Thứ Ba, 19 tháng 5, 2015

CHUYỆN NHÀ HÀNG HẢI SINH BÁ (VI)_NGÀN LẺ MỘT ĐÊM


Nhìn thấy tôi đã tỉnh, bọn người da đen ấy chạy đến gần nhìn tôi bằng đôi mắt vui mừng, nói:

- Ồ, ông đã tỉnh.

Tôi nói:

- Xin cám ơn thượng đế đã giúp tôi thoát nạn.

Một người hỏi tôi:

- Ông là ai, từ đâu trôi đến đây?

Tôi nói:

- Thưa các ông, tôi ở Bá Đa, bị đắm thuyền, may mắn thoát nạn, trong lúc các bạn tôi đều chết cả.

Họ chạy đến mở khăn cho tôi, cho tôi ăn uống vì biết tôi đói, và nói với tôi:

- Chúng tôi đang múc nước ở bên ruộng gần đây, bỗng nhìn thấy một chiếc bè trôi, trên có anh, liền kéo vào cột ở đây.

Tôi cám ơn họ đã cứu tôi, rồi kể lại cho họ nghe những chi tiết về ngọn hải lưu ghê gớm cùng số phận các bạn mình bị chết ở đấy.

Một người nói:

- Câu chuyện anh kể thật ly kỳ, vậy anh nên đến kinh thành kể chuyện cho quốc vương Sơ-Băng-Đi nghe, vua ngài sẽ ban cho anh nhiều điều tốt đẹp.

Tôi bằng lòng. Họ liền đưa tôi về kinh thành bằng ngựa, có người đi trước dẫn đường. Những người đi sau thì khiêng cả chiếc bè và hàng hóa của tôi.

Đến nơi, đức vua liền cho tôi vào bệ kiến.

Trước bệ, dưới chân đức vua, tôi tung hô chúc tụng.

Quốc vương Sơ-Băng-Đi hỏi tôi:

- Ngươi là ai, từ đâu đến?

Tôi chỉ những người đi theo tôi và nói:

- Thưa quốc vương, tôi gặp mấy ông này ở ngoài ruộng và họ bảo tôi đến để kể cho ngài nghe câu chuyện ly kỳ.

Đức vua nói:

- Nếu thế, khanh cứ kể. Ta sẽ cho người ghi những lời của khanh vào sổ vàng.

Tôi xin phép đức vua rồi kể cho người nghe những chuyện về tôi lúc ở trong núi đá, bên ngọn hải lưu.

Nghe xong câu chuyện, đức vua liền bảo tôi đưa cho ngài xem những hàng hóa của tôi nhặt được lúc ở trong núi.

Tôi đưa trình ngài những viên ngọc quý, và nói với nhà vua:

- Tâu hoàng thượng, xin kính giao cho ngài tất cả tính mạng và tài sản của tôi.

Đức vua mỉm cười nói:

- Cám ơn khanh có lòng tốt, nhưng trẫm không bao giờ lấy vật gì mà trời đã ban cho khanh, mà trẫm còn ban cho khanh nhiều vật quý để đền ơn khanh đã kể cho trẫm nghe câu chuyện vừa rồi, khi nào khanh về xứ.

Nhà vua cũng cấp cho tôi một gian phòng lộng lẫy và đủ đồ cần thiết cho tôi chi dụng. Lại cắt riêng một ông quan để trông nom tôi rất chu đáo. Mỗi khi tôi cần ra giao dịch hay xem phong cảnh, ông đều đưa tôi đi, cả những lúc chầu vua.

Kinh thành Sơ-Băng-Đi nằm trên một hòn đảo của xứ Ấn Độ gần bên đường xích đạo nên đêm ngày đều bằng nhau về thời gian. Ngay bên mặt, một quả núi cao vòi vọi làm tiền án, quanh năm tuyết phủ. Cảnh đẹp vô cùng. Cây cỏ tốt tươi bốn mùa xinh đẹp, nước suối lúc nào cũng đầy nhưng cứ giữ mực thế không tràn cũng không vơi. Người ta bảo nơi đó là vườn địa đàng, nơi xưa kia nguyên tổ của chúng ta bị đuổi vì phạm tội ăn trái cấm.

Lại cũng có nhiều ngọc bích và quặng mỏ. Ở giữa đảo có mỏ kim cương, có cả ngọc trai ở trong biển. Nhưng nhiều nhất là trầm và dừa khắp nơi, đi đến đâu cũng thấy.

Mặc dù cảnh đẹp người hiền, nhưng lòng buồn nhớ quê hương khiến tôi không lúc nào khuây, nên tôi tâu xin đức vua cho mình về quê.

Nhà vua bằng lòng chuẩn y và bắt tôi nhận lấy thật nhiều bảo vật của ngài ban thưởng.

Đức quốc vương Sơ-Băng-Đi còn trao cho tôi một bức thư và nhiều tặng phẩm về cho đức vua Phương-Lạc-Chi Hạ-Luân.

Các tặng phẩm quý giá gồm nhiều báu vật như : một chiếc bình đựng đầy ngọc trai, một tấm da trăn rất đẹp, vẩy to như đồng tiền, có nhiều phép khiến cho người nào nằm lên có thể tránh khỏi tật bịnh, và một ít gỗ trầm hương.

Lá thư quốc vương Sơ-Băng-Đi viết trên một tấm da của một con vật màu vàng in hàng mực xanh thật nổi, ngụ ý tỏ lòng kính mến của quốc vương với ngài Phương-Lạc-Chi.

Tôi về nước bằng tàu riêng của nước Sơ-Băng-Đi. Đức vua giao tôi cho viên tùy tướng, bảo gìn giữ tôi ở dọc đường.

Thuận buồm xuôi gió, không mấy ngày đã tới Băng-Sơ-Ra. Ít hôm sau thì đến Bá Đa.

Tôi đi thẳng đến triều, dâng thư của quốc vương Sơ-Băng-Đi cho vua Hạ-Luân Phương-Lạc Chi.

Đức vua xem xong liền phán hỏi:

- Ông thấy xứ Sơ-Băng-Đi như thế nào?

Tôi liền đem những việc mắt thấy tai nghe tỏ thật cho nhà vua hay về những cái hùng mạnh của nước ấy và lòng công minh, hiếu khách của quốc vương Sơ-Băng-Đi, sự hiền lành của dân xứ đó, trong nước khắp nơi không có tòa án cũng như những quan tòa vì người dân đối xử với nhau như anh em một nhà.

Nghe xong, đức vua hỏi:

- Quả thật xứ Sơ-Băng-Đi giàu mạnh à?

Tôi nói:

- Tâu hoàng thượng, đức vua xứ ấy mặc quần áo đều bằng vàng bạc, dân trong xứ cũng rất giàu sang.

Quốc vương Phương-Lạc-Chi nói:

- Nếu thế thì quả quốc vương là người tài đức, đáng cho ta mến phục. Ta cũng hết lòng cảm ơn khanh đã chuyển tặng vật đến cho ta.

Nói xong, ngài liền ban thưởng cho tôi nhiều báu vật.

Tôi bái lãnh rồi trở về nhà thăm vợ con quyến thuộc. Bạn bè hay tin đều đến mừng. Tôi liền thết đãi mọi người cùng chia cho họ nhiều tặng vật. Cũng như những lần trước, tôi làm lễ tế trời đất và truất ra một số tiền giúp đỡ người nghèo khó.

Kể đến đây, nhà hàng hải Sinh Bá liền bảo gia nhân đem tặng cho bác phu khuân vác một ngàn đồng tiền vàng. Ông lại mời ngày mai mọi người đến nghe lần cuối cùng chuyến đi thứ bảy.

*

Mọi người cáo từ ra về trong bầu không khí nhộn nhịp và riêng bác phu khuân vác thì tỏ vẻ sung sướng ra mặt. Nếu ai để ý thì hôm nay bác đã mặc một bộ đồ mới, khác hẳn những bộ đồ mặc thường ngày.


CUỘC HÀNH TRÌNH THỨ BẢY HAY LÀ CHUYẾN ĐI 
CUỐI CÙNG CỦA NHÀ HÀNG HẢI SINH BÁ


Sau bữa tiệc, Sinh Bá đứng dậy nói:

- Thưa quý vị,

Trước tuổi tác ngày càng chồng chất, tôi không còn ham mạo hiểm như lúc trước, nên sau khi đi chuyến thứ sáu, tôi đã hứa với vợ con là sẽ không còn ham những chuyến phiêu lưu mạo hiểm để ở nhà sống với vợ con.

Nhưng có lẽ số tôi còn phải long đong nên một hôm, tôi còn đang cùng bè bạn chung vui trong một bữa tiệc, bỗng người nhà vào báo cho hay có quan trong triều đến tìm.

Quan cận thần trao cho tôi một chiếu chỉ của nhà vua đòi tôi vào dạy việc.

Tôi lật đật sửa soạn vào bệ kiến.

Vừa thấy tôi, vua Phương-Lạc-Chi mừng rỡ nói:

- Kìa khanh, lâu nay trẫm có việc muốn nhờ nhưng vì thấy khanh còn bận bịu nên chưa đành sai mượn khanh. Nay có lẽ khanh đã vui mừng đoàn tụ xong, vậy trẫm nhờ khanh một việc.

Tôi nói:

- Tâu hoàng thượng, ngài muốn sai bảo thần việc gì?

Đức vua nói:

- Trẫm đang cần người mang thơ sang cho quốc vương Sơ-Băng-Đi để đáp lễ, mà chỉ có khanh là người từng trải và quen thuộc về xứ đó nên nhờ khanh đi giùm.

Tôi hốt hoảng nói:

- Tâu hoàng thượng, thần đã quá chán ngán các chuyến phiêu lưu đầy gian lao khổ ải kia, chỉ mong được ở nhà hưởng tuổi già, không muốn rời chân khỏi kinh thành Bá Đa.

Đức vua nhìn tôi hỏi:

- Sao khanh lại nói thế? Trẫm nghe mọi người kể lại khanh giàu có như hôm nay là nhờ nghề vượt biển, sao nay khanh lại chối từ?

Tôi thưa:

- Tâu hoàng thượng, đúng như lời mọi người đã bảo, thần sở dĩ có được hôm nay là nhờ những chuyến đi đầy sóng gió. Nhưng thần nay đã già nên không còn muốn thêm một lần đùa với số mạng.

Nói xong, tôi kể lại cho nhà vua nghe những chuyến đi của tôi với tất cả chi tiết.

Nghe xong, ngài nói:

- Trẫm cũng hiểu những nỗi hiểm nguy của khanh trong các chuyến đi trước. Nhưng chả lẽ khanh chịu để cho trẫm mang tiếng là người thiếu lễ độ và khanh không mắc cỡ khi là con dân một nước chỉ biết cầu an sao?

Thấy nhà vua đã nói đến danh dự của quốc gia, tôi hiểu mình không thề nào chối từ được, nên nói:

- Hạ thần xin vâng lời.

Nhà vua Phương-Lạc-Chi đẹp dạ và ban cho tôi một nghìn đồng vàng làm lộ phí, trao cho tôi một phong thư và một chiếc tàu chở toàn tặng phẩm với viên thuyền trưởng và thủy thủ lành nghề hàng hải.

Tôi bái tạ lên đường hướng sang xứ Sơ-Băng-Đi.

Sau nhiều ngày lênh đênh trên mặt biển, tôi đến Sơ-Băng-Đi thật bình yên, may mắn.

Đức vua nghe tin liền đến đón tiếp tôi như đối với một người bạn thân.

Vào đến triều, tôi tung hô bệ kiến và dâng lên đức vua phong thư cùng những tặng phẩm của quốc vương Phương-Lạc-Chi.

Đức vua Sơ-Băng-Đi rất vui mừng nhận lãnh rồi truyền quan cận thần mang cất vào kho quý vật.

Tôi đọc cho quan cận thần nghe để dễ bề kiểm soát:

- Một chiếc giường bằng vàng, năm chục chiếc áo gấm, một chiếc bình bằng ngọc thạch chạm nổi hình người bắn cung đuổi một con sư tử, một chiếc bàn chạm rất cổ từ đời vua xưa, cùng tất cả những viên ngọc quý giá.

Đức quốc vương Sơ-Băng-Đi xem xong lá thư thì hết sức vui mừng nên nhờ tôi về nói lại với quốc vương Phương-Lạc-Chi là ngài rất mến phục ông và xin được giữ tình giao hảo giữa hai nước.

Tôi bái lãnh và cáo biệt ra về, sau khi được quốc vương ban thưởng một số báu vật.

Tôi ở lại kinh thành mấy hôm để vãn cảnh cùng mua ít hàng hóa về để biếu họ hàng, bè bạn, xong, mới xuống tàu về xứ.

Đi vừa được năm hôm trong vùng bể êm sóng lặn, chúng tôi bị một đoàn tàu cướp chận lại.

Sau khi nhảy qua tàu áp đảo chúng tôi, tên đầu đảng liền trói chúng tôi lại.

Vì không đủ khí giới để tự vệ, chúng tôi đều bị bọn chúng dẫn lên hải đảo.

Những kẻ chống cự đều bị chúng giết, quăng thây xuống biển làm mồi cho cá.

Bọn cướp đưa chúng tôi lên đảo, lột hết quần áo của chúng tôi, rồi cho mặc toàn quần áo rách rưới, xong, mang ra chợ cho chúng tôi đứng chung một chỗ.

Những kẻ qua lại đều rờ nắn chúng tôi từ chân đến đầu. Mãi lúc đó tôi mới hiểu bọn cướp đem chúng tôi bán cho người mua làm nô lệ.

Sau khi ngã giá, tôi được một phú thương mua và bảo đi theo ông ta.

Về đến nhà, ông ta hỏi tôi:

- Chú có biết bắn tên không?

Tôi lễ phép thưa:

- Thưa ngài, tôi có tập thuở nhỏ.

Ông ta bằng lòng lắm và giao cho tôi một ống tên và một cây cung rồi nói:

- Chú theo tôi.

Ông ta đưa tôi đến nơi có nhiều thợ săn và bảo tôi ngồi sau lưng một thợ săn, trên lưng một con voi.

Chúng tôi tiến vào khu rừng rậm rạp chờ voi đến để săn.

Ông lại bảo thêm:

- Rừng nầy có nhiều voi, nhớ về báo ngay khi hạ được một con.

Tôi suốt đêm không được ngủ, cứ ngồi rình, nhưng vẫn không có một con nào đến.

Sáng hôm sau, tôi rất mệt mỏi. Nhưng lúc mặt trời vừa mọc thì một đàn voi rất đông tiến đến.

Tôi bắn rất nhiều phát tên mới hạ được một con. Và chờ cho đến lúc đàn voi kéo đi, tôi liền chạy về báo với chủ.

Phú thương theo đến nơi và bắt tôi đào hố chôn, chờ cho đến lúc thịt voi rữa để lấy xương và ngà.

Tôi được phú thương cho về nghỉ một hôm để hôm sau mang lương thực trở lại đây tiếp tục nhiệm vụ.

Suốt hai tháng, tôi bắn được rất nhiều voi, và cứ mỗi ngày thay đổi chỗ núp một lần.

Một lần, tôi đang ngồi đợi trên cây thì có đàn voi tiến lại. Nhưng chúng không đi ngang qua chỗ núp như trước kia, mà lại dừng trước gốc cây tôi đang núp.

Sau một lúc gầm thét, chúng dùng vòi quấn gốc cây kéo làm tôi hoảng hốt buông rơi cả cung tên.

Con voi đầu đàn, to lớn như một con vật khổng lồ, dùng vòi quấn gốc cây kéo giựt lại làm trốc gốc. Tôi bị ngã theo cây và chắc chắn mình sẽ bị đàn voi chà nát thây.

Nhưng không như dự đoán của tôi, khi tôi vừa rơi khỏi cành cây và nhắm mắt chờ chết, thì con voi đầu dùng vòi đỡ tôi cho khỏi rớt xuống đất, rồi đặt tôi lên lưng nó mà chạy thẳng một mạch vào rừng, theo sau là một đàn voi nối đuôi nhau kéo đi rầm rộ cả khu rừng.

Tôi ngất đi trước cảnh kinh hoàng kia. Đến lúc tỉnh dậy thì thấy mình đang nằm giữa một quả núi cao, chung quanh đầy dẫy những ngà và xương voi, chất ngổn ngang không biết cơ man đâu mà kể.

Tôi hoảng hốt khi nhớ đến đàn voi kia, nhưng sau khi nhìn chung quanh không còn một dấu tích của chúng nó, tôi liền ngồi suy nghĩ một lúc cho hoàn hồn.

Tôi đoán có lẽ lũ voi khôn ngoan kia hiểu biết chúng tôi định giết chúng nó để lấy ngà và xương nên đem tôi đến mộ của chúng để chúng tôi tha hồ lấy mà không giết hại chúng nữa.

Tôi vội tìm đường về nhà chủ, nhưng vì không quen đường lối nên tôi đi lạc mất hơn một ngày đêm mới đến nơi.

Chủ nhân tôi mừng rỡ khi thấy tôi còn sống nên reo to:

- Ồ, chú đã về! Sao mà chú còn sống được chứ? Tôi đến nơi gốc cây thấy dấu chân voi và cây bị cuốn trốc gốc thì rất lo sợ cho tính mạng của chú.

Tôi nói:

- Thưa ngài, tôi may mắn còn sống được và hôm nay về đây để dâng cho ngài một sự giàu sang tột đỉnh.

Rồi tôi kể cho phú thương nghe về ngôi mộ voi. Ông ta mừng rú lên nói:

- Nếu quả thật thế thì quả chú là người ơn của tôi.

Nói xong, ông ta dẫn đến một con ngựa quý, bảo tôi hãy đưa ông đi đến đó.

Tôi đưa ông đến nghĩa địa voi và nói:

- Bây giờ ông chỉ có việc cho xe đến chở về làm giàu.

Ông phú thương ôm lấy tôi nói:

- Bạn ơi! Kể từ giờ nầy ông bạn là bạn của tôi. Nhờ bạn mà tôi trở nên giàu có, nên bắt đầu từ giờ phút nầy, tôi trả tự do lại cho ông bạn. Bạn hãy giúp tôi chuyên chở số ngà và xương voi về, rồi tôi sẽ thu xếp cho bạn về nước.

Tôi khiêm nhượng đáp:

- Thưa ngài, ngài đã nhân từ cho tôi khỏi kiếp nô lệ thì tôi rất cám ơn ngài. Còn về việc hồi hương, xin ngài để mặc tôi định đoạt, tôi không dám làm phiền ngài.

Vị phú thương nói:

- Bạn đừng nghĩ thế. Bạn đã giúp tôi giàu sang đến mức đó thì tôi nỡ nào để bạn phải cầu bơ cầu bất trong lúc tìm đường về nước?

Bạn đừng cho đó là ân nghĩa, vì nếu không có bạn thì tôi còn đang lo lắng trong kiếp sống của nghề săn voi ; mà kẻ nào săn voi thì trước sau gì cũng có ngày bị voi giết chết. Vả lại, lúc nầy đang ở mùa mưa bão. Ít hôm nữa sẽ có tàu ghé đến đảo để mua ngà voi. Tôi sẽ gởi bạn cho những phú thương kia để về Bá Đa.

Tôi vâng lời ông và bắt đầu hôm đó, chúng tôi bắt tay vào việc chuyên chở ngà voi về chất đầy kho.

Cho đến lúc các kho đều đầy ngà và xương voi thì tàu các lái buôn cũng vừa ghé đến đảo tấp nập.

Ông phú thương bán số ngà và xương voi được một số tiền to. Ông nhớ ơn liền chia cho tôi một nửa và sắm sửa lương thực cho tôi xuống tàu về xứ.

Trên đường về Bá Đa, tôi thấm thía mãi về những ngày làm nô lệ.

Dọc đường, tàu ghé vào nhiều đảo để mua thêm thức ăn và nước uống. Tôi cũng mua lấy một số hàng hóa gửi cho viên thuyền trưởng rồi tôi từ giã, lên đường bộ về để tránh những sự nguy hiểm lúc đi đường.

Cuộc đi trên bộ rất khổ cực và vất vả. Dọc đường, vì không quen phong thổ, tôi bị ốm mất mấy hôm. Nhưng tôi thấy thà chịu đau ốm còn hơn là bị đắm tàu và lạc lõng trên các đảo hoang.

Nhưng dù lâu thì tôi cũng về đến Bá Đa. Tôi vội vàng vào triều bái yết nhà vua, và tâu lại những lời của đức vua Sơ-Băng-Đi với ngài. Tôi cũng kể cho ngài về cuộc hành trình của mình, từ lúc bị bắt làm nô lệ cho đến chuyện nghĩa địa voi và những đau ốm dọc đường.

Đức vua hân hoan, cho đó là điều may mắn vô cùng của tôi, và truyền cho quan cận thần chép các cuộc hành trình của tôi vào sổ vàng để lưu trữ.

Ngài cũng không quên ban thưởng cho tôi rất trọng hậu.

Tôi bái tạ, đem lễ vật về nhà bán lấy tiền chia cho bè bạn, không để lại một chút kỷ niệm nào của chuyến đi nguy hiểm và nỗi nhục của kiếp nô lệ kia.

*

Kể đến đó, Sinh Bá liền sai quân hầu mang cho bác phu khuân vác một trăm đồng vàng cuối cùng, rồi nhìn Hình Ba mỉm cười hỏi:

- Thế nào, bây giờ quý hữu có than thân trách phận nữa không? Và tôi có phải là người chịu gian nan nhiều nhất không? Bác còn buồn hay hết?

Hình Ba liền bước đến kính cẩn hôn tay nhà hàng hải lão thành rồi nói:

- Thưa ngài, tôi vì lầm lẫn nên trách oan trời đất và phạm đến ngài. Nhưng đến nay tôi mới hiểu, thượng đế rất công minh và ngài là người lịch duyệt, đáng được hưởng tất cả phú quý giàu sang của trời dành cho.

Bữa tiệc long trọng giữa tiếng hoan hô cuồng nhiệt của mọi người cho đến khuya mới chấm dứt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét