Thứ Sáu, 29 tháng 9, 2017

MÙA TRĂNG


"Chú Cuội hái một nắm lá đa nhai nhỏ rồi đắp lên chỗ vết thương. Con chim trở mình, đập cánh bay lên. Thấy lạ, người nhà Bá Hộ vội trở về kể lại mọi việc với chủ. Bá Hộ mừng rỡ mời Cuội đến nhà chữa bệnh cho con gái và hứa nếu Cuội cứu sống con ông, ông sẽ nhận Cuội làm rể. Chỉ với ba chiếc lá đa, Cuội lại cứu được mạng sống cô. Bá Hộ giữ lời hứa, gả con gái cho Cuội. Hai vợ chồng Cuội sống với nhau rất hạnh phúc, ngày ngày chăm sóc cây đa quí, chữa bệnh cho dân..."

Còm ngồi chồm hổm trước cửa nhà nhìn lên trời. Trăng sao vằng vặc. Mảnh trăng khuyết một chút như miếng bánh đa bị mẻ góc tỏa ánh sáng đẹp đẽ rõ ràng xuống trần gian. Tiếng kể chuyện vẳng ra từ chiếc máy phát thanh bên hàng xóm đột ngột cắt ngang, thay bằng một giọng ca mùi mẫn. Còm cố nhớ lại đoạn kết câu chuyện quá quen thuộc mà nó đã từng nghe kể. Cây đa bị trốc gốc bay lên mặt trăng mang theo cả chú Cuội dễ thương. Từ đó, hằng đêm, chú Cuội ngồi dưới gốc cây đa nhớ về trần gian những ngày chăn trâu, bắt cá... Còm nghĩ thầm, chú Cuội ngu thiệt là ngu, ai mà lại nhớ những chuyện cự khổ đó trong khi bên cạnh chú là một cây đa kỳ diệu có những chiếc lá trị bá bệnh, cải tử hoàn sanh. Còm chỉ mong mình có được hai, ba lá, chỉ hai, ba lá thôi, không nhiều hơn để trị bệnh cho mẹ. Bà Ba, mẹ Còm bị ho dai dẳng cả tháng nay. Mỗi đêm, thức giấc, nghe tiếng mẹ ho khan xé ngực, Còm có cảm giác như lồng ngực mình cũng nặng trĩu, nhói đau. Vậy mà sáng sáng, mẹ đều dậy sớm sửa soạn ra chợ từ lúc trời chưa sáng hẳn và chỉ trở về khi trời sẩm tối.

- Còm, tối nay đốt đèn chơi Trung thu không?

Còm day lại, con Chúc, thằng Lắm, thằng Xin tở mở cười toe rủ Còm. Đốt đèn, thích thiệt, chỉ cần một cây đèn cầy nhỏ, dựng lên cái thước gỗ, sắp hàng vừa đi vừa hát là đủ thấy Tết Trung Thu. Nhưng, mẹ chưa về, đâu có tiền mua đèn cầy. Còm ngần ngừ trả lời:

- Để chút nữa, mẹ tao về.

- Ừa, tụi tao đi trước, chút nữa mày đi nghe.

Còm tiếc nuối nhìn theo. Tụi thằng Xin đã đi ra đầu ngõ. Chẳng bao lâu, Còm đã nghe tiếng hát của chúng vọng lại.

Bóng trăng trắng ngà,
Có cây đa to.
Có thằng Cuội già,
Ôm một mối mơ...

Còm rầu rĩ nhìn lên trời. Mặt trăng long lanh ướt rượt. Trên nền vàng sáng, cái bóng đen lờ mờ tỏ hiện. Còm nheo mắt, cố gắng không chớp để nhìn cho kỹ. Những quầng đen càng nhìn càng giống một cây to, tán lớn. Đúng là một cây đa, sum sê rườm ra y cây đa ở Lăng Ông Bà Chiểu. Vậy chú Cuội ở đâu? Hình như Còm vừa thấy dáng chú Cuội ngồi im lìm dưới tàng cây lớn. Còm phấn khởi quá kêu to:

- Chú Cuội kìa. Chú Cuội...

- Nấu cơm chưa mà còn ngồi đây? Sao con không thắp đèn?

Bà Ba đặt gánh hàng xuống, cố nén cơn ho. Bị mắc mưa cảm lạnh một trận, biến chứng thành ho, kéo dài hơn một tháng mà chưa bớt, nhưng bà vẫn cố gắng đi sớm về trễ với gánh hàng rau. Mệt nhọc, nắng nôi suốt ngày nên bệnh lâu lành. Bà Ba biết vậy nhưng nghỉ chợ một ngày là đói một ngày, bà đành cố gắng gượng.

Còm thấy mẹ về, reo lên một tiếng khẽ:

- Mẹ về. Con nấu cơm rồi, chờ mẹ về luộc rau.

- Ừ, con giỏi. Lấy cho mẹ miếng nước nóng rồi thắp đèn lên. Sao con không học bài trước, nhẫp học rồi đâu còn nghỉ hè nữa mà chơi hoài.

Còm vừa thắp đèn vừa nói với mẹ:

- Mai chủ nhật mẹ à. Với lại trăng sáng, thắp đèn uổng dầu.

Nửa giờ sau, hai mẹ con ngồi bên mâm cơm. Còm đói tợn nên ăn vội vã. Có tiếng thím Hai la ngoài ngõ:

- Tụi bay có tắt đèn không? Coi chừng cháy nhà cả xóm.

Còm chợt nhớ, nó và vội vài miếng rồi ngập ngừng xin mẹ:

- Mẹ cho con... tiền... mua đèn... Trung thu...

Bà Ba thở dài. Còn có ba ngày nữa là Tết Trung thu. Tết của trẻ em. Trên đường về, các cửa hàng bán bánh Trung thu giăng đèn sáng trưng. Đèn bánh ú, đèn ngôi sao, đèn kéo quân, đèn trái bí muôn màu muôn vẻ. Những đứa trẻ quần áo tươm tất hớn hở tay cầm đèn, tay cầm bánh, theo ch6an bố mẹ tung tăng trên đường phố. Bà thấy  và bà biết Còm sẽ vui mừng như thế nào khi cầm trong tay một chiếc lồng đèn Trung thu. Ngày xưa, xưa lắm, khi bà còn nhỏ, bố bà đã làm cho bà một cái lồng đèn bánh ú bốn màu. Tuy đèn đơn sơ, nhưng lòng bà tưng bừng như mở hội. Giờ đây thằng Còm, con bà, chắc hẳn cũng mơ ước xiết bao được có một chiếc lồng đèn trong tay, nhưng bà đành bất lực. Một mẹ, một con, đầu tắt mặt tối, vất vả, nghèo đói, đau yếu, trăm phần cơ cực. Lồng đèn, bánh nướng chỉ là ước mơ. Tim bà thắt lại, giọng nói trở nên nghẹn ngào:

- Mẹ cho con năm trăm đồng mua đỡ một cây đèn cầy nhỏ. Bữa nay mẹ bán hàng ế. May ra vài bữa nữa, bán đắt mẹ mua cho cái bánh dẻo con heo.

Còm hớn hở nhận tờ giấy năm trăm nhàu nát:

- Dạ, con chơi một chút thôi mẹ. Ngoài đường, bánh dẻo con heo nhỏ nhỏ giá cũng mấy ngàn đồng lận. Có hai hạt đậu đen làm mắt trông tức cười thiệt.

Ừa, con đi chơi, nhưng chút nữa về mẹ đưa tiền ra tiệm thuốc mua cho mẹ lọ thuốc ho.

Thằng Còm dạ lớn rồi chạy vội ra ngoài nhập với bọn trẻ. Ánh trăng càng lúc càng sáng hơn. Người lớn đổ ra ngõ để tìm chút gió mát. Một vài người nhìn đám trẻ chơi đèn với vẻ lo âu:

- Làm ơn dẹp giùm mấy cái đèn. Nóng bức thế này, cháy nhà dễ như chơi. Khổ lắm.

 Một đứa nhỏ không có đèn, bèn vung vẩy một đoạn lốp xe cháy lèo xèo bốc khói nghi ngút. Thế là mọi người đổ xô thổi tắt đèn. Không biết ai đã tóm lấy cây đèn cầy của thằng Còm quẳng đi đâu mất. Tiếc quá, Còm khóc rưng rức. Bọn trẻ rã đám đứng ngơ ngẩn nghe người lớn quát nạt rồi tản mát về nhà.

Trăng sáng quá. Thằng Còm vẫn còn ngồi buồn xo trên bậc cửa sùi sụt. Bà Ba đã nhìn thấy hết. Thương con muốn cho con được trọn vẹn niềm vui nhưng bà không biết làm sao. Giá như thằng Còm có được một chiếc đèn Trung thu, song làm sao mà có được dù là chiếc đèn đơn giản nhất. Cổ họng bà thắt lại vì buồn. Một cơn ho xé ngực nổi lên, bà cố chặn bằng một ngụm nước nóng, song không kịp. Thằng Còm đang ngồi rầu rĩ nghe tiếng mẹ ho nóng ruột chạy vào:

- Mẹ ơi, đưa tiền con đi mua thuốc cho mẹ. Thuốc ho dân tộc phải không mẹ?

Bà Ba vuốt ngực. Cơn ho tạm lắng, bà lần túi lấy ra mấy ngàn đồng đưa cho Còm. Giọt nước mắt trên má Còm vẫn chưa khô, loang loáng. Cơn đau khác trong lòng người mẹ cuộn lên còn hơn cơn ho vừa rồi. Một ý nghĩ thoáng qua, bà Ba ngăn thằng Còm lại:

- Khoan đã, con lấy trong thúng lớn cho mẹ một củ gừng và một củ nghệ. Cầm đưa mẹ con dao, rót thêm cho mẹ miếng nước nóng. Mẹ quên, người ta bày cắt gừng thành lát mỏng, ngâm nước uống cả xác, còn nghệ thì nướng chín, ăn cả củ, chữa ho cảm mau lành nhất. Khỏi mua thuốc.

Thằng Còm ngạc nhiên:

- Vậy mẹ đưa tiền cho con làm chi?

Bà Ba cười vuốt tóc con:

- Trung thu con không có đèn. Mẹ định mua cho con nhưng sợ cháy, uổng lắm. Với lại trong xóm toàn nhà lá, chơi lửa bà con không muốn đâu. Mẹ cho con tiền mua cái bánh dẻo con heo, để mai ăn con chịu không?

Thằng Còm sướng rơn. Nó như muốn nhảy lên khỏi mặt đất. Cái bánh dẻo. Chỉ mơ mới có.

- Đã quá mẹ ơi. Vậy mẹ có mua thuốc không, con đi mua luôn?

- Mai mẹ mới uống. Xuống chợ mẹ mua cũng được.

- Vậy thì con đi mua bánh Trung thu.

- Ừ, con đi.

Bà cắn một miếng gừng, tu một ngụm nước nóng. Hơi ấm của gừng làm ấm nóng vùng ngực và bụng. Bà thấy dễ chịu. Nhưng có lẽ lòng bà ấm nhiều hơn vì đôi mắt mừng vui, bà nét mặt hớn hở của con. Lòng nhẹ nhõm, bà Ba đứng dậy, thu dọn nhà cửa, quang gánh, để mai cất hàng sớm.

Thằng Còm đi như chạy. Cái hẻm nhỏ sao dài và xa dằng dặc. Cầm chặt món tiền trong tay, Còm vừa đi vừa nhìn lên trời. Mặt trăng chạy theo Còm từng bước, từng bước. Cả chú Cuội nữa, như cũng hòa vào niềm vui của Còm, nhảy nhót trong trăng:

"Cuội ơi ta nói Cuội nghe,
Ở trong trăng mãi làm chi?"

Còm hét tướng lên.

- Đi cái kiểu gì kỳ vậy, đồ xớn xác!

Còm vụt ngồi xuống tránh cái bợp tai của một bà già. Mải hát, Còm đi suýt va vào bà.

- Thằng Còm đó hả? Mẹ mày đã bớt chưa? Nói với mẹ là vừa xông vừa uống thuốc mới mau hết. Để lâu thành lao thì khốn. Sao mày không ở nhà phụ mẹ lại chay nhong nhong như ngựa vía vậy?

Còm đứng lặng nhìn theo bà cụ. Bà ấy vừa nói gì nhỉ? Không uống thuốc mẹ sẽ bị lao. Bệnh lao. Một loại bệnh ghê gớm chết người theo ý nghĩ của Còm. Niềm vui bỗng lắng xuống. Còm đâm lo lắng. Nó tần ngần nhìn bóng mình in dưới nền đất lồi lõm rồi ngước nhìn lên. Mặt trăng cũng đứng yên nhìn Còm. Chú Cuội cũng đứng yên nhìn Còm. Giá như Còm có được ba chiếc lá đa của chú Cuội nhỉ. Bất giác, Còm khấn thầm:

- Cuội ơi, cho cháu xin mấy cái lá đa để chữa bệnh cho mẹ cháu. Lúc ấy, Cuội bảo gì cháu cũng theo.

Nhưng mặt trăng vẫn im lìm nghiêng nghiêng nhìn xuống Còm. Còm bước đi chậm chạp, tiền cầm chặt nơi tay.

Hàng bánh sáng trưng. Những chiếc lồng đèn con cá, con bướm rực rỡ màu xanh đỏ.

- Lồng đèn xanh xanh đỏ đỏ
Mua về cho em nhỏ nó chơi.

Dưới những chiếc lồng đèn màu sắc là cái tủ gương đủ mọi loại bánh. Nâu nâu mỡ màng là bánh nướng. Trắng tinh là bánh dẻo. Còm hướng mắt về phía đó, nhìn con heo phình cái bụng tròn quay, cặp mắt đen nhánh bằng hai hạt đậu, tươi cười thỏa mãn. Còm thấy muốn cầm ngay con heo vào tay để vuốt nhẹ trên làn da trắng của nó, để hít hít cái mùi thơm của nước hoa bưởi phả ra từ chất bột dẻo.

Có tiếng ai ho khan làm Còm giật mình tưởng mẹ đang đứng đâu đó. Một cảm giác xao xuyến chạnh lòng lướt qua trái tim nhỏ bé của Còm. Mẹ đang bệnh. Để lâu bị nặng thành ho lao. Nếu mẹ mất đi, Còm sẽ ra sao đây? Còm cố lắc lắc cái đầu để xua những ý nghĩ đen tối. Còm ngước nhìn lên trời. Chú Cuội với cây đa cành lá sum sê đang nhìn xuống nó. Giá như nó được một chiếc lá đa kỳ diệu nhỉ? Còm cúi xuống nhìn những đồng bạc trong tay rồi nhìn qua hiệu thuốc ở kế tiệm bánh.

- Mua bánh hả?

- Dạ..., cháu mua thuốc.

- Mua thuốc qua bên kia, để có chỗ cho khách mua bánh. Đi qua bên kia đi...

Còm ngập ngừng bước, mắt vẫn còn quay lại nhìn vào đôi mắt đen nhỏ xíu của con heo nhỏ.

Đêm hôm đó, trong căn nhà lá nghèo nàn, một người đàn bà thổn thức nhìn con không ngủ được, nhưng cơn ho đã dịu đi nhiều. Và thằng bé, thằng Còm, thì say sưa ngủ, nó mơ thấy chú Cuội từ trong cung trăng bước ra cho nó một nắm lá đa và một cái bánh dẻo con heo to tướng có đôi mắt đen lay láy.


KIM HÀI   



Thứ Hai, 4 tháng 9, 2017

NGHĨ VỀ MẸ


Xót người tựa cửa hôm mai,
Quạt nồng ấp lạnh những ai đó giờ
Sân Lai cách mấy nắng mưa
Có khi gốc tử đã vừa người ôm.
                                    (Truyện Kiều)
Tựa cửa hôm mai là lời của mẹ Vương Tôn Giả. Mẹ bảo Vương: "Nhữ chiêu xuất nhi vãng lai" mày sáng đi mà chiều về, "tắc ngô ỷ môn nhi vọng" thì ta tựa cửa mà trông. "Mộ xuất nhi bất hoàn" chiều đi mà không về, "tắc ngô ỷ lư nhi vọng" thì ta tựa cổng làng mà ngóng. Hai câu mô tả lòng mẹ thương con khi con đã lớn. Trích dẫn nguyên bản để đọc lên ta xúc cảm rằng bà mẹ đó có thật.
Truyện dân gian mô tả lòng mẹ thương con thì rất nhiều. Thử lấy một. Người mẹ bị rắn độc cắn. Biết mình sắp chết bỏ con, vội vã chạy về nhà, đổ lúa vào cối mà xay, đổ thóc vào cối mà giã, gấp gáp sao cho có gạo để lại cho con ăn sau khi mình chết. Không ngờ điều huyền diệu đã xảy ra: dồn cả sức lực, bắp thịt đến rã rời, truyện kể rằng chất độc toát ra theo mồ hôi, thoát ra theo hơi thở... và người mẹ được cứu sống. Còn nhớ truyện vua Salomon xử kiện? Hai người đàn bà tranh nhau một đứa nhỏ, ai cũng nói mình là mẹ của nó. Dùng đủ mọi lý lẽ mà không giải quyết yên, cuối cùng vua phán: "Ðem đứa nhỏ ra xẻ hai, mỗi người lãnh một nửa." Một người đàn bà nói: "Dạ, thà như vậy cho công bằng." Người đàn bà kia: "Thôi, tôi xin nhường." Ðó, lời nói của mẹ bạn đó, hỡi người bạn nhỏ đang lắng nghe tôi. Mẹ bạn cũng sẽ xử sự như vậy nếu bị đặt vào hoàn cảnh nêu trên.
Trường hợp này thì còn đáng phục hơn: Chàng Côdắc hỏi tiên nữ Ôcxana rằng đến khi nào nàng mới yêu chàng? Nàng trả lời rằng nàng sẽ yêu người nào đem tặng mình trái tim người mẹ... Chàng Côdắc im lặng, lòng đượm buồn và chẳng thiết gì ăn uống nữa. Nhưng rồi cuối cùng chàng cũng mang đến cho Ôcxana trái tim mẹ mình.
Ðường dài chân mỏi, mắt hoa, 
Vừa lên thềm cửa, chân sa ngã nhào.
Tim mẹ đập, ứa máu đào
Mà còn hỏi nhỏ "Nơi nào đau con?"
Hỡi ơi, chỉ có trái tim người mẹ mới vị tha tới mức vẫn cứ thương đứa con bội bạc dường kia!
Tưởng cũng nên nhìn qua vài gương mẹ hiền, dạy con nên người xả thân vì nghĩa. Mẹ Mạnh Tử chọn láng giềng tốt, cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung để làm bài học dạy con. Mẹ Vương Lăng với bài thơ tiễn sứ giả, mẹ Từ Thứ, mẹ... Vài gương thôi vì ai cũng muốn được xúc động bởi tình thương hồn nhiên, tự nhiên, ít muốn thán phục lý trí nhiều khi chỉ là trò tính toán, hư thực khó phân.
Lòng mẹ đối với con như vậy, còn lòng con dành cho mẹ thì sao? Trong bốn câu thơ Ðoạn Trường Tân Thanh nêu trên, một câu đầu nói nỗi lòng người mẹ thì hai câu sau là nỗi lòng của con. Câu trước dành cho đứa con nhỏ tuổi là Hoàng Hưng, câu sau chọn tả nhân vật hiếu tử già nhất lịch sử: Lão Lai. Suốt cuốn Nhị Thập Tứ Hiếu là 24 gương con hiếu. Nhiều gương ngang tầm với người thường, người thường làm được. Truyện Quách Cự chôn con, được chum vàng. Trời chu đáo chôn sẵn để thưởng Quách Cự, hơi khó tin đối với chúng ta hôm nay. Có vẻ như do một thi sĩ của cung đình sắp đặt dựng lên nhằm ca tụng vượng khí của triều đại. Riêng truyện Vương Thôi có khí vị đặc biệt. Mẹ Vương Thôi sợ sấm. Ngày thường Thôi ra đồng làm việc, mà hễ trời nỗi cơn sấm sét là lật đật chạy về nhà cho mẹ bớt sợ. Khi mẹ chết rồi, mỗi lần sấm sét là Thôi lại vội vàng chạy ra ôm mộ mẹ mà nói: "Có con đây, mẹ đừng sợ." Tâm hồn Vương Thôi có cái gì chất phác đơn giản của một người nông thôn quê mùa, khiến ta tin là hoàn toàn có thật. Và không cần cố gắng, khỏi phải lý giải, hễ đọc lên là lòng mỗi chúng ta đều xúc động rưng rưng.
Trong câu truyện cổ của ta có chuyện Bát Canh Hẹ. Một tù nhân một hôm nhìn vào mâm cơm thấy có bát canh hẹ liền khóc òa bảo người cai ngục: "Tôi biết mẹ tôi vừa tới thăm tôi, nhờ ông chuyền cho bát canh hẹ này. Vì hồi ở nhà mẹ tôi thường nấu canh hẹ cho tôi ăn."
Truyện kể một vị hiền giả nọ (Hán Bá Chu), một hôm phạm lỗi bị mẹ đánh. Ông khóc tức tưởi nhiều hơn mọi lần. Mẹ hỏi: "Lần này mẹ đánh ít, sao con khóc nhiều?" Thưa: "Những lần trước mẹ đánh nhiều, ngọn roi mạnh, con khóc vì đau. Lần này mẹ đánh ít, ngọn roi nhẹ, con thấy ít đau, nhưng con biết sức mẹ đã yếu, mẹ đã già, nghĩ vậy mà con khóc." Sách vở ghi biết bao nhiêu gương hiếu.
Mà nào phải lục tìm trong cổ văn mới thấy gương mẹ hiền biết cách thương con. Mẹ của người bạn cùng quê với tôi, anh Phạm Ngọc Ân, vốn không biết chữ quốc ngữ như mọi bà mẹ thời đó. Khi Ân học vỡ lòng, anh lẫn lộn M với N, P với Q... rồi sang vần ngược thì càng tha hồ lẫn lộn. Cha giận vừa nạt nộ, vừa vụt roi. Mẹ thương con, lén đứng dòm, lẩm nhẩm nhớ để rồi bày lại cho con. Kết quả là bà đọc được Quốc ngữ và sau đó Ân học hành giỏi, làm tới chức thanh tra giáo dục. Ân nay đã đông vầy con cháu và mẹ già đã nằm yên dưới ngôi mộ bên sườn núi Ngân Sơn.
Chỉ không lưu ý đó thôi, chứ hình ảnh mẹ con diễn ra quanh ta đầy đẫy, vạn trạng thiên hình kể sao cho siết! Mẹ ẵm con đi chợ, mẹ bồng con đi nhà thương, mẹ dắt con tới trường... Trên sân: gà mẹ dẫn gà con bươi rác. Trên đồng cỏ: trâu mẹ đứng yên cho trâu con sục mõm vào bầu vú, mắt nhìn hiền từ, thỉnh thoảng âu yếm liếm vai liếm lưng. Con cò luộm thuộm, vụng về, cái cổ dài ngoẵng, cặp chân lêu khêu vậy mà từ lưng chừng trời khéo xếp đôi cánh đáp xuống nhẹ nhàng cạnh bầy con, dùng cái mõm nhọn hoắt để sú mồi, để rỉa lông âu yếm... Tình mẹ con quả là thứ tình cảm thiêng liêng khó giải khi ta nhìn cặp mắt vàng lợt đó như thiếu vắng sự thông minh, cái cổ quá mảnh quá dài làm khó khăn biết bao cho sự dẫn truyền tình cảm.
Cho chí cỏ mộc vô tình cũng gợi xúc cảm mẹ con. Cây chuối mẹ và bầy chuối con xúm xít. Cây ổi mẹ và lũ ổi con ngơ ngác vây quanh. Lũ cây con như rất cần mẫn nhìn mẹ mà bắt chước, mà nhại theo hình dáng mẹ, cố gắng sao cho giống mẹ.Trên đời không ai yêu thương ta bằng mẹ. Người tình dẫu thủy chung cũng chỉ yêu ta với điều kiện: Hoặc là ta đẹp, hoặc ta có tài. Mẹ thì không, xấu xí cũng thương, xấu xí càng thương như nhằm bù lại những thiệt thòi cho con, như ngầm nhận sự xấu xí là do lỗi mẹ.
Không đến nỗi quá lời nếu nói rằng với mẹ, con là tất cả. Khi có con, mẹ bình tâm vạch vú cho con bú, áo xống xốc xếch, quần xăn quá đùi cũng không còn thấy ngượng. Có con là như đã đủ rồi. Không như những bạn lấy chồng năm mười năm mà chưa con, vẫn cứ thẹn thùng kín đáo.
Ðúng, đã có đủ rồi. Vì có con, mẹ mới yên tâm, mẹ vừa hãnh diện. Con là tác phẩm tuyệt hảo của mẹ, là vật báu thiêng liêng mà mẹ vẫn không hiểu làm sao mà mình có đủ khả năng tạo thành. Cái sinh vật nhỏ đó dần dần lớn lên, có trí thông minh, thân thể phát triển vẹn toàn để có thể trở thành danh nhân, trở thành vĩ nhân. Càng thêm hãnh diện, càng được đền bù bởi mẹ mang thân phận đàn bà, từ mới sinh ra đã chịu mọi thiệt thòi. Làm con gái đâu được cha mẹ nuông chiều bằng con trai. Lớn lên phải phụ tay trong bếp, dọn dẹp trong nhà. Sự thiệt thòi đeo đẳng suốt đời chỉ vì là thân phụ nữ. Luân lý thời xưa khắc nghiệt bắt người đàn bà không được bước đi bước nữa, phải ở vậy thờ chồng nuôi con. Trải bao cuộc chiến tranh, bao nhiêu góa phụ chôn vùi tuổi thanh xuân, đến khi nhắm mắt xuôi tay là coi như xóa sạch cuộc đời, vĩnh viễn không còn dấu vết. Cho dẫu có được sắc chỉ "Tiết hạnh khả phong" hoặc dãy vòng hoa và bài ai điếu.
Rốt cuộc dường như niềm vui lớn nhất trên đời là khi sinh được đứa con. Tình yêu chồng dần dần sớt qua con và nếu gặp trường hợp đớn đau phải hy sinh đời mình để cho con sống thì hầu như mọi người mẹ đều nuốt nước mắt nhận cái chết về mình, ít cần lưỡng lự.
Nước ta có hai bậc quần thoa xuất chúng Bà Trưng và Bà Triệu, được ca ngợi là cân quắc anh hùng, hào quang xuyên suốt lịch sử. Nhưng không thấy sử ghi là hai bà có được đứa con. Khiến có hôm xúc cảm nhìn cảnh mẹ con vui vầy của những bà mẹ, "mẹ của Quỳnh Chi, Thanh Hải, Nhật Thành"... Tôi chợt ngậm ngùi nghĩ đến hai bà: 
Tôi chợt nhớ về Bà Trưng, Bà Triệu, 
Chưa một lần được gọi tiếng "con ơi!" 
Vì nghĩa lớn, xả thân mình lo liệu, 
Phần ấm êm: xin nhường hết cho người. 
Phần ấm êm là đứa con, là tình mẹ con, dẫu rằng thế tục tầm thường nhưng không phải dễ mà có được.
Tôi, thuở ấu thơ không được sống gần mẹ, đã vậy mới mười một tuổi mẹ đã từ trần. Theo cha đến chùa một lần là nhân lễ mãn tang mẹ. Lớn lên mới biết lễ Vu Lan báo hiếu nên cứ mỗi lần xé tờ lịch nhìn thấy ghi tháng bảy âm lịch là lòng u hoài nghĩ đến mẹ. Có một thôi thúc nhẹ nhàng, một háo hức tiềm ẩn muốn được làm một cử chỉ báo ân. Nhưng mẹ còn đâu? Ðành tìm trong chỗ bạn quen thân có ba người còn mẹ già, ngày Vu Lan tự tay đem một tặng vật nhỏ, gọi là góp lời cầu nguyện cùng bạn. Rồi âm thầm nghĩ đến tích Mục Liên Thanh Ðề, nhớ đến quê hương xa cách, ngôi chùa làng vắng vẻ tịch liêu. Ðến ngôi mộ của mẹ tôi, của bác tôi, của ông bà tôi nằm rải rác quạnh hiu nơi sườn núi cuối thôn. Ðến những vị xuất gia đã cát ái từ thân, giờ này đang trì chú hộ niệm. Nhưng cát ái từ thân đâu có nghĩa là không nghĩ đến mẹ? Ðại đức ơi, thầy nghĩ đến mẹ tha thiết như thế nào? Hòa thượng ơi, thầy nghĩ đến mẹ bồi hồi như thế nào?
Hiện rõ cái đầu bạc phơ của hòa thượng, chân mày sợi dài trắng xóa, dáng đứng như chỏm núi cao. Như đỉnh Hy Mã Lạp Sơn tuyết phủ. Ðỉnh núi tuyết uy nghi có biết báo ân mẹ không? Những bụi sim quây quần dưới chân núi rì rào nhớ mẹ. Mẹ là hột sim do con chim bay qua thả rơi xuống đất. Cây bồ đề cổ thụ thân lớn mấy người ôm, tàn lớn phủ sườn núi cũng xào xạc nhớ mẹ. Mẹ là hột bồ đề rất nhỏ ngẫu nhiên ngọn gió bay mang tới. Nhưng hùng vĩ như Hy Mã Lạp Sơn thì mẹ là ai? Tôi đành âm thầm lắc đầu vừa tưởng như nghe ầm ầm những chuyển động tạo sơn quăn quại dựng nên dãy núi. Thành ra núi cô đơn.
Ở nhiều nước văn minh trên thế giới, người ta thỏa thuận lấy một ngày trong năm đặt là ngày lễ mẹ (Mother's Day.) Vào ngày đó, các con dẫu ở xa cũng cố gắng tụ hội về quanh mẹ, dâng hoa tặng quà, đọc lời chúc tụng và vui vầy tiệc tùng. Trên ngực áo mỗi người còn rực rỡ một đóa cẩm chướng màu đỏ. Những người con nào mà mẹ đã qua đời thì lạnh lẽo nơi ngực áo một đóa hoa cẩm chướng màu trắng.
Ở ta, từ thập niên 50 nhiều địa phương nhân ngày lễ Vu Lan đã tổ chức nghi thức bông hồng cài áo: ai còn mẹ thì được gắn một hoa hồng đỏ, ai mất mẹ thì một đóa hồng trắng. Một cách để nhớ mẹ, để tôn vinh mẹ, để mừng mẹ còn tại thế, để xót xa nghĩ đến mẹ đã qua đời.
Bản thân người mẹ Việt Nam không đòi hỏi được tôn vinh. Vào thế hệ tôi, người mẹ gần như chỉ lúc thúc ở nhà dưới, nhà ngang, lăng xăng suốt ngày và hạnh phúc với muối dưa, với con cháu. Cha già được thong dong ngồi hút thuốc, được thưởng thức tách trà sớm, được nhấm nháp ly rượu buổi hoàng hôn, chớ mẹ thì hầu như không biết hưởng thụ là gì. Cả ngay khi số tuổi chồng chất, đóng vai bà nội, bà ngoại. Có một thời gian, láng giềng tôi là một gia đình giàu. Khi người vợ sinh đứa con lên bốn tháng, người ta nhắn về quê nhờ bà kế mẫu già, nghèo, tới coi sóc giùm nhà. Một hôm qua khung cửa tôi thấy bà ngồi vá quần cho đứa nhỏ. Tôi ngạc nhiên bồi hồi đứng nhìn. Trẻ con dưới một tuổi lớn mau, quần áo vải mới, mặc không vừa nữa thì bỏ một chỗ, quần áo vải cũ, rách thì ném làm giẻ lau, ai hơi đâu nheo mắt ngồi vá? Thôi, hiểu rồi, tâm lý người mẹ, người mẹ quê, người mẹ nghèo, tần tảo, quên mình, người mẹ của thế hệ tôi đó. Thời nay có khá hơn, có biết vị kỷ hơn, nhưng có được bao nhiêu người con, dẫu đã thành đạt, nhớ đến Ngày lễ Mẹ? Nhiều bà mẹ tổ chức kỷ niệm sinh nhật cho con hằng năm, có tiệc, có cắm nến trên cái bánh to, có chụp hình... Nhưng này các con, sao sinh nhật mẹ, các con không gom một bó hoa ngắt hoa dại trong vườn, ngoài rào cũng được sáng sớm trao tay mẹ? Nếu mắc cỡ không nói được thì có thể viết trên mảnh giấy nhỏ: "Con mừng sinh nhật mẹ" chẳng hạn. Ðó, vì đa số các con vô tâm mà phải mượn lễ Vu Lan để cài một đóa hồng.
Nhưng rằm tháng Bảy không chỉ là ngày nhớ mẹ, báo ân không chỉ có báo ân mẹ. Còn có phần hiếu thảo dành cho cha. Rộng hơn, dân tộc ta còn nhận ngày này là ngày xá tội vong nhân, chú nguyện cho thập loại chúng sinh vừa mở rộng lòng bố thí cho người nghèo khó nơi dương thế. Lòng nhân ái tựa biển, tràn khắp bao la trong tiếng chuông ngân vang ngày lễ.
Hãy thương yêu mẹ hết lòng, săn sóc ân cần, hầu hạ trìu mến, nhất là khi mẹ già yếu, bệnh hoạn xấu xí bẩn thỉu. Hãy nhớ lại thuở mình còn nhỏ, mặt mũi chưa được trơn láng như hiện giờ, ỉa đái ngay trên mình mẹ, và khi lên năm lên mười mẹ phải nhịn phần mẹ để mua món ăn ngon, sắm cái áo đẹp cho mình. Hãy xúc động sụt sùi mà cầm tay mẹ, nhìn mặt mẹ, theo dõi bước đi dáng ngồi của mẹ. Không như tấm lịch đẹp treo tường, tấm năm sau sẽ thay tấm năm trước, không như cái bàn gỗ mộc sẽ đứng mãi đó nếu ta không tự ý phế bỏ. Mẹ thì không, dẫu ngó vững chắc nhưng sự sống vốn rất dễ rung rinh, chẳng chóng thì chầy, rồi cũng tới một ngày thậm chí có thể chỉ trong khoảng chốc ta sẽ chỉ còn thấy được mẹ trong trí nhớ. 
VÕ HỒNG