Thứ Năm, 7 tháng 5, 2015

CHUYỆN NHÀ HÀNG HẢI SINH BÁ (I)_NGÀN LẺ MỘT ĐÊM


CHUYỆN NHÀ HÀNG HẢI SINH BÁ


- Tâu hoàng thượng, đất Kha Phong Phương Lạc Chi nước Bá Đa cũng rất phồn thịnh, dân chúng sống an lạc trong cảnh thái bình.

Nơi kinh thành vẫn có những người kém may mắn, suốt đời trong cảnh cơ hàn như bác Hình Ba làm phu khuân vác.

Trời nắng gắt, mồ hôi nhễ nhại trên tấm thân đen bóng như tượng đồng vì phải vác một bọc hàng to lớn, bác Hình Ba đã quá mỏi mệt khi nhìn quãng đường xa mà nắng đang thiêu đốt một cách uể oải.

Mắt bác chợt sáng lên khi thấy một bóng cây to lớn, nên vội vàng bước mau đến đặt bọc hàng ngồi nghỉ ngơi.

Cây to lớn mà bác Hình Ba đang ngồi tránh nắng, lại ở dưới cửa sổ một ngôi nhà đồ sộ.

Theo làn gió hiu hắt, mùi xào nấu và mùi thơm của hương hoa hồng bay đến tận mũi bác phu khuân vác. Bác Hình Ba hít từng hơi thơm của cừu nướng và cảm thấy khoan khoái khi từ bên trong, những tiếng đàn dìu dặt bay ra.

Tò mò, bác Hình Ba đi đến phía trước cổng để xem thì thấy nhiều người giàu có trong thành, ăn mặc rất sang trọng, đang xuống xe bước vào ngôi biệt thự.

Biết mùi thơm đó là do trong nhà đang sửa soạn yến tiệc, còn các người sang trọng kia là khách dự tiệc, nhưng bác không hiểu chủ nhân ngôi nhà đồ sộ ấy là ai, bèn lân la đến hỏi người gác cổng:

- Này bác, xin bác làm ơn cho tôi biết, ông chủ ở đây là ai mà giàu có thế?

Người gác cửa nhìn Hình Ba một cách lạ lùng rồi hỏi:

- Chắc anh là người ở xa mới đến?

Hình Ba nói:

- Tôi chính là kẻ sinh trưởng ở đây.

Người gác cổng nhìn Hình Ba từ đầu đến chân rồi lộ vẻ khinh bỉ nói:

- Bác ở Bá Đa nầy mà không biết danh ngài Sinh Bá chủ nhân tôi?

Hình ba cúi đầu nói:

- Thưa bác, tuy ở đây từ nhỏ nhưng vì không có việc qua đây nên tôi không hề biết.

Người gác cổng tỏ vẻ trịnh trọng nói:

- Nếu thế để ta nói cho bác rõ, ngài Sinh Bá là chủ nhân ngôi biệt thự này và bao nhiêu tàu bè đang có mặt trên khắp thế giới. Ngài đã từng chu du khắp hoàn cầu, không còn nơi nào không có vết chân của ngài đặt đến. Nhà ngài cứ mỗi hôm lại có tiệc.

Hình Ba vốn sống khổ cực lo từ bữa ăn, nay nghe nói đến cái sang trọng của người khác thì tủi thân mình nên nói:

- Hỡi thượng đế cao minh, sao ngài bất công thế? Giữa tôi và ngài Sinh Bá sao lại khác biệt thế này? Kẻ thì vất vả suốt ngày tìm mẩu bánh không ra, người thì an nhàn sung sướng mỗi hôm thiết tiệc một lần. Tại sao ngài lại kẻ trọng kẻ khinh thế kia? Tôi đã làm gì nên tội?

Than xong, bác dậm chân xuống đất như tức tối việc gì.

Đang lúc bác đang bứt đầu bứt cổ than thân trách phận mình thì cánh cổng hé mở, rồi một tên nô lệ bước đến gần bác phu khuân vác nói:

- Mời bác theo tôi, chủ nhân tôi muốn nói chuyện với bác.

Hình Ba nghe nói kinh hoàng, lo sợ lời nói của mình đã đến tai ngài Sinh Bá nên ngài gọi mình để quở trách. Bác liền từ chối, viện cớ nào là mình còn phải đi giao hàng kẻo trễ, nào là sợ mất bọc hàng để dưới kia.

Tên nô lệ hết lời mời mọc, bảo rằng mình sẽ giữ hộ đồ và sẽ không có gì đáng tiếc xảy ra cho bác cả, nên sau cùng bác đành phải theo hắn vào biệt thự.

Qua khỏi chiếc sân lát toàn sỏi trắng, viên nào viên nấy đẹp, tròn trịa như đã được chọn lựa, Hình Ba được đưa vào một gian phòng rộng với cách chưng dọn lộng lẫy và mỹ thuật.

Khách đã nhập tiệc quanh quẩn chung quanh một chiếc bàn trải khăn thêu, trên đặt toàn những món cao lương mỹ vị cùng những chai rượu quý.

Chủ nhân ngồi ở giữa, trước mặt đặt một bình hoa bằng pha lê. Trong bình là những thứ hoa xinh đẹp, tỏa một mùi hương thơm dịu khắp phòng.

Tên nô lệ đưa chàng Hình Ba đến gần chủ nhân. Đó chính là một ông lão quắc thước, đôi mắt tinh anh mặc dù râu tóc bạc phơ, đang ngồi trên một chiếc ghế cẩn vàng, hai bên có mấy tên nô lệ đứng hầu.

Trước cảnh uy nghi sang trọng, bác Hình Ba nhìn lại bộ đồ dơ dáy của mình rồi sợ sệt khúm núm cúi chào mọi người.

Nhà hàng hải chủ nhân bảo nô lệ kéo ghế mời bác phu khuân vác ngồi bên cạnh, rồi tự tay rót cho bác một ly rượu ngon và mời dùng bữa.

Khi mọi người ăn uống no say, nhà hàng hải Sinh Bá mới ôn tồn đứng lên nói:

- Thưa các ngài, xin các ngài cho phép tôi được nói chuyện với bác nầy một chút.

Nói xong, ông ta liền xây qua phía Hình Ba hỏi:

- Thưa bác, chẳng hay bác tên gì, nghề nghiệp, và nhà cửa ở đâu?

Hình ba lễ phép đáp:

- Thưa ngài, tôi tên là Hình Ba, làm nghề vác mướn ở tại kinh thành Bá Đa nầy.

Nhà hàng hải Sinh Bá nói:

- Thưa bác, tôi rất hân hạnh được tiếp bác cũng như các ngài đây. Nhưng xin bác hãy nhắc lại những lời nói vừa rồi của bác ở ngoài cổng.

Hình Ba lo sợ, mồ hôi toát đầy mình, bẽn lẽn nghĩ thầm: Chết rồi, đây đến lúc ngài ta hài tội mình đây. Nên chỉ cúi đầu im lặng.

Ngài Sinh Bá nói:

- Bác cứ nói đi đừng sợ gì cả.

Hình Ba vẫn cúi đầu đáp nhỏ:

- Thưa ngài, tôi xin ngài tha lỗi cho những lời vừa rồi, vì quá tủi thân mà tôi nói thế.

Nhà hàng hải cười nói:

- Bác đừng sợ, chẳng những tôi không chấp nhất mà ngược lại, tôi còn rất thương hại cho số phận của bác. Nhưng muốn bác khỏi hiểu lầm về tôi, tôi xin nói cho bác và quý ngài đây rõ, cơ nghiệp mà tôi có hiện nay là do mồ hôi nước mắt của tôi mà ra, chứ không do thân phụ tôi để lại hay do một sự may mắn nào cả.

Để tôi xin kể cho quý ngài rõ những việc mà tôi phải chịu trước kia để dựng nên cơ nghiệp ngày nay, chắc chắn không ai có thể tưởng tượng nổi, nếu không làm phiền quý ngài.

Quan khách cùng mọi người thân cận đều vỗ tay mong được nghe những chuyện kia.

Riêng bác phu khuân vác Hình Ba thì có vẻ đứng ngồi không yên, vì lo sợ trễ việc giao hàng. Hiểu ý, ngài Sinh Bá liền bảo bác cho biết địa điểm rồi bảo người hầu đem đến.

Hình Ba vui mừng cảm ơn ngài, rồi ngồi xuống bình tĩnh nghe. Nhà hàng hải mỉm cười nhìn mọi người rồi kể:


CUỘC HÀNH TRÌNH THỨ NHẤT CỦA NHÀ HÀNG HẢI


- Cha mẹ tôi mất đi, để lại cho tôi một gia tài to lớn. Vì tánh còn trẻ con chưa biết nghĩ, nên tôi đem số tiền ra chơi phá, phung phí cùng các bạn cho thỏa lòng ham muốn.

Cho đến một hôm, tôi chợt nhìn thấy một người khất thực trong đám đông.

Bác ta thật khốn nạn, đi đến đâu cũng bị mọi người bĩu môi chê dè khinh bỉ.

Người bạn nói với tôi:

- Đó là một người giàu có trước kia, nhưng vì không biết đề phòng nên ngày nay mới sinh ra nông nỗi đó.

Nghe lời bạn nói, tôi giật mình nghĩ đến hoàn cảnh mình, nếu tôi cứ mải phung phí chơi đùa thì hậu quả của tôi cũng như người kia, sẽ bị mọi người khinh bỉ, rẻ rúng.

Từ hôm đó, tôi ăn năn việc làm của mình, quyết tâm chịu khó làm việc.

Tôi thu xếp cả mọi thứ còn lại trong nhà mang bán đi. Cộng chung với số tiền còn lại, tôi mua hàng hóa rồi tìm cách liên lạc với những nhà doanh nghiệp trong xứ để mong học hỏi những điều cốt yếu trong nghề hàng hải.

Sau nhiều ngày giao thiệp học hỏi, tôi thu thập được khá nhiều chi tiết cần cho một chuyến vượt biển. Tôi liền xuống tàu, mang theo hàng hóa tiến về phía đông Ấn Độ, chạy về phía vịnh Ba Tư, một vịnh rộng lớn ngoài khơi Ấn Độ Dương. Thật là một vùng biển rộng mênh mông.

Chưa quen vượt biển lần đầu, tôi bị say sóng nằm liệt trong phòng, ói mửa liên tiếp mất mấy hôm, thật là mệt nhọc.

Nhưng dần dần, tôi quen đi và cảm thấy thích thú ở những ngày kế.

Chúng tôi ghé tàu vào nhiều hòn đảo ở dọc đường để buôn bán và đổi hàng hóa cho các thổ dân ở đó.

Hôm ấy trời rất đẹp, mây tạnh biển im. Chúng tôi nhìn thấy gần đó một hòn đảo nhấp nhô trên mặt nước. Chúng tôi liền cho tàu lên đảo để ngắm cảnh.

Đó là một hòn đảo trọc vì không có cây cối hay thú vật, chỉ có đất đen đầy rêu mốc. Chúng tôi vui vẻ đem theo nồi niêu xoong chảo cùng thực phẩm lên đảo nấu nướng, vui đùa.

Trong lúc mọi người đang ăn uống thì bỗng hòn đảo rung rinh rồi từ từ chìm xuống biển.

Viên thuyền trưởng nhìn thấy, hoảng hốt gọi chúng tôi trở lại tàu, nhưng chưa kịp thì hòn đảo đã chìm mất.

Chúng tôi hiểu ra thì đã muộn vì hòn đảo trọc kia chính là lưng một con cá voi khổng lồ đang nổi lên phơi nắng mà chúng tôi lại vô tình nấu nướng trên đó. Vì sức nóng không chịu được của những lò lửa, cá voi liền lặn xuống biển.

Chúng tôi bị rơi, chới với xô đẩy nhau trong lớp sóng nhấp nhô. Vì không kịp chuẩn bị nên phần đông bị nước cuốn đi, kẻ nào may mắn vớ được mảnh ván thì sống sót nhờ viên thuyền trưởng cứu.

Sau khi thấy không còn người nào sống sót trên mặt biển, viên chúa tàu liền kéo neo đi nơi khác với những người may mắn thoát nạn.

Riêng tôi thì vớ được một khúc gỗ. Lúc đầu cố sức chống lại với sức mạnh của biển, nhưng dần dần đuối sức, tôi mặc cho sóng triều đưa đi xa. Lúc nhìn lại thì tàu đã khuất dạng, tôi chới với chỉ còn chờ chết ở lớp sóng trùng dương.

Suốt ngày phơi nắng, cổ khô như cào, phần bụng đói, tôi lả người đi nhưng cố giữ lấy khúc gỗ làm bùa hộ mạng giữa biển. Ngày đi, đêm đến tôi cũng vẫn chưa nhìn thấy đâu là bờ biển.

Tôi ôm cứng lấy khúc gỗ, cố dùng tất cả sức lực còn lại để chịu đựng, phó mặc cho định mệnh rủi may. Nhưng có lẽ thượng đế còn thương nên lúc gần sáng, một ngọn sóng to đánh dạt tôi vào bờ một hòn đảo.

Hòn đảo dốc nên nhiều lần tôi đã vào được rồi lại bị cuốn ra. Mãi một lúc, tôi mới níu được một cái rễ cây lòng thòng và leo lên được.

Tôi mệt nhoài người không còn sức nên nằm lăn ra đảo, trên một tảng đá để nghỉ.

Được một lúc, sau khi đã tỉnh, tôi bèn gượng dậy đi tìm trên đảo những thức ăn để đỡ lòng. May làm sao, tôi tìm được một cây chuối hoang có một buồng chín nhưng bị chim ăn nham nhở cả. Tôi liền ăn ngấu nghiến, cho đến lúc cảm thấy no, tôi lần tìm suối để uống nước.

Ăn uống xong, tôi liền lần đi khắp đảo để quan sát.

Đi đến cánh đồng đầy cỏ non xanh mát, bỗng tôi nhìn thấy xa xa một con ngựa đang đứng ăn cỏ.

Mừng rỡ, tôi tiến đến gần thì mới biết đó là một con ngựa cái rất đẹp được cột vào một cây cột to ở giữa đồng.

Tôi còn ngỡ ngàng tìm xem chủ nhân con ngựa là ai thì nghe thấy tiếng lào xào từ một bụi rậm, rồi một người vạm vỡ bước ra nhìn tôi hỏi:

- Ông là ai, từ đâu đến?

Tôi chưa kịp nói thì người đó dắt tôi vào một cái hang bên cạnh bụi rậm, trong ấy có rất đông người đang ẩn núp.

Thấy tôi, mọi người cùng chào rất lễ phép rồi vui vẻ lấy thức ăn ra mời tôi và hỏi:

- Ông từ đâu đến được chốn nầy?

Tôi kể lại chuyện mình cho mọi người nghe, họ đều cho tôi rất may mắn.

Tôi cũng hỏi họ là người xứ nào và sao lại ở đây thì họ nói:

- Chúng tôi là kẻ giữ ngựa cho đức vua Mỹ Long, vị chúa đảo nầy. Thường năm, cứ đến đúng hạn nầy, chúng tôi đem giống ngựa nầy ra đảo cho giống hải mã, là loại ngựa biển ở đây phủ. Vì loài hải mã đó rất hiếm nên chúng tôi phải cực khổ rình mò để lấy giống ngựa lai về dâng cho đức vua dùng, vì chúng rất khôn ngoan và khỏe mạnh.

Tôi hỏi:

- Nhưng tại sao các bác lại phải rình mò chứ?

Họ giảng giải:

- Vì giống hải mã nầy rất hung dữ khi phủ xong, nếu không có người làm cho nó sợ mà chạy thì nó sẽ xé xác ngựa nhà ra mà ăn, nên phải giữ ở đây.

Họ lại cho biết, chỉ còn một hôm nữa là họ sẽ rời khỏi nơi nầy để về đảo. Thật là may cho tôi, vì nếu trễ một hôm thì sẽ chết đói ở đây vì một năm nữa họ mới lại đến.

Chúng tôi còn đang vui chuyện thì nghe có tiếng hí vang, rồi một con hải mã từ dưới biển chạy lên đến bên ngựa nhà.

Phủ xong, nó định làm dữ thì những mã phu đã xúm nhau chạy đến cầm gậy đuổi đánh.

Hải mã sợ hãi chạy xuống biển mất dạng.

Những mã phu liền sửa soạn dắt ngựa về. Tôi cũng được họ cho theo về kinh đô yết kiến nhà vua trên đảo.

Sau khi biết chuyện, ngài liền động lòng, khiến quan cận thần ban cho tôi đầy đủ mọi thứ cần thiết.

Tôi hết sức biết ơn quốc vương đã lo cho tôi không thiếu thốn một thứ gì.

Kinh thành của đức vua Mỹ Phong gần một hải cảng nên tàu bè ra vô rất tấp nập, dân cư có vẻ phồn thịnh. Sau khi được no ấm, tôi liền đi dạo chơi để tìm học thêm những điều hay lạ của xứ người.

Mỗi khi được bệ kiến, đức vua đều hỏi tôi về văn học của xứ sở. Tôi liền đem những điều văn minh của nước mình phổ biến cho mọi người trong triều nghe.

Gần kinh đô của quốc vương Mỹ Phong có một hòn đảo tên là Cát-Sên rất hoang vu vì không ai dám đặt chân đến, cho rằng nơi đó có một giống quỉ vương đang ẩn náu chờ ngày xuất hiện, quyến rũ mọi người vào đường trụy lạc. Giống quỉ vương ấy người ta bảo là chúng chỉ có một mắt và tên là Định Anh.

Tôi muốn thấy tận mắt lời đồn đãi kia nên nhất quyết tìm đến tận nơi để xem.

Tôi không gặp một tên quỉ vương nào ngoài một giống cá to màu xanh với chiếc đầu trọc, dài đến gần hai trăm trượng, râu mọc đầy mặt, đêm đêm cất tiếng kêu to lớn như tiếng chuông.

Tuy to lớn quái dị, nhưng chúng lại hiền lành nhút nhát, chỉ thấy bóng người đã chạy trốn hết xuống nước.

Hôm đi dạo ở đảo Cát-Sên về đến hải cảng thì đúng lúc một chiếc tàu buôn vừa cặp bến. Tôi tò mò đến gần xem thì bỗng nhiên thấy một số hàng hóa đề tên Sinh Bá.

Ngạc nhiên, tôi đi tìm viên thuyền trưởng thì mới hay chính ông là người thuyền trưởng chiếc tàu bị nạn cá voi hôm nọ.

Tôi chào hỏi nhưng viên thuyền trưởng không nhận ra tôi với cách ăn mặc của người bổn xứ. Ông ta thản nhiên nói:

- Những hàng hóa đó của nhà phú thương ở Bá Đa bị lâm nạn ở giữa biển nên tôi giữ lấy, chờ ngày về trao lại cho thân quyến của ông ta.

Tôi bảo ông ta:

- Thưa thuyền trưởng, Sinh Bá chưa chết. Xin ngài hãy chìn kỹ tôi xem có phải Sinh Bá đã đi trên tàu ngài trước kia không?

Viên thuyền trưởng trợn mắt nói:

- Thôi đi, anh đừng nhận vơ nữa. Chính mắt tôi nhìn thấy Sinh Bá bị sóng biển cuốn đi kia mà.

Tôi ôn tồn nói:

- Tôi rất cám ơn lòng tốt của thuyền trưởng, đã giữ gìn hàng hóa cho tôi. Nhưng chính tôi là Sinh Bá đây. Tôi nhờ may mắn thoát chết, và ngày nay đang đứng trước mặt ngài đây.

Thuyền trưởng nhìn tôi nghi ngờ. Giữa lúc đó, có nhiều người nhìn ra tôi đã đi cùng họ chuyến trước, và lâm nạn nên đến mừng tôi. Khi đó, viên thuyền trưởng mới nhận ra tôi, vội vàng nói:

- Xin lỗi ông bạn vì những lời nghi ngờ vừa rồi của tôi. Xin mừng bạn thoát nạn. Bạn hãy nhận lấy số hàng hóa và sử dụng tùy nghi. Tôi kể như không còn bổn phận nữa.

Tôi  cảm ơn thuyền trưởng, nhận lấy hàng hóa và xin biếu ông một ít để đền ơn. Nhưng ông nhất định chối từ, viện cớ chỉ giữ giùm để bớt những nỗi hối hận đã gây cho những kẻ thiệt mạng dưới biển.

Tôi chọn một số hàng hóa quý giá đem dâng cho quốc vương Mỹ Phương để cáo từ về xứ.

Thấy tôi đã tìm được của cải đã mất, quốc vương Mỹ Phong vui lòng nhận tặng vật và ban cho tôi nhiều vàng ngọc cùng những vật quý trong nước.

Tôi bán số hàng hóa ở đây, rồi mua trầm hương, gừng, đem về Bá Đa.

Vợ con tôi chỉ biết mừng rỡ khi thấy tôi về.

Chuyến đi ấy tôi lời hơn một trăm nghìn đồng, không kể số tặng vật của vua Mỹ Phương trao cho.

Tôi liền đem chia bớt cho kẻ nghèo, cũng như tạ ơn trời đất rồi mua sắm đồ vật, cất nhà cửa, mua nô lệ, nhất định sẽ sống an nhàn suốt đời.

*

_______________________________________________________________________ 
Còn tiếp

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét