, quên hẳn cả việc hết tiền, cần tiền. Thế là tác giả cũng hăng hái không kém, bàn bạc, góp ý kiến, chọn chữ chọn tranh làm bìa, sửa morasse không công đến mờ mắt, thiếu điều tự tay đóng xếp sách và vác sách đi bán giùm... Đến giờ cơm trưa, câu chuyện vẫn chưa chấm dứt, tôi vẫn chưa muốn về, thế là cơm nước bày ra, khách và chủ ăn uống đạm bạc thịt cá với la-de, cà-phê thuốc lá... Nhận thư độc giả đọc lúc ngủ trưa, đến chiều mới ngủ dậy và... về.

Đó, công việc mỗi sáng ở Sàigòn của tôi chỉ có như thế. Thỉnh thoảng, khi thấy báo Văn hay Bách-Khoa đăng bài mình, mới đổi hướng đi một chút, lên Tòa soạn lấy báo, lãnh tiền nhuận bút, trò chuyện với vài người quen... rồi về.

Đi đâu rồi cũng về, nhưng ở Sàigòn, tôi biết về đâu. Ít khi tôi về căn phòng nhỏ tối tăm buồn bã của tôi. Tôi thường từ nhà người quen này về nhà người quen khác.

(Hầu hết những truyện của tôi đều viết ở Sàigòn, vài trang, vài trang, đâu đó ở nhà người này, nhà người nọ, lúc nào cảm thấy viết được là tôi viết, không một thời khóa biểu, không thói quen nào cả, bất kể sáng chiều tối, bàn ghế đàng hoàng hay nằm trên giường bố, nằm dưới đất trong tù.)

Buổi chiều tôi hẹn với Tịnh ở quán Khánh Ly. Tôi đã hết thích không khí ồn ào náo nhiệt ở quán Pagode. Tôi và Tịnh ngồi uống bia lai rai, lại nói đủ thứ chuyện trên trời dưới đất. Tôi đấu hót ba hoa, hòa bình trên thế giới, ngưng bắn, thống nhất hai miền Nam Bắc, tương lai của nền văn nghệ Việt Nam... Tôi say sưa nói về những cuốn sách tôi đã viết, về những cuốn sẽ viết, đã có 6 cuốn trong năm 71-72, sẽ có ít nhất là 6 cuốn trong năm 73... Chúng tôi nhắc đến rất nhiều về Huế, nhớ đến một vài người bạn ở Huế, dự trù sẽ về thăm Huế trong vài ngày... Tôi uống tiếp, ngà ngà, tôi nói mong sẽ viết được một tác phẩm thật lớn về chốn cố đô ven sông Hương này... ngà ngà hơn, suýt chút nữa thì tôi đã đánh cá với Thịnh là tôi sẽ đoạt giải Nobel văn chương trong vòng hai mươi năm tới. Thỉnh thoảng cô chủ quán Khánh Ly xuất hiện, miệng phì phèo điếu thuốc, mang một cái bầu to tướng trước bụng, ngồi lại góp vài chuyện bâng quơ... Đến tối, tôi theo Tịnh về nhà, ăn cơm dằn bụng, rồi lại rủ nhau phóng ra phố. Lần này có đèo thêm anh Sơn. Lại vào quán. Castel, một quán nhỏ xinh xắn lịch sự theo đúng mẫu Made in Paris, quầy rượu thoải mái, rất nhiều bông hồng. Tôi ngắt trộm một bông nhỏ dấu trong ngực áo để lát nữa đem về tặng Ngâu. Lại uống rượu, tôi nhường cho nhạc sĩ T.C. Sơn đối thoại lâu dài với một cô caissière rất duyên dáng dễ thương, người đồng hương với Kim Dung và Trịnh Phối Phối. Khuya, gần giới nghiêm, ba người loạng quạng về nhà, có khi về thẳng một cách mau lẹ, có khi ghé lại cao ốc Dupont hay góc đường Yên Đổ : phòng máy lạnh mát mẻ, da thịt đàn bà cũng khá mát mẻ đầy mùi nước hoa, mất toi hai ngàn đồng ( thế là đi đứt gần hết tiền nhuận bút của một truyện ngắn).

Đó, làm sao tôi quên Sàigòn được. Ở đó, tôi sáng tác hăng say sung sức, tôi xài tiền cũng mê man mạnh mẽ không kém. Văn nghệ và tiền bạc, tôi không thể sống mà thiếu hai thứ đó được.

Tôi lênh đênh sảng khoái, bồng bềnh thênh thang trong màu đen của chữ mực in và màu xanh của giấy bạc. Dĩ nhiên là những cuốn sách của tôi đem lại ít nhiều tiền tác quyền, nhưng chắc chắn là tôi không viết vì tiền. (Hiện nay tôi là một trong rất ít tác giả ở V.N. không viết "phơi-ơ-tông" và cũng không có nghề nghiệp nào mưu sinh ngoài hoạt động sáng tác cả. Tôi vẫn cứ viết rất chậm chạp và lười biếng, ngay cả lúc tôi đang cần tiền nhất vào cuối năm 72, lúc ấy có ít nhất là 5 nhà xuất bản uy tín lẫn tài tử đều muốn in sách của tôi, một vài nhà không ngần ngại đưa tiền trước). Tuy nhiên, cần phân biệt một tác phẩm và một ấn phẩm. Dù có tiền hay không, tôi vẫn sáng tạo liên tục nên những tác phẩm, nhưng khi những tác phẩm ấy được in ra, được trở thành ấn phẩm trên một tờ báo hay trong tủ sách của một nhà xuất bản nào, sự trở thành ấy dĩ nhiên phải tùy thuộc ít nhiều vào chuyện tiền bạc.

Đó, Sàigòn, nơi chốn thu hút tôi từ mười năm nay. Tôi tình nguyện làm một con thiêu thân sáng suốt bay thẳng vào cõi ánh sáng đó. Tôi là một con thiêu thân loại đặc biệt, mê đắm trong ánh sáng, nhưng sẽ không bị thiêu cháy vì ánh sáng.

Giờ đây, tôi thèm về Sàigòn quá đỗi. "Sài-gòn đẹp lắm Sài-gòn ơi... Sài-gòn ơi..."
 

Ngâu

Tôi nhớ Ngâu ngang hàng với nhớ Sài-gòn. Trước kia Ngâu ở Huế, tôi nhớ Ngâu ngang hàng với Huế. Ngâu thật vĩ đại. Ngâu ảnh hưởng trong tôi bằng cả hàng triệu người, cỏ cây, nhà cửa... của một thành phố.

Những ngày cuối còn ở Sàigòn, những cách ngăn với thế giới bằng những bức tường cao và hàng rào kẽm gai, tôi được gặp Ngâu trong thoáng chốc vội vàng.

Ngày đó, Ngâu đến thăm tôi một chiều... nắng.

Trời thật nắng, nóng bức, ngột ngạt, bên cạnh chúng ta là đám người vo ve ồn ào hỗn độn. Chen chúc trên băng ghế gỗ chật ních những cặp vợ chồng, tình nhân, tâm sự khóc lóc sụt sùi, chúng ta vẫn tươi cười nhắc đến những ngày vui cũ. Tôi vẫn còn nói đùa được cho Ngâu bật cười, da mặt Ngâu hồng lên vì ánh nắng và bụi đường, chiếc áo sơ-mi của Ngâu trắng tinh, jupe xanh, tay còn nắm cuốn sách luyện thi Tú tài hai, và một viên kẹo rượu cho tôi. Chúng ta hối hả, tranh nhau nói chuyện không kịp thở. Người ta chỉ cho chúng ta gặp nhau tối đa là 15 phút. Trong khu "thăm nuôi" chật hẹp của ngục tù, giữa đám người tội đồ phờ phạc và vợ con họ rầu rĩ, tôi và Ngâu, chúng ta nổi bật lên như hai ánh sao, như một đôi tài tử minh tinh màn bạc. Nếu tôi nhớ không lầm, và cũng không tự kiêu quá, thì chiều đó, chúng ta là hai người xinh đẹp nhất giữa cõi người khổ đau tăm tối. Tiếng còi nổi lên xua đuổi thân nhân ra về một cách tàn nhẫn, chúng ta bàng hoàng, chần chờ nán lại, mỗi tiếng còi thúc hối chia cắt như mỗi mũi dao đâm vào lòng tôi...

Thôi, Ngâu về rồi. Bóng Ngâu nhỏ nhoi mất hút trong đám đông, tôi đứng lặng câm ngó theo cho đến khi Ngâu hoàn toàn biến mất, tôi lầm lũi trở về căn phòng tối.

Ngâu, tôi vô cùng hối hận khi nhớ lại trước đây đã nhiều lần tôi tự kiếm cớ giận hờn để xa Ngâu, nhưng làm sao xa Ngâu nổi. Giờ đây, dù muốn dù không, Ngâu đã quá xa tôi. Ngâu là giọt mưa cách biệt, phút hội ngộ ngắn như một lóng tay út mà thời gian xa vắng dài như cả một vòng tay chờ đợi.


Hiện tại

Tôi đang viết những dòng chữ này trong một doanh trại nằm dưới chân núi Yan, tỉnh Bình Định. Nhờ người thân giúp đỡ, tôi được nương náu tạm thời ở nhà một ông Tá đàn Vỹ cầm. Tôi "kèm học" cho đám cô cậu từ 17 tuổi đến 5 tuổi. Tôi phải nặn óc nhớ lại, học ôn một cách mệt nhọc mấy cuốn sách Trung Tiểu học để "giảng bài" từ phương trình bậc hai có hai ẩn số, chứng minh hai tam giác bằng nhau, số thập phân, toán chia ba con, cửu chương 2, em tập đánh vần ABC... Cũng may mà mùa nghỉ hè đã đến, tôi được xoay qua những chuyện vui vẻ hơn : đá bóng, đánh vũ cầu, chơi lô tô với đám trẻ con... tôi cũng thích chơi ô làng và đánh thẻ lắm, thỉnh thoảng tôi "binh" xập xám với mấy đứa lớn. Ngày ngày đều đặn trội qua, mới thế mà tôi đã sống gần hai tháng dưới mái nhà này. Mỗi đêm, tôi bắc chiếc ghế nhỏ ra ngồi trong bóng tối dưới hiên nhà, mơ màng nhìn dãy núi đen xa xa mù mịt, từ trong nhà có tiếng đàn vỹ cầm vẳng ra nghe thật buồn thê thiết, tôi đau lòng nhớ nhung đến những người quen, đến những chặn đường long đong đã qua và e rằng còn sẽ tới nữa, tôi muốn khóc, môi tôi cháy phỏng những điếu thuốc lá đốt nối đuôi nhau (Tôi tha hồ hút thả cửa ba "tút" Bastoz xanh của Trần Phong Giao, Nguyễn Mộng Giác và cô em bà con của Khánh Vân mới gởi cho).

Đôi ba đêm một lần, tôi khuây khỏa đôi chút khi đi uống rượu hoặc uống cà phê đến khuya với Nguyễn Kim Phượng và Sông Thao. Cũng loanh quanh ở mấy cái quán nhỏ trong trại lính. Hai tuần một lần, tôi được ra Qui Nhơn ăn ngủ thảnh thơi một ngày Chủ nhật tại nhà anh Giác, gặp hai ông thi sĩ Vũ Hữu Định và Đặng Tấn Tới tại đây.

Hôm nọ, dù Phú và đứa em trai của tôi, thằng Lộc, "Mắt Cọp" có vào trại thăm, hắn nhe răng cười nói: "anh Tuấn mặc pyjama coi có vẻ công tử bột và mập ra..." Tôi nói sức mấy, tôi không còn được đóng vai công tử và không thể nào khỏe mạnh mập mạp được nữa, từ khi...

Từ khi... "Chuyện của Tí Đường đến đây là hết. Từ đó cuộc đời của Tí buồn bã lắm..." (Xin xem lại Cô Bé Treo Mùng).

Thư từ của bạn bè, những người quen và cả những độc giả không quen biết gửi đến, an ủi tôi rất nhiều. Nhất là những lá thư đều đặn của Tịnh, thường kèm theo một tấm bưu phiếu cầm lấy nghe thật ấm lòng. (Suốt bốn tháng nay tôi sống hoàn toàn nhờ tiền tác quyền của cuốn Tôi và EmCô Bé Treo Mùng in lần hai. Cám ơn Mơ Nữ, cám ơn Cô bé treo mùng)...

... Sự bất hạnh đã đưa tôi đến hoàn cảnh hiện nay. Nhưng trong hoàn cảnh này, tôi lại được khá nhiều may mắn so với những người khác. Lòng ưu ái ấy bắt nguồn từ tình cảm của người thân, và quý báu nhất là của những người chưa một lần quen biết...

... Những chữ cuối cùng của "Tự Truyện Giữa Mùa Hè" xin dành để gởi lời cám ơn chân thành của tôi đến quý vị trên đây, là những người đã hết lòng giúp đỡ, thăm viếng thăm nuôi, an ủi tôi rất nhiều trong thời kỳ khốn đốn nguy nan nhất của tôi, từ tháng 2/73 đến nay...

... Quý vị trên đây dĩ nhiên là mỗi người đều có một cuộc sống, nghề nghiệp, chức vụ và lập trường riêng biệt khác nhau. Từ một bà sắp có cháu bồng cho đến một cô thiếu nữ chưa chồng. Từ một nhà quân sự chuyên nghiệp lão thành cho đến một người... hoãn dịch lâu dài hay một ông lính trơn tài tử. Từ một nhà giáo chân chính cho đến một kẻ "khinh bỉ" học đường.

Từ nghệ sĩ cho đến người tu sĩ...

Những khác biệt hình thức ấy không quan trọng. Điều quan trọng là một lần nữa, xin tất cả quý vị nhận nơi đây lòng biết ơn chân thành của tôi.

Cám ơn, cám ơn, cám ơn...


18-6-73                
HOÀNG NGỌC TUẤN    

(Trích từ tạp chí Bách Khoa số 395 và 396)
 

Thứ Bảy, 20 tháng 5, 2023

NGƯỜI ÁO VÀNG PHỐ NHỎ - Kim Tuấn

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Người áo vàng phố nhỏ
giữ dùm ta cuộc đời
dòng sông rồi nước cuốn
cuộc tình rồi xa khơi
người đi còn ngó lại
chiều mây giăng cuối trời

Người áo vàng phố nhỏ
khi về mang theo em
cánh hoa quỳ mới nở
trên vùng khô đất cằn
trên vùng cây nhớ gió
trên vùng ta ăn năn
trên nỗi buồn còn lại
sợi tóc che môi cười
ngậm dùm ta nước mắt

Người áo vàng phố nhỏ
ta về qua sông xưa
nghe tình ta chậm lại
con nước chia mấy dòng
đời ta chia mấy bãi
cát phơi hồn nắng trưa

Người áo vàng phố nhỏ
khi về em nhớ ai
nắng vàng trên khóm lá
hoa vàng trên tay quên
gõ bước trên hồn đá
một đời người lênh đênh

(Trích từ tạp chí Văn số tháng 3-1975)

Thứ Tư, 17 tháng 5, 2023

VÁCH ĐÁ CHEO LEO - Nguyễn Mộng Giác

 


Cu Tý chờ không được nữa, lên tiếng giục:

"Mặt trời sắp lặn rồi nội. Mình về thôi".

Ông lão không trả lời đứa cháu nhỏ, cố nheo mắt nhìn vào lùm cây rậm bên bờ suối. Thằng bé không chịu thua:

"Nội không chịu về thì con về trước. Mai con không theo nội nữa đâu".

Ông lão gắt:

"Mày đi theo chỉ làm rối ông chứ được ích gì. Để yên cho ông tìm sợi mây cột bó củi đã. Nội mới tìm được có một sợi thôi.

Cu Tý chộp được cơ hội chứng tỏ mình cũng là người hữu ích, chạy đến lay tay ông nội:

"Để con chỉ cho. Chỗ lùm cây này không có sợi nào đâu. Chỗ phía trên gành có nhiều mây lắm".

Ông lão gật gù, lầm bầm điều gì trong mồm, vui vẻ theo chân đứa cháu nhỏ. Hai ông cháu vừa làm việc vừa kháo nhau chuyện bán củi hôm qua. Cu Tý bảo:

"Mình bán đủ củi cho lò bánh xong, thì đi chặt bổi bán cho lò gạch".

Ông lão nhận xét:

"Ừ, tao chặt trụi hết cả rừng dày, mà chưa lấp nổi mấy cái lò háu ăn".

Cu Tý không hiểu, hỏi lại:

"Nội nói cái gì?"

"Tao nói mấy cái lò háu ăn, hiểu không?"

Vừa nói ông lão vừa chỉ vào miệng cu Tý đang há hốc ra kinh nhạc. Ông lão giải thích thêm:

"Tụi bay ăn dữ quá, một bữa năm sáu chén cơm đầy, làm cho nội chặt trụi cả cây rừng đem bán vẫn chưa đủ tiền mua gạo".

Rồi ông lão trầm ngâm, lời nói giống như một tiếng thở dài:

"Đáng lẽ tới tuổi này, tao chỉ ngồi vuốt râu uống nước trà, chờ cha tụi bay nuôi. Nhưng Trời không chiều lòng người, biết làm sao giờ".

Cu Tý mãi nghe, không chịu kéo mạnh dây mây để siết chặt lưng bó củi. Ông lão nhắc:

"Con kéo mạnh cho nội chứ. Miệng nói, tai nghe, nhưng tay đừng quên làm".

Cu Tý cười, giúp ông nội bó củi còn lại. Để chữa lỗi, nó lăng xăng chạy lấy cây đòn xóc đem lại cho nội, phụ với ông cắm mạnh đầu nhọn cây đòn vào phía dưới dây buộc. Hai ông cháu vừa làm việc vừa cười đùa. Xong đâu đấy, ông lão hỏi cháu:

"Bây giờ cháu muốn gì? Vác rựa cho ông, hay là đi tay không để nhặt đá cuội về chơi ô làng?"

Cu Tý phụng phịu:

"Hôm qua con mất công đem về, tụi nó khóc la giành hết của con. Bữa nay con không thèm nhặt nữa. Để con vác rựa cho nội".

"Vậy càng tốt. Đem về bỏ lăn lóc thêm dơ nhà. Nào, chúng mình về".

Ông lão chậm chạp khom lưng xuống, kề vai vào dưới đòn xóc, bậm môi lấy gân nhấc gánh củi đứng dậy. Sức nặng đè lên đôi vai già làm cho ông lão xiểng tảng một chút, nhưng ông gắng gượng giữ được thăng bằng. Ông đứng yên một chỗ nhún nhún vài cái cho quen vai, rồi vịn một tay vào bờ đá bắt đầu bước.

Cu Tý chạy trước ông nội, đôi chân nhỏ chuyền liếng thoắng trên các mỏm đá như con sơn dương hí hửng. Tự nhiên nó thấy hồn rộn rã. Nó quên mất gánh nặng của nội. Đến lúc nhớ lại thực tế, nó hốt hoảng khi quay nhìn sau lưng không thấy cái dáng chậm chạp khắc khổ của nội đâu cả. Cu Tý chạy ngược trở lại, qua khỏi một khoảng truông rậm quanh co, mới thấy ông nội đang ngồi bệt bên đường, gánh củi đặt sát bờ đá. Cu Tý hỏi:

"Nặng quá phải không nội?"

Ông lão chưa kịp trả lời, đứa bé đã nói tiếp:

"Con đã bảo bấy nhiêu đủ rồi, không cần chặt thêm nữa. Nội không nghe. Nội cứ sợ người ta chê ít, mai không mua của mình. Gánh củi của bác Ba ít chứ đâu có nhiều như gánh củi mình. Mà lò bánh họ có nói gì đâu. Con..."

Ông lão ngắt lời:

"Không phải đâu. Đừng lải nhải nội bực lắm. Gánh củi này thấm gì. Nhưng mắt nội hơi yếu. Nội vấp hòn đá. Sợ móng chân cái tróc ra mất".

Cu Tý sợ hãi ngồi sà xuống trước mặt ông nội. Ông nội đã nói thật. Ngón chân cái bên phải của ông lão đầy cả máu, và mỗi lần ông lão ấn ngón trỏ vào móng, thì máu lại trào ra. Cu Tý cuống quít không biết làm gì, cứ hỏi:

"Làm sao hở nội? Làm gì bây giờ hở nội?"

Ông lão hơi bực gắt đứa cháu:

"Mày làm gì mà la nhặng lên thế? Đi rừng vấp chân chảy máu là thường chứ có gì đâu. Vạch quần đái lên chân ông nội cho sát trùng, rồi chờ cầm máu mình lại gánh củi về".

Cu Tý không dám nói gì thêm, vâng lời ông lão, đi tiểu lên chỗ bị thương. Thấy bụi đường văng lên chỗ lở, nó nhắc:

"Ông để chân lên hòn đá cho sạch".

Ông lão thấy cháu nói có lý, dời bàn chân đau lên chỗ mặt đường có tảng đá phẳng. Cu Tý hơi khom người xuống để nước tiểu rơi nhẹ lên ngón chân, cho nội khỏi đau. Ông lão thấy cháu có ý tứ, cảm động, vỗ vỗ lên vai cu Tý:

"Sao con biết nội bị vấp mà quay lại?"

Cu Tý nói dối:

"Con cứ chạy một quãng lại nhìn trông chừng, sợ nội theo không kịp".

Khi cu Tý tiểu xong, ông lão bảo:

"Thôi, được rồi. Để nội ngồi yên một chút cho máu hết chảy, mình lại bắt đầu đi. Con không thích lượm đá cuội nữa sao? Ông nói đùa, ông không la đâu. Lại chỗ lòng suối kia tìm mấy viên nhỏ và tròn đem về chia bớt cho mấy em".

Cu Tý đi rồi, ông lão nhìn lại ngón chân cái của mình. Tuy hơi rát, nhưng máu đã bớt chảy. Đầu móng chân bị vẹt đi một chút, để lộ mảng thịt hồng. Ông lão dáo dác nhìn quanh, tìm lại viên đá đã làm cho chân ông đau. Nó nằm cách đó không xa. Ông lão nghiêng mình với tay nhặt lên. Viên đá nhỏ xù xì, đầy góc nhọc sắc chẳng kém mũi dao. Lòng tự nhiên tức giận, ông lão cầm viên đá giơ lên cao, lấy đà, định ném thật xa cho rơi tõm xuống khúc suối nước đục. Nhưng vào phút cuối, ông lão dừng lại. Ông nhìn hòn đá chăm chú một lần nữa. Viên đá mầu mỡ gà, nhưng chằng chịt những đường chỉ đỏ như gân mái trong lòng mắt người già. Ông lão nghĩ: Trong thân thể mình, chắc cũng có những đường máu chằng chịt như thế này. Nhờ thế khi bị vấp, máu chỉ rịn dần dần chứ không tuôn xối xả. Ông lão tự nhiên thấy viên đá trở thành quyến luyến. Ông cảm thấy, mơ hồ, trên cái dáng xù xì lồi lõm, bằng những mầu sắc hỗn tạp chỗ vàng chỗ trắng chỗ xám chỗ đỏ, một gương mặt chập chờn. Chỗ nhô ra này có thể giống với chóp mũi con chó nhỏ, nhưng chỗ lõm này lại giống cái miệng người. Ông tìm đôi mắt. Tuyệt nhiên không thấy đâu. Chỉ thấy các đường gân máu trên má trắng. Ông chợt nhớ viên đá đã làm cho ông chảy máu chân, nên săm soi tìm kiếm xem còn dính đâu đây không. Vẫn tuyệt nhiên không thấy đâu. Hay là mình lầm với một viên đá khác. Mình có vấp vào một viên đá, nhưng có thể viên đá này vô tội. Tay ông mân mê viên đá xù xì, dần dần cảm thấy hơi ấm mặt trời chuyền từ viên đá qua tay mình. Khám phá ấy làm cho ông lão xúc động, ngồi lặng trầm ngâm. Sức sống của mặt trời truyền vào tấm thân tàn tạ này, giữa lúc hoạn nạn và trong bóng chiều ủ dột khiến ông nôn nao. Ông nhìn thẳng trước mặt, chỉ thấy màu lục chập chờn, không khi gió lay động chòm râu bạc, từng sợi từng sợi phất phơ. Nếu đứa cháu không trở lại, chắc ông lão còn ngồi trân như vậy lâu lắm. Cu Tý khoe:

"Con chọn được 25 viên cuội trắng. Mỗi đứa được năm viên. Con chỉ sợ thằng Mãnh lại đòi phần của con Lý".

Thấy ông nội vẫn còn ngơ ngác, cu Tý hỏi:

"Đau lắm phải không nội? Đã hết chảy máu chưa nội?"

Ông lão giật mình, trả lời lấy có:

"Hết rồi con".

"Nội vấp vào chỗ nào đâu?"

Ông lão nghe cháu hỏi, vội giấu viên đá đang cầm nơi tay trái vào lòng.

Cu Tý không chú ý, tiếp tục hỏi:

"Đã hết chảy máu chưa nội. Để con coi thử. À, hết rồi. Máu đã khô. Nhưng sao tay nội còn dính đầy máu thế này?"

Ông lão cuống quít định đưa tay trái lên xem, nhưng cu Tý đã chụp lấy bàn tay phải của ông. Cháu ông nói đúng. Mấy ngón tay phải của ông còn dính đầy máu. Từ nãy đến giờ mãi lo săn sóc cái chân, ông quên cái tay. Ông đưa tay lên chùi vào vạt trước, nhưng sợ giặt không đi, nên ngập ngừng dừng lại ở khoảng lưng chừng. Ông nhìn quanh quất. Cu Tý hốt hoảng:

"Tay của nội cũng bị thương nữa sao nội?"

Ông lão trấn an đứa bé:

"Không phải đâu. Đừng lo. Ông lấy tay nặn cho máu bầm chảy ra hết, nên bị dính phải. Để nội chùi sạch cho con coi. Không bị thương chỗ nào hết".

Ông lão vừa nói vừa tiếp tục tìm thứ gì chùi máu trên bàn tay. Chợt ông chú ý đến lớp rêu khô bám trên mặt đá vệ đường. Mặt đá quay về hướng bắc, và lớp rêu một mùa gió mưa năm trước bây giờ chỉ còn lại một mảng khô mầu thẫm. Ông lão đứng dậy, tiến về phía mặt rêu:

"Nội chùi vào đây cho sạch tay, rồi mình còn về".

Lớp rêu khô mịn như mặt nhung. Máu dính lên lớp rêu, để lộ lớp da nhăn chai đá trong lòng bàn tay lão tiều. Nhưng một vài cọng rêu héo bám theo bàn tay, nằm rải rác trên năm ngón gầy. Ông lão tìm khoảng rêu khác chùi mạnh tay một lần nữa, cẩn thận lau sạch máu bầm trên từng ngón đen đúa. Chính lúc đó ông mới chú ý dưới lớp rêu khô héo còn có một lớp rêu non mới nhú. Ông lão thích thú lấy ngón tay trỏ rẽ nhẹ khắp mặt rêu. Đâu đâu cũng có một tầng rêu xanh ẩn nấp, chờ sẵn sương đêm. Cu Tý giục:

"Đã xong chưa ông nội. Trời tối qua mương không kịp đâu".

Ông lão quay lại nhìn cháu, thấy mái tóc dài phủ gần kín vầng trán thơ ấu, trong khi đôi mắt cu Tý mở lớn một vùng trời hy vọng, mơ ước. Ông lão chợt nghĩ đến việc so sánh cọng rêu xanh và đôi mắt đen láy này, lòng xôn xao khác thường. Bấy giờ nắng chiếu qua ngọn cây, tung tăng bên bờ đá phía bên kia suối. Côn trùng chim chóc bắt đầu hoạt động trong các bụi rậm, nhộn nhịp ríu rít. Ông lão muốn ôm cháu vào lòng để tỏ niềm trìu mến, nhưng khi đưa hai bàn tay lên ông mới nhớ mình còn cầm viên đá xù xì ở tay trái. Cu Tý tò mò:

"Nội cũng lượm đá về chơi ô làng hở nội?"

Ông lão vội vã cải chính:

"Tao chừng này tuổi đầu mà còn chơi ô làng hay sao? Đem về cho mẹ tụi bay đằng thạp dưa cải".

Cu Tý cũng không vừa:

"Nội lầm rồi. Đằng dưa cải thì phải chọn mấy hòn đá tròn láng mới được. Hôm trước con cũng đem về một viên đá lớn cho mẹ, nhưng mẹ chê xù xì quăng đi. Mẹ muốn nhờ nội tìm cho một viên thật lớn, nhưng sợ nội yếu nội mệt..."

Lời đứa cháu làm ông lão suy nghĩ. Ừ, ông chưa yếu, nhưng không còn mạnh mẽ. Không biết bao giờ ông yếu đến độ không thể đi củi được nữa, và đến lúc đó, liệu gánh dưa cải của người dâu nhỏ ốm có đủ nuôi cả gia đình? Vợ ông mất từ lâu. Từ hồi thằng Đình mới có mười tuổi. Một cha một con sống âm thầm bên rẫy, ngày hai lần nhìn mặt trời mọc lên từ bên kia đỉnh Chóp Vàng và lặng mất đằng sau đỉnh Chóp Vung. Thằng Đình lớn lên như cây cối, cho đến lúc ông lão thấy phải dời nhà xuống đồng cho con lập gia đình, ông nhớ núi, ngày ngày ngồi bó gối nhìn ngọn cao sừng sững bên kia đồng lúa trì. Nhưng ông còn nhiều việc để làm cho tạm nguôi nhớ. Cu Tý ra đời. Rồi lần lượt con Lý, thằng Sư, thằng Mãnh, con Miên. Đình mạnh khỏe và tháo vát, ngược xuôi chu cấp cho cả gia đình đông đúc. Lúc Đình phải nhập ngũ, ông lão tưởng đời sống sẽ bị hoàn toàn đảo lộn, nhưng lúc nào Đình cũng lanh như con sóc. Nó xin làm việc ngay tại chi khu, gần gũi gia đình. Sự đảo lộn chỉ thật sự bắt đầu lúc cây cầu bắc ngang qua suối do Đình canh giữ bị giật sập. Ông lão không còn có quyền ngồi bó gối gửi nhớ nhung về đỉnh Chóp Vàng. Ông phải trở lại nghề cũ nuôi cháu. Ông biết sức khỏe mình ngày càng kém. Gối đã run, tay đã yếu. Mắt đã hấp hem trên bước chân nam chân xiêu khó nhọc. Nhưng ông lão còn rán được. Ông tin mình còn đủ sức kéo lết cuộc đời qua ngày đoạn tháng. Cơn ho trở mùa chưa tới, đó là một điềm lành.

Nghĩ tới đó, tự nhiên cổ ông ngứa, và dù cố gằn, cơn ho dữ dội vẫn ào ạt ập đến. Ông lão ngồi rũ bên gánh củi, gập người lại cố lấy hết ý chí cưỡng lại bệnh tật. Cu Tú quăng cả mấy viên cuội đẹp trên tay, chạy đến vuốt ngực ông:

"Nội ho trở lại phải không nội? Chắc sương chiều đã xuống rồi. Khí núi lạnh lắm. Mẹ nói hơi núi độc hơn cả gió bấc. Mình về nhanh lên nội".

Lời thằng bé giúp ông lão nhận thức được hoàn cảnh. Phải, có lẽ khí núi lạnh khi mặt trời đã lặn bên kia Chóp Vung làm cho phổi ông lão yếu đi. Phải về gấp, ông bước đến gần gánh củi, khom lưng kê vai vào đòn xóc. Ông lấy hết sức đứng dậy, nhưng sức lực ông tiêu tan đâu mất hết. Ông không nâng nổi gánh củi lên khỏi mặt đất. Thấy Cu Tý theo dõi mình, ông lão giả vờ bảo:

"Trời còn sáng mà cháu. Để ông ngồi một chút cho hạ đàm, rồi về cũng không muộn. Khi nào nắng hết chiếu trên đỉnh Chóp Vàng, mình mới sợ".

Cu Tý không biết nội quá yếu phải ngồi dưỡng thương, vui mừng đề nghị:

"Nếu thế nội chờ con đi nhặt lại mấy hòn cuội. Lúc nội ho rũ, con sợ quá, quăng đi mất hết".

"Ừ, con đi nhặt đi, nội chờ".

Lúc cu Tý chạy đi rồi, ông lão thử bậm môi nhấc gánh củi lần nữa. Nhưng nước mắt ông tự nhiên trào ra, đầu gối run lẩy bẩy. Ông ngồi phệt lên mặt sỏi, lo lắng, rồi sợ hãi. Chắc cơn ho làm cho mình yếu đi, hoặc máu chảy nhiều làm cho gân cốt mềm lại. Hãy chờ một chốc nữa. Có tiếng sột soạt trong bụi rậm gần đó. Một con rắn mối ló đầu ra khỏi mớ cây dại thấp, dáo dác nhìn quanh, rồi đăm đăm nhìn ông lão. Bốn chân rắn bám vào mặt đất, trong khi cái đầu không thôi ngơ ngác. Ông lão nhặt một hòn đá nhỏ, quăng vào bụi rậm để gây tiếng động. Con rắn sợ hãi quay đầu chạy trở lại đường cũ. Cu Tý nghe tiếng đá rơi, chạy lại hỏi:

"Cái gì vậy nội?"

"Không có gì đâu. Nội nhát con rắn mối".

"Nó đâu rồi, để con quăng cục đá cho bẹp đầu quách".

"Không nên. Nó chạy mất rồi. Bốn cái chân lăng quăng lê cái mình nặng. Tội nghiệp".

Cu Tý cười:

"Nó có bốn chân mà thua mình hai chân. Mình nhảy vài cái, là về tới nhà liền".

Câu nói của cu Tý làm ông lão suy nghĩ. Viên đá nằm lơ đễnh bất động trên lối đi. Mảng rêu bám vào vách núi, chờ gió chờ sương của mùa đông cũ. Con rắn mối khó nhọc bám chặt mặt đất lồi lõm. Gánh nặng cuộc đời đè nặng lên đôi vai, cũng dán chặt đời ông thân ông vào đồng lầy, sườn non, luống rẫy. Nhưng ông còn hai chân bước. Đầu gối ông chỉ cần khẽ gấp, là bàn chân có thể nhổ lên khỏi mặt đất. Và bàn chân này đặt xuống là bàn chân khác lại nhấc lên, bước tới. Đất không đủ sức chôn chặt chân ông. Và thân hình ông đứng thẳng, mắt ông nhìn xa. Ông chưa đến nỗi nào. Trừ khi cuộc đời và tháng năm bẻ cong lưng ông xuống, trừ khi cái chết ép sát thân ông vào mặt đất, ông vẫn còn có thể tiến tới. Ông còn đứng dậy được. Ông muốn tự đặt mình trước một sự đã rồi. Ông bảo cu Tý:

"Thôi. Ông cháu mình về".

Cu Tý đồng ý:

"Phải đó nội. Nắng đã hết chiếu trên đỉnh Chóp Vàng rồi".

Lão tiều khom người xuống, hai chân dạng ra theo thế tấn. Ông nghiêng vai. Đôi vai hơi mỏi. Ông bậm môi nhấc gánh củi lên. Gánh củi không nhúc nhích. Ông lão hít mạnh một lần nữa, trí nghĩ đến cái nhục của loài bò sát. Miệng ông bảo cháu:

"Nó bốn chân, nhất định phải thua mình hai chân. Mình vươn vai một cái, đã đứng thẳng lên ngay".

Trong khi lấy gân đứng dậy, ông lão đứng dậy được. Gánh củi hơi chòng chành. Nhưng tay ông lão kịp giữ lại cho nguyên thế thăng bằng.

Rồi cu Tý đi trước, bước chân nhảy nhót như chân sóc. Và lão tiều theo sau, bước chân đằm vững theo nhịp thở. Hai ông cháu về tới nhà, thì trời mới tối hẳn.
 
 
NGUYỄN MỘNG GIÁC       
 
(Trích trong tập truyện ngắn Bão Rớt, NXB Trí Đăng 1973)
 

Chủ Nhật, 14 tháng 5, 2023

TỪ NGÀY MẸ CHẾT - Nam Cao

 

Hôm nay mưa rét. Mỗi khi trời mưa rét Ninh lại nhớ đến bu. Hồi bu còn sống, những ngày mưa rét, không ra vườn hái trầu, bóc mía hay làm cỏ được, bu hay mang cái bị giẻ và một ôm quần áo rách vào ổ rơm ngồi vá. Bu Ninh khéo vá lắm. Những miếng vá đặt rất phẳng phiu, không răn rúm. Những mũi kim nhỏ, đều đặn và thẳng tắp. Người vô ý trông không biết là áo vá. Mà bu Ninh vá thật không biết gì là sốt ruột. Ai đâu mà ngồi đến tê cả mông, mờ cả mắt cũng không thôi. Những lúc đau lưng quá, bu Ninh chỉ ngừng kim một lát, vươn vai hoặc bẻ lưng vào cái cạnh giường kêu răng rắc, rồi lại cúi đầu xuống vá, vá hết cái này sang cái khác. Bao nhiêu là quần áo rách! Những cái quần trắng, áo cánh trắng của thầy, đầy nhựa chuối. Những cái váy bạc phếch của bu. Những cái váy bằng vải to nhuộm sồng với nhuộm bùn, dày cồm cộp. Trông cái váy, người ta tưởng như nó bền đến thiên niên vạn đại ấy thế mà cũng rách. Tội nghiệp, thì ra nó đẫm nhiều nước tiểu của thằng Đật quá. Về mùa rét, cậu Đật ta đêm nằm cứ tuồn hai chân vào lòng mẹ. Chả thế thì nó ấm mà! Nhưng tính cậu ta lại đái dầm, càng rét càng khỏe đái. Ấy thế là cứ mỗi đêm ba bốn lần, cậu rót tồ tồ vào váy mẹ. Chẳng sáng nào, mẹ không phải thay váy đem ra ao giặt. Còn gì mà chẳng mục? Không mục có họa là bằng gỗ lim!... Nhưng nhiều nhất là những quần áo của Ninh, của Đật. Cái nhuộm son, cái giãi nâu, cái để trắng. Nhưng chẳng cái nào còn giữ trọn vẹn được cái mầu của nó. Bởi vì cái thì mốc xanh, cái thì mốc vàng, cái thì lấm tấm hoa bèo, cái thì trạt những nhựa chuối, những tương, những mắm, mũi dãi cùng đất cát. Vò đến sái tay cũng không còn sạch được. Mà cái thì mất cúc, cái thì xoạc nách, cái thì xoạc túi, cái thì rách lưng, cái thì rách vai, cái thì rách ống tay. Chỉ tại nó nghịch quá. Không thể chưa đến nỗi. Nhiều cái vải còn dai lắm, xé kêu xoàn xoạt. Chúng nó mặc hại quần áo lắm. Cứ gọi là vừa mặc vừa xé áo. Bu Ninh tay vá, miệng chửi cho không còn tai nào mà nghe...

Đật và Ninh chiếm mỗi đứa một bên cạnh mẹ. Chúng nó nằm phục vị, đều chúi vào đít mẹ, Ninh kêu bên Ninh ấm, Đật cãi bên Đật ấm, hai đứa cãi nhau chí chóe. Mẹ đùa con, bảo:

- Có im, không thì tao đánh cho một cái... tha hồ ấm.

Chị em cười khành khạch rồi cãi nhau bô bô. Ninh mồm mép quá, Đật không nói kịp. Đật òa khóc. Mẹ ngừng kim, cốc vào đầu con gái. Ninh rụt cổ lại, ôm đầu cười hí hí. Mẹ Ninh bật cười. Ấy thế là Ninh sằng sặc cười thật to, khiến Đật đang khóc cũng khanh khách cười... Chao ôi! những ngày mưa rét hồi ấy vui quá nhỉ?

*

Bu chết đã ngót ba năm. Thầy bảo thế. Thì ra ba năm cũng dài lắm nhỉ. Ninh cứ tưởng bu Ninh chết đã lâu lắm. Nhưng trách gì!... Xưa kia, những ngày bu đi chợ tỉnh, độ gần tối chưa về Ninh đã thấy mong. Ấy là mới vắng bu có một ngày. Mà nào đã hết cả ngày. Bây giờ vắng bu bằn bặt những ba năm. Bao nhiêu ngày tháng! Ninh thấy lâu là phải. Biết bao giờ mẹ lại về với con? Ninh bâng khuâng cả người. Y như là nằm mơ ấy là Ninh đã nguôi nguôi đấy. Hồi mẹ Ninh mới chết, cứ nghĩ đến mẹ là Ninh khóc. Ninh khóc ằng ặc như người nuốt phải ngụm gì đắng quá, nó quánh vào cổ họng. Khóc đến lặng hẳn người đi, không còn ra tiếng nữa. Chẳng ngày nào không thế. Mỗi ngày hai, ba lần.

Bây giờ thì Ninh không khóc nữa. Nhưng Ninh vẫn còn buồn lắm. Buồn rũ rĩ. Ninh ngơ ngẩn như mất vía. Có lúc Ninh làm gì mà cũng không biết nữa. Ninh vừa cất con dao hay cái chổi, giá thầy Ninh có hỏi, Ninh đã lại chẳng biết đâu mà lấy. Thầy Ninh cũng hiểu Ninh nhớ mẹ, nên không nỡ mắng. Thầy rân rấn nước mắt. Bố nhìn con, con nhìn bố. Hai bố con cùng cúi đầu lẳng lặng. Bố thở dài và con thở dài...

Mẹ Ninh chết sau ngày giỗ ông nội Ninh có hai ngày. Ninh nhớ rõ thế, bởi vì ngày giỗ ông năm ấy, hai mẹ con đã khóc lóc với nhau từ non trưa cho đến tối. Sáng dậy thầy Ninh hâm thuốc cho bu Ninh uống rồi thầy quét nhà, quét sân, giặt quần áo cho bu. Rồi lại còn phải lấy gạo thổi một niêu cơm để đấy cho Ninh nữa. Xong đâu đấy thầy cõng Đật đi ăn giỗ. Ninh phải ở nhà coi mẹ. Thầy Ninh bảo: "Con chịu khó ở nhà với bu kẻo bu buồn, thầy cho em đi một lát, lúc về thầy lấy phần cho một nắm xôi, vài miếng thịt, tính con thịt mỡ chỉ ba miếng là chán ứ. Đi, con cũng chả ăn được mấy, mà ở nhà thì thầy cũng đem về cho con. Đằng nào con cũng được ăn, nhưng bu con ốm thế, để bu ở nhà một mình thì thầy lo lắm". "Con ở nhà với bu...". Việc gì mà thầy phải nói nhiều đến thế? Ninh có đòi đi đâu? Thịt mỡ thì Ninh không thích thật. Nhưng dù có thích, Ninh cũng không đi cơ mà! Đi cũng khó mà nuốt được. Ninh thương bu lắm. Ninh thích ở nhà với bu. Thầy Ninh còn phải cúng ông, thì thầy Ninh phải đi. Thằng Đật còn bé, dở người, không cho nó đi thì nó khóc. Chẳng lẽ Ninh to đầu rồi mà cũng bắt chước em? Có mà đồ hư? Không, Ninh không đi đâu, thầy ạ. Ninh không muốn đi đâu, thầy ạ! Thầy cứ cõng thằng Đật đi kẻo muộn. Ninh ở nhà thích lắm. Thầy đừng thương Ninh...

Nhưng thấy Ninh cứ nhìn theo thầy cõng thằng Đật đi ra ngõ, bu Ninh lại tưởng Ninh muốn đi ăn giỗ lắm, nhưng sợ bố mà không dám đòi đi. Bu Ninh thương hại. Bu gọi Ninh vào mà bảo:

- Con muốn đi thì cứ đi cũng được. Hôm nay bu dễ chịu.

Ôi! Không!... không!... Ninh không muốn... Ninh lắc đầu hăng hái:

- Không! Con ở nhà.

- Sao thế?

- Chẳng sao cả, nhưng con không thích...

- Nhưng ngộ bà không thấy con, bà lại hỏi...

Hỏi gì! Bà biết thừa là bu ốm nặng. Ninh phải ở nhà để bu sai vặt chứ!... Ninh nghĩ thầm như vậy, nhưng không nói. Ninh chỉ hơi lắc đầu. Nhưng có lẽ bu cũng hiểu. Bu nhìn Ninh âu yếu. Mắt bu ầng ậc nước. Bu chửi yêu Ninh:

- Bố mày!

Rồi bu lại bảo Ninh:

- Không đi thì ngồi xuống đây... Bóp tay cho bu một lúc. Tay bu buồn lắm.

Ninh nắm lấy cái bàn tay bu, chỉ còn rặt những xương, mà lạnh giá. Nó lỏng la, lỏng lẻo. Những ngón trông rõ từng đốt, từng đốt một. Những đường gân xanh nổi thày lày lên. Ninh bóp tay bu nhẹ nhẹ. Ý hẳn bu thích lắm. Mắt bu lim dim và đôi môi nhợt nhạt của bu hé mở như chực cười. Rồi tay bu nắm lấy tay Ninh chứ không phải Ninh bóp tay cho bu nữa. Bu vừa bóp vừa hỏi:

- Sao lớp này con gầy thế?

Ninh không đáp được. Bu Ninh soi tay Ninh lên trước mặt nhìn rồi bảo:

- Chết thôi, con ạ! Tay mày đầy những mụn. Không khéo ghẻ...

Ninh cúi mặt. Bu căng từng kẽ tay Ninh ra xem, rồi kêu lên:

- Bỏ bố mày! Đích thị mày ghẻ rồi, con ơi! Yên, tao xem nào.

Bu ngồi hẳn lên. Mắt bu tỏ ra vẻ sợ hãi. Bu vén ống tay áo Ninh lên. Cổ tay Ninh sây sứt. Bu lắc đầu:

- Bố con! Con bẩn quá! Cái cổ tay gồ lên những ghét... Hèn nào mà chả ghẻ?

Bu bắt Ninh đi múc nước. Bu rửa cho Ninh lâu lắm. Vừa rửa bu vừa bảo:

- Sẩy mẹ ra một cái là khổ ngay, con ạ. Ấy là mới rời tao ra hơn một tháng... Chúng mày đã gầy giơ xương, mình mẩy, chân tay thì ghẻ gún. Ngộ tao chết thì có lẽ chúng mày rã xương ra được. Này, cái cổ tay... có khác gì cái cẳng gà hay không?

Ngừng một lát, bu lại thở dài mà bảo:

- Mẹ mà chết thì các con đi ăn mày mất! Đàn ông chả mấy người biết thương con cái. Cha chết thì ăn cơm với cá, mẹ chết liếm lá dọc đàng. Mẹ mà chết đi thì... con ơi!...

Ấy thế là nước mắt bu chảy ra ròng ròng. Ninh cũng khóc. Hai mẹ con cứ ngồi trông nhau mà khóc đến tận lúc thầy Ninh với Đật đi ăn giỗ về. Thầy đem về một nắm xôi đỗ con với một cái đùi gà toàn những thịt. Bà thương Ninh nên bảo chặt để lại cho Ninh đấy. Nhưng Ninh thương bu quá, ăn cũng chả còn biết gì là ngon...

Ồ! Ninh cứ bảo: bây giờ nghĩ đến bu, Ninh không khóc nữa... Không khóc mà lại có nước mắt, nước mũi Ninh đang chảy ra đây này... Đật! Đật ơi! Ô hay! cái thằng Đật chạy đi đâu rồi?

*

Đàn ông chả mấy người biết thương con cái... Thật thế ư? Không có lẽ. Thầy Ninh thương chị em Ninh lắm chứ!... Hồi bu mới chết, thằng Đật khóc suốt ngày. Nó gào bu. Nó đã hiểu là thế nào đâu. Nó cứ đòi gọi bu về với nó. Thầy phải cõng nó ra chợ mua bánh. Thầy mua cho nó nhiều bánh lắm. Thầy mua cả cho Ninh nữa. Thầy với Ninh bày cỗ chơi với Đật. Thầy làm cho Đật những con quay bằng những quả bưởi con, những cái giường, những cái ghế tràng kỷ bằng cây chót. Trông thích lắm. Nhờ vậy Đật mới không khóc nữa.

Đêm, Đật và Ninh ngủ với thầy. Ninh nằm trong cùng. Đật nằm giữa. Thầy nằm ngoài. Thầy bảo Đật luồn chân vào lòng thầy cho thầy ủ. Khi nó đã ngủ mệt rồi, thầy vươn tay qua người nó để sờ Ninh. Thầy kéo Ninh nằm sát vào với Đật. Thầy co chăn, co chiếu về phía Ninh thật nhiều, sợ Ninh giãy, trật ra ngoài, bị rét. Mùa bức thì thầy đặt hai đứa nằm cách nhau xa cho mát. Thầy ngồi quạt. Quạt cho đến tận lúc nào con ngủ mệt, thầy mới chịu ngả lưng xuống giường. Nhưng nằm thì nằm, thầy có ngủ đâu. Ninh thấy thầy quạt rất khuya. Có đêm, ngủ được một giấc dài, tỉnh dậy, Ninh vẫn còn nghe phành phạch. Thầy thở dài luôn ấy. Có khi sụt sịt. Thì ra đêm đêm thầy vẫn khóc. Thầy nhớ bu...

Ấy, cái hồi bu mới chết thì thế đấy. Nhưng ít lâu nay, hình như thầy đổi tính. Thầy vẫn thương Ninh và Đật. Thỉnh thoảng thầy vẫn cho mỗi đứa vài xu ăn quà. Nhưng thầy vắng nhà luôn. Thầy phải gửi gạo bên nhà bác Vụ để thổi cơm cho Ninh và Đật. Bởi thầy đi từ sáng cho đến tối. Có khi tối cũng không về. Có khi đi luôn hai, ba ngày. Chị em Ninh phải ăn nhờ, ngủ nhờ nhà bác Vụ. Đi đâu vậy? Nào ai biết! Bác Vụ bảo thầy đến nhà cô Miện, thầy phải lòng cô ấy. Nhưng chắc là chả phải. Nếu phải, sao cô Miện lại đi lấy lẽ ông ký Bản? Đám cưới vừa đi qua đây hôm nọ. Ninh cõng Đật ra tận đường, đứng xem. Từ hôm ấy thầy lại càng khỏe đi. Đi suốt ngày suốt đêm. Mưa rét thế này, chả biết thầy đi làm gì cho khổ? Chả biết có được ăn gì hay không? Hay là nhịn đói luôn ba, bốn ngày...

*

Lại còn cái ông Đật nữa! Đi đâu mà mãi thế này? Ý dáng lại lẩn sang nhà bác Vụ. Còn sang làm gì? Gạo của thầy gửi đã hết từ đời nào. Bác ấy phải cho ăn lận nhà bác ấy năm, sáu bữa. Nhà bác ấy cũng túng. Chồng chết đi, để lại đẫy bốn con. Bốn đứa cũng lúc nhúc như Ninh và Đật. Bác ấy nuôi được chúng nó cũng đến điều vất vả. Còn lấy gì mà nuôi cả Ninh và Đật nữa? Bác ấy đã phải bảo Ninh: "Cháu về mà đi tìm thầy, nhà bác cũng hết gạo rồi, nếu thầy không đưa thêm cho bác thì bác lấy gì thổi cho chúng mày? Các anh cũng đói...". Thế là Ninh đủ hiểu. Bác ấy muốn bảo: "Chúng mày liệu sao thì liệu, đừng ăn rình nhà tao mãi!". Ninh đưa em về. Tìm thầy, thì biết đâu mà tìm được? Ninh chẳng tìm. Không có ăn thì nhịn! Ninh nhịn từ bữa chiều hôm qua. Đật khóc, Ninh đi moi được một củ dong về nướng. Đật một nửa. Ninh một nửa. Ninh bảo Đật ăn cho đỡ đói thôi, còn cố nhịn, đợi thầy về, ăn nữa. Nhưng Đật không nhịn được. Đật chạy sang nhà bác Vụ. Bác ấy phải lấy trộm nắm cơm tối của thằng cu Chúc nhà bác ấy, đưa cho Đật, Đật mới ăn được một miếng thì Chúc biết. Chúc chạy vào nhà tìm nắm cơm của nó. Thấy mất, nó biết là nắm cơm của nó đương ở trong tay Đật. Nó chạy theo, giằng lại. Đật mất ăn, mếu xệch mồm đi, chạy về. Ninh đứng ở hè bên này, trông rõ cả. Ninh tức lắm. Chẳng biết tức Chúc hay tức Đật. Chỉ biết Ninh nghẹn ngào cả cổ. Vừa thấy Đật, Ninh nhảy xổ lại, tát đen đét vào má Đật. Đật òa lên khóc. Ninh òa khóc theo.

Một lát sau, Ninh nghĩ thương em quá, Ninh lại đi tìm dong, nhưng hết. Ninh moi luôn một củ ráy. Ráy nước, ăn ngứa lắm. Nhưng đói còn biết gì là ngứa? Ninh đem về nướng. Ninh gọi Đật về, lau nước mắt cho nó, rồi chị em ăn ráy nước. Đật ăn tợn lắm, chẳng thấy kêu ca gì cả. Ninh rơi nước mắt. Ninh dặn em: "Từ giờ đừng ăn cơm nhà thằng Chúc nữa". Đật gật đầu. Thế mà hôm nay nó lại lần sang nhà bác Vụ. Có bực mình hay không?

*

Ninh reo lên:

- A bà! 

Đấy là bà ngoại Ninh. Bà ở xa xôi lắm. Hôm nay, tiện ra mạn này lấy thuốc, bà tạt vào chơi với cháu.

Bà đưa cho cháu một đùm xôi lạc.

- Bố mày đi đâu?

- Con không biết.

- Đi từ bao giờ mà mày không biết?

- Đi lâu lâu là rồi.

Bà ngồi xuống ngưỡng cửa, mặt hầm hầm như giận dữ. Ninh hơi ngượng. Bà chíp chíp mồm luôn ba, bốn cái rồi bảo cháu:

- Có phải bố mày bán nhà rồi không?

- Con không biết.

- Bán rồi! Thua xóc đĩa... Thua đâu những ngót ba trăm bạc...

Đật chạy về. Nó vồ lấy bà, nhưng trông thấy đùm xôi ở tay Ninh, lại bỏ bà ra để vồ lấy đùm xôi. Ninh hất tay nó ra, mắng:

- Làm gì thế?

Nhưng bà bảo:

- Cởi ra, chị em ăn với nhau. Để làm gì?

Đật giằng lấy đưa cho bà cởi. Bà chia cho mỗi đứa một nửa. Hai cháu ăn. Đật ngồm ngoàm. Ninh thong thả. Bà nhìn cháu mà ái ngại. Bà chép miệng:

- Đến chết đói thôi, các cháu ạ! Bố chúng mày không ra giống người...

Một tiếng thở dài tiếp theo...

*

... Buổi sáng hôm ấy trời ấm áp. Có nắng hanh. Nắng luôn mấy hôm rồi, nên vườn khô ráo... Đật và Ninh đã chạy tung tăng được...

Bỗng một bọn năm, sáu người, kẻ cầm lạt, kẻ cầm dùi đục, tuốn vào đầy sân. Mồm họ nhai trầu. Họ nói chuyện toang toang như một bọn đồ tể đi bắt lợn. Mấy người trèo lên nóc nhà nhà Ninh. Họ dỡ tranh quẳng xuống sân rào rào. Ninh chạy về...

- Ô hay! Sao các ông phá nhà tôi?

Một người chít khăn mỏ rìu, nhe những cái răng cải mả ra cười mà bảo:

- A! Thầy mày thuê chúng tao phá đi để làm nhà tây đấy mà.

Một người nữa cười ìn ịt như con lợn, bảo:

- Chả cái này bé quá!... 

Và người nữa:

- Thầy mày thích làm nhà tây kia... Làm nhà bên Tây - Trúc ấy mà, mày biết không?

Cả bọn cười ầm lên. Trông người nào cũng dữ. Họ nói như quát vậy. Ninh sợ hãi Ninh chạy bình bịch sang nhà bác Vụ. Ninh định cầu cứu bác. Vừa bước vào nhà bác. Ninh sửng sốt. Thầy Ninh ở đấy. Thầy Ninh nằm thườn thượt trên một cái giường, hai tay chít lại bên dưới gáy. Ninh mếu máo:

- Thầy ơi! Thầy…

Rồi Ninh nghẹn ngào, không nói được nữa. Nước mắt ứa ra. Thầy Ninh ngồi dậy, bảo:

- Việc gì mà khóc? Thầy bán cho người ta đấy. Bán lấy tiền mua vài phiến lim về xẻ. Chuyến sau, ta làm một cái nhà toàn lim!

Thầy nhếch mép ra cười. Cái cười vạch hai nét nhăn trên đôi má hõm. Thầy cười thế, trông già sọm. Có lý nào thầy chóng già đi quá thế? Ninh trố mắt lên nhìn thầy...

Bỗng từ bên nhà đưa sang những tiếng dùi đục kêu chan chát. Nghe ghê rợn lắm. Ninh đã được nghe những tiếng dùi đục ấy một lần rồi, vào cái ngày mẹ chết: người ta đóng cả chiếc săng của mẹ... Vết nhăn trên má thầy Ninh sâu thêm, rộng thêm ra. Trông như thầy Ninh mếu. Ninh òa lên khóc...

- Bu ơi là bu ơi!...

 
NAM CAO       
 

Thứ Tư, 10 tháng 5, 2023

CÔ ÁO LỤA HỒNG - Thạch Lam

 

Hiệp đi thong thả trong phố, mũ đội lệch, miệng ngậm thuốc lá. Chàng vừa đi vừa nhìn đám người qua lại tấp nập dưới bóng nắng ấm của sáng mùa thu. Thỉnh thoảng, Hiệp đứng dừng lại trước một cửa hiệu bán đồ trang sức, anh ta sung sướng ngắm nghía những cái mũ phớt mềm mại, những dây lưng đẹp đẽ và những cà vát lụa nhiều màu rực rỡ. Tuy không có tiền để mua những thứ đó, nhưng trông ngắm không cũng đủ cho Hiệp hưởng mấy cái vui thú của những cuộc đi chơi phiếm.

Nhất là những cuộc đi chơi của Hiệp lại còn có một mục đích khác nữa. Cứ mỗi buổi sáng chủ nhật, anh ta thắng bộ, nói là đi chơi mát, nhưng chính thực ra chỉ cố để trông ngắm các thiếu nữ Hà thành. Sự kinh nghiệm đã bảo cho chàng biết rằng chủ nhật là cái buổi ở trong phố có lắm các tiểu thư nhất. Giờ các cô đi sắm sửa quần áo và phấn sáp, nước hoa, một công việc mà Hiệp cho là hợp với tính cách người thiếu nữ hơn cả. Chính cái sung sướng của Hiệp là được trông thấy một cô thiếu nữ xinh xắn đứng chọn các hàng mẫu để may áo kiểu mới, hay là chọn các thứ phấn và nước hoa đựng trong những cái hộp đẹp đẽ.

Có khi chàng đứng lặng hàng giờ, hay suốt cả buổi sáng trước một cửa hiệu bán tơ lụa để nhìn các cô thiếu nữ mua hàng. Chàng nhìn những mái tóc đen nhánh che lấp vành tai hồng hồng và xinh xắn, những sợ tóc mai lơ thơ trên má phơn phớt, những tấm thân mềm mại hay những tà áo màu tha thướt. Nếu có một cô nào tươi đẹp đi ra là Hiệp đi theo liền... Đi theo xa xa thôi, mà đi theo một cách kín đáo, không cho thiếu nữ biết. Có khi cứ như thế đi hết phố nọ sang phố kia, rồi đến khi thiếu nữ vào nhà, Hiệp ta còn đứng tẩn ngẩn ở ngoài hè... Nhưng rồi anh ta cũng thấy cái vô vị của sự đứng như thế không có lợi gì. Vì thiếu nữ có biết anh ta theo đâu, mà dầu có biết nữa, chắc cô ta cũng không để ý.

Nhiều lần, theo sau một cô thiếu nữ xinh xắn một thôi đường cũng khá mỏi chân, Hiệp chỉ muốn tiến lên tìm cách làm quen hay nói chuyện với thiếu nữ. Nhưng cái tính rụt rè làm cho Hiệp, khi sắp sửa nói, lại ngượng nghịu, tự thấy câu mình sắp nói không có ý nghĩa gì hết. Thành thử, dưới đôi con mắt ngạc nhiên của thiếu nữ, Hiệp lúng túng rồi lại lùi xuống giữ cái địa vị đi theo như cũ.

Đã nhiều lần Hiệp tự tức mình về cái tính rụt rè ấy. Chàng thấy những anh bạn tự nhiên gợi chuyện với một thiếu nữ chưa từng quen biết ở ngoài phố một cách rất dễ dàng, chàng lẩm bẩm tự cho mình là hèn, nhát, và nhất định lần sau thì sẽ can đảm và mạnh bạo hơn nữa.

Nghĩ như vậy, Hiệp thổi sáo ở giữa phố để lấy cái vẻ dung dị, không cần gì ai, mà chàng thấy các anh em bạn vẫn có, rồi rảo bước đi mạnh về phía bờ hồ. Chợt chàng đứng dừng ngay lại: một thiếu nữ rẽ đầu xuống phố hàng Gai ra, vừa gặp Hiệp đưa mắt lên nhìn. Một luồng điện như truyền khắp từ đầu đến chân, Hiệp không nhìn thấy gì nữa, chỉ thấy đôi mắt đen nhánh của thiếu nữ và cái màu hồng của tấm áo. Thật chưa bao giờ Hiệp thấy một cô thiếu nữ xinh đẹp như thế! Anh ta cứ bàng hoàng đứng ngẩn người ra như phỗng, quên mất cả cái lễ phép tránh sang một bên để nhường lối cho thiếu nữ đi. Đến khi cô kia đưa cặp mắt ngạc nhiên nhìn anh ta lần nữa, mỉm cười như có ý chế nhạo rồi quay đi, Hiệp mới hoàn hồn, bước theo sau thiếu nữ.

Tấm áo lụa hồng phấp phới bay theo chiều gió, thiếu nữ có một cái dáng điệu mềm mại, khiến Hiệp lấy làm sung sướng rằng đã được gặp một người đẹp. Chàng nhất định lần này không để lỡ mất dịp tốt, vừa theo vừa nghĩ kế làm quen với thiếu nữ.

Có lẽ thiếu nữ cũng biết anh ta theo, nên thỉnh thoảng nàng quay lại nhìn Hiệp mỉm cười. Qua phố hàng Ngang, hàng Đường, chợ Đồng Xuân... thiếu nữ rẽ qua hàng Lược, rồi đứng dừng lại trên hè, ngơ ngác nhìn hai dãy phố như người tìm số nhà.

Cố thu hết can đảm trong người, Hiệp bước rảo đến trước mặt thiếu nữ. Chàng ngả mũ chào rất lễ phép:

- Thưa cô... thưa cô...

Thiếu nữ ngẩng lên nhìn Hiệp, lặng yên đứng đợi.

- Thưa cô... thưa cô...

Tự nhiên cái can đảm của Hiệp đi đâu mất cả, Hiệp thấy bối rối, mặt nóng bừng, quên mất không nói câu gì nữa...

Thấy cái vẻ lúng túng của Hiệp, thiếu nữ như có ý thương hại. Đột ngột nàng hỏi :

- Anh Tân đấy à?

Hiệp đứng ngây người ra một lát. Nhưng một ý nghĩ thoáng qua trong óc Hiệp, một cách có thể thoát khỏi cái thời khắc ngượng nghịu, Hiệp liền liều trả lời :

- Vâng... chính tôi...

Thiếu nữ bỗng có vẻ vồn vã, ân cần, bước lại gần Hiệp, nói :

- Chết chửa! Thế mà tôi không nhận ra đấy. Trông bây giờ anh khác hẳn trước kia, nhớn hơn nhiều...

Rồi nàng chúm chím đôi môi đỏ :

- Mà từ độ ấy đến bây giờ, làm gì anh chẳng nhớn... thưa anh, hai cụ nhà ta vẫn được mạnh giỏi đấy chứ?

Đã chót thì phải chét, Hiệp ngập ngừng trả lời:

- Vâng cám ơn cô, thầy mẹ tôi vẫn được bình thường...

Hiệp hơi lo, chỉ sợ cô ta biết là nhầm không phải, thì thật là bẽn. Nhưng thiếu nữ như không để ý đến cái vẻ lúng túng của Hiệp, cứ điềm nhiên nói tiếp :

- Từ độ anh thôi học trở về, bà tôi vẫn có ý nhớ, thường nhắc đến anh luôn và cứ mong anh ra chơi. Chắc anh ở nhà quê cũng bận lắm đấy nhỉ?

Lần này Hiệp không còn lo nữa. Anh đoán già rằng chắc cậu Tân nào đó trước có ở trọ học nhà cô này, rồi về quê nghỉ, mà nghỉ cũng lâu nên bây giờ cô ta mới nhận nhầm được. Chàng vững dạ, mỉm một nụ cười rất xinh rồi nói :

- Vâng, khi ở nhà quê tôi cũng bận công việc lắm, chẳng đi đến đâu được. Nhớ bà và nhớ... cô quá, lắm lúc muốn ra hỏi thăm nhưng không sao mà rứt ra được...

Thiếu nữ đưa đôi mắt đen lánh nhìn Hiệp rồi thân mật trách :

- Anh thật tệ quá! Lên Hà Nội mà cũng không đến thăm em. Anh không nhớ đến em sao? Hay anh quên em rồi?

Thiếu nữ cúi xuống mỉm cười. Hiệp cảm động trong lòng, âu yếm và lấy giọng dịu dàng :

- Không, tôi không quên em... à, quên cô đâu... không bao giờ tôi quên được...

Chàng cảm động thật, cảm động vì đôi mắt trong của thiếu nữ, đôi mắt tình tứ ngây thơ. Càng trông Hiệp càng thấy thiếu nữ đẹp, nhất là cái miệng xinh xắn, có duyên, chúm chím như tinh nghịch.

Hai người vừa đi vừa nói chuyện. Câu chuyện mỗi lúc thêm thân mật, như hai người bạn cũ gặp nhau. Hiệp đóng vai anh Tân nào đó thật là hoàn toàn, trả lời một cách kín đáo... Có khi Hiệp cũng ngập ngừng về một câu nói, nhưng thiếu nữ hình như vui mừng gặp người cũ, không để ý đến gì cả.

Đến lúc chia tay, anh ta đã biết rõ thiếu nữ là Lan, lưu học sinh trường nữ sư phạm. Anh ta lại biết cả số nhà ở hàng Lược và lại được cô hẹn đến chủ nhật sau đến cửa trường học đón cô đi chơi.

Lúc trở về, Hiệp thấy bước chân nhẹ nhàng như người bay. Anh sung sướng tự khen mình đã bỏ được cái tính rụt rè và cảm ơn thầm cái anh Tân nào đó đã cho anh cái dịp làm quen với một thiếu nữ xinh đẹp như thế.

Nhưng Hiệp vẫn có một điều lo: chàng chỉ sợ Lan biết chàng không phải là Tân thì thật rầy rà, chàng lo sợ nghĩ đến lúc Lan mời đến nhà chơi, tuy trong những lúc nói chuyện, Hiệp không thấy Lan đả động gì đến việc ấy cả.

Tuy vậy, Hiệp cũng nhất định nói thật cho Lan biết, một phần vì chàng biết trước không giấu được mãi, một phần vì chàng chắc rằng Lan đối với chàng cũng sẽ tha thứ cho cái sự giả dối bất đắc dĩ ấy.

Hôm ấy gặp Lan, Hiệp cảm động, hồi hộp, cầm tay Lan rồi lưỡng lự nói:

- Em Lan, anh có câu chuyện muốn nói với em...

Lan nhìn Hiệp, chớp mắt nhanh, như nghĩ ngợi một chút, rồi mỉm cười cũng nói:

- Anh Tân, em cũng có câu chuyên muốn nói với anh...

- Chuyện gì, em cứ nói đi.

- Không, anh nói trước.

Hiệp lại ngập ngừng:

- Câu chuyện của anh... em tha thứ cho nhé. Hôm ấy, anh đã nói dối em, vì anh... không phải là Tân!

Lan cười ròn vui vẻ, đáp:

- Em cũng không phải là Lan!

Thấy Hiệp mở to đôi mắt, ra dáng không hiểu, nàng tiếp thêm:

- Em không phải là Lan của anh Tân, mà của anh cơ! Nghĩa là... em biết anh không phải là Tân.

- Em biết?

- Vâng.

Hiệp ngơ ngác; chàng hỏi :

- Thế là làm sao? Anh không hiểu.

Lan lấy tay che miệng, giảng :

- Có gì đâu. Hôm ấy em thấy anh cứ lúng túng mãi, nên em mới giả vờ hỏi thế cho anh đỡ ngượng, chứ có anh Tân, anh Tiếc nào đâu. 

Hiệp chợt hiểu, vui vẻ cười. Một lát, Hiệp sung sướng hỏi :

- Thế em biết anh? Em yêu anh?

- Lan đưa đôi mắt đen láy, ngây thơ nhìn Hiệp :

- Không, em chỉ biết anh theo em, chứ không quen biết anh bao giờ, nhưng em thấy anh cứ ấp úng mãi không nói được câu gì, em thương hại.

 
THẠCH LAM      
 
(Trích từ tập truyện ngắn Gió Đầu Mùa)