Thứ Sáu, 21 tháng 12, 2018

GIÁNG SINH CỦA KỶ NIỆM - Duy Nguyên


Buổi tối, trời thật lạnh. Cái lạnh lạ lùng của những ngày cuối đông, của những tháng nóng khô buổi trưa. Đối với tôi, có lẽ đây là một ngày vui nhất. Lúc chiều vừa xong giờ Toán, bài thi đệ I lục cá nguyệt hạng nhất! Mẹ tôi vui vẻ, cười âu yếm lúc tôi xin đi chơi tối này. Đêm Noel mà. Với chiếc áo dài hồng nhạt, áo len đen và những bước chân rộn rã tôi ra khỏi nhà. Con đường nhà tôi ở một xóm khuất lánh, dù là đêm nay, cũng vẫn tràn bóng tối, những ngọn đèn yếu ớt. Trời lạnh làm tôi chùn bước, nhưng với những náo nức tôi lại bước nhanh. Nhà thờ trên một ngọn đồi cao, ở giữa tỉnh lỵ. Trước mặt là những con đường rộng, ngập ánh đèn. Nhiều dâu màu với đèn sáng treo ngang dọc làm tôi nghĩ đến một bầu trời sao thật đẹp. Bầu trời sao của những đêm cắm trại, của đêm ở biển. Nơi đó có đôi mắt người. Hai bên nhà thờ là những bậc thềm, không để đi. Đó chỉ là một chỗ ngồi, chỗ ngồi vào buổi chiều, nhìn xuống tỉnh lẻ. Đêm nay chật những người. Lúc đi ngang một khoảng mờ dưới vòm hoa giấy, tôi thấy một con bạn đang cắn móng tay, nói chuyện với một chàng. Nó nhìn tôi mắc cỡ, nhưng mà tôi sẽ không nói cho ai biết chuyện ni đâu.

Đêm Giáng sinh đó tôi đi dự một réveillon ở nhà Huyền. Với đầy đủ mặt bạn bè, có cả người đó. Người của cặp mắt làm tôi bối rối, của những đêm sinh hoạt, người với giọng hát thật ấm. Em vẫn nhớ hoài đêm Noel năm đó, anh. Anh có biết là em đã bối rối, đã ngượng ngùng biết bao khi gặp anh ở nhà Huyền. Hình như có 2 đứa đến sớm nhất. Bọn Huyền mải làm bánh sau nhà. Hai đứa ngồi trên chiếc bàn đầy những ly tách sáng loáng, anh đã nói gì, anh nhớ không? Hình như anh nói ít lắm, chỉ có đôi mắt kỳ cục đó nhìn em hoài. Giây phút như của một giấc mơ, như một chuyện hoang đường. Anh đàn cho em nghe bài Love is blue, anh nhớ không? Tôi không nhớ rõ mình ra sao trong đêm đó, từ lúc bước lên bực thềm nhà Huyền. Tôi không kiểm soát được những lời nói, không làm chủ tâm hồn mình. Từ lúc nhìn thấy anh, thật lâu lúc đó, tôi đã là một người khác. Tôi không là tôi nữa, tôi bây giờ khác hẳn ngày hôm qua, hôm kia. Bọn Huyền xếp tôi ngồi cạnh người đó. Tôi không uống rượu nhưng nghe mặt nóng bừng, lảo đảo trong một trạng thái kỳ lạ. Có lần không hiểu tôi đang nghĩ ngợi gì, bọn Huyền yêu cầu tôi hát một bài, tôi có nghe đâu. Ngh. đã phải đá nhẹ vào chân tôi, tôi bừng tỉnh. Cả bọn cười ầm. Hương cười bảo tôi đang nghĩ đến người trong mộng. Lệ cười hóm hỉnh "Người trong mộng đang ngồi cạnh bên đây mờ" Tôi không nhớ rõ cảm giác ra sao sau câu nói của Lệ. Chỉ nhớ mặt mũi nóng bừng chỉ muốn rời khỏi bàn. Ngh. cũng như tôi vậy. Thế nhưng bọn chúng đâu tha, cứ nằng nặc đòi tôi phải hát, hát chung với Ngh. Cuối cùng tôi vẫn phải nghe theo. Ngh. đàn tôi hát. Hình như là bài "Noel ancien". Entre le boeuf et l'âne gris. Dort, dort, dort le petit fils.

Bây giờ bài hát đối với em thành một kỷ niệm. Quý giá vô cùng. Bây giờ mùa giáng sinh sắp đến, em nhớ đến giáng sinh xưa. Nhớ anh, nhớ ngày tháng đẹp nhất của tuổi học trò. Như một loài hoa đẹp, chỉ nở một lần trong vườn của tâm hồn. Loài hoa quý hương thơm nồng đượm mỗi Giáng sinh. Cũng như suốt cuộc đời chỉ nở một lần, những rung động đầu đời. Một lần rồi thôi. Không bao giờ nữa. Loài hoa đẹp sẽ tàn. Có phải thế không anh, Ngh.? Hát xong bọn chúng vỗ tay, bis, bis. Cũng không hiểu sao tôi lại bằng lòng. Hai đứa hát một bài nữa. Trong vùng sáng lờ mờ qua cặp mắt, tôi thấy vài đứa nhìn chúng tôi cười. Tôi như đã mặc nhiên chấp nhận sự gán ghép của Lệ. Sao mình gan thế nhỉ? Sau này tôi cũng một đôi lần tiếc những giây phút đó, sau này tôi cũng hối hận hành động đã làm.

Sau đó cả bọn kéo nhau ra phố. Không như những chiều tan học, lần này đi riêng rẽ nhau. Tôi và Ngh. đi sau cùng. Tỉnh lẻ với nhiều gương mặt quen thuộc, nhưng đêm nay là đêm Giáng Sinh, hầu như không ai để ý đến ai. Hai đứa lên nhà thờ lúc này đã khuya nên rất ít người quỳ dưới hang đá, thì thầm những lời vô nghĩa. Những vòm lá lay động trên đầu, đêm với không khí trong vắt, lạnh băng. Thời gian và không gian ngừng bặt, đêm thinh lặng. Không bao giờ em quên được đêm đó, giờ đó, dưới bầu không khí lạnh vây quanh. Anh, chắc anh vẫn nhớ chứ Ngh.? Người ta không sống bằng kỷ niệm. Nhưng em vẫn nuôi dưỡng kỷ niệm, anh à. Kỷ niệm như những viên ngọc quý được giữ kỹ lưỡng, nâng niu trong lòng. Cũng như những tờ thư cũ đó anh!! - Tôi và Ngh. ngồi trên bực thềm nhìn xuống phố. Đêm có trăng, ngồi trên này tôi có thể nhìn thấy bãi cỏ xanh dưới nhà thờ. Trăng óng ánh trên cỏ, cây in bóng lên cỏ và tôi, tôi muốn nằm dài trên cỏ. Ngủ đi, giữa đêm lạnh giữa lúc lòng mình chập chùng kỳ lạ. Để sáng mai tôi không còn là tôi nữa, để tôi đừng nhìn thấy tôi của những tháng kế tiếp. Nhưng trong một góc khuất nào của trái tim, nó bảo tôi nghĩ khác. Nó bảo tôi rằng những ngày sau chỉ toàn nắng ấm, nó điều khiển mọi ước muốn của tôi. Tôi muốn cùng Ngh. đi dưới thảm cỏ, cỏ trải dài dưới chân. Hai đứa đi trong cỏ, cỏ quyện lấy các bàn chân. Con đường đó đừng bao giờ chấm dứt. Đừng bao giờ dừng lại ở một cuối đường nào. Bên kia đường là vực thẳm, là quãng đời khác không có tôi và Ngh. Tình yêu vỡ nát, biến mất. Những giây phút đó đẹp vô vàn phải không anh? Năm nay em 18 tuổi, năm xưa em 16 tuổi. Hai đứa đã quanh qua một quãng đời khác. Em vẫn áo dài trắng, hai buổi đến trường như ngày nào đó anh.

Mặt sông gợn những đợt sóng vàng, trăng sáng làm tôi mơ hồ tưởng như buổi chiều. Hai đứa đi gần hết những con đường tỉnh lẻ, Ngh. đưa tôi ra bờ sông. Con này, con sông ở Thủ Dầu Một như trong một truyện dài của Mai Thảo. Tôi ngỡ tôi và Ngh. như Phục và Bích. Ngồi trên ghế đá, nhìn ra nước sông vàng. . Cũng vẫn là im lặng. Nghe vũ trụ nói, nghe tiếng sóng nhẹ vỗ êm ái. Tôi có còn là tôi không nhỉ? Mới ban chiều đến giờ tôi ngồi cạnh một người con trai. Tôi phải làm gì đây với bài vở của những ngày tới? Hay là tôi lại mơ mộng trước quyển Vạn vật. Không P. ơi phải gắng lên, phải nhớ lời ba mẹ. Đừng để môn Toán sụt hạng trong kỳ đệ II lục cá nguyệt. Tôi nghe thoảng đâu đây những lời yếu ớt đó. Mơ hồ, thoảng qua, trái tim vừa lớn của tôi vẫn đập những nhịp cũ. Rộn rã, bồi hồi trong những lần nghĩ đến người ta.

Sau đêm giáng sinh đó, tôi đã thực sự thay đổi. Những tờ thư kẹp trong quyển sách, lần hẹn hò ở Kim, từng bước chân theo về mỗi chiều tan học. Tôi vẫn tưởng nụ hoa đầu đời sẽ nở tươi đẹp mãi, nhưng đâu ngờ vẫn héo úa. Trong khu vườn tâm hồn, loài hoa úa tàn. Hương thơm làm lưu luyến dư hương làm đau xót  tâm hồn. Chỉ tại tánh tôi trẻ con, chỉ tại những hiểu lầm không đâu. Gia đình Ngh. dọn đi nơi khác. Thực sự không còn gì cả rồi. Hết rồi. Như một giọt sương đọng áo tôi hôm đó, sáng qua tan biến. Không một dấu vết. Một thoáng ngậm ngùi, rồi cũng qua. Anh, cho đến bao giờ em vẫn chưa quên được anh. Có lẽ không bao giờ quên đâu. Kỷ niệm đó, nhiều quá phải không anh? Làm sao quên được một ngày, một buổi. Đừng bao giờ khuyên em quên nhau nghe anh. Vì mỗi sáng, mỗi trưa em đều nhìn lại những nơi chốn xưa thì sao lãng quên được. Con gái vẫn thế, vẫn mau nước mắt mà anh.

Để rồi Noel năm sau tôi nhận được thiệp Giáng sinh từ xa đến. Dưới những lời chúc có hàng chữ: forget me not...


DUY NGUYÊN    

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 31, tuần lễ từ 23-12 đến 30-12-1971)

Thứ Bảy, 24 tháng 11, 2018

MỘT NGÀY ĐÃ QUA - Đỗ thị Hồng Liên


Buổi sáng, tôi thức dậy cùng lúc với tiếng hót của một con chim quen thuộc nào đó. Tiếng hót ríu rít nghe vui như bản nhạc mà M thường hát cho tôi nghe. Trời sớm nên còn mờ mờ tối, tôi tung chăn ngồi dậy xỏ chân vào đôi dép lạnh ngắt. Hôm nay là ngày chúa nhật, ngày mà M vẫn thường đến thăm tôi vào khoảng chín giờ sáng. Tôi không muốn M thấy con mèo con dễ thương của M vẫn còn cuộn tròn trên giường. Và chắc là M sẽ bảo, cô hư ơi là hư, nhé. M nheo mắt cười với tôi, tôi cười lại. Cả hai đứa cùng cười, trong mắt tôi M bỗng dưng trở nên dễ thương kỳ lạ.

Tôi mở cánh cửa sổ nhỏ trông ra vườn và đứng tì tay bên thành cửa. Gió sớm mai lùa vào phòng làm bay tung tóc tôi. Không khí thơm mùi đất, mùi lá mới, tôi nhoài người ngắt một cánh hoa sứ gần đó. Hoa trắng và thơm. Tôi dắt đùa lên tóc và lại bỏ nó xuống bàn học. Căn phòng nhỏ của tôi hôm nay như vương đầy hương hoa và dịu dàng làm sao. Tôi cười một mình thầm lặng, mắt vẫn ngó những hàng lá xanh non ướt đẫm sương đêm. Tôi muốn hứng được một ít sương trong tay và được nếm mùi của nó. Trời vẫn còn sớm và tôi không biết phải làm gì cho hết giờ ngoài việc đứng đó mơ mộng. Phòng bên có tiếng chị N húng hắng ho. Chắc bà ấy lại quên tối ngủ không đóng cửa rồi. Và tôi lại quay về cửa sổ có tiếng cây lá chạm nhau xào xạc ngoài vườn, tiếng sột soạt trong đống lá khô. Những tiếng động êm ái, quen thuộc làm sao. Tôi nhắm mắt mơ màng. Có phải không, những bước của thời gian thật vô cùng kỳ diệu.

Tôi yêu chiếc bể con nằm bên gốc cây sứ vô cùng. Mỗi buổi sáng tôi thường kiễng chân một chút nhìn vào bể ngắm bóng mình trong ấy. Và vục hai tay vào nước nghe cảm giác lành lạnh chạy khắp người một cách khoan khoái. Tôi cười với bóng mình trong đó, cả những cánh lá vàng bay chưa kịp héo nữa. Tôi thu chúng lại trong một hốc cây, vui mừng như giữ những kỷ vật quí báu. Với chúng, tôi có cảm tưởng chúng là của riêng tôi, chúng thuộc về tôi hoàn toàn với rất nhiều mơ ước. Có lần tôi nói với M về điều này, M cười và bảo là cô ích kỷ lắm. Có lẽ tôi ích kỷ thật đấy, lúc nào tôi cũng sợ bị mất, bị quên lãng trong lòng người khác. M vẫn nói tôi đa nghi, yếu đuối và nhát như một con thỏ đấy thôi.

Không biết vì sao, sáng nay, lúc đứng lên cái bể con tôi bỗng dưng nhớ M kỳ lạ. Một chút nữa đây, khi tan sương mù trên những ngọn cây không hiểu M có đến? Tôi rửa mặt một cách chậm chạp uể oải, những giọt nước lạnh rỏ xuống trên nền xi măng đầy rêu xanh nghe buồn buồn. Cây sứ dạo này bắt đầu rụng hoa, ngập trắng cả nền đất và trong bể nước. Anh có nhớ em không, hở M?

Chị N rủ tôi sáng nay xuống phố mua ít cuốn sách, chị nói thèm đi chơi mà đi một mình buồn quá. Lúc đó tôi đang dọn bữa ăn sáng. 7 giờ 45. Trời mờ sương ngoài kia, không khí có vẻ dịu dàng của một ngày mùa đông. Tôi lơ đãng trả lời không đi, cúi mặt xuống nhìn những tấm bánh vàng thơm ngát. Mùi cà phê bốc lên thơm thơm, tôi nghe rõ từng giọt một nhỏ xuống đáy bình, tiếng động đều đều xui tôi nhớ đến những đêm mưa buồn thường có vào mùa hạ ở đây. Đêm mưa thường làm tôi buồn nhiều nhất, khi nhìn những đồ vật ẩm ướt lạnh tanh, trong phòng tôi có cảm giác cô đơn sao đâu. Và cả đêm, nằm trong chăn ấm, tôi lắng nghe từng giọt mưa rơi xuống từ mái hiên, lắng nghe nỗi buồn nào đó vừa trỗi dậy mênh mang. Ôi! Tôi nhớ làm sao môi cười của M. Nhớ và nhớ. Nhớ không cùng đến phát khóc, ở đâu cũng bàng bạc ánh mắt, giọng cười của m. Tôi để đèn ngủ, lôi hình M ra xem hàng giờ, xem cho vơi bớt nỗi buồn, cho đã cơn nhung nhớ. M sẽ không biết là tôi thương M tới đâu, và nhớ M tới đâu vì tôi không bao giờ nói với M câu đó. Tôi không thể nói được với M một câu ra hồn nào hết khi gặp mặt nhau. Tôi cũng không thể gửi được cho M những lá thư đầy ắp nhung nhớ. Tội nghiệp những lá thư bé nhỏ không bao giờ tới tay người nhận, chúng nằm đầy dần trong hộc tủ của tôi. Cái hộc tủ trong đó chứa toàn thư M, những cuốn sách bé bé M tặng và vô số đồ vật lẩm cẩm của con gái. Tôi cất kỹ chúng, nâng niu chúng vô cùng, giam chúng nằm yên trong hộc tủ bằng một chiếc chìa khóa xinh xắn, nhỏ chỉ bằng ngón tay út của tôi. Ngón tay út thương mến vô cùng của ta.

Chị N giành lấy con dao nhỏ trong tay tôi, nhẹ giọng:

- Cô này hôm nay lạ nhỉ, cắt bánh không cắt, cà phê nguội cả rồi kìa Chị nhìn tôi tinh quái Nhớ ai đó cô nương.

Tôi gượng gạo cười với chị. Có gì đâu. Chị N nhìn tôi tất nhanh rồi cúi xuống cắt bánh, tiếng bánh vỡ nghe ròn tan, tôi bắt đầu thấy đói bụng. Một ngày đã lên tiếp nối những ngày buồn chán khác rồi đó M.

*

Áo dài xanh quấn quít gót chân mềm và tóc dài bay lả lơi theo chiều gió, trông chị N xinh xắn dịu dàng làm sao. Buổi sáng vẫn nồng nàn hương hoa lá và thơm mùi của đất khi chị N khép cửa đi ra, mắt long lanh nhìn tôi:

- Ở nhà đừng buồn nghe nhỏ.

Tôi nghiên đầu bối rối, hất nhẹ mái tóc dài vướng víu:

- Có gì đâu mà buồn. Chị tính đến nhà ai vậy?

- Không rõ nữa, chị định đến nhà nhỏ N. Sáng đẹp trời thế này không hiểu cô nàng có nhà không nữa. Có gửi gì không?

Tôi lắc đầu nhè nhẹ:

- Thôi, em lười lắm mà cũng chẳng có gì để gửi nữa. Chị đi đi, nắng lên rồi đó.

Nắng lên rồi đó, nắng óng ánh mịn màng trên từng hàng lá, nắng phá vỡ sương mù trên cao. Và bóng chị N nhòa dưới con dốc quen thuộc, xanh um những ngọn cỏ non.

Tôi quay trở vào nhà lòng bỗng dưng buồn mênh mang. Ngôi nhà nhỏ vắng lặng hơn bao giờ hết. Tất cả mọi vật đều lặng lẽ một cách đáng sợ, chỉ có nỗi buồn trong tôi là xôn xao, chất ngất vô cùng. Tôi đi từ nhà trên xuống nhà dưới, lướt qua những căn phòng trống không, chân đặt trên nền nhà ẩm ướt lạnh tanh. Tôi nhìn mình trong gương thấy mình xa lạ vô cùng, thấy mình như muốn khóc. Không, tôi sẽ chả khóc đâu, rồi mắt sẽ mờ và môi sẽ run ngấn lệ. Tôi lại sẽ thấy mình yếu đuối bé nhỏ và lạc lõng vô cùng. Như một con chim non run rẩy giấu đầu giữa hai cánh. M vẫn bảo không thể chịu được khi thấy con gái khóc và tôi vẫn rán hết sức cho M đừng trông thấy những giọt nước mắt vô tội đó khi chúng lăn tròn trên má trên môi, làm ẩm buồn những ngón tay bé nhỏ. Ừ, M yêu quí của tôi giờ này đang làm gì đó, ở một chỗ quen thuộc hay một nơi xa lạ nào tôi chưa hề biết đến. Nhưng chắc chắn là M phải biết tôi đang ngóng đợi M nơi ngôi nhà này chứ, N hẳn phải biết lòng tôi nôn nóng biết bao nhiêu. Một tuần xa nhau là một tuần để nhớ nhau. Giá chúng ta đừng bận rộn gì cả, giá chúng ta không phải vùi đầu vào sách vở cho mùa thi sắp tới. Giá mỗi ngày tôi mỗi thấy M hiện ra dưới chân con dốc nhỏ, cười với tôi bằng mắt, lòng tôi sẽ sung sướng biết bao. Ngày tháng sẽ nồng hương yêu dấu, như hương ngát trong vườn mỗi khuya, mỗi sớm, M sẽ chẳng còn ước sao mắt tôi bớt buồn đi một tí, ngày nào đó khi chúng mình như đôi chim khuyên nhảy chuyền trên cây đời hạnh phúc.

Nắng bây giờ rực rỡ trên từng ngọn lá, cành cây. Gió lướt thướt qua hàng cây xôn xao, mỉm cười với bầu trời dịu dàng trên cao. Gió lùa trong tóc, hôn lên tà áo lụa xanh mềm mại, màu xanh nồng nàn đến ngọt mắt vô cùng. Tôi đứng giữa vườn, nhón chân trên một thân cây để nghiêng, tay vịn cành ngọc lan thơm ngát. Từ đây, nhìn xuống dưới chân dốc thật rõ, tôi có thể trông thấy M từ lúc M bắt đầu quẹo vào con đường đất nhỏ đó. Bóng dáng M trở thành quen thuộc vô cùng đến nỗi tôi chả bao giờ lầm lẫn được với khoảng cách thế kia. Con đường nhỏ mới quen thuộc và âu yếm làm sao. Tôi không thể tưởng tượng được đã bao nhiêu lần M đặt bước lên đó, những bước dài thong thả. Đôi khi lẩn thẩn tôi chỉ muốn đặt chân mình lại trên những bước đã qua đó. Nhưng những dấu vết thường mất hút ngay sau khi M bước qua và tôi dẫm bừa trên đó, dẫm lên những hạt bụi vô tình quái ác đã phủ lấp bước chân người đi. Những buổi chiều mà sách vở đã được dẹp qua một bên giữa nỗi mệt mỏi chán chường tôi lại một mình lang thang nơi đó. Đây là nơi mà M đã từng đi qua, đây là hàng cây, bụi cỏ, những đám hoa vàng rực rỡ mà M đã từng ngó và cười với chúng. Tôi biết M vẫn hay cười một mình, nụ cười làm gương mặt M dễ thương quá đỗi. Tôi ghen cả với chúng và bắt đầu hỏi M bằng giọng giận dỗi: Cười cái gì vậy? M chỉ nhìn tôi cười bằng con mắt đầy ắp thương yêu. Không, không gì cả cô bé ạ. Ừ, M vẫn hay nói chuyện với tôi bằng giọng đó, giống như tôi là một cô bé tí xíu ngày xưa. Chúng tôi suýt soát nhau nhưng M vẫn bảo tôi trông giống như một con mèo nhỏ dễ thương nhất là vào những lúc tôi phụng phịu ngồi co cả hai chân trong chiếc ghế mây rộng rãi. M nói và cười khiến tôi cũng bật cười theo quên cả giận dỗi. Chả phải đâu M ạ, chúng mình đều là những con mèo con xinh xắn cả đấy. Những con mèo trong truyện thần tiên buổi sáng cùng nhỏ nhẹ uống chung nhau một tách sữa, buổi tối cùng khiêu vũ, hát hò và sống những tháng ngày thơ mộng trong lâu đài nào đó. Chúng ta yêu mến nhau, và hiểu nhau, mãi mãi phải không M?

Lá khô xào xạc dưới chân, reo vui cùng với lòng vừa ngát hương tình diệu vợi. Những ngón tay đan vào nhau e ấp, bầu trời mở ra thênh thang cùng hình bóng quen thuộc bên kia. Tôi cười với mình, cười với nụ cười rạng rỡ của M. Khung rào này, ngõ hẹp này sát gần mãi với bước chân êm. Tôi ngó M, lòng vui và chân sát một chút hương nào đã nồng thơm trên môi, một chút khói nào đã len mờ đôi mắt. Chờ nhau, mãi mãi, để thấy thời gian vời vợi, không cùng.

Hoa sứ trắng đã bắt đầu thôi rụng nhưng mùi hương ngày cũ vẫn bay đầy không gian. Mùa thi cũng sắp đến, nặng chĩu trên hai vai những lo âu. Rồi chúng mình sẽ chẳng còn mấy phút gặp nhau. Rồi sẽ cách ngăn vời vợi, những mùa thu đến chắc hẳn phải hiu hắt vô cùng. Tôi không sao làm quen được với ý nghĩ phải xa vắng M suốt cả thời gian dài dằng dặc, tôi chẳng được nghe tiếng cười êm ái đó. M sắp đi xa. Tôi nhủ lòng và muốn khóc. Không, tôi không thích M vào đó một chút nào. M sẽ xoay sở làm gì trước sự thay đổi đột ngột như thế? Tôi sợ mất M. Sợ vô cùng dù hiện giờ M đang ngồi đó, vòng tay ra sau gáy ngó lên bầu trời xanh, ở đó, mây trắng bay từng cụm rồi dạt ra muôn phương rời rã. Mắt M chùng xuống, mộng mơ. Tôi hỏi M, nhẹ nhàng như sợ làm tan giấc mơ nào đó.

- Nghĩ gì vậy?

- Nghĩ là rồi chúng mình cũng sẽ tội nghiệp như những cụm mây kia, bé ạ.

M nhìn tôi thật lạ.

- Cô bé sẽ hứa là chẳng buồn nhiều lắm chứ?

Tôi mím môi lắc đầu:

- Không.

M cười buồn tênh.

- Vẫn luôn luôn cứng đầu như thường nhỉ, thế cô bé sẽ làm gì nào?

Tôi lắc đầu ngó M nghe mắt mình ươn ướt. M nắm lấy tay tôi, ủ nó trong lòng tay ấm áp của M nước mắt mặn môi. Tôi giận mình hay khóc sao đâu. M lại bảo là tôi giống hệt con nít. Người lớn chẳng bao giờ mau nước mắt đến thế cô nhỏ ạ. Cười đi. Giọng M êm như ru. Cô bé giận đấy sao? Không. Tôi lại lắc đầu. Lại thấy lòng mênh mang nuối tiếc. Rồi chúng ta sẽ ra sao và sẽ đi tới đâu hở M? M nghiêng đầu nhìn tôi. Cười đi. Đã có gì đâu nào. Cười cho người khác yên lòng đi, cô bé. M nhắm mắt trêu tôi. Tôi gượng cười với M, nụ cười hòa lẫn với nước mắt, cười cho yên lòng nhau, cười cho những xót xa đừng trỗi dậy. Cười cho mắt sáng, môi hồng, cho quanh mình chỉ còn nắng lên rộn rã. Môi tôi ngậm kín nỗi buồn. Giấu hết đi tất cả, như mù sương vây dày vạn vật nửa khuya về sáng. Tôi muốn làm vui lòng hết những điều gì M muốn để giữ, cho mắt M đừng buồn, nụ cười M đừng tắt. Bàn tay tôi vẫn nằm ngoan ngoãn trong tay M. Buổi sáng trôi qua, thầm lặng.

Trở về bằng bước chân quyến luyến, gửi lại lòng nhau những buồn thương nhốt kín. Tôi tự hỏi l2ong mình nghìn lần sao nhớ thương quá đỗi, sao mãi yếu đuối như một loài cỏ dại. Ôi, những ngày tháng chập chùng nào sẽ ghé bước, những phút giây trống rỗng nào sẽ đi về. Buổi tối lại một mình bên khung cửa sổ, chân duỗi dài trên nệm ghế tôi bắt đầu gọi M. Gọi tên con đường nhà M với hàng cây  già trước cửa. Cây lá thầm thì bên ngoài và lòng tôi xôn xao nơi đây. M ơi. Lại bắt đầu một tuần lễ cách chia cho mùa thi sắp đến.

Khi về anh có biết em nhớ gì nhiều nhất, hở M? Nụ cười bỗng không làm con mắt có đuôi. Nụ cười thương mến anh dành riêng cho em đấy, M ạ.


ĐỖ THỊ HỒNG LIÊN    

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 69, tuần lễ từ 21-9 đến 28-9-1973)

Thứ Ba, 18 tháng 9, 2018

TRƯA NÀO, THỜI NÀO


Cùng với những cơn mưa tháng bảy, nước trở lớn. Con suối làng tôi bình thường chỉ sâu đến ngực, sau vài trận mưa rả rích đột ngột dâng cao đến ngập kín những mảnh vườn nhỏ chung quanh. Nước mênh mông trắng xóa. Đứng trên mô đất cao, bọn nhỏ chúng tôi thích thú thả câu. Trên giòng nước lấp loáng đó, gỗ mục trên miền cao lũ lượt đổ về. Tôi chỉ thấy ngọn trâm giữa giòng, những chiếc lá bám đầy bùn đất, cùng các ngọn tre rũ rượi.

Theo mùa nước lớn, các chú chim bói cá từ đâu bay về thật nhiều. Chúng thật quyến rũ tôi. Với bộ lông xanh mướt, đôi mắt nhanh nhẹn láo liên chờ mồi, khi có động tĩnh dưới nước, chú ta cắm vụt xuống, lúc lượn lên đã có một con cá lòng tong trắng bạc. Tội cho cá, dãy dụa một chút đã nằm gọn trong bao tử chàng bói cá. Một lần Cúc, cô bạn nhỏ cùng lớp ba với tôi, nói chim bói cá ác quá, thấy ghét. Trông đẹp đẽ như vậy mà ác quá, thấy ghét. Trông đẹp đẽ như vậy mà ác nhơn thất đức. Có hôm, Cúc thấy chú bói cá tha con cá bay đi, Cúc hỏi nó bay đi đâu. Tôi nói nó mang về cho con nó. Ở đâu vậy? Nó làm tổ ở mấy bụi lau, gốc tre. Cúc chắt lưỡi, coi vậy mà thương con quá hén! Thấy thương ghê. Đó, tuổi nhỏ là thế đó. Chúng tôi sống hồn nhiên, bình dị như thế. Với lòng rộn rã tình thương.

Có những năm tựu trường sớm, vào mùa nước lớn quả là một điều thú vị. Trường tôi học ở làng bên, cách một giòng suối và một rừng cao su. Đi học sớm, từng bọn năm sáu đứa. Qua những ruộng môn, ao rau muống với khúc bánh mì trên tay. Vừa đi vừa thò tay vào các giọt sương đọng trên lá môn. Đến cây cầu nhỏ, đi hàng một qua suối. Khi nước lớn, tôi được thêm tiền đi đò. Một đồng cho hai ngày đi về. Ngồi trên thuyền cả chục đứa, thò tay xuống nước đùa giỡn các ngọn lá. Thích thú vì tưởng tượng đang đi trên các cành cây, ruộng đất thường ngày. Qua đoạn đường nước, đến rừng cao su. Chúng tôi chạy băng băng trong đó, len lỏi theo từng gốc cây, chân trần đạp lá. Chạy và gọi nhau vang vang một buổi sáng. Đến trường lại thổ hồng hộc. Rồi chơi giỡn. Học. Buổi sáng mát rượi như ngọn lá lấp lánh ngoài trời.

Tựu trường được gần tháng thì Trung Thu lò dò đến. Chúng tôi thi nhau làm đèn, môn thủ công tháng tám. Trúc thì đã có mọc khắp nơi, sẵn mủ cao su dán là tuyệt. Đèn ngôi sao, đèn kéo quân, đèn cánh bướm. Sáng mười bốn, chúng tôi đem tới trường chấm điểm. Cả bọn tung tăng với chiếc đèn, đi giữa một vùng cây lá, không sách vở bên mình. Thật là sung sướng. Đứa nào được chấm giải nhất, ôi thôi là vui. Được bánh trung thu, sách vở, lại còn có con số 10 dễ yêu trong sổ. Sau đó lớp ăn liên hoan, ca hát. Con Phụng hát hay ghê. Nhất là khi Phụng, Cúc, Bạch hát "Bóng trăng trắng ngà, có cây đa to, có thằng cuội già, ôm một mối mơ...".

Đêm trăng rước đèn đi khắp làng. Hầu hết, nhà nào cũng có một bàn thờ ngoài sân, khói hương nghi ngút. Tôi rủ mấy đứa bạn thân đi rước đèn. Đến nhà đứa nào cũng được ăn bánh dẻo, ăn chè. Chúng tôi nắm tay nhau, cầm đèn đi chơi. "Tết trung thu rước đèn đi chơi, em xách đèn đi khắp xóm làng"... Trăng đi theo chúng tôi, như một người bạn chân tình.

Trăng là người bạn thân của trẻ thơ, có lẽ. Vì tôi thấy trăng đi theo tôi khắp làng. Đi đâu, cũng thấy bóng trăng cười với mình. Tôi say mê ngắm vầng sáng vằng vặc đó.

Những đêm trăng như thế, người lớn không được rước đèn như bọn tôi. Họ phải giã gạo. Hay  trải chiếu ngoài sân ngồi nói chuyện, uống trà. Chuyện nổ dòn như bắp rang, chuyện mùa màng thóc lúa. Còn mấy người phải giã gạo xem chừng cũng vui ghê lắm. Đó là mấy cô cậu còn trẻ. Họ giã thật ròn rã, chày tư, tiếng giã tiếng đệm tạo thành một chuỗi âm thanh rộn rã. Các chị mắt sáng, cười luôn miệng. Các anh cười mỉm chi, nhìn liếc các chị. Thỉnh thoảng họ ngừng giã, mời nhau ly nước, nhìn nhau, cười vu vơ. Những tiếng động thật dễ yêu dưới trăng vàng. Lũ trẻ chúng tôi khi rước đèn chán chê rồi thì treo đèn lên các nhánh cây, bày trò chơi. Chơi chén chậu, ve ve, cút bắt, giấu khăn, chơi thiên đàng. Cười vang rân. Chạy huỳnh huỵch. Tôi ưa chơi trò thiên đàng, khi mấy trò rượt bắt làm hơi mệt. Chơi trò này, nắm áo nhau đi thong thả, vừa hát.

Đêm thật thần tiên, tưởng như không bao giờ dứt. Càng về khuya, trăng càng sáng rỡ. Hương của các loài hoa đêm tỏa nồng, theo gió cùng trăng, tất cả phối hợp thật dịu dàng. Vì thế, đêm đẹp, đêm thơm như một giòng sữa...

Tôi nô đùa đến khuya, và ngủ dưới trăng, trong tiếng chày nhịp nhàng.

Vườn nhà Cúc có một cái ao nhỏ trước nhà. Ao nuôi cá, dưới bóng mát đủ các loại cây. Có một miếng ván bắc ra gần giữa ao, dùng để đứng thảy thức ăn cho cá. Chúng tôi hay lấy trứng kiến đến thả xuống ao, để nhìn các chú cá béo tròn tranh nhau ăn. Năm học lớp Nhất, gần Tết có đến nhà Cúc câu cá. Dịp đó cả nhà đi vắng chỉ có hai chị em Cúc trông nhà. Chúng tôi tổ chức một bữa ăn tự tay làm lấy ngoài  vườn.

Hôm đó tôi đến sớm, chực chờ ngoài ngõ. Khi mà Cúc vừa ra, tôi chạy vào ngay. Đem theo một lon trứng kiến, hai cần câu tôi và Cúc ra ao. Chúng tôi móc mồi, thả câu xuống. Hai đứa ngồi trên mảnh ván, thi nhau câu xem đứa nào được nhiều. Dưới bóng mát dìu dịu, loáng thoáng những vạt nắng. Vườn cải bên kia nở vàng, cây cao nghệu, quyến rũ những chú bướm chập chờn. Tôi hỏi Cúc vu vơ vài chuyện.

Khi giật một chú cá khá to, chẳng biết loay hoay thế nào Cúc làm rớt chiếc guốc gỗ xuống ao. Nó chìm lỉm, đợi lúc lâu mới nổi lên, dạt ra giữa giòng. Tôi dùng cần câu móc vào. Khổ nỗi đầu cần câu yếu xìu mà guốc lại nặng, nên nó cứ bập bềnh mãi. Móc được vào rồi, kéo lên cần lại cong vòng không lên nổi. Tôi run run đùa vào mà mấy chú cá quấy động làm chiếc guốc chực ra xa. Tôi còn vụng về hơn, lỡ đãng đến lọt tõm xuống ao. Nước bắn tung tóe. May là chỗ đó cạn, dù bơi chưa thạo tôi vẫn trồi lên được, níu vào mảnh ván. Trèo lên với một bụng nước ao. Cúc lúc đầu sợ hãi, sau đó nhìn tôi cười. Mình mẩy tôi ướt nhẹp, phải chạy về thay. Trèo rào, len lỏi sau nhà kẻo mẹ thấy.

Khi quay lại, Cúc đang cắt rau. Cúc hái xà lách bỏ vào rổ, rau xanh tươi mơn mởn. Cúc nhìn tôi cười lém lỉnh. Tôi thấy một chú bướm vàng, cánh điểm lấm tấm trắng thật đẹp, đang vờn trên hoa cải. Rón rén lại, chú ta say mê hút, tôi quơ tay và tóm được. May thật, nếu không tóm được có phải... quê không. Chú ta dãy dụa trong tay, bụi phấn bay lên sặc sụa. Bình thường tôi không ưa loại này vì người lớn dọa bắt bướm sẽ bị ho. Bây giờ thì khác Cúc cũng như mấy đứa con gái khác, chắc thích bướm đẹp lắm. Tôi đưa tặng Cúc. Cúc sáng mắt mừng rỡ. Tôi hỏi đẹp không.

Cánh bướm lần đầu tiên tôi bắt, cho một cô bé, cánh bướm chở mùa thu vàng rực rỡ một thời.

Cứ thế thời thơ ấu dịu dàng trôi qua lúc nào chẳng hay.

Khi đã lớn, anh bỏ làng mà đi. Về thăm chỉ một lần, cách đây vài năm.

Cũng vào mùa nước lớn, anh trở về. Khi không còn áo trắng, quần cụt ôm cặp chạy băng trong rừng cao su. Mà rừng cao su cũng chẳng còn, chỉ còn là một bãi hoang cằn cỗi. Con dốc cao nắng chang chang. Bởi vì không còn hàng cây hai bên. Vài tiếng chim lạc lõng, tiếng chim sẻ lạc bầy. Cánh đồng bên dưới, con suối cận kề. Ruộng lúa xác xơ, con suối gần như không còn bao nhiêu nước. Và bên cạnh, những cọng cỏ bám bùn đất vươn dài ra. Những phiến đá xanh đã mất, một màu vàng úa muộn phiền. Quá khứ bằn bặt đâu đâu, không âm vang. Một thời đã qua, chìm lắng.

Về, để nhìn thấy bạn bè cũ đã đi ra. Tiếng trâu bò lưa thưa về gõ nhịp rời rạc. Có một kẻ điên nhìn anh lơ láo, xong, la hét gần khóc. Rồi mệt, nằm lăn ra đất ngủ, cánh tay vung lên theo giấc mơ. Tiếng xe đạp những người đi cạo mủ buồn buồn vọng lại. Đi, anh ngơ ngẩn giữa một vùng đất thân  yêu đã quên mặt căn nhà, cây cột, cây ổi sau vườn, lũ gà vịt tíu tít. Đều đã trôi qua, không hằn lại một dấu vết nơi đây. Anh tưởng tượng lần về như một nhân vật trong "Hoa vông vang" của Đỗ Tốn được lang thang trong vườn rộng thò chân xuống ao, nhìn đàn ngỗng kêu quang quác. Để nhớ một thời thơ ấu, trong khu vườn.

Cái ao nhà Cúc cạn khô, cỏ mọc lây lất. Anh đứng nhìn, không tưởng tượng cầu ván ngày nào, vườn cải hoa vàng. Nơi của một thời, "trưa nào thời nào vàng bướm bên ao..."

Những cây ổi khô cằn, ra trái nhỏ cứng ngắc. Vài trái chín hoang, không ai hái. Lũ trẻ không còn đi lùng trong vườn, để những trái ổi chín một mình. Anh hái một trái ổi, ăn và quay về. Nghe chát chát trong miệng. Thời thơ ấu chìm khuất lấp, xa xôi. Đâu còn đêm trăng với tiếng trẻ nô đùa, tiếng chày giã gạo. Trai gái nhìn nhau len lén, tình yêu nở ra dưới trăng.

Anh về với hình ảnh những mùa trăng thơ ấu nguyên vẹn trong đầu.

Đêm tháng tám, đứng trên một cao ốc. Trăng sáng nhưng xa lạ yếu ớt dưới ánh sáng nhiều ngọn đèn. Anh nhìn trăng, thấy tội nghiệp như một món đồ cũ. Lũ trẻ chẳng có đứa nào rước đèn, chúng lủi thủi trong nhà. Có bao kẻ ngắm trăng, nuối tiếc một thuở nào đó?

Trong một lá thư mới nhất, Ngọc Hiền đã kể cho anh nghe thơ ấu của nàng. Thơ ấu của ai cũng đều đẹp. Nói chung quá khứ đều đẹp, vì lẽ dễ hiểu là chúng đã qua. Chúng ta tự mâu thuẫn, ta ghét bỏ hiện tại thế mà khi hiện tại trở thành quá khứ, ta nhớ lại với niềm nhớ tiếc rất đỗi êm đềm. Hiền kể lại thuở nhỏ với chuỗi ngày thần tiên. Nàng kể một ngày về thăm. "Về đây với gió hiu hắt lạnh lùng, ôi lãng du quay về điêu tàn..."

Hiền viết, nàng mong mỏi một ngày nào đó, chúng tôi sẽ gặp lại nhau nơi miền quê thân yêu cũ. Ôi có ai mà chẳng ngóng trông. Ngày mà chúng ta thấy lại, tìm và bắt gặp ấu thời của mình. Đến đầy đủ, dịu dàng với bọn trẻ bây giờ.

Anh nghe như tiếng chày giã gạo vọng lại. Tiếng cười trong trẻo của các thiếu nữ. Chày tư nhịp rộn rã dưới trăng như một bài tình ca...


DUY NGUYÊN    

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 69, tuần lễ từ 21-9 đến 28-9-1972)

Thứ Hai, 17 tháng 9, 2018

CÔ NHỎ, MỰC TÍM VÀ GIẬN HỜN


Ngôi nhà cũ kỹ nằm giữa mảnh đất rộng trồng nhiều cây. Mái ngói đỏ xanh rêu lâu ngày thành đen, tường sơn mầu vàng nhạt, cửa xanh. Từ nhà bên này nhìn sang, tôi trông ngôi nhà có vẻ ngoan ngoãn, hiền lành. Ở khu này nhà nào cũng có vườn trồng cây chung quanh, nhà nọ cách nhà kia bằng một hàng rào hoa dâm bụt đỏ, lá mướt xanh ngăn ngắt. Nhà bên đó có một cây Ngọc Lan cao tít tắp và cành lá xum xuê mọc gần bằng hàng rào phía sau nhà. Bây giờ có lẽ đang mùa nên hoa Ngọc Lan nở trắng ở những đầu cành. Đi ở đầu đường lớn để rẽ vào con đường nhỏ này, người ta đã có thể nhận được mùi hương nhẹ nhàng của loại hoa ấy. Từ một tuần nay, từ lúc hoa bắt đầu tỏa hương, chiều nào tôi cũng vừa cặm cụi giải toán vừa hít thở no đầy cái không khí dịu dàng đó.

Ở cạnh bàn bên kia, Bảo đang giải một bài toán, chắc là vật lý. Chồng sách dầy xếp bên cạnh hắn làm tôi ngán và sợ. Còn vài tuần nữa đã đến ngày thi, cũng may là chúng tôi đã thanh toán gần như hoàn toàn chương trình học. Tôi gấp cuốn sử địa lại, vươn mình, kéo ghế đứng dậy. Bảo đưa mắt lên dò hỏi. Tôi nói:

- Tớ ra sân đi vài vòng cho khỏe.

Bảo lại chúi mũi xuống chồng giấy nháp, chiếc kính cận trên mũi hắn lại có dịp trễ xuống một tí. Gần thi nên tên nào cũng học mòn người, học đến dài người mỏng như sợi dây ni lông.

Tôi vòng ra sau nhà, đi gần hàng rào và thuận mắt nhìn sang ngôi nhà có cây Ngọc Lan thật lớn ấy. Hôm nay cửa sổ phía bên trái căn nhà mở rộng, chắc có người vừa đến ở đó. Lâu rồi, ngôi nhà nằm giữa khu vườn bên ấy đã thành cảnh tượng cho tôi nhìn ngắm dù chả có gì đặc biệt. Tôi đang nhón cao người để nhìn cho rõ vì hàng rào hơi cao thì một giọng nói ở đâu rất gần vang tới:

- Ê, nhìn chi nhà người ta hả?

Tôi giật mình nhìn quanh. Cành ngọc lan rung động. Thì ra một cô bé nhỏ đang ngồi trên một nhánh ba của cây hai chân đong đưa vung vẩy. Cô nhỏ mặc bộ đồ màu xanh cùng màu với lá tôi không để ý nên không thấy. Cánh môi hồng cong lên, khuôn mặt "kên kên", cô nhỏ hỏi lại lần nữa:

- Anh nhìn cái chi nhà người ta vậy?

- Ủa, bộ nhà bên ấy cấm nhìn à?

- Không cấm, nhưng không thích cho nhìn. 

Cô nhỏ trả lời ngang như cua. Tôi đấu dịu:

- Tại nhà cô có cây ngọc lan nhiều hoa, thơm quá.

- Anh muốn lấy hoa đó không?

- Lấy làm chi?

- Để trong túi cho thơm.

Trời đất! Bộ tôi là con gái sao mà làm chuyện để hoa trong túi, trong cặp như các cô.

- Thế à, thế thì thôi.

Cô nhỏ nói với vẻ thất vọng rồi cầm cuốn truyện mỏng lên đọc tiếp, chẳng còn để ý đến tôi nữa. Trông cô nhỏ dễ thương ghê nhưng hơi tinh nghịch, đôi mắt đen linh động quá chừng. Đây là lần đầu tôi gặp cô nhỏ, chắc cô là cháu của bà cụ mà tôi thường thấy bên đó. Cô nhỏ có vẻ say mê cuốn truyện. Tôi nhìn cái bìa, cuốn 15 truyện biển, truyện phiêu lưu chi đó. Tôi gọi:

- Cô nhỏ, cô nhỏ ơi.

Cô nhỏ nhăn mũi lại, mắt không rời trang sách:

- Khoan, người ta đang coi mà.

Tôi trở lại bàn học, tiếp tục bài học bỏ dở và hỏi Bảo:

- Nhà bên cạnh có cô nhỏ dễ thương lắm Bảo ạ.

Bảo cũng ngớ ngẩn:

- Tớ không biết. Có bao giờ tớ để ý đến nhà hàng xóm đâu.

Hôm sau tôi lại đến Bảo để cùng ôn bài vì nhà hắn yên tĩnh hơn nhà tôi nhiều. Tôi quên bẵng cô nhỏ cho đến khi gặp cô cũng dáng điệu đong đưa ấy, ngồi nhai quả ổi trên cành cây hôm trước. Tôi cười:

- Chào cô nhỏ.

Cô nhỏ cũng có vẻ ngạc nhiên khi thấy tôi:

- Ủa, nhà anh bên này hả?

- Không, tôi đến học thi với tên bạn.

- Thi Tú Tài hả?

- Ừ, còn cô nhỏ năm nay có thi gì không?

- Người ta mới học lớp 10 mà thi nỗi gì! Nè, sắp thi rồi cứ đứng nói chuyện, đi học bài đi.

- Tôi học xong rồi.

- Anh học ban B phải không?

- Đúng thế, còn cô nhỏ chắc học C chứ gì?

- Sao anh đoán hay vậy?

- Vì mắt cô mơ quá, học ban B ông thầy toán cú lủng đầu.

Cô bé bĩu môi hất mạnh mái tóc:

- Thầy bói đoán sai bét.

- Giỏi thế cơ à?

- Giỏi lâu rồi.

- Có lần nào bị thầy toán la chưa?

Đến đây cô nhỏ ngập ngừng rồi cười ngượng ngùng:

- Có.

Cô nhỏ giấu nụ cười sau mái tóc rũ trông xinh như búp bê. Cái vẻ "kên kên" biến đâu mất, không ngờ cô nhỏ mau mắc cỡ đến thế. Tôi chợt nhớ ra một điều, vội vàng hỏi:

- À, cô nhỏ tên gì vậy?

- Hỏi chi?

- Để biết, chứ mỗi lúc mỗi kêu cô nhỏ, cô lớn hoài, kỳ cục!

- Anh phải nói tên anh trước.

- Tôi là Thúy, Đỗ Khanh Thúy.

Cành cây rung mạnh và cô nhỏ vội níu hai tay vào thân câu. Cô ôm ngực, mặt còn tái nhưng miệng cười dòn:

- Tên anh làm thiếu chút xíu là tôi té lộn xuống đất.

- Bộ tên xấu lắm sao mà cười?

- Không, dễ thương chớ, nhưng hơi có vẻ... thục nữ yểu điệu. Anh có em gái không?

- Có, mà cô nhỏ ơi đừng có lảng chuyện. Hãy cho biết tên cô đi.

- Tên tôi hả, tôi nói ra cấm anh cười à.

- Đồng ý.

- Thu, Nguyễn Thị Cỏ Thu.

- Trời đất, Cỏ Thu?

- Làm gì kêu dữ vậy, thay vì Thu Thảo thì ba đặt Cỏ Thu bộ không được hay sao?

- Được chứ, tôi thích tên Cỏ Thu, nó lạ và mơ mơ làm sao.

- Tên của người ta mà đòi thích!

Nói tới đây, Cỏ Thu tụt xuống đất bảo tôi:

- Để Thu vô không thôi bà ngoại la nghe, anh Thúy.

Tình cờ như vậy tôi có một cô bạn nhỏ với cái tên thật lạ. Cỏ về mùa thu thường được mưa tuôn xuống thân mỗi ngày, tươi còn hơn hoa. Cô nhỏ Cỏ Thu cũng vậy, tôi thích nhìn Cỏ Thu cười. Cô nhỏ hay hái hoa Ngọc Lan đầy túi cho tôi, và tôi mang về "tặng" lại nhỏ em. Nhỏ Hương thích lắm, tôi hay làm oai với nó:

- Công ta đi xin gãy lưỡi cho mi đó.

Nhỏ Hương đoán mò một câu làm tôi giật mình:

- Chắc là hoa ở nhà chị nào chứ gì? Ông anh ơi, khai thật với em đi.

- Vừa thôi nghe nhỏ.

Đều đặn như thế, mỗi tuần vài lần, buổi trưa và hàng rào đã ngẫu nhiên trở thành thời gian và nơi chốn cho những cuộc "hẹn hò" (tôi ghép đại cái tên rùng rợn này cho có vẻ thân mật). Một hôm chẳng biết Cỏ Thu tức giận điều gì hoặc là muốn trêu chọc tôi, Cỏ Thu leo lên cây ổi phía cuối vườn nói vọng lại:

- Bữa nay Thu thích ngồi ở đây hơn.

Cái miệng cười cười dễ ghét. Hôm sau tôi ngồi lì tại bàn. Hình như Cỏ Thu tìm tôi thì phải, cành cây Ngọc Lan rung động luôn. Rồi có tiếng sột soạt ở hàng rào, chắc là cô nhỏ đứng ở đó nhìn sang. Tôi không nỡ thấy cô nhỏ buồn nên bước ra nhưng mặt vẫn làm vẻ lãnh đạm. Cỏ Thu gọi nhỏ bên hàng rào:

- Anh Thúy...

- ...

- Anh Thúy ơi, anh giận Thu hả? Xin lỗi anh nghe.

- Sao Cỏ Thu cứ chơi ác vậy?

- Thôi mà anh, cứ đưa tay Thu cho cái này nè.

Tôi lách bàn tay trái qua những kẽ lá nhỏ để sang bên kia. Có vật gì tròn tròn, mát lạnh đặt vào tay tôi, tôi rút tay về thì ra một quả ổi to. Tôi bật cười. Đôi mắt Cỏ Thu thấp thoáng sau màn lá, cô nhỏ nói:

- Thu đền cho anh Thúy đó nghe.

Cỏ Thu về đây ở chơi với bà ngoại hai tháng hè. Nhà cô nhỏ hình như ở một khúc quanh đầy bóng mát lá me trên con đường tôi đến trường. Bà ngoại thương Thu lắm, Cỏ Thu bảo vậy, bà hay mua quà cho cô nhỏ mỗi lần đi chợ. Thế là quen Thu, tự dưng tôi phải "thưởng thức" những món lặt vặt con gái: chè, bắp, cóc dầm, me... Bảo xúi tôi mang về cho nhỏ Hương, nhỏ lại có dịp "tra khảo" tôi:

- Anh Thúy dạo này tiến bộ ghê, tặng quà nhau loạn xạ nhỉ.

Một tuần, hai tuần trôi nhanh. Ngày thi đến gần làm tôi lo lắng tuy bài vở đã xong tất cả. Cỏ Thu vẫn cười tươi như bông Ngọc Lan ướt sương sớm, vẫn tìm đủ mọi phương cách trêu chọc tôi. Cô nhỏ hứa hẹn nếu tôi thi đỗ sẽ có quà tặng. Quà của Cỏ Thu chắc lại toàn bánh với kẹo không chứ gì. Ôi cô nhỏ vô tư và ngoan rất mực của tôi ạ. Từng món ăn chuyển qua hàng rào "nuôi dưỡng" nhau, cảm dộng lắm chứ.

Ba ngày thi liên tiếp khiến tôi mệt mỏi nhiều. Đầu óc căng thẳng như sợi dây đàn. Thi xong tôi quăng bài vở, bút, sách tập bừa bãi, mặc tất cả, tôi lăn ra giường ngủ mê mệt một ngày rồi hôm sau đến nhà Bảo gặp Cỏ Thu ngay. Cô nhỏ mừng rỡ:

- A, anh Thúy! Mấy hôm nay sao Thu không thấy anh đến chơi?

- Mấy ngày tôi bận thi, Cỏ Thu quên rồi sao?

- Ừ nhỉ. Anh làm bài được không?

- Cũng khá.

- Có hy vọng rớt chứ gì!

Câu nói của Cỏ Thu làm tôi giật mình. Tuy chẳng tin dị đoan nhưng tiếng rớt vẫn làm tôi sợ. Cô nhỏ lại bắt đầu trêu tức tôi. Tuy biết thế nhưng tôi cảm thấy hơi giận.

- Cỏ Thu trù tôi thi rớt hả? Ác vừa vừa chứ.

Cô nhỏ chẳng trả lời, hai chân đong đưa trên cành cây và miệng hát khe khẽ: Ta trượt tú tài, ta hụt tình yêu... thi hỏng mất rồi, ta đợi ngày đi... Đau lòng ta muốn khóc... đau lòng ta muốn... khóc... Cỏ Thu hát xong, le lưỡi lêu lêu mắc cỡ với tôi. Tôi nhìn dáng điệu Cỏ Thu lí lắc nên hết cả giận, nói bình thản:

- Rớt thì thôi, lo chi.

- Oai nhỉ.

- Chứ sao không!

- Bị má la. Bị Thu cười.

- Không sao.

- Bị đi quân trường mang súng đi một hai ngoài bãi tập. Mang ba lô nữa, thân anh mà vác ba lô lên vai thì chắc xương gẫy rắc rắc như cành cây khô.

- Tôi chẳng sợ, người ta làm được thì mình cũng làm được.

Thấy trêu mãi chả làm tôi nổi cáu, Cỏ Thu xoay sang chuyện khác, cô nhỏ đổi "chiến thuật" đấy:

- Lần này khỏi cho anh hoa để anh đem về khoe với nhỏ Hương nữa đi.

- Càng tốt, đỡ vướng túi. À, Hương nó lớn hơn Cỏ Thu một tuổi cơ đấy, ai cho gọi mà cứ nhỏ này nhỏ kia.

Cô nhỏ khẽ hạ đôi mi mắt, cái miệng xinh xinh bắt đầu phụng phịu. Ai biểu cô nhỏ chọc người ta, người ta chọc lại rồi hờn giận. Cỏ Thu ngồi im, tóc rũ che một phần khuôn mặt. Tôi dọa:

- Coi chừng con sâu trên vai áo kìa.

Cỏ Thu hoảng hốt phủi vai áo nhưng khi biết không có gì cô nhỏ nghinh mặt lên hỏi tôi:

- Sâu đâu, anh chỉ nói ẩu.

- Tại Thu chưa gặp đó thôi. Cây Ngọc Lan nhà tôi (?) thường có sâu bướm xanh lè ghê lắm.

- Đó là anh dữ quá nên sâu đến phá anh chơi, chứ cây này không có chi hết bởi vì Thu thì...

Nói tới đây cô nhỏ "hớ" lên một tiếng rồi im bặt. Tôi nói:

- Bởi vì Thu thì dữ tới mức "xup-per" nên họ hàng sâu ngán quá dọn đi hết chứ gì.

Cỏ Thu đang loay hoay tìm cách trả đũa thì tôi hỏi thêm một câu:

- Thu mà trợn mắt thì tới tôi cũng té xỉu, kể gì bọn sâu.

- Bộ Thu ác lắm sao mà anh nói vậy, anh Thúy?

- Không ác mà hỏi người ta có hy vọng rớt không.

- Vậy đừng thèm chơi với người ác nữa. Anh tìm người khác mà chơi. Thu giận anh.

Cỏ Thu tụt xuống khỏi cây Ngọc Lan và chạy vào nhà. Đến bực cửa, Cỏ Thu ngần ngừ một lúc rồi quay lại bảo tôi:

- Anh bảo Thu trù anh thi rớt, vậy khi nào anh đậu thì cho Thu biết với.

- Nhưng Thu giận anh thì cách nào anh cho Thu biết được?

- Vậy mới hay.

Nói xong cô nhỏ chạy bay vào nhà. Tôi đứng ngẩn mặt làm một tên vô duyên nhất đời. Tưởng là làm cô nhỏ tức bực một chút thôi, ai ngờ cô nhỏ dễ giận đến thế. Trong lúc bối rối, tôi đã xưng anh với Cỏ Thu mà tôi không biết. Tiếng anh lần đầu tiên xưng với Cỏ Thu không ngượng ngập, vấp váp. Nhưng cô nhỏ giận tôi thật rồi. Cây Ngọc Lan vẫn hằng ngày tỏa hương thơm nhưng chẳng còn bóng Cỏ Thu nhỏ, mắt sáng môi tươi ngồi trên cây đọc sách hoặc ngồi nói chuyện cùng anh Thúy nữa. Tên ngu ngốc Đỗ Khanh Thúy là tôi, ngày nào cũng đợi chờ bên này hàng rào, và ngày nào cũng thất vọng.

Ngày đi xem kết quả, tôi đỗ, Bảo đỗ. Hai đứa hét om tại nơi xem bảng. Lại đỗ Bình mới oai chứ. Về nhà, mẹ tôi hứa hôm sau sẽ cuốn chả giò đãi cả. Ba tôi móc túi: thưởng thằng Thúy ba ngàn. Mấy đứa em nhẩy rầm rầm tưởng sập căn nhà đòi tôi "khao quân". Tôi thì lòng chỉ bừng bừng muốn báo Cỏ Thu biết tôi đỗ. Nhưng báo bằng cách nào? Cô nhỏ vẫn tránh tôi bằng cách ở lì trong nhà khi biết tôi thấp thoáng đứng đợi bên cạnh rào. Tôi và Bảo suy tính mọi kế nhưng chẳng ra hồn nào cả. Giá hỏi nhỏ Hương thì chắc sẽ xong nhưng mang ra nhờ chuyện này để nhỏ ấy cười cho ê mặt ư. Ngẩn ngơ hết một ngày. Buổi tối tôi đang ngồi chơi cờ tướng với Bảo thì nhỏ Hương cầm một gói đậu đỏ bánh lọt đi vào. Nhỏ mời:

- Có ông nào ăn không ạ?

- Lại ăn quà rồi. Tôi nói Ai thèm!

- Đừng chê anh Thúy ơi, nhờ mấy tháng mẹ bắt anh ăn chè đậu xanh hoài nên anh mới đỗ đó.

Tôi chợt reo lên: Phải! Phải! Và xóa vội bàn cờ, lôi Bảo ra xe chạy biến. Nhưng trước khi đi tôi còn kịp nói với nhỏ Hương một câu:

- Nè tối nay anh ngủ lại nhà tên Bảo nghe, thưa lại với ba mẹ như thế.

Tôi chở Bảo đi tìm hàng nào bán đậu đỏ còn sống. Buổi tối khuya nên phần nhiều hàng đã đóng cửa. Tìm một lát mới có một nhà bán đậu đỏ. Tôi hỏi mua, cô bé bán hàng hỏi: anh mua bao nhiêu? Tội nghiệp thân tôi, có bao giờ tôi phải đi mua bán những thứ này đâu mà biết được. Tôi cầu cứu Bảo, hắn còn ngớ ngẩn hơn tôi. Cô bé đứng che miệng cười sau quầy hàng. Tôi nói đại, một ký. Cầm gói đậu trên tay tôi hơi ngần ngại, chi mà nhiều thế này, nhưng đổi lại ít hơn thì chắc cô bé cười cho xấu hổ.

Quay về nhà Bảo, chúng tôi giấu kín gói đậu trong tủ sách. Hai đứa nằm chờ cả nhà đi ngủ hết mới rón rén bò dậy, mở tủ lấy gói đậu rồi mở cửa lớn ra ngoài sân. Đã khuya, đồng hồ chỉ 11 giờ. Nhà Cỏ Thu đã đóng cửa, tắt đèn. Vườn cây im lìm sững bóng. Đêm mát mà sao hai tay tôi ướt hết mồ hôi vì hồi hộp, lỡ bây giờ có ai ra thì thật chẳng biết nói sao. Bảo bưng đến một cái ghế đã để sẵn ngoài hiên. Tôi leo lên ghế nhìn sang nhà Cỏ Thu, hai tay run run mở dây cột gói đậu đỏ rồi lấy hết sức ném mạnh gói đậu vào khoảng sân tráng xi măng trước nhà cô nhỏ. Tiếng đậu rơi rào rào lăn trên nền xi măng cứng. Như hai tên ăn trộm, tôi và Bảo nhón gót chạy nhanh vào nhà.

Tiếng cười hai đứa được giấu kín dưới gối và bóng đêm. Ngày mai tha hồ cho cô nhỏ quét sân cong xương sống luôn. Cái tên Cỏ Thu thì hiền mà sao cô nhỏ ác quá (chỉ nghĩ thôi, chả dám nói ra lần nữa!). Tôi chỉ lo cô nhỏ nổi chứng giận luôn thì khổ. Ôi cô bạn nhỏ của tôi sao cứ thích "hành hạ" người ta mãi.

Buổi sáng tôi dậy thật sớm. Trời chưa sáng hẳn nhưng đèn đường đã tắt. Tiếng chim ríu rít chuyền cành bay trong những tàn lá mỏng. Bên nhà Cỏ Thu có tiếng quét sân rào rạo. Tôi rẽ lá nhìn qua, gói đậu hôm qua tung tóe trên sân, vương vãi xuống cả những đám đất ướt có cỏ mọc. Rồi thấy cô nhỏ đang quét vun những hạt đậu về một góc. Bà ngoại cô nhỏ đứng trên thềm nhà bỗng dưng cất tiếng vu vơ:

- Cha đời quân nào phí của quá. Đậu ăn không có, có đậu đem bỏ. Thu à, con có biết ai quăng thứ này vô nhà mình và quăng làm gì không con?

Cỏ Thu nhìn bà cười ý nhị, chắc cô nhỏ đã hiểu. Và khi biết tôi lấp ló bên kia hàng dâm bụt, cô nhỏ khẽ quay sang mỉm cười, nụ cười buổi sáng thật êm dịu.

Nhưng mà, than ơi, đôi mắt Cỏ Thu lườm tôi dài mấy cây số!


KIỀU GIANG   

(Trích tạp chí Tuổi Ngọc số 119, từ 15-10 đến 1-11-1973)

Chủ Nhật, 4 tháng 2, 2018

CHƯƠNG 35_TÚP LỀU CỦA CHÚ TOM


CHƯƠNG 35


Georges Shelby chỉ viết vài dòng vắn tắt để báo cho mẹ biết ngày về. Cậu không còn lòng dạ nào để tả lại cái chết mà cậu chứng kiến. Cậu đã cố gắng nhiều lần song những kỷ niệm ấy khiến cậu nghẹn ngào, không cầm nổi bút. Cậu đã xé đi viết lại không biết bao nhiêu lá thư, lau khô nước mắt và bỏ ra khỏi phòng để tìm lại chút bình tĩnh cho tâm hồn.

Được thư cậu, cả nhà xôn xao vui mừng nghĩ đến ngày về của cậu chủ.

Bà Shelby ngồi trong phòng khách. Một ngọn lửa ấm áp xóa tan cái lạnh của buổi chiều cuối thu. Trên bàn ăn, lấp lánh những dĩa muỗng ly tách quý giá.

Chính tay bác Chloé bày dọn những thứ này.Bác bận một cái áo mới bằng vải chúc bâu với một cái tạp dề đẹp đẽ màu trắng và một cái khăn cột tóc xinh xắn. Khuôn mặt đen bóng phảng phất vẻ sung sướng... Bác nán lại bên bàn ăn, kéo cái khăn, sửa cái tách, sắp dọn thật tỉ mỉ để có cớ nói chuyện thêm chút nữa với bà chủ.

- Ồ! Chắc chắn là cậu sẽ rất hài lòng! Kìa! Tôi đã dọn chén dĩa muỗng nĩa cho cậu ở chỗ cậu thích, bên cạnh lò sưởi. Cậu Georges lúc nào cũng thích ngồi ở một chỗ ấm áp. A! Tại sao Sally không chịu dọn bộ tách trà đẹp nhất? Bộ tách cô gì mua biếu bà vào dịp lễ Noel ấy?... Tôi sẽ đi lấy. Bà chủ có nhận được tin gì của cậu Georges không?

Bác hỏi thêm với giọng lo lắng.

- Có, Chloé à! Mà chỉ vài hàng ngắn báo cho tôi hay là nó sẽ trở về ngày hôm nay. Không có thêm một chữ nào nữa cả, tôi rất nóng lòng...

- Và không có cả một câu nào về ông chồng già đáng thương của tôi nữa sao?

Chloé vừa hỏi vừa xoay xoay tách trà.

- Không, không chữ nào cả Chloé; nó viết là nó sẽ cho biết lúc về đến nhà.

- Đúng là tính cậu Georges... Cậu rất thích kể lại bằng chính miệng mình. Cậu lúc nào cũng vậy. Về phần tôi, tôi không hiểu tại sao người da trắng lại thích viết dài dòng... như họ vẫn thường làm... Viết vậy chắc khó lắm!

Bà Shelby mỉm cười. Chloé tiếp :

- Tôi dám chắc là ông chồng già đáng thương của tôi sẽ không nhận ra con... Cả đứa bé nhất. Chúa ơi! Lúc này nó thật mau lớn! Nó cũng thật hiền và khá đẹp! Tụi nó đang ở trong lều để canh chừng bánh. Tôi sẽ nướng một cái bánh thật hợp với ý thích của ông ấy, nó sẽ giống như cái bánh của buổi sáng hôm mà... ông ấy ra đi! Chúa ơi! Buổi sáng hôm ấy, tôi thật là...

Bà Shelby thở dài. Bà thấy như có một sức nặng đè lên trái tim... Bà thấy đầu óc như quay cuồng từ lúc nhận được lá thư của cậu con trai... Bà linh cảm có một sự khác thường trong sự yên lặng ấy. Chloé lo lắng hỏi :

- Thưa bà, bà có giữ số tiền giấy ấy chứ?

- Có đây, Chloé.

- Tôi sẽ đưa trọn số tiền cho Tom, số tiền của ông chủ hiệu bánh trả công cho tôi. Thưa bà, ông Jones muốn giữ tôi lại, nhưng tôi cảm ơn và... từ chối. Tom về rồi, tôi không cần phải đi làm nữa, tôi phải trở về hầu bà. A! Cái ông Jones cũng tốt lắm, thưa bà...

Chloé đã van nài bà chủ giữ dùm bác số tiền công và giao lại cho chồng, như là những chứng tích của tài năng bác. Bà Shelby vui lòng làm theo lời yêu cầu của Chloé.

- Ông sẽ không nhận ra Polly, ông chồng già của tôi... Ồ! Ông sẽ không nhận ra nó!... Ồ! Vậy mà đã năm năm kể từ ngày ông ấy ra đi! Mới ngày nào đây!... Nó ngày ấy chỉ là một đứa bé... đứng còn chưa vững nữa là. Thưa bà, tôi còn nhớ, ông lo sợ biết bao nhiêu lúc nó chập chững tập đi... Tội nghiệp, ông chồng già thân yêu của tôi!

Chợt, người ta nghe tiếng bánh xe dừng lại ở cửa. Chloé lao về phía cửa sổ, reo to :

- Cậu Georges!

Bà Shelby chạy ra khung cửa ở tiền đình dang tay ôm lấy cậu con trai vào lòng mình, trong lúc đó bác Tom gái đứng yên, nhưng ánh mắt bác còn nôn nả hơn cả trăm lời han hỏi, chúng rực sáng như có thể xuyên thủng bóng đêm. Georges xúc động kêu lên :

- Bác Chloé đáng thương ơi!

Rồi cậu tiến lại bên bác, nắm tay bác; nghẹn ngào :

- Bác Chloé ơi! Tôi sẵn lòng đánh đổi cả gia sản để đem bác Tom về nhưng muộn quá: bác ấy đã rời bỏ chúng ta, ra đi vĩnh viễn...

Bà Shelby kêu lên một tiếng đau đớn, còn người vợ khốn khổ thì không, bác im lặng. Rồi mọi người cùng vào phòng ăn. Những tờ giấy bạc của Chloé còn nằm trên mặt bàn. Bác thu nhặt hết lên tay, run rẩy đưa cho bà chủ :

- Bây giờ chồng tôi không còn để nghe nói về số tiền này, để thấy số tiền này. Bà chủ ơi! Tôi vẫn thường thấp thỏm ngày đêm cho số phận ông... tôi sợ ông bị bán và bị giết ở những nơi xa xăm nào đó. Giờ thì đã là sự thật rồi... ông ấy chết thật rồi...

Chloé quay ngoắt lại, rời khỏi phòng.

Bà chủ chạy theo, bà nắm tay người đàn bà đáng thương, dắt lại ngồi trên ghế và bà cũng ngồi cạnh bác. Giọng bà chua xót :

- Tội nghiệp Chloé! Nhưng nếu thím biết tôi cũng đau khổ không biết bao nhiêu...

Chloé gục vào vai bà chủ, òa lên khóc. Giây sau bác nói :

- Xin bà tha lỗi cho tôi, bà bỏ qua cử chỉ vừa rồi... Chỉ tại tôi quá khổ, lòng tôi tan nát vì cái chết của Tom...

- Chloé, tôi hiểu lắm - Bà chủ nói, mặt ràn rụa nước mắt - Tôi không biết làm sao an ủi thím, chỉ có Chúa, Ngài biết cách...

Một khắc im lặng tiếp theo rồi tất cả đều bật lên thành tiếng thổn thức không ngăn giữ nữa.

Cuối cùng, Georges đến bên Chloé, giọng trầm buồn, cậu kể lại cho người đàn bà biết những lời trăn trối cuối cùng của chồng mình, những lời nhắn nhủ tràn yêu thương, can đảm và vẻ mặt thanh thoát chứng tỏ bác yên lòng rời cuộc sống.

*

Một tháng sau, tất cả đám nô lệ của ông bà Shelby được cậu tiểu chủ cho gọi lại, tụ họp trong phòng khách để nhận chỉ thị của mình.

Họ hết sức kinh ngạc khi thấy cậu xuất hiện với một xấp giấy tờ dày cộm và cho họ hay đó là những văn kiện cam kết giải phóng tất cả, không sót một người nào.

Georges lần lượt đọc từng tên một và đưa cho mỗi người.

Hành động cao quý của người chủ trẻ làm xúc động bọn nô lệ và họ không khỏi bàng hoàng, sửng sốt. Nhiều người không sao cầm nước mắt.

Tuy vậy, có nhiều người trong bọn van nài cậu đừng đuổi họ đi, họ vây quanh cậu, có người nài nỉ cậu rút lại văn kiện vừa trao cho họ, vì họ cho là họ cảm thấy không cần thiết phải đòi hỏi chi hơn, họ không muốn rời trang trại, cũng như ông bà chủ và cả cậu nữa. Họ yêu cầu được ở lại.

Georges cất tiếng sau khi ra hiệu cho mọi người im lặng :

- Các bạn tốt của tôi! Tôi không buộc các bạn phải ra đi, nếu bạn không muốn. Trang trại hiện đang cần nhiều bàn tay của mọi người, nhưng từ đây các bạn được tự do. Tôi sẽ trả lương cho các bạn khi làm việc. Có như thế, nếu do một rủi ro bất ngờ xảy đến, tôi chết hay bị phá sản, các bạn có quyền ra đi, không ai bắt bán các bạn hay giữ các bạn lại. Rồi đây, tôi sẽ dạy các bạn, - có lẽ mất một khoảng thời gian khá lâu - trong việc sử dụng quyền hạn của một người tự do. Tôi hy vọng các bạn sẽ tỏ ra hiểu biết và sẵn sàng học hỏi. Thiên Chúa đã cho tôi niềm tin là ngài ở cạnh tôi, giúp tôi hoàn thành sứ mạng giáo dục và hướng dẫn các bạn. Nào, giờ đây, các bạn hãy ngẩng mặt lên trời, tạ ơn Chúa đã thương mà ban cho các bạn TỰ DO!

Một bô lão da đen kỳ cựu nhất trại, mái tóc bạc phơ và đôi mắt lòa, đứng thẳng người, giơ cao hai cánh tay lên không trung, nói to :

- Tạ ơn Chúa!

Mọi người cùng quỳ gối.

Bản Thánh ca Te Deum vang lên, chưa bao giờ nghe trang nghiêm và cảm động bằng lúc ấy, dù bản hát không có tiếng nhạc đệm theo, không có chuông và không nổ rền tiếng đại bác, nhưng nó dường như vang tận trời cao vì xuất phát từ những trái tim của bọn người vừa được ban bố tự do.

Georges đợi cho tiếng hát im rồi mới nói :

- Còn một điều nữa, tôi muốn cho các bạn hay. Các bạn còn nhớ đến bác Tom không?

Bằng giọng cảm động, nhiệt thành, cậu chủ trẻ kể lại cái chết của Tom, kể lại lời nhắn nhủ của Tom với họ, sau cùng cậu nói :

- Hỡi các bạn! Chính bên mộ bác Tom, tôi đã hứa với sự chứng kiến của Thiên Chúa là tôi quyết định giải phóng tất cả nô lệ dưới quyền tôi, không sót một ai. Sẽ không có một ai vì tôi mà phải dứt bỏ gia đình hay bị đưa vào chỗ chết, như bác ấy, ở một chốn xa xôi. Các bạn ơi! Kể từ đây, mỗi lần các bạn cảm thấy sung sướng vì được tự do các bạn chớ quên rằng có một người thánh thiện, tâm hồn cao quý, chính nhờ bác ấy mà các bạn được kết quả này. Và đừng quên nghĩ đến vợ con bác Tom, hãy thương yêu, giúp đỡ họ. Hãy nghĩ đến sự tự do mỗi khi thấy căn lều của bác ấy, căn lều đó sẽ nhắc nhở các bạn cái gương sáng của bác Tom để lại. Hãy noi gương bác, tỏ ra trung tín, lương thiện, ngoan đạo.

Làm sao người ta quên được bác Tom? 


MINH QUÂN - MỸ LAN       
Sàigòn,  29.5.1973            

CHƯƠNG 34_TÚP LỀU CỦA CHÚ TOM


CHƯƠNG 34


Georges và Elisa được sống trong tự do. Georges giúp việc cho một người thợ máy, tiền lương anh dư dả trong việc trang trải những chi tiêu trong gia đình, và vợ chồng anh có thêm một bé gái.

Henri là một đứa bé trai dễ thương. Nó rất chăm học và ngoan ngoãn.

Căn nhà nho nhỏ xinh xắn của vợ chồng Elisa ở ngoại ô thành phố Montréal.

Lúc này vào buổi tối. Ngọn lửa lập lòe trong lò sưởi. Tấm khăn bàn màu trắng như tuyết, trong một góc phòng, ta thấy một cái bàn khác trải tấm khăn màu xanh lá cây được dùng làm bàn học, trên đó những cây bút và tập vở để bên những chồng sách. Elisa đang sửa soạn dọn lên bàn ăn bữa trà giấc xế.

Cái góc nhỏ này là phòng làm việc của Georges. Vốn nhiệt tâm, cầu tiến, anh đã xoi thủng tấm màn bí mật của chữ đọc và viết giữa những nỗi mệt nhọc và chán chường của thuở ấu thơ, giờ đây nó vẫn còn thúc đẩy anh luôn học hỏi thêm cũng như siêng năng làm việc.

- Nào! Anh Georges - Elisa kêu - suốt ngày anh đã làm việc rồi, giờ dẹp sách vở đi! Nói chuyện với em trong lúc em sửa soạn bữa trà... tốt lắm!

Và cô bé Elisa như muốn giúp mẹ, chạy về phía người cha, cố gắng giành lấy cuốn sách khỏi tay anh và leo ngồi lên đầu gối anh.

- Con bé ghê thật!

Georges nói, và anh nhượng bộ. Đó là cách xử sự tốt đẹp nhất của người đàn ông trong trường hợp này.

- Như vậy có khỏe hơn không.Elisa vừa nói vừa sắp mấy miếng bánh chiên dòn. Nàng không còn vẻ trẻ trung ngày nào nữa, lúc này trông nàng mập ra. Dáng điệu nàng chững chạc hơn. Nàng có vẻ hài lòng, sung sướng hơn bất cứ một người đàn bà nào ở hoàn cảnh nàng.

- Henri con, hôm nay con đã làm bài tính cộng này như thế nào?

Georges vừa hỏi vừa đặt tay lên đầu đứa con trai.

- Con làm một mình đó ba, hoàn toàn một mình, con không có nhờ ai giúp cả.

Henri đã hết để tóc dài, nhưng nơi nó, vẫn còn đôi mắt to, hai hàng lông mi dài và vầng trán thông minh, hãnh diện, ở đấy ta thấy có chút tự hào trong khi trả lời cha nó. Georges nói :

- Tốt lắm, con trai của ba, hãy luôn làm việc. Con được sung sướng hơn ba hồi ba ở tuổi con.

*

Vài năm sau, Georges, vợ anh và hai con đáp tàu về Phi châu.

Về phần cô Ophélia, cô dẫn Topsy theo cô về Vermont. Thật là một sự ngạc nhiên lớn dành cho mọi người ở Nouvells Angleterre, cả với gia đình cô cũng như bạn láng giềng. Lúc đầu họ nghĩ rằng đây là một sự mua việc phiền phức, thêm người vô ích vào số người đã đầy đủ trong nhà họ. Nhưng những cố gắng của cô Ophélia để hoàn tất bổn phận giáo dục Topsy đã thành công ngoài sức tưởng tượng. Topsy cũng thu phục được một cách nhanh chóng những cảm tình tốt và lòng ưu ái của cả gia đình và những kẻ láng giềng tốt bụng.

Đến tuổi dậy thì, Topsy xin được rửa tội và trở thành một nữ tu của viện Công giáo ở thành phố nàng trú. Nàng tỏ ra thật thông minh, đầy nhiệt huyết, và có lòng ước muốn vô cùng được làm một cái gì tốt lành, khiến người ta đồng ý gởi nàng, với tư cách là một nữ tu truyền giáo, sang một nơi nào đó bên Phi châu. Khối óc đầy linh động, sáng kiến ngày nào đã khiến nàng là một đứa trẻ thật ngổ ngược và náo động, giờ đây, nàng dùng nó một cách thật hữu dụng và cao cả hơn trong việc giáo dục những đứa trẻ của xứ sở nàng.
____________________________________________________________________________ 
Xem tiếp  CHƯƠNG 35

 

Thứ Bảy, 3 tháng 2, 2018

CHƯƠNG 33_TÚP LỀU CỦA CHÚ TOM


CHƯƠNG 33


Hai hôm sau, một chàng trai ngồi trên chiếc xe nhỏ đi vào trại, băng qua con đường có hai hàng cây sứ Trung Hoa mọc hai bên. Chàng vất sợi cương trên lưng ngựa, nhảy xuống, hấp tấp hỏi thăm ông chủ trại.

Đó là Georges Shelby, và ta biết rõ lý do nào đưa chàng trai trẻ ấy đến đây.

Lá thư của cô Ophélia gởi bà Shelby đã bị bỏ quên ở nhà bưu diện đến gần hai tháng. Bao nhiêu việc xảy ra trong thời gian ấy, Tom bị bán và đưa đi, lên mạn trên của bờ sông Rouge.

Tin này làm đau lòng bà Shelby vô cùng song lúc ấy bà không thể làm chi được cả vì suốt ngày đêm bà phải thức canh trên đầu giường của chồng, đang trong cơn bệnh ngặt nghèo, nguy hiểm. Georges Shelby bấy giờ đã trưởng thành, cậu giúp mẹ coi sóc quản trị tất cả mọi việc trong trại.

Cô Ophélia đã cẩn thận cho họ địa chỉ của kẻ đứng ra lo việc buôn bán đám nô lệ của Saint Clare.

Bà Shelby viết thư đến đấy hỏi thăm tin tức, vì tình cảnh gia đình lúc ấy không cho phép bà làm gì hơn.

Cái chết của ông Shelby khiến mẹ con bà thêm bận rộn. Ông không còn nữa, bà phải đảm nhận mọi trọng trách trong gia đình. Với một quyết định dứt khoát, bà hết lòng gỡ rối tình trạng của trại. Trước hết, hai mẹ con lo thanh toán nợ nần, bán và mua những thứ cần thiết. Bà Shelby muốn được nhẹ nhõm, không còn phải mang nợ ai, dù có ra sao đi nữa.

Chính ở vào giai đoạn này, bà Shelby nhận được thư phúc đáp: gã lái buôn nô lệ cho bà hay là Tom được mang ra bán đấu giá, gã đã đạt được cái giá mà ông Saint Clare mua lúc trước, ngoài những điều này, gã không còn biết gì hơn.

Cả Georges lẫn bà Shelby đều không hài lòng về lá thư trả lời ấy.

Sáu tháng sau, để giải quyết dứt khoát chuyện này, Georges phải xuống mạn dưới con sông Ohio, cậu quyết định ghé Nouvelles Orléans, hỏi thăm tin tức về người nô lệ đáng thương này.

Sau nhiều lần dò hỏi, lùng kiếm mất thì giờ và gian nan, Georges được một người đàn ông ở Nouvelles Orléans cho cậu hay tất cả những chi tiết cần thiết, rõ ràng về Tom. Lần này cậu vượt sông Rouge, túi đầy tiền với ý định chuộc lại người đầy tớ già trung hậu.

Legree đang ở trong phòng khách. Gã tiếp đón người khách trẻ tuổi với vẻ lịch sự khá đặc biệt.

Khách vào đề ngay :

- Tôi nghe nói, ông đá mua ở Nouvelles Orléans một người nô lệ tên Tom. Ông ấy lúc trước thuộc về cha tôi, tôi đến đây để thảo luận việc chuộc lại ông ta.

Vầng trán của Legree tối sầm lại tức thì, cơn giận dữ bộc phát dữ dội. Gã hầm hầm mặt :

- Vâng, đúng vậy, tôi có mua một gã nô lệ tên Tom. Tôi đã mua nhầm một con quỷ sống! Một tên súc sinh! Một tên đầu óc bướng bỉnh lúc nào cũng muốn nổi loạn! Nó đã xúi giục đám nô lệ của tôi trốn đi... Tôi chắc là nó hiện đang hấp hối, nhưng không hiểu liệu nó chết nổi hay không đây?

Georges kêu lên nóng nảy :

- Ông ta đang ở đâu? Ông ta đang ở đâu? Tôi muốn gặp ông ta!

- Tom nằm ở nhà kho.

Một gã nô lệ nhỏ thó giữ ngựa cho Georges lên tiếng mách làm Legree phật ý, chửi rủa và đá hắn một cú. Georges không nói thêm lời nào, lao về phía nhà kho...

Tom nằm liệt một chỗ từ hai ngày nay, sau buổi tối kinh hoàng ấy. Bác không còn đau đớn chi cả... tất cả gân cốt, thịt, xương da, tất cả những nơi gây cho bác cảm giác đau đớn, giờ đây như tê liệt, gãy vụn, bẹp nát, mềm nhũn. Bác nằm sóng sượt, mê man, chết ngất. Song vốn có một sức khỏe dồi dào, nên cái chết không đến ngay với bác mau chóng dễ dàng như bác hằng mơ ước. Cơn hấp hối kéo dài...

Thỉnh thoảng, giữa đêm khuya, trong giờ nghỉ việc, những người nô lệ đến bên bác giây lát, để săn sóc và an ủi với tất cả lòng chân thành con người đã từng một thời thương yêu giúp đỡ họ.

Thật cảm động! Những kẻ này không có gì để cho nhiều - chỉ một tách nước lã như phúc âm! - nhưng đã cho với tất cả tấm lòng mình.

Thoạt bước vào cái kho hàng cũ kỹ, Georges cảm thấy đầu mình như quay cuồng, mắt cậu hoa lên.

- Bác Tom, có thể nào? Có thể như thế này ư? Người bạn già đáng thương của tôi?

Cậu quỳ xuống đất, cạnh Tom. Tiếng nói như có một cái gì khẩn thiết có năng lực đánh thức bác Tom. Bác lắc đầu, thì thầm :

- Chúa hãy cho con được hưởng một cái chết nhẹ nhàng tựa lông chim!

Georges nghiêng người bên trên bác nô lệ đáng thương, để rơi những giọt nước mắt nóng hổi lên cái thân hình đẫm máu.

- Bác Tom thân yêu của tôi! Hãy tỉnh dậy xem! Hãy nói lên một câu! Hãy nhìn tôi đây! Tôi là Georges, tôi là cậu bé của bác đây... Bác có nhận ra tôi không?

- Cậu Georges!

Tom mấp máy đôi môi kêu lên, đôi mát mở to và tiếng nói tắt nghẹn, bác lại rơi vào cơn hôn mê như cũ.

Rồi dần dần những ý nghĩ xa xưa trở về trong thần trí bác. Ánh mắt ngây dại như chợt bừng tỉnh sáng lên. Khuôn mặt bác tươi hẳn, đôi bàn tay chắp lại, và những giòng lệ chảy dài trên hai má :

- Tạ ơn Chúa! Đây là tất cả... Phải! Đây là tất cả những gì con mong ước. Cậu ấy không quên con! Điều này sưởi ấm lòng con. Điều này là nguồn an ủi lớn lao đối với con. Chúa ơi! Giờ là lúc con đã yên lòng mà nhắm mắt không nuối tiếc.

Cậu tiểu chủ kêu to hoảng hốt :

- Không! Bác không thể chết được! Đừng nói vậy. Tôi đến đây để chuộc bác về mà! Bác Tom ơi! Georges của bác đây này!

- Cậu ơi! Muộn quá rối! Thiên Chúa đã gọi tôi, ngài muốn đem tôi về với ngài. Cậu Georges...

Georges khóc nức, gào lên :

- Đừng chết! Bác Tom ơi! Bác chết thì tôi phải làm sao? Nghĩ đến những khổ nhục đọa đày bác hứng chịu, tôi đau xót không nguôi. Tom ơi... Bác nỡ nào bắt tôi thấy bác thở hơi cuối cùng ở chỗ ghê tởm này, hở bác? Tom thân yêu của tôi ơi, tôi không chịu nổi đâu...

- Cậu chủ, đừng khóc nữa! Trước đây thì tôi khổ thật, nhưng hết rồi... - Tôi đã thắng tội ác, đến được bậc thềm của Vinh quang. Có Chúa giúp tôi, cậu chủ ơi!

Cậu con trai ngây người vì kính nể, sững sờ trước những lời đứt khúc nhưng trang nghiêm, tin tưởng của bác Tom. Cậu xúc động, nghẹn ngào không thốt ra lời. Tom nắm tay cậu, siết chặt trong tay bác :

- Cậu chớ kể lại tình cảnh tôi cho Chloé biết. Tội nghiệp vợ tôi, bà ấy đã phải chịu đựng sự thử thách quá nặng nề. Hãy nói lại với Chloé là cậu thấy tôi ra đi trong vinh quang, tôi không thể về với bà ấy được. Cậu hãy nói với bà ấy là Thiên Chúa lúc nào cũng ở bên tôi, khắp nơi, mãi mãi. Ngài đã ban cho tôi cái chết êm dịu và nhẹ nhàng. Ôi! Những đứa con đáng thương của tôi! Và đứa bé nhất!... Con bé gái... cậu ơi! Trái tim già yếu khốn khổ của tôi như muốn vỡ vụn ra mỗi khi nghĩ đến chúng! Cậu hãy nói với chúng là tất cả hãy noi gương tôi! Hãy chuyển những cảm tình chân thành nhất của tôi về cho ông chủ và bà chủ độ lượng, cùng cho tất cả những người ở đấy! Chắc cậu chưa biết điều này, cậu Georges, hình như tôi yêu thương tất cả, tất cả mọi người, khắp nơi... Thương yêu, trên cõi đời này chỉ có thứ đó mới đáng kể! Ồ, câu Georges! Điều này chứng tỏ ta là kẻ có đạo!

Giữa lúc ấy, Legree lấp ló nơi cánh cửa của cái kho hàng cũ kỹ; gã nhìn vào bên trong với vẻ khó chịu, hờ hững, rồi gã bỏ đi.

Georges kêu lên vẻ bất mãn :

- Tên khôn kiếp! Tôi cầu mong một ngày kia bọn quỷ sứ sẽ bắt gã chịu đủ hết khổ hình cho xứng với cái tội ác tày trời này!

Tom nắm chặt bàn tay của chàng trai trẻ, ngắt lời :

- Ồ, đừng cầu xin như vậy... không nên, đấy là một con người khốn khổ đáng thương, và thật hãi hùng khi nghĩ đến những gì dành cho ông ta! Chỉ cần ông ta chịu hối lỗi, Thiên Chúa sẽ tha thứ, nhưng tôi e sợ là ông ta không chịu hối...

Georges nói :

- Và phần tôi, tôi mong mỏi vô cùng, ngày sau tôi sẽ không gặp gã trên nước trời!

Tom cố gắng hết tàn lực, nói :

- Cậu Georges, cậu đã làm tôi buồn lòng! Đừng có những ý tưởng đen tối ấy... Cậu ơi! Không ai có thể chia lìa ta ra khỏi tình yêu của Chúa.

Tom hoàn toàn kiệt lực. Nỗi vui mừng tột độ nhờ gặp lại cậu chủ giúp Tom tình táo vài phút. Rồi ánh sáng vụt tắt. Hơi thở gấp rút, đứt quãng, lồng ngực bác phập phồng một cách khó nhọc. Tom khép mắt, xuôi tay, ngừng thở hẳn. Nhưng khuôn mặt bác rạng rỡ khác thường. Phải chăng Đấng tối cao đã đón lấy linh hồn con người thánh thiện? Nụ cười trên môi, bác đi vào giấc ngủ nghìn đời.

Cậu trai khóc lặng.

*

Một chốc sau cậu kính cẩn đưa tay vuốt đôi mắt khép kín vĩnh viễn, và đến lúc đứng dậy, cậu còn thấy vang bên trong tai cái ý tưởng ám ảnh do trăn trối của Tom :

- Sống đúng như lời Chúa dạy là cả một vấn đề!

Georges quay người lại, Legree đang đứng sau lưng cậu, vẻ mặt cau có.

Dư âm những lời khuyên của Tom đã làm dịu phần nào cơn giận hừng hực như ngọn lửa trong chàng thanh niên. Tuy nhiên sự hiện diện của Legree không khỏi khiến cậu khó chịu. Cậu không muốn nhìn mặt gã, nói chuyện với gã càng ít càng tốt.

Cậu nhìn chăm chăm gã chủ trại bằng ánh mắt đen thẳm và sắc bén, và đưa tay chỉ xác chết, giọng nghiêm trang :

- Ông đã tận dụng hết cả những gì có nơi người này. Cái xác còn lại này đáng giá bao nhiêu? Tôi muốn đem đi và mai táng nó trong danh dự...

- Tôi không bán những tên da đen đã chết - Legree nói với vẻ tự đắc - Cậu có quyền tự do chôn cất nó ở đâu và lúc nào tùy ý.

Georges nói như ra lệnh với mấy tên da đen có mặt ở đấy, đang bùi ngùi nhìn xác chết, giọng đầy uy quyền :

- Các bạn hãy giúp tôi khiêng bác Tom đem ra xe tôi, sau đó cho tôi mượn cái xẻng.

Một tên trong bọn chạy đi kiếm xẻng. Hai tên còn lại cùng với Georges khiêng cái xác ra xe.

Georges không trao đổi với Legree một lời nói, cả một ánh nhìn. Legree cũng mặc cậu điều động công việc ấy không nói một tiếng. Gã huýt gió với vẻ dửng dưng ngoài mặt và đi theo đến tận cửa xe.

Georges dời lui băng ghế để có chỗ trống trải tấm áo choàng của mình trên xe và đặt xác chết nằm trên đó. Rồi, cậu quay người lại, nhìn chăm chăm Legree và nói với gã, bằng vẻ bình thản gượng ép :

- Tôi vẫn chưa cho ông biết ý kiến của tôi về hành động độc ác này, vì không phải nơi và không phải lúc. Nhưng, thưa ông, dòng máu vô tội này sẽ được trả thù. Tôi sẽ loan báo tội ác sát nhân của ông. Tôi sẽ đi tìm gặp quan tòa, tôi sẽ tố cáo ông! Cứ tin đi!

Legree vừa trả lời vừa bẻ các ngón tay khinh khỉnh :

- Cứ việc! Tôi muốn xem cậu xoay xở như thế nào! Nhân chứng đâu? Bằng cớ đâu? Cứ việc tố cáo đi! Tôi thách cậu à!

Georges cảm thấy tức tối vì sự bất lực của chính mình! Không có bóng dáng một người da trắng nào nơi trang trại này, vả lại, đối với các tòa án miền Nam thì nhân chứng da màu không có giá trị chi cả! Legree, kẻ sát nhân khinh khỉnh tiếp :

- Làm vậy chỉ tổ khiến tên da đen đã chết thêm tủi.

Những lời nói này như một tia lửa quăng vào thùng thuốc nổ: nhẫn nhục không phải là đức tính chính của chàng trai trẻ xứ Kentucky. Georges quay hẳn người về phía gã, và với một cú đấm kinh hồn, ngay giữa mặt, cậu làm gã té nhào. Rồi một chân đạp trên người gã, cơn giận bừng bừng, vẻ thách thức trong đáy mắt, dáng điệu oai nghi của cậu làm gã hoảng hồn.

Có những kẻ đầu hàng ngay khi vừa thất bại, đối với hạng người đó, chỉ cần cho chúng đo ván, chúng sẽ kính nể ta ngay. Legree thuộc vào hạng ấy. Gã đứng dậy, phủi bụi bặm bám vào quần áo và đưa mắt nhìn theo chiếc xe đang từ từ xa dần...

Gã có vẻ kính nể Georges, đứng lặng nhìn theo cho đến khi chiếc xe khuất dạng.

Ở phía bên kia bờ rào của trang trại, Georges để ý đến một cồn cát nhỏ, cao ráo, nằm dưới bóng mát của mấy tàng cây. Cậu ngừng xe, tự tay đào một lỗ huyệt.

Khi tất cả đã sẵn sàng, những tên nô lệ hỏi :

- Thưa câu chủ, có lấy lại chiếc áo choàng không?

- Không, không, chôn luôn đi! Tội nghiệp bác Tom, đó là tất cả những gì tôi có thể biếu bác vào lúc này, nhưng còn hơn là không!

Tom được đặt vào trong lòng huyệt, dám nô lệ lặng lẽ lấp đất lại; họ hoàn tất một nấm mộ khiêm nhường, phủ lên trên một mớ cỏ xanh.

- Bây giờ, các bạn hãy trở về trại đi.

Georges vừa nói vừa nhét vài đồng bạc cắc vào tay chúng, song cả bọn đều không chịu dịch chân. Một tên nói :

- Xin cậu chủ hãy mua chúng tôi!

- Chúng tôi sẽ phục vụ cậu chủ với tất cả lòng trung thành.

Tên khác tiếp.

- Đời sống ở đây thật cực nhọc... Xin cậu chủ hãy mua chúng tôi!

- Tôi không thể mua các bạn - Georges cảm động nói - Tôi không thể...

Và cậu cố gắng khuyên họ trở về.

Những tên nô lệ đáng thương thất vọng, lẳng lặng rút lui.

Georges quỳ gối bên nấm mộ của người bạn già :

- Lạy Chúa, đấng tối cao, lạy Chúa, đấng hằng sống! Xin ngài hãy chứng giám: kể từ giờ phút này con sẽ cố gắng làm tất cả những gì có thể làm được để giải phóng đất nước con khỏi những nỗi bất hạnh của chế độ nô lệ xấu xa...

Không có cả bia đá được dựng lên ở nơi an nghỉ của người bạn chúng ta...

Nhưng cần chi? Chúa biết bác nằm đâu và ngài sẽ không bao giờ quên bác.

*

Từ dạo ấy Legree uống nhiều rượu hơn lúc nào cả. Ban ngày, đầu óc gã luôn nóng bỏng, gã càng chửi rủa thô tục hơn xưa.

Ban đêm, gã nằm mơ, giấc mơ của gã càng làm gã kinh hoàng.

Đêm hôm sau khi Tom được mai táng, gã ra phố để nhậu nhẹt. Gã uống rượu quá chén. Gã trở về thật trễ và mệt mỏi.

Sự mệt mỏi khiến Legree quên khóa cửa và chắn phía bên trong một cái ghế như thường lệ. Gã đặt một ngọn đèn chong ngay đầu giường và khẩu súng bên cạnh. Gã quan sát kỹ cái then cài và chốt khóa cửa sổ, rồi gã nghĩ thầm là không còn gì phải sợ nữa, kể cả thiên thần hay ác quỷ.

Gã nằm lăn ra, ngủ say sưa. Không lâu, hiện ra giữa giấc ngủ gã một cái bóng, trong kinh hoàng gã nhận ra đó là tấm vải liệm mẹ gã nhưng chính Cassy đang mặc nó, bà giơ nó ra cho Legree xem... Gã nghe thấy nhiều tiếng động hỗn tạp, tiếng kêu la, rên rỉ, và giữa tất cả những thứ đó, gã cảm thấy gã vẫn ngủ, gã cố gắng hết sức để tỉnh dậy trở lại.

Gã tỉnh giấc nửa chừng... Gã chắc có ai đột nhập vào phòng gã. Gã chợt thấy cánh cửa mở rộng... nhưng gã không thể động đậy được cả chân lẫn tay nên đành phải cố nằm nghiêng người lại... Cánh cửa mở rộng; gã thấy một bàn tay dụi tắt ngọn đèn.

Mặt trăng bị che khuất bởi những đám mây và sương mù song gã vẫn thấy được cái bóng trắng đang di động... Gã nghe thấy tiếng lạo xạo nho nhỏ do sự va chạm quần áo của bóng ma... Bóng ma đến đứng sừng sững bên giường gã. Một bàn tay mạnh bạo dập lên bàn tay gã đến ba lần và một giọng nói thật nhỏ nhưng với vẻ dữ dội, lập lại ba lần :

- Đến đây! Đến đây! Đến đây!...

Gã toát mồ hôi vì sợ hãi. Legree nhảy khỏi giường, gã lao mình về phía cửa; thì lạ thay, cánh cửa đã được đóng và cài then chắc chắn. Legree ngã ra bất tỉnh.

Kể từ đó, Legree trở nên một bợm nhậu bạt mạng hơn bao giờ, gã không còn uống rượu như trước với sự thận trọng vừa phải. Gã uống như điên như cuồng...

Không bao lâu sau, lời đồn đại vang dội đi khắp nơi là Legree bị ám ảnh mãi đã phải tự tử chết. Gã đã không chịu đưng nổi những hậu quả đáng sợ do tội ác gã gây ra. Thật vậy, không một ai có thể chịu đựng nổi những bất hạnh trong cơn hấp hối của gã: gã la hét, lăn lộn, gã chửi rủa...

Bên giường chết của gã, sừng sững, tối sầm, một khuôn mặt to lớn của đàn bà, trang nghiêm ra lệnh :

- Đến đây! Đến đây! Đến đây! Mau!
_______________________________________________________________ 
Xem tiếp CHƯƠNG 34
 

CHƯƠNG 32_TÚP LỀU CỦA CHÚ TOM


CHƯƠNG 32


Cuộc hành trình dù dài thế nào rồi cũng đến ngày chấm dứt, đêm dù tăm tối đến đâu cũng đến lúc nhường chỗ cho bình minh... Chúng ta đã theo dõi người bạn khiêm tốn của chúng ta suốt những thăng trầm, đọa đày trong kiếp nô lệ. Chúng ta từng băng ngang những cánh đồng đầy bông hoa của lòng khoan dung và từ ái. Chúng ta đã chứng kiến cảnh biệt ly làm nát lòng của người đàn ông khi phải xa lìa tất cả những người thân. Chúng ta đã cùng với Tom lạc bước vào cái địa ngục trần gian này, nơi mà lũ buôn người coi sinh mạng của nô lệ không hơn súc vật. Sau hết, bên cạnh bác, chúng ta chứng kiến những tia sáng cuối cùng của nỗi hy vọng mong manh và tắt lịm. Chúng ta đã thấy giữa tăm tối ghê sợ nhất, bất chợt lóe lên tia sáng của những vì sao rực rỡ.

Và, giờ đây là lúc bình minh ló dạng! Chúng ta cảm thấy mát rượi nhờ cơn gió nhẹ, huyền diệu từ cõi khác thổi sang; là lúc những cánh cửa của ngày vĩnh cửu hé mở.

Cassy bỏ trốn là một kích thích đến cực điểm bản chất hung bạo của Legree. Và đúng như ta dự đoán, cơn giận dữ của gã trút cả lên đầu Tom, một con người vô tội, thánh thiện và không tự vệ.

Lúc Legree loan báo cùng bọn nô lệ cái tin Cassy bỏ trốn, nơi ánh mắt Tom, ta thấy lóe lên một tia sáng, và hai tay bác chắp lại, hướng lên trời. Không có gì lọt qua mắt Legree. Cơn giận dữ đối với tên nô lệ này từ bao lâu nay tích tụ trong gã chợt vỡ tung như đợt sóng cuồng nộ đập vào gành đá rắn. Tom! Chính tên này đã dám chống đối mệnh lệnh gã, dám chống lại gã ngay từ phút đầu lọt vào tay gã. Legree ngồi bật lên lẩm bẩm :

- Tên khốn kiếp! Nó hiện trong tay ta chứ! Bộ ta không thể làm chi nó nổi hay sao? Ta muốn biết rõ cái gì đã giúp nó dám chống lại ta! Quinbo! - Gã kêu to - Đi dẫn thằng Tom về đây, lẹ lên! Cái tên già bướng bỉnh là đầu mối của tất cả những xáo trộn tại đây... Ta phải lột tấm da già nua của nó để tìm coi đâu là bí mật!

Sambo và Quinbo, rất xung khắc nhau, chỉ thấy hợp nhau ở một điều: cùng thù ghét Tom, vì Legree đã loan báo cùng chúng lúc đầu là gã mua Tom để bác điều hành trại trong những lúc gã vắng mặt. Nỗi ganh ghét ban đầu càng được nảy nở thêm lên ở những kẻ thấp kém và hèn hạ này khi chúng thấy là tên nô lệ ấy không được chủ tin cậy như dự định. Vì thế, ta hiểu được vẻ háo hức nơi Quinbo khi hắn nghe lệnh chủ ban ra.

Nghe tin này, Tom cảm thấy đau nhói ở trái tim. Bác biết rõ bản tính hung bạo của tên Legree mà bác sắp phải đối mặt. Bác biết rõ gã dám làm tất cả, nhưng bác cũng biết là Chúa sẽ giúp sức bác, bác thà chết hơn là phản bội ngài chỉ vì bản chất yếu đuối và hèn hạ của con người.

Bác đặt lại cái giỏ xuống đất và ngước mắt nhìn trời cao :

- Lạy Chúa, con xin phó thác linh hồn con trong tay Chúa! Lạy Chúa tốt lành, chính Chúa đã chuộc lại con!

Và bác trao mình, không chút kháng cự vào đôi tay thô bạo của Quinbo. Tên da đen to lớn này kêu lên thích chí trong lúc lôi xệch Tom đi :

- A! Đây là lúc mày sắp được dứt nợ rồi đây! Ông chủ hận mày lắm rồi, hơn lúc nào cả! Mày sẽ bị thanh toán. Đó là cái chắc. A! Phục vụ chủ bằng cách giúp bọn da đen bỏ trốn! Tội nặng lắm... mày sẽ thấy!

Không có lời nói dọa dẫm thô bỉ nào lọt vào tai Tom. Bác như đang nghe giọng nói từ trên cao vẳng xuống :

- Các con đừng sợ những kẻ chỉ có thể giết hại thân xác các con và sau đó không thể làm gì hơn được nữa!

Nghe những lời này, xương và gân của bác nô lệ đáng thương như cứng cáp trở lại, như thể vừa được những ngón tay của Thiên Chúa chạm vào! Tâm hồn bác như sảng khoái gấp trăm gấp nghìn lần lúc nãy. Bác hiên ngang tiến bước.

Cây cối, bụi rậm, những căn lều của đám người nô lệ, tất cả những thứ này, từng chứng kiến cuộc sống lưu đày của bác, lướt ngang lờ mờ trước mắt bác, cảnh vật như lùi nhanh sau một chiếc xe chạy với tốc độ kinh hồn. Tim bác đập rộn rã... Bác như thoáng thấy từ xa nước Trời của bác... Bác cảm thấy giờ phút cuối cùng của bác đã điểm.

Legree tiến về phía bác, đưa bàn tay thô bạo chụp lấy cổ áo bác, hai hàm răng nghiến chặt trong nỗi giận dữ cực điểm :

- Ê này, Tom! Mày có biết là tao đã quyết định giết chết mày không?

- Rất có thể, thưa ông chủ.

Tom trả lời, vẻ bình thản hơn lúc nào hết.

- Đúng! Tao đã quyết định giết chết mày, - Legree lặp lại bằng cách nhấn mạnh từng chữ - nếu mày không chịu tiết lộ cho tao biết về...

Im lặng.

- Mày có nghe tao nói không?

Legree vừa nói vừa dậm mạnh chân, tiếng như tiếng gầm của con sư tử vồ hụt mồi.

- Thưa ông chủ, tôi không còn gì để nói với ông chủ nữa cả.

Tom tiếp lời với một giọng chậm rãi, cứng rắn và đầy thách thức.

- Mày dám nói với tao như thế à, thằng chó da đen có đạo? Mày không biết gì cả hay sao?

Im lặng.

- Nói đi! - Legree quát to, rền vang như tiếng sấm, và đấm Tom một cú đích đáng - Mày biết gì?

- Tôi biết, nhưng tôi không thể tiết lộ điều chi cả... cho dẫu có bị giết đi nữa.

Legree thở hổn hển. Cơn giận bốc lên mặt gã, gã chụp lấy cánh tay Tom, tiến đến sát bên, mặt đối mặt, gã nói với bác :

- Nghe kỹ đây! Bộ mày thấy có một lần tao chịu để mày yên, mày tưởng là tao không dám làm những gì tao nói sao? Nhưng lần này, tao đã dứt khoát. Tao thấy rõ rồi! Mày sẽ mãi mãi chống đối tao. Này, hoặc tao khuất phục được mày hoặc tao phải giết mày! Cái này hoặc cái kia! Tao sẽ đếm từng giọt máu chảy trên thân thể mày... và tao sẽ rút tỉa từng giọt một cho đến khi mày chết hẳn mới thôi.

Tom ngước mắt nhìn chủ trả lời :

- Thưa ông chủ, nếu ông lỡ bị nạn, bệnh hoạn, hấp hối mà tôi thấy có thể cứu được ông... Ờ! Tôi lúc ấy sẽ rất hãnh diện được đổ máu ra vì ông. Phải! Nếu tất cả khối máu chất chứa trong cái thân xác già nua khốn khổ này có thể cứu được linh hồn vô giá của ông, tôi sẽ rất vui lòng đổ ra cũng như Thiên Chúa đã đổ chính máu ngài ra vì tôi, để cứu rỗi tôi vậy! Ông chủ ơi! Đừng nhúng tay vào tội ác tày trời này. Ông chỉ có thể hành hạ thể xác tôi thôi! Cho dù ông chủ có quyền hạn đến đâu đi nữa, nỗi đau khổ của tôi rồi cũng sẽ qua đi! Trong khi, nếu ông không ăn năn hối lỗi, những tội ác của ông sẽ hành hạ ông mãi mãi!

Những lời nói của Tom, vang lên giữa cơn giận dữ của Legree, như một khúc nhạc trỗi nhẹ làm dịu lòng kẻ phiền muộn! Những lời lẽ tràn ngập yêu thương chấm dứt, theo sau là một khoảnh khắc im lặng, Legree đứng yên, sửng sốt, bàng hoàng, song chỉ một khoảnh khắc thôi.

Legree cảm thấy hơi do dự, chùn tay; nhưng sức cám dỗ của tội ác mạnh hơn thập bội và Legree, sôi sục vì giận dữ, đánh gục nạn nhân, bằng những đòn ác liệt không chút nương tay.

Tuy vậy, Tom không thốt ra những lời nào khác hơn là những tiếng cầu kinh và biểu lộ niềm tin!

Gã đánh Tom cho đến nỗi vốn ngu si và tàn bạo mà hai tên đày tớ thân tín của gã cũng phải động lòng. Sambo kêu lên :

- Thôi đủ rồi, thưa ông chủ!

- Nữa, đánh nữa, đánh đến chừng nào nó chịu nhượng bộ mới thôi. Hoặc ta sẽ làm cho nó trút ra đến giọt máu cuối cùng hoặc nó chịu thú nhận.

Legree rú to. Tom mở mắt và nhìn hắn :

- Thật đáng thương! Ông không thể làm gì hơn nữa.

Đoạn bác ngã ra, bất tỉnh. Legree vừa nói vừa đến gần nhìn bác :

- Tao chắc là nó chết rồi đó. Phải! Chết đi! Nào! Vậy là cái lỗ miệng mày sẽ câm mãi mãi. Tao thấy nhẹ nhõm như vừa thoát nợ, tao khỏe quá!

Tom chưa chết hoàn toàn. Những lời kinh sốt sắng, những câu nói lạ lùng của bác gây một niềm xúc động vô biên nơi hai tên da đen đáng thương mà Legree đã dùng bọn chúng như một công cụ để tra tấn bác.

Khi Legree bỏ đì, chúng nâng đầu bác dậy và cố gắng gọi cho bác tỉnh lại, thật là một đặc ân dành cho bác! Sambo nói :

- Chắc chắn là chúng ta vừa phạm xong một tội ác, nhưng tao hy vọng là lỗi nặng ở ông chủ hơn là ở chúng ta!

Chúng lau rửa vết thương cho bác và làm cho bác một cái giường bằng đầu gòn phế thải. Một tên trong bọn chạy về phòng, xin một ly rượu đem lại. Hắn đổ vài giọt vào miệng Tom :

- Tom! Chúng tôi đã ăn ở quá độc ác đối với anh!

Quinbo rền rĩ.

- Tôi thật tâm tha thứ cho các anh!

Tom trả lời yếu ớt.

- Ồ Tom! Hãy nói sơ sơ cho chúng tôi nghe về đấng Giêsu? Đấng Giêsu đã ở cùng anh suốt đêm qua, ngài là ai vậy?

Những lời nói này như làm tâm trí mê man của Tom tỉnh táo lại. Bác kể vắn tắt về đấng Giêsu. Bác nói về sự sống và cái chết của ngài, sự hiện diện của ngài ở khắp mọi nơi và quyền lực tối cao của ngài!

Hai tên da đen nghẹn ngào, xúc động, nước mắt trào ra... Hai tên đàn ông hung tợn nhất ở đây. Sambo nói :

- Tại sao chúng tôi không được biết ngài sớm hơn? Nhưng tôi tin. Tôi không thể không tin được. Lạy Chúa Giêsu, xin thương xót chúng con!

Tom nói :

- Các ban thật đáng thương: Tôi còn muốn chịu khổ hơn nữa để có thể dẫn đưa các bạn về với Chúa! Chúa ơi! Xin Chúa hãy cứu lấy hai linh hồn này.

Thiên Chúa có nghe lời cầu khẩn của Tom chăng?
_______________________________________________________________________ 
Xem tiếp CHƯƠNG 33