Thứ Tư, 28 tháng 6, 2023

TRÊN TÀ ÁO GIÓ - Trần thị Tuệ Mai

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
Tên người, một thoáng nghe qua
tên người một thoáng, gọi ta một đời
mắt sao còn giọt thầm rơi
lòng sao còn quặn bồi hồi phận nhau

Không, tôi không muốn tôi sầu
không, tôi không muốn tôi đau nỗi người.
 
Trên tà áo gió bay lơi
hoa trăng đã rụng, tay người đã buông
xứ nào còn ngát trầm hương
cành thơ rắc xuống hàng hàng lá duyên
cho đều nhịp máu hồi tim
cho say cánh mộng bay nghiêng vào đời. 
 
                                           TRẦN THỊ TUỆ MAI

(Trích từ tạp chí Bách Khoa số 344, ra ngày 1-5-1971)

Chủ Nhật, 25 tháng 6, 2023

ĐỜI THỪA - Nam Cao

 

Từ ngẩng đầu lên nhìn Hộ ba lần. Ba lần, Từ muốn nói nhưng lại không dám nói. Hắn đang đọc chăm chú quá. Ðôi lông mày rậm của hắn châu đầu lại với nhau và hơi xếch lên một chút. Ðôi mắt sáng quắc có vẻ lồi ra. Cái trán rộng hơi nhăn. Ðôi lưỡng quyền đứng sừng sững trên bờ hai cái hố sâu của má thì bóng nhẫy. Cả cái mũi cao và thẳng tắp cũng bóng lên như vậy. Cái mặt hốc hác ấy, nghiêng nghiêng bên trên quyển sách, trông khắc khổ đến thành dữ tợn. Từ thấy sợ…

Từ yêu chồng bằng một thứ tình yêu rất gần với tình của một con chó đối với người nuôi. Từ bản tính rất dịu dàng, rất tận tâm. Vả lại Hộ, đối với Từ, còn là một ân nhân nữa. Hộ đã cúi xuống nỗi đau khổ của Từ. Hộ đã cúi xuống và đã đưa một bàn tay cầm lấy cái bàn tay mềm yếu của Từ, giữa lúc Từ đau đớn không bờ bến: Từ bị tình nhân bỏ với một đứa con vừa mới đẻ. Gã tình nhân vô liêm sỉ ấy, Từ đã yêu hắn bằng cả tấm lòng yêu lúc ban đầu. Từ đã tin như người ta tin một vị thần. Từ đã hiến mình một cách dè dặt tâm hồn và xác thịt. Và khi biết mình sắp có một đứa con, Từ không hề hối hận một mảy may: Từ rất bằng lòng. Ấy thế mà hắn đã phụ từ, phụ một cách hèn nhát và khốn nạn, ngay chính vào lúc Từ cần đến hắn để bảo tồn sự sống và danh dự, lúc đứa con ra đời. Từ sửng sốt vô cùng. Từ không tin ở sự thật rành rành. Rồi khi sự sửng sốt qua thì Từ khóc. Từ khóc như mưa, khóc tưởng chẳng bao giờ còn lặng được. Từ khóc, và ôm con ngồi nhịn đói, bởi vì Từ chẳng còn biết trông cậy vào ai, trừ bà mẹ già mù và quanh năm nay ốm, mai đau, mà Từ vẫn phải nuôi. Bà mẹ già biết làm sao? Bà chỉ còn một cách là còn được ít nước mắt nào thì rỏ cả ra mà khóc với con, và cả mẹ lẫn con chỉ có một cách là khóc cho đến khi nào bao nhiêu xương thịt đều chảy ra thành nước mắt hết, để rồi cùng chết cả. Giữa lúc ấy thì Hộ mở rộng đôi cánh tay, đón lấy Từ. Hộ nuôi Từ, nuôi mẹ già, con dại cho Từ. Hộ nhận làm bố cho đứa con thơ. Vì muốn yên ủi Từ và cứu lấy danh dự của Từ, Hộ đã chính thức nhận Từ làm vợ. Rồi Hộ đứng ra làm ma cho bà mẹ Từ, khi bà cụ mất. Biết bao nhiêu là ân nghĩa! Từ có yêu Hộ đến đâu, có chịu khó đến đâu, có làm nô lệ cho Hộ suốt đời Từ nữa, thì cũng chưa đủ để đền ơn. Bởi thế, nên luôn mấy năm trời, Hộ thấy Từ là một người vợ rất ngoan, rất phục tùng, rất tận tâm. Và đáng lẽ thì Hộ phải sung sướng lắm.

Nhưng Hộ chỉ sung sướng được ít lâu thôi. Sau cái hành vi đẹp của hắn, và cái hành vi ấy được trả công bằng một tình yêu rất êm đềm, hắn chỉ còn nghĩ đến gia đình, chỉ cốt làm sao nuôi được gia đình. Hộ vốn nghèo. Hắn là một nhà văn, trước kia, với cách viết thận trọng của hắn, hắn chỉ kiếm được vừa đủ để một mình hắn sống một cách eo hẹp, có thể nói là cực khổ. Nhưng bấy giờ hắn chỉ có một mình. Ðói rét không có nghĩa lý gì đối với gã trẻ tuổi say mê lý tưởng. Lòng hắn đẹp. Ðầu hắn mang một hoài bão lớn. Hắn khinh những lo lắng tủn mủn về vật chất. Hắn chỉ lo vun trồng cho cái tài của hắn ngày một thêm nảy nở. Hắn đọc, ngẫm nghĩ, tìm tòi, nhận xét và suy tưởng không biết chán. Ðối với hắn lúc ấy, nghệ thuật là tất cả; ngoài nghệ thuật không còn gì đáng quan tâm nữa. Hắn băn khoăn nghĩ đến một tác phẩm nó sẽ làm mờ hết các tác phẩm khác cùng ra một thời… Thế rồi, khi đã ghép đời Từ vào cuộc đời của hắn, hắn có cả một gia đình phải chăm lo. Hắn hiểu thế nào là giá trị của đồng tiền; hắn hiểu những nỗi đau khổ của một kẻ đàn ông khi thấy vợ con mình đói rách. Những bận rộn tẹp nhẹp, vô nghĩa lý, nhưng không thể không nghĩ tới, ngốn một phần lớn thì giờ của hắn. Hắn phải cho in nhiều cuốn văn viết vội vàng. Hắn phải viết những bài báo để người ta đọc rồi quên ngay sau lúc đọc. Rồi mỗi lần đọc lại một cuốn sách hay một đoạn văn ký tên mình, hắn lại đỏ mặt lên, cau mày, nghiến răng vò nát sách và mắng mình như một thằng khốn nạn… Khốn nạn! Khốn nạn! Khốn nạn thay cho hắn! Bởi vì chính hắn là một thằng khốn nạn! Hắn chính là một kẻ bất lương! Sự cẩu thả trong bất cứ nghề gì cũng là một sự bất lương rồi. Nhưng sự cẩu thả trong văn chương thì thật là đê tiện. Chao ôi! Hắn đã viết những gì? Toàn những cái vô vị, nhạt nhẽo, gợi những tình cảm rất nhẹ, rất nông, diễn một vài ý rất thông thường quấy loãng trong một thứ văn bằng phẳng và quá ư dễ dãi. Hắn chẳng đem một chút mới lạ gì đến văn chương. Thế nghĩa là hắn là một kẻ vô ích, một người thừa. Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa có… Hắn nghĩ thế và buồn lắm, buồn lắm! Còn gì buồn hơn chính mình lại chán mình? Còn gì đau đớn hơn cho một kẻ vẫn khát khao làm một cái gì nâng cao giá trị đời sống của mình, mà kết cục chẳng làm được cái gì, chỉ những lo cơm áo mà đủ mệt? Hắn để mặc vợ con khổ sở ư? Hắn bỏ liều, hắn ruồng rẫy chúng, hắn hy sinh như người ta vẫn nói ư? Ðã một vài lần hắn thấy ý nghĩ trên đây thoáng qua đầu. Và hắn nghĩ đến câu nói hùng hồn của một nhà triết học kia: “Phải biết ác, biết tàn nhẫn để sống cho mạnh mẽ”. Nhưng hắn lại nghĩ thêm rằng: Từ rất đáng yêu, rất đáng thương, hắn có thể hy sinh tình yêu, thứ tình yêu vị kỷ đi; nhưng hắn không thể bỏ lòng thương; có lẽ hắn nhu nhược, hèn nhát, tầm thường, nhưng hắn vẫn còn được là người: hắn là người chứ không phải là một thứ quái vật bị sai khiến bởi lòng tự ái. Kẻ mạnh không phải là kẻ giẫm lên vai kẻ khác để thỏa mãn lòng ích kỷ. Kẻ mạnh chính là kẻ giúp đỡ kẻ khác trên đôi vai mình. Và lại hèn biết bao là một thằng con trai không nuôi nổi vợ, con thì còn mong làm nên trò gì nữa?… Hắn tự bảo: “Ta đành phí đi một vài năm để kiếm tiền. Khi Từ đã có một số vốn con để làm ăn! Sự sinh hoạt lúc này chẳng dễ dàng đâu!”. Từ khi đứa con này chưa kịp lớn lên, đứa con khác đã vội ra, mà đứa con nào cũng nhiều đẹn, nhiều sài, quấy rức, khóc mếu suốt ngày đêm và quanh năm uống thuốc. Từ săn sóc chúng đã đủ ốm người rồi, chẳng còn có thể làm thêm một việc khác nữa. Hộ điên người lên vì phải xoay tiền. Hắn còn điên lên vì con khóc, nhà không lúc nào được yên tĩnh để cho hắn viết hay đọc sách. Hắn thấy mình khổ quá, bực bội quá. Hắn trở nên cau có và gắt gỏng. Hắn gắt gỏng với con, với vợ, với bất cứ ai, với chính mình. Và nhiều khi, không còn chịu nổi cái không khí bực tức ở trong nhà, hắn đang ngồi bỗng đứng phắt lên, mắt chan chứa nước, mặt hầm hầm, vùng vằng đi ra phố, vừa đi vừa nuốt nghẹn. Hắn đi lang thang, không chủ đích gì. Rồi khi gió mát ở bên ngoài đã làm cái trán nóng bừng nguội bớt đi và lòng trút nhẹ được ít nhiều uất giận, hắn tạt vào một tiệm giải khát nào mà uống một cốc bia hay cốc nước chanh. Hắn tìm một người bạn thân nào để nói chuyện văn chương, ngỏ ý kiến về một vài quyển sách mới ra, một vài tên ký mới trên các báo, phác họa một cái chương trình mà hắn biết ngay khi nói là chẳng bao giờ hắn có thể thực hành, rồi lặng lẽ nghĩ đến cái tác phẩm dự định từ mấy năm nay để mà chán ngán. Hắn thừ mặt ra như một kẻ phải đi đày, một buổi chiều âm thầm kia, ngồi trong một làn khói nặng u buồn mà nhớ quê hương. Hắn cũng nhớ nhung một cái gì rất xa xôi… những mộng đẹp ngày xưa… một con người rất đáng yêu đã chẳng là mình nữa. Hắn lắc đầu tự bảo: “Thôi thế là hết! Ta đã hỏng! Ta đã hỏng đứt rồi”. Và hắn nghĩ đến cái tên hắn đang mờ dần đằng sau những tên khác mới trồi ra, rực rỡ hơn… Rồi hắn ra về, thờ thẫn. Những sự bực tức đã chìm đi. Lòng hắn không còn sôi nổi nữa, nhưng rũ buồn…

*

Ít lâu nay, mỗi lần ra đi, Hộ không chỉ trở về buồn bã mà thôi. Hắn say mềm. Thường thường hắn đã ngủ một nửa ngay từ khi còn ở dọc đường; và vừa về đến nhà, chưa kịp thay quần áo, tháo giày, đã đổ như một khúc gỗ xuống bất cứ cái giường nào, ngủ say như chết. Từ phải chờ khi con ngủ mê, rón rén lừa con, dậy lại tháo giày, cởi quần tây cho hắn, luồn một cái gối xuống gáy hắn, và cố nhấc chân, nhấc tay hắn, đặt cho hắn nằm ngay ngắn lại… Nhưng cũng có đêm hắn chưa ngủ vội. Hắn lảo đảo bước vào nhà, mắt gườm gườm, đôi môi mím chặt. Hắn đi thẳng lại trước mặt Từ. Hắn cúi xuống, quắc mắt nhìn Từ, gõ gõ một ngón tay trỏ vào trán Từ và dọa như người ta dọa trẻ con:

– Ngày mai… mình có biết không?… Chỉ ngày mai thôi! Là tôi đuổi tất cả mấy mẹ con mình ra khỏi cái nhà này… Tôi đuổi tất, không chừa một đứa nào, kể cả con bé Thảo là con ngoan nhất… Mấy đứa kia đều đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn với hét! Cả con mẹ nữa, con mẹ là mình ấy… cũng đáng vật một nhát cho chết cả! Chúng nó chỉ biết ăn rồi ngồi ôm con như nhện ôm khư khư bọc trứng, không chịu làm thêm việc gì cho có tiền. Chỉ khổ thằng này thôi!

Hắn rít lên như vậy. Rồi hắn mím chặt môi, đôi mắt ngầu ngầu nhìn vào tận mắt Từ. Từ chẳng dám cãi nửa lời, chỉ lẳng lặng cúi mặt nhìn xuống, như một đứa trẻ con biết mình có lỗi khi nghe người ta quở phạt. Bởi vậy hắn trừng trộ một lúc rồi quay ra, loạng choạng cởi quần, cởi áo, hắn vất bừa bộn xuống giường. Rồi hắn tháo giày, quăng từng chiếc một vào một xó nhà. Có khi máy tay, hắn quăng cả những vật gì thấy trên bàn, rồi lải nhải mắng Từ về tội không biết thu dọn nhà cho gọn ghẽ. Hắn nói chán rồi đi ngủ. Bấy giờ Từ mới dám đứng lên, treo quần áo cho hắn lên mắc và thu dọn tất cả những thức hắn đã vứt lổng chổng ra đầy nhà.

Lần đầu, Từ sửng sốt. Từ chẳng hiểu ra sao. Từ đoán chồng nghe ai nói nên ghen bóng, ghen gió chi đây. Từ khóc suốt đêm và dự định sẵn những câu để sáng hôm sau nói. Nhưng sáng hôm sau, hắn không để cho Từ phải nói. Hắn bẽn lẽn kêu mình đã quá chén hôm qua, hỏi Từ về những thủ đoạn vũ phu của mình rất buồn cười, rồi xin lỗi Từ, hôn hít các con như một người cha tốt. Hắn tuyên bố từ giờ chừa rượu và giữ được khá lâu, nhưng rồi lại uống và say như lần trước để làm những trò vừa buồn cười, vừa đáng sợ như lần trước. Cứ thế mãi, Từ quen đi, không giận nữa. Nhưng Từ lờ mờ hiểu nỗi đau khổ mà có lẽ chính Từ đã gây ra cho chồng. Từ hiểu và Từ buồn lắm, buồn lắm lắm. Còn gì buồn cho bằng mình biết mình làm khổ cho người mà mình yêu? Nhưng Từ biết làm sao được? Ðã nhiều lần Từ muốn ẵm con đi. Ðã nhiều lần, Từ muốn bỏ liều con để đi làm, Từ muốn hy sinh. Nhưng lòng Từ mềm yếu biết bao! Từ là vợ! Từ là mẹ. Từ sống với những tình cảm thông thường của đàn bà. Từ rất yêu chồng và thường nhận ra rằng chồng Từ cũng yêu Từ, cũng muốn có Từ. Những khi Từ ốm đau chẳng hạn. Hộ lo xanh mắt và thức suốt đêm để trông coi thuốc thang cho vợ. Ðối với các con cũng vậy. Chỉ xa chúng mấy ngày, Hộ đã nhớ và lúc về thấy các con chạy ra reo mừng và nắm lấy áo mình, thường thường Hộ cảm động đến ứa nước mắt. Hắn hôn hít chúng vồ vập lắm… Biết đâu hắn sẽ sung sướng khi không con, không vợ? Từ nghĩ về hắn: nghĩ thế nhưng Từ cũng chẳng dám tìm cách mà xa hắn. Mới nghĩ đến sự xa hắn, Từ đã phải thổn thức đến bật tiếng khóc ra được rồi… Từ đành chỉ cố ngoan ngoãn hơn, đáng yêu hơn. Từ nhịn mặc, nhịn ăn để bớt những món tiêu. Từ thu xếp cửa nhà ngăn nắp, sạch sẽ, gọn gàng. Nhất là Từ hết sức ngăn những tiếng khóc, tiếng nô đùa của lũ con. Từ sợ cả nói với chồng. Bởi vậy ba lần nhìn chồng để toan nói, Từ thấy chồng đang đọc sách chăm chú quá, không dám nói lại cúi mặt xuống nhìn đứa con đang nằm trong lòng Từ.

Cao hứng Hộ bỗng ngoảnh mặt lên. Hắn vừa gặp được một đoạn hay lắm nên ngừng đọc, ngẫm nghĩ và để cho cái khoái cảm ngân ra trong lòng. Ðôi mắt hắn, tuy mới rời trang sách đã nhìn ngay lại phía Từ. Hắn mỉm cười, Từ cũng mỉm cười. Hắn bảo:

– Này, Từ ạ… Nghĩ cho kỹ, đời tôi không đáng khổ mà hóa khổ, chính tôi làm cái thân tôi khổ, tôi mê văn quá nên mới khổ. Ấy thế, mà tuy khổ thì khổ thật, nhưng thử có người giàu bạc vạn nào thuận đổi lấy cái địa vị của tôi, chưa chắc tôi đã đổi. Tôi cho rằng: những khi được đọc một đoạn văn như đoạn này, mà lại hiểu được tất cả cái hay, thì dẫu ăn một món ăn ngon đến đâu cũng không thích bằng. Sướng lắm! Sao thiên hạ lại có người tài đến thế? Mình tính: người ta tả cái cảnh một người nhớ quê hương chỉ mất có ba câu, đúng ba câu!… Mình có hiểu không? … Ba câu giản dị một cách không ngờ mà hay được đến như thế này…

Hắn đọc lại đoạn văn. Hắn định nghĩa để Từ nghe. Hắn giảng giải cho Từ. Tuy Từ chẳng hiểu được bao nhiêu, nhưng cũng tin lời hắn lắm. Từ giữ mãi nụ cười hiền dịu trong khi nghe hắn nói. Khi hắn ngừng nói đã được một lúc khá lâu, Từ mới làm như chợt nhớ ra:

– Có lẽ hôm nay đã là mồng hai, mồng ba tây rồi, mình nhỉ?

– À phải! Hôm nay mồng ba… Giá mình không hỏi tôi thì tôi quên… Tôi phải đi xuống phố.

Từ nhắc khéo:

– Hèn nào mà em thấy người thu tiền nhà sáng nay đã đến…

Hộ sầm mặt lại:

– Tiền nhà… tiền giặt… tiền thuốc… tiền nước mắm… Còn chịu tất! Tháng vừa rồi tiêu tốn quá, mới mồng mười đã hết tiền. May mà còn có đất mua chịu được.

Hắn nghĩ đến món tiền hắn đã tiêu phí mấy hôm đầu tháng. Mỗi lần hắn bực tức hay chán nản, hắn lại đi uống rượu, thành thử hết tiền sớm. Từ không hé môi phàn nàn nửa tiếng, nhưng cả tháng Từ ăn và bắt các con ăn kham khổ, thường thường đói nữa! Quà sáng thì bỏ hẳn, có khi bữa tối cũng chịu nhịn cơm, ăn cháo. Hộ trông thấy thế, thương vợ, thương con quá, và ân hận vì mình đã tiêu quá trớn. Bởi vậy suốt từ mồng mười đến hết tháng, hắn không ra khỏi nhà để chẳng phải tiêu thêm tí gì…

Hắn vừa mặc quần áo, vừa nhắc thầm trong trí:

– Nhất định hôm nay không đi đâu cả… Lấy tiền xong là về ngay…

Nhưng Từ bảo:

– Mình đi phố thì đi ăn nhé. Còn có ít gạo chỉ đủ cho lũ trẻ. Em chả đong thêm nữa, để mai trả tiền rồi lấy thêm luôn một thể… Em không để cơm mình đâu đấy… Nhà chẳng còn gì ăn…

Hộ hơi cau mày. Bởi vì hắn sợ bước vào tiệm ăn lắm. Hắn có thể gặp ở đây một vài người bạn… và khi ấy thì… ôi thôi! Mặc kệ gia đình và những cái gì còn lại!… Hắn sẽ uống rất khỏe, nói toàn những chuyện vá trời lấp biển, rồi đi la cà đến hết đêm mới về. Hắn nghĩ ngợi một chút rồi hắn bảo:

– Ðược! Tôi sẽ mua cái gì về để cả nhà cùng ăn.

– Ðừng phiền nữa! Em cứ cho chúng nó ăn cơm trước rồi đi ngủ.

– Ðừng ăn trước… Ðợi tôi đem thức ăn về, ăn một thể. Tôi về sớm. Cả tháng chúng nó đói khát, khổ sở, hôm nay có tiền cũng nên cho chúng nó một bữa ăn ra hồn.

– Vẽ chuyện!

Hắn mỉm cười, đáp lại. Hắn lại gần Từ, cúi xuống nắm lấy tay đứa bé và gọi nó. Mặt hắn và mặt Từ ghé sát. Hắn cố ý khẽ chạm môi mình vào má Từ một cái. Từ vờ giũ mấy cái bụi ở tay áo hắn. Vợ chồng nhìn nhau âu yếm. Hắn vuốt má Từ một cái rồi ra đi.

Ở tòa báo ra, Hội đi thẳng tới một hiệu thịt quay. Hắn định mua mấy hào thịt, vài cái bánh tây, gói đem về. Lòng hắn sáng bừng. Hắn tưởng tượng ra cái cảnh lũ con háu ăn và đói khát, rón thịt bằng tay và ăn những miếng bánh thật to, miệng phụng phịu và môi bóng nhờn những mỡ. Cái cảnh thô tục và cảm động! Hắn sẽ cười thỏa thích. Còn Từ sẽ ngồi bên hắn mà nhìn chúng, đôi mắt sung sướng và thương hại loang loáng ướt… Ðến trước cửa hiệu thịt quay, Hộ dừng lại. Hắn cẩn thận nhìn trước, nhìn sau, trước khi vào. Một người quen có thể đi qua, và nếu họ bắt gặp hắn đang cố nhét một gói thịt vào túi áo!… Không! Không có gì đáng ngại, ngoài đường phố… Nhưng trong hiệu, một thiếu nữ đẹp đang mặc cả… Hắn đành đợi vậy. Trong khi đợi, hai tay chắp sau lưng, hắn làm ra vẻ đợi một người bạn vừa vào một nhà nào gần đấy. Bỗng một bàn tay đập vào vai khiến hắn giật mình quay lại. Trung nhếch cười lặng lẽ và Mão cười ầm ĩ, cùng đưa tay cho hắn bắt:

– Mải ngắm nàng thơ nào mà ngây người ra thế?

Hộ ấp úng:

– À! Các anh!…

– Không theo gót sen nào đấy chứ?

– Cái ấy không quan hệ! Thi sĩ là người giữ được mình trẻ mãi và đến muôn năm cũng vẫn còn trinh bạch.

– Cũng may tôi lại cũng không là thi sĩ nốt.

– Nghĩa là chẳng theo nàng nào cả?

– Chẳng theo nàng nào cả!

– Thế thì đi theo hai thằng này!

Hộ nhìn Trung và Mão một thoáng rồi mới hỏi:

– Làm chi?

– Chẳng làm chi cả!

– Thế thì đệ kiếu. Ðệ phải về kẻo hết tàu điện.

Trung cau mày nhìn Hộ một cách kinh ngạc và khinh bỉ:

– Sao lại có người điên đến thế? Về giữa lúc chiều thì đẹp mà phố thì vui thế này!

Hộ trở nên đứng đắn:

– Không đùa nữa… Thật ra thì tôi có việc phải về, thế thôi.

– Ờ! Nói vậy còn dễ nghe… Thôi thế anh về nhé!… Nhưng mà… này! Anh đã biết gì chưa?

Hộ đã toan đi, quay đầu lại nhìn Trung…

– “Ðường về” sắp được dịch ra tiếng Anh đấy nhé! Bản quyền tác giả ba nghìn đồng.

Hộ trợn mắt lên. Người hắn bổi hổi. Một lúc lâu hắn mới hỏi được Trung:

– Có đích không?

– Ðích xác rồi. Chính Quyền đưa cái thư điều đình cho chúng tôi xem.

Hộ có vẻ hoài nghi:

– Không mà lại!… Tôi biết lắm… Nhưng lại đằng này đã, về làm gì vội? Chúng mình làm cốc bia…

Hộ đã quên hẳn vợ con. Hắn chỉ còn háo hức muốn biết thêm về việc quyển “Ðường về” của Quyền được dịch ra tiếng Anh. Hắn bám lấy Mão và Trung. Ba người vào một tiệm giải khát ở Bờ Hồ. Và chỉ độ nửa giờ sau, Mão và Trung đã thấy Hộ đỏ tai, giộng một cái vỏ chai bia xuống mặt bàn:

– Cuốn “Ðường về” chỉ có giá trị địa phương thôi, các anh có hiểu không? Người ta dịch nó vì muốn biết phong tục của mọi nơi. Nó chỉ tả được cái bề ngoài của xã hội. Tôi cho là xoàng lắm! Một tác phẩm thật giá trị, phải vượt lên bên trên tất cả các bờ cõi và giới hạn, phải là một tác phẩm chung cho cả loài người. Nó phải chứa đựng được một cái gì lớn lao, mạnh mẽ, vừa đau đớn, lại vừa phấn khởi. Nó ca tụng lòng thương, tình bác ái , sự công bình… Nó làm cho người gần người hơn. Như thế mới thật là một tác phẩm hay, các anh có hiểu không? Tôi chưa thất vọng đâu! Rồi các anh xem… Cả một đời tôi, tôi sẽ chỉ viết một quyển thôi, nhưng quyển ấy sẽ ăn giải Nobel và dịch ra đủ mọi thứ tiếng trên hoàn cầu!

Trung gật gù cười, vẫn cái cười lặng lẽ của y. Mão thì cười hô hố. Hộ không cười, mặt căng lên vì hứng khởi. Hắn nói say sưa lắm. Và đến lúc đèn phố bật, Trung và Mão muốn về, Hộ bảo luôn:

– Thong thả đã! Ði đâu mà vội? Chúng mình đi uống rượu… Tôi có tiền…

 *

Sáng hôm sau. Hắn thức dậy trên cái giường nhà hắn. Hắn thấy mình mẩy đau như dần, đầu nặng, miệng khô và đắng. Cổ thì ráo và rát cháy. Hắn đưa tay với ấm nước ở trên bàn để uống. Ấm nước đầy và nước hãy còn ấm. Ðó là sự ý tứ của Từ. Hộ hiểu thế, và lòng buồn nao nao. Bởi hắn lờ mờ nhớ ra rằng: hình như đêm qua hắn say rượu, đi la cà chán rồi về, lại gây sự với Từ; hình như hắn lại đánh cả Từ, đuổi Từ đi, rồi mới đóng cửa lại và đi ngủ… Hắn đột nhiên hoảng sợ, nhổm dậy, mắt nhớn nhác tìm Từ. Nhưng không! Từ vẫn còn nhà… Chắc hẳn trong lúc quá say, hắn gài cửa nhưng chưa gài được, thành thử khi thấy hắn ngủ mệt rồi, Từ lại bế con vào. Bây giờ Từ đang thiếp đi trên võng, đứa con nhỏ nằm bên. Từ vốn dậy sớm quen. Sáng nay, chắc Từ mệt quá, vừa mới lịm đi, nên mới ngủ trưa như thế. Ðầu Từ ngoẹo về một bên. Một tay Từ trật ra ngoài mép võng, sã xuống, cái bàn tay hơi xòe ra lỏng lẻo. Dáng nằm thật là khó nhọc và khổ não. Hắn bùi ngùi. Chao ôi! Trông Từ nằm thật đáng thương! Hèn chi mà Từ khổ cả một đời người! Cái tướng vất vả lộ ra cả đến trong giấc ngủ. Hộ nhớ ra rằng: một đôi lúc, nếu nhìn kỹ thì Từ khó mặt lắm. Ðột nhiên Hộ nảy ra ý muốn lại gần Từ, nhìn kỹ xem mặt Từ lúc bây giờ ra sao? Hắn rón rén, đi chân không lại. Hắn ngồi xổm ngay xuống đất, bên cạnh võng và cố thở cho thật khẽ. Hắn ngắm nghía mặt Từ lâu lắm. Da mặt Từ xanh nhợt; môi nhợt nhạt; mi mắt hơi tim tím và chung quanh mắt có quầng, đôi má đã hơi hóp lại khiến mặt hơi có cạnh. Hộ khẽ thở dài và lắc đầu ái ngại. Hắn dịu dàng nắm lấy tay sã xuống của Từ. Cái bàn tay lủng củng rặt những xương! Trên mu bàn tay, những đường gân xanh bóng ra, làn da mỏng và xanh trong, xanh lọc. Cái cổ tay mỏng manh. Tất cả lộ một cái gì mềm yếu, một cái gì ẻo lả, cần được hắn che chở và bênh vực… Một vẻ bạc mệnh, một cái gì đau khổ và chật vật, cần được hắn vỗ về an ủi… Thế mà hắn đã làm gì để cho đời Từ đỡ khổ hơn? Hắn đã làm gì để cho Từ khỏi khổ? Nước mắt hắn bật ra như nước một quả chanh mà người ta bóp mạnh. Và hắn khóc… Ôi chao! Hắn khóc! Hắn khóc nức nở, khóc như thể không ra tiếng khóc. Hắn ôm chặt lấy cái bàn tay bé nhỏ của Từ vào ngực mình mà khóc. Từ thức dậy, Từ hiểu ngay, không cần hỏi một câu nào cũng hiểu. Và Từ cảm động. Mắt Từ giàn giụa nước. Từ khẽ rút tay ra, vòng lên cổ chồng, nhẹ nhàng núi hắn vào, để hắn gục đầu lên cạnh ngực Từ. Hắn lại càng khóc to hơn và cố nói qua tiếng khóc:

– Anh… anh… chỉ là… một thằng… khốn nạn!…

– Không!… Anh chỉ là một người khổ sở!… Chính vì em mà anh khổ…

Từ bảo thế. Tay Từ níu mạnh hơn một chút. Ngực Từ thổn thức. Từ chực ngả đầu sát vào vai Hộ. Nhưng đứa con, bị giằng, khóc thét lên. Từ vội buông chồng ra để vỗ con. Tiếng vẫn còn ướt lệ, Từ dỗ nó:

– A! Mợ đây! Mợ đây mà! Ôi chao! Con tôi nó giật mình… Mợ thương…

Hộ đã tránh chỗ để Từ đưa võng… Từ vừa đưa vừa hát:

Ai làm cho gió lên giời,
Cho mưa xuống đất, cho người biệt li;
Ai làm cho Nam, Bắc phân kỳ,
Cho hai hàng lệ đầm đìa tấm thân…

 NAM CAO        

Thứ Năm, 22 tháng 6, 2023

BÓNG MÁT - Phạm Ngủ Yên

 

Những ngày tháng học trò của tôi không có gì đáng nói. Bởi vì nếu nói ra chỉ thêm xấu hổ khi tôi bị bắt buộc phải rời khỏi lớp học ngay giữa năm học đệ tứ. Nhưng tiếc thay ngày đó tôi không hề xấu hổ và không coi đó là một tai nạn lớn của đời mình. Mùa hạ là mùa tương đôi tôi yêu mến nhứt bởi vì tôi được nghỉ suốt ba tháng không phải đi học - dù mùa hạ ở cao nguyên không làm gì tìm ra được một cánh hoa phượng - chỉ có mưa và ngày tháng lạnh chết người. Và chỉ có một người nữa yêu thích mùa hạ không có hoa phượng đó của tôi : Hà Huệ.

Đó là người con gái nhỏ hơn tôi hai tuổi nhưng lại học cùng lớp (một điều thật tai hại nếu thỉnh thoảng tôi bắt nàng phải nghe lời tôi - mà chắc chắn là không bao giờ nàng nghe lời). Và điều tai hại nữa là dù mới mười bốn tuổi, Hà Huệ đã chứng tỏ là nàng cao hơn tôi nếu nàng chịu mang giầy cao gót. Nhiều lúc đi bên cạnh nàng tôi mắc cỡ muốn chết. Tên nàng là Hà thị Huệ (sao lại là Hà nhỉ?) Và tôi gọi tắt là Hà Huệ đúng với đường lối thích gọn gàng của nàng. Có lần tôi nói:

- Tên bồ nghe có vẻ Hồ Quảng quá.

Tức thì nàng hất mặt lên và kênh:

- Yêu cầu ăn nói đứng đắn, đừng xuyên tạc.

Sự phản ứng của tôi phải nói là quá chậm, mặc dù trên địa hạt thể thao tôi là cây vợt gỗ xếp sòng của trường. Khi tôi còn đang suy nghĩ để nói những câu khác đầy tính chất chê bai cái họ của nàng thì Hà Huệ đã lái câu chuyện sang chiều hướng khác. Cho đến ngày tôi rời khỏi trường và đi lính tôi vẫn chưa chắc chắn được rằng nàng có phải Tàu lai không. Nhưng hề gì, giữa tôi và nàng có nhiều điều để thông cảm nhau trước khi có những điểm lỉnh kỉnh khác để gây gổ nhau. Vả lại, nàng đâu phải đứa con gái duy nhất tôi thích ở đây. Như hôm tôi được loan báo giữa sân cờ và mấy ngàn học sinh khác rằng nhà trường rất tiếc đã không nhận dạy dỗ cho tôi đến hết niên học, tôi được mời lên văn phòng hiệu trưởng để hợp thức hóa tình trạng rời khỏi học đường vì lý do kỷ luật. Tôi cũng rất tiếc là mình đã không tỏ vẻ buồn rầu tí nào trong trường hợp này, trái lại còn tỏ ra khoái chí nữa là khác. Ông hiệu trưởng già nua trước tuổi với cặp kính cận muốn chiếm gần hết khuôn mặt rất thường hay giơ tay lên trời những khi ông cảm thấy bất lực. Tôi còn nhớ là ông rất nhiều lần giơ tay lên trong buổi sáng đó. Sau lưng ông là khung cửa được mở ra bên ngoài, nhìn xuống khu vườn trồng đầy hoa. Tôi đứng lặng yên, nghĩ đến khoảng cách từ phòng ông đến khu vườn mà không biết cách nào hái cho Hà Huệ những cánh hoa ngoài đó mà không bị phát giác. Đôi lần tôi phàn nàn với người gác dan già của trường là những cây hoa kia đáng lẽ nên được trồng ở một nơi nào đó, ít ra không phải là phía sau của căn phòng ông hiệu trưởng già nua không hề thưởng thức được những cành lá mềm mại và những cánh mỏng êm đềm. Cũng như không hề biết xót xa khi ở trong này chợt nghe một vài cơn mưa đổ xuống. Vườn hoa đẹp làm tôi thương nhớ một thời gian, sau nay khi phải bỏ đi, tôi nghĩ mình mất rất nhiều thứ, trong đó có nó. Tôi ước ao được làm cánh bướm bay phiêu du trong những ngày tháng mỏng và không lâu bền. Vì cánh bướm nào cũng vui và cũng vô tư hết sức.

Buổi chiều hôm đó thật tuyệt diệu nếu Hà Huệ không bắt tôi chờ đợi quá lâu. Con nhỏ lúc nào cũng tỏ vẻ muốn chơi gác tôi. Nhưng dù sao mấy cành hoa tôi sắp sửa cho nàng cùng nỗi vui được làm người lớn khiến tôi có thể chịu đựng được. Nhưng khi thấy chiếc áo len xanh của nàng hiện ra giữa vòm cây cùng chiếc khăn quàng quấn ngang cổ nàng có vẻ thật ấm áp trong khi tôi chỉ có một chiếc áo phong phanh và chân thì mang dép, tôi bỗng giận dữ:

- Tại sao lúc nào bồ cũng bắt tôi phải đợi? Làm bộ vừa chứ?

- Tôi ra đây để bồ sỉ vả phải không? - Nàng cười. Nàng luôn luôn có nụ cười mà ai nhìn thấy cũng không thể giận được, nhất là tôi.

- Bồ ở trong đó ấm áp nên cứ tưởng tôi đứng ngoài này dễ chịu lắm chắc? Lạnh chết được. (Tôi giơ mấy cành hồng Brigite lên trước mặt nàng) Tặng bồ mấy cành đẹp nhất ở vườn ông hiệu trưởng, và lưu ý với bồ là khi tôi đi khỏi đây rồi sẽ không có ma nào dám hái cho bồ đâu.

- Ở đó mà lối. Thiếu gì đứa hái cho tôi. Vả lại chưa chắc là chỉ có vườn ông hiệu trưởng là có hoa.

Tôi biết nàng nói dóc. Làm gì có đứa nào hái hoa tặng nàng. Nhưng tôi vẫn thấy tức trong bụng. Chúng tôi không nói gì thật lâu trên khoảng đường đi xuống nhà thờ. Buổi chiều có vẻ như xuống quá chậm. Có mấy người mặc áo khoác ngoài đi vội vã ngược về phía chúng tôi, cố cho kịp giờ lễ chiều. Trời lạnh. Tôi chợt thấy mình thấp hơn Hà Huệ rõ ràng.

- Ê hôm nay bồ có ghé vô nhà thờ không?

Vừa nói tôi vừa lóng cóng tìm bao thuốc, nhưng không còn điếu nào cả, vừa có ý nghĩ muốn nắm thử bàn tay nàng.

- Làm gì mà ghé? Tôi Tin Lành chớ không phải Thiên Chúa Giáo đâu. Sao bồ cứ quên hoài vậy?

- Ai biết. Cứ tưởng hai bên đều giống nhau.

- Khác.

- Nhưng cả hai đều khuyến khích mọi người nên yêu thương nhau kịch liệt.

- Vô duyên.

Đáng lý tôi không nên để Chúa gia nhập vào câu chuyện vớ vỉn này. Chỉ tại tôi thấy nhà thờ và cây thánh giá sừng sững trước mắt. Tôi không muốn nhìn con đường dẫn ra chợ. Trong túi tôi chỉ còn một ít tiền đủ để mua vài điếu thuốc lẻ, không đủ tiền để kêu hai ly kem hoặc hai chén chè ở đường Phan Đình Phùng. Tự dưng tôi thấy không thể chấp nhận được sự nghèo thiếu vô lý của mình. Nhưng tôi đã gặp được Huệ và gởi hoa cho nàng. Một buổi chiều quá đủ. Tôi tính bài tẩu:

- Nếu bồ không vào nhà thờ thì tôi vào.

Nàng bĩu môi:

- Có đạo đâu mà vào đó?

- Không cần. Suốt ngày nay tôi tội lỗi quá nhiều.

- Trong đó có chuyện ăn cắp hoa?

Tôi cười khoái trá:

- Ừ, nhưng bồ là nguyên nhân. Bồ đã cám dỗ tôi.

Và trong một vài giây, tôi cầm lấy bàn tay ở không của nàng, bóp mạnh, rồi chạy biến vào cánh cổng lớn của nhà thờ, trước khi nàng kịp phản ứng. Lần đầu tiên tôi đã tỏ ra lanh lẹ đúng lúc. Như một cây vợt nhà nghề.

*

Tôi quên nói đến một người tôi yêu mến nữa, ngang với mùa hè và Hà Huệ : Bác Nhượng, người gác dan già lâu năm nhất của trường. Bác có mặt từ những ngày trường xây xong, có lần nghe bác nói với tôi như thế, có lẽ trời sinh bác ra để làm công việc giữ gìn và coi sóc nơi mà ai cũng chịu thua sau ma quỷ. Và những đứa học trò con trai chúng tôi dù sống trong một thành phố yên tịnh bởi sương mù quanh năm nhưng không có được cái thầm lặng của đồi thưa núi trọc. Chúng tôi là những con nai nhỏ và những con báo con giữa đám con gái làm bộ hiền lành nhưng ẩn dấu nét ma mãnh của loài sóc. Và tôi là một đứa con trai xuất sắc trong bộ môn phá.

Tôi thật không thích lắm nếu phải đi thẳng từ nhà đến trường một lèo, nên đã ghé nhiều nơi không có vẻ dính líu gì đến vấn đề học hành cả. Chẳng hạn như quán cà phê, bàn billard (tôi không thích chơi billard nhưng đến để coi người lớn đánh độ - và vì tại đây có một bàn ping pong). Mỗi lần ghé lại như vậy là tôi đến trường sau giờ học. Cổng chính ra vào được đóng chặt bởi tay bác Nhượng. Tôi bỏ tất cả tập sách vào bụng áo men tường, đến một góc tương đối thấp, có dây leo thòng lọng treo thật nhiều hoa màu tím mà tôi không hề biết tên, trèo vào. Tại đây trong lần trèo thứ nhất của cuộc đời đi trễ tôi gặp bác Nhượng. Hôm đó, sau khi nhảy hẳn vào phía trong, chân vừa dẫm lên bãi cỏ êm ái, cuốn sách toán bỗng tuột hẳn ra khỏi áo, tôi cúi xuống để nhặt thì có tiếng la:

- A. Xếp nào ngon dữ. Trời đất, bây giờ loạn rồi.

Tôi ngẩng lên, cuốn sách cầm ở tay, cười cười:

- Cháu mà bác. Sao bác đóng cổng sớm quá?

- Giờ nầy mà sớm? Rồi làm sao vào lớp đây?

- Cháu vào được, chỉ cần bác đừng báo Giám thị, nghe bác.

- Không báo, để mấy cậu leo sập hết tường phải không?

Nhưng bác không bao giờ nói lại với ai cả. Tôi biết chắc như vậy. Và tôi yêu bác từ những ngày đó. Không phải bác làm lơ để chúng tôi nhảy tường vào hay nhảy tường ra, mà tôi yêu đời sống bình dị của bác. Có những việc làm mà ở một tuổi nào đó người ta mới đảm nhiệm nổi - tuổi khác không thể. Tôi cũng yêu công việc của bác làm đầy tính chất dịu dàng. Một ngày như mọi ngày, đóng cổng mở cổng, chăm sóc vườn cỏ vườn hoa. Bác làm những việc đó với sự thận trọng như thể làm cho gia đình. Sau đó bác rút về chỗ của mình, một căn nhà gạch cũ ở khu đất dùng để xây phòng thí nghiệm mai sau. Tôi nghĩ căn nhà của bác phải là căn nhà đẹp nhất của trường. Dù nó lâu đời như chủ của nó. Vì ở đó, cách một bức tường nhỏ, vào mùa hạ mưa điểm lấm tấm những đài hoa bụp trắng ngần, tôi đứng nghểnh cổ nhìn sang nhà Hà Huệ. Buổi sáng chủ nhật có sương bay phơi phới trông rõ như những hạt bụi mỏng. Tôi muốn thở khói bay thật xa qua đến tận nhà nàng. Bác Nhượng hình như nghi ngờ sự có mặt của tôi sau nhà bác (nó có vẻ tà đạo):

- Cậu nầy thật lạ. Ngày thường thì làm biếng không muốn đến lớp. Nhưng ngày nghỉ thì lại tới đều đặn. Cậu đến thăm tôi đấy chắc?

- Cháu không thăm bác thì thăm ai?

- Vậy mà tôi thấy con chó bên nhà kia hình như nó không thích cậu đến thăm tôi tí nào.

Tôi cười:

- Bác tinh thật. Nhưng này bác Nhượng ơi. Bỏ chuyện con chó hắc ám đó đi. Hôm nào cháu có tiền, nghỉ học, cháu đến mời bác uống cà phê.

- Thôi cậu. Tiền có cứ để dành mà xài. Vả lại, từ lâu tôi không có thói quen uống cà phê sáng.

- Sáng lạnh như ở đây mà bác không uống cà phê làm sao chịu nổi?

- Tôi uống trà nóng và tiếp sức bằng cái nầy - Bác chỉ cái điếu bằng tre ở bên cạnh bếp đèn dầu hỏa - Có nó đỡ lằm. Nếu cậu là người lớn thì tôi mời cậu thử ngay. Bây giờ nhứt định không được.

Tôi lắc đầu:

- Cháu chịu, cháu không thấy thích thứ nầy, dù cháu có là người lớn.

Tôi thở khói thuốc xanh trên những mạng nhện óng ánh những giọt sương của một cành ngo mọc gần đó, dù buổi sáng mặt trời lên thật cao. Trông cành ngo thật lẻ loi hết sức. Vòng khói không bám vào đâu hết và tan đi. Tôi chào bác Nhượng để về, nghĩ đến mùa bãi trường sắp đến chắc làm bác buồn bã vô cùng. Không có điều gì làm cho người ta sợ hãi bằng sự cô đơn. Ba tháng đối với bác thật chán phèo, trong khi đối với tôi thật vô cùng dễ chịu. Tôi trái ngược với bác nhiều thứ, nhưng cần gì. Miễn là tôi vẫn yêu bác là đủ.

*

Như trên tôi đã nói Hà Huệ không hẳn là người con gái tôi mến duy nhất. Dù tôi còn quá trẻ để hiểu những điều rõ rệt của tình yêu. Như một người lớn. Tôi lại không hề nghĩ đó là khởi đầu cho một tình yêu. Chỉ biết rằng nếu có thể được đi giữa những vòm cây xanh phủ kín mặt trời với người con gái nhỏ hơn tôi vài tuổi, hay lớn hơn tôi vài tuổi, thay vì ôm mấy cuốn sách đến lớp học. Tôi thích ghê gớm những đóa hoa lạ lùng và tình cờ gặp bên vệ đường và cũng ghét ghê gớm những con số vẽ đầy trên bảng đen. Đóa hoa, như thể một trong những quà tặng của đất trời. Dù trên những cành lá mỏng và yếu đuối hay trên những gai nhọn đâm chảy máu tay người. Đóa hoa nào cũng đáng yêu và chứa đầy hạnh phúc. Một lần trong đêm tối, đe dọa bởi rắn rít và chó dữ, tôi đã cố bò qua nhà hàng xóm, hái cho được mấy cành hồng tôi vừa thấy buổi chiều. Sương trên cỏ non làm ướt hai đầu gối, thấm qua lớp vải dầy thật khó chịu và gai đâm nhức mấy đầu ngón tay. Không bao giờ Hà Huệ biết những điều đó cả. Khi thấy tôi cho nàng những đóa hoa hái vội vàng đó nàng nghĩ rằng tôi hái thật dễ dàng cũng như để chọc tức tôi, nàng chê chúng thật quê mùa.

- Bồ cho nhiều quá rồi bình đâu tôi cắm đây?

- Không biết. Nếu không có bình thì trả lại đây cho tôi.

Tôi hờn giận. Tôi không ưa những đứa con gái làm điệu như con gái. Tuy nói vậy, nhưng nếu nàng đưa trả cho tôi chắc tôi buồn ghê gớm. May mà nàng không trả lại, nhưng làm bộ nhận một cách không sốt sắng.
 
- Tôi về nhé - Nàng nói - Khuya quá rồi (nàng cũng không bao giờ đeo đồng hồ để xem giờ. Đó đâu phải là lý do để cho nàng lúc nào cũng trễ hẹn đâu?) Tôi chưa học bài gì cả. Sáng mai có giờ của cô Tố Lan phải không?

- Hình như vậy. Nhưng tôi nghĩ là cô Tố Lan sẽ hát hay hơn là chia verbe.

- Chưa chắc. Bên tụi nầy không thích nghe cô ấy hát. Cô ấy có vẻ thích dạy bên bồ hơn.

Nhờ bóng tối nên Hà Huệ không thấy gương mặt nóng bừng của tôi. Tôi cảm động vài giây bên cạnh nàng. Đã sắp đến ngã rẽ về nhà nàng. Tôi sắp chia tay nhưng không thấy buồn bã lắm. Tôi nghĩ đến tiếng hát cô giáo dạy Pháp văn chúng tôi và nếu Hà Huệ không thấy thích cô Tố Loan đó là quyền của nàng. Riêng tôi thấy cô hát hay hơn bất cứ ca sĩ nào tôi nghe hồi đó. Tôi dừng lại ngồi xuống vệ đường. Hà Huệ đã bỏ đi. Những bài thơ tình tôi biết làm lẩn đầu tiên không phải để tặng Hà Huệ mà cho tiếng hát của cô giáo. Dù cô giáo không hề biết bài thơ tôi làm ra làm sao và nếu đọc được chưa chắc đã biết tác giả của nó là ai. Cô chỉ đến lớp dạy chúng tôi tám giờ trong một tuần lễ. Rồi trở về một mình. Tôi không biết trên đường về nhà cô có hát bài hát nào không? Nếu có, những lá cỏ non mọc hai bên vệ đường chắc phải có một ngày thật vui. Nghĩ đến ý nghĩ muốn được làm lá cỏ trên đoạn đường đi của cô Tố Loan, tôi thích thú cười một mình. Đêm lạnh hơn sự tưởng tượng của tôi. Tôi thấy thèm một điếu thuốc hơn bao giờ hết. Khăn choàng cổ được quấn cẩn thận. Có một đêm tôi cũng quấn khăn như thế này nhưng không thấy lạnh lắm vì ngọn lửa quá ấm áp. Sáng hôm sau có đứa bạn quả quyết là nhờ có tiếng hát của cô Tố Lan mà đêm lửa trại ấm áp thêm phần nào. Đêm đó cô hát bản Thu Vàng của Cung Tiến. Và khi tiếng hát đầu tiên vừa cất lên giữa bóng tối lặng lẽ của sương mù và ánh sáng reo vui của ngọn lửa từ mấy thân cây thông được dùng làm củi, tôi thấy thương cô giáo mình quá đỗi. Có đóa hoa nào nở dịu dàng trong hồn tôi cùng tiếng hát của cô (tôi dùng chữ dịu dàng chắc không đúng lắm, vì suốt đêm hôm đó và những đêm sau nữa tôi đã không hề ngủ sớm được). Cô đã hát một bài thật hay trong một đêm thật tuyệt vời.

*

- Bác Nhượng. Hôm nay cháu mời bác một ly cà phê. Sáng mai cháu không thèm đến trường này nữa.

Bác Nhượng đứng ở cổng định vào trong, nghe tiếng tôi bác nhìn ra:

- Cậu đó à? Đi đâu mất biệt mấy hôm rày? Như vầy là chấm dứt rồi.

- Chấm dứt cái gì bác?

- Chấm dứt chuyện leo rào và hái trộm hoa, trường này chắc buồn dữ.

- Ủa, bác biết cả chuyện đó sao bác?

- Sao không. Nghề của tôi mà.

Quán cất gần nhà giữ xe, cạnh cổng ra vào. Quán nhỏ, nhưng cà phê thì tuyệt vời. Tôi gọi một ly cà phê sữa thêm cho bác Nhượng.

- Nhất định ngày hôm nay bác phải uống. Để mừng ngày bác hết bị quấy rầy bởi cháu.

- Hết cậu rồi sẽ đến người khác. Làm sao hết được. Ngôi trường mà không có những cảnh đó thì thầm lặng quá.

Bác ngồi xuống chiếc ghế đầu, khuấy đều ly cà phê. Có một thoáng mưa qua những vòm lá trên đầu chúng tôi. Mưa mỏng gần như không có.

Có tiếng ai gọi bác bên trong sân trường. Bác vội đứng lên:

- Hình như ông hiệu trưởng cần tôi. Cậu để tôi vào một tí rồi ra. Cậu cứ uống trước đi.

Bác đứng dậy chạy nhanh vào trong. Ly cà phê của bác còn đầy. Bác chưa kịp uống tí nào. Còn lại một mình, tôi khuấy từng vòng chậm ly cà phê của tôi. Tiếng muỗng va nhẹ vào thành ly. Tôi biết bác không bao giờ trở ra để uống kịp ly cà phê của mình, sắp nguội. Tôi muốn mình bỏ đi khỏi đây, đừng bao giờ trở lại nơi này. Không cần biết cây đào ở nhà Hà Huệ sau mùa này sẽ nở hoa nhiều hay ít. Bởi có loài hoa nào nở mãi trong mùa niên thiếu của mình mà không hẹn ngày tàn rụng? Cũng như không có đóa hoa nào mọc mãi trong hồn người.

*

Chắc chắn là không bao giờ mọc mãi. Vì Hà Huệ bây giờ đã lớn. Tôi không còn nhìn thấy nàng khi đứng sau nhà bác Nhượng trong buổi sáng tôi đến trường cũ để thi. Bác Nhượng đã chết lâu lúc tôi còn vất vả ngoài quân khu một. Căn nhà của bác bây giờ làm nhà kho của trường và người lính đứng ở đó thấy nó quạnh hiu quá. Tôi không biết khu vườn của ông hiệu trưởng thêm cây hoa nào và mất cây hoa nào. Vì tôi đã bỏ cuộc ra về ngay từ giờ thi thứ nhất. Có lẽ tôi chỉ suốt đời làm một nhân chứng mà không hề dám nhập cuộc - như người gác dan già của ngôi trường miền núi mỗi năm đứng nhìn đám trẻ hân hoan đi vào cổng trường thay cho đám đàn anh buồn bã bước ra. Tôi dĩ nhiên không còn là trẻ thơ để có quyền trở vào lại nơi mà tám năm trước tôi tình nguyện bước đi. Vì mỗi bước đi gần đến cuộc đời sẽ bỏ xa bóng mát thơ ấu của mình thêm một chút. Tôi tự ý từ chối bóng mát đó, để chạy ra ngoài tìm kiếm những khoảng trời mà tôi tin rằng sẽ rực rỡ hơn - không hề biết rực rỡ quá nhiều sẽ làm mình chóng mặt. Bởi thế, tôi không buồn bao nhiêu nếu một sáng nào đó, đứng ở trước khu Hòa Bình tình cờ trông theo Hà Huệ hoặc cô Tố Lan đi những bước thật êm đềm bên chồng con. Chỉ hối tiếc bác Nhượng không chịu trở ra để uống hết ly cà phê phần bác.


PHẠM NGỦ YÊN     

(Trích từ tạp chí Văn số tháng 3-1975)
 
 

Chủ Nhật, 18 tháng 6, 2023

TRỞ VỀ - Thạch Lam

Mùa hè năm nay, Tâm và vợ chàng về nghỉ mát ở nhà một người bạn ở vùng thôn quê. Khi người bạn mời thì Tâm nhận lời ngay, vì chàng tính được chỗ nghỉ mát suốt một tháng hè không phải mất tiền, vả lại tiện hơn nữa, chàng có dịp về thăm nhà cũng ở gần đó.

Hôm ấy trời nắng mà có gió. Buổi sáng, ăn điểm tâm xong, hai vợ chồng Tâm bắc ghế ngồi ngoài hiên hưởng gió mát. Người bạn Tâm vì có việc phải ra tỉnh từ sớm. Tâm sực nhớ đến việc về thăm nhà, mà từ khi về nghỉ đến giờ, chàng cứ để lần lữa mãi. Chàng nói với vợ:

– Hôm nay thế nào tôi cũng phải về thăm nhà mới được.

Vợ đáp:

– Thế còn tôi, tôi làm gì cho hết ngày hôm nay? Ngồi đây mãi thì chán chết.

– Độ năm giờ chiều tôi đã về đây rồi.

Vợ Tâm nũng nịu:

– Thế thành ra suốt một ngày tôi ở đây một mình à? Cậu ích kỷ lắm, chỉ biết nghỉ đến công việc của cậu, mà không nghĩ đến tôi cả.

Tâm ngẫm nghĩ. Muốn chiều vợ chàng bàn:

– Hay là thế này thì tiện nhất. Mợ cùng đi với tôi. Đến ga, chúng ta rẽ vào cao lâu ăn cơm sáng. Rồi mợ đợi tôi ở đấy, tôi về thăm nhà độ một giờ, rồi tôi lại ra ngay.

Vợ chàng bằng lòng. Hai người đánh xe ô tô nhà đi đến nhà ga xe hỏa cách đấy độ một chục cây số. Đến nơi, hai người dạo chơi phố, rồi vào hàng cơm nghỉ.

Tâm bảo:

– Bây giờ mợ đợi tôi ở đây, tôi về thăm bà cụ.

– Phải đấy, nhưng đừng có ở lâu nhé. Cậu chớ quên rằng tôi đợi cậu ở đây đấy.

Tâm mặc áo đi ra, để vợ ngồi trong căn phòng mát mẻ ở hàng cơm. Chàng đi theo một con đường đất đỏ, hai bên toàn cây dâm bụt lá xanh thẳm.

Có đến năm, sáu năm nay, tâm không về thăm quê nhà. Trong thời gian ấy, ở Hà Nội, Tâm gắng sức làm việc để giành một cái địa vị trong xã hội. Chàng lấy vợ, con một nhà giàu có, cũng không cho mẹ biết. Thỉnh thoảng chàng nhận được ở nhà quê gửi ra một bức thư mà chữ viết non nớt nguệch ngoạc, và lời lẽ quê kệch. Tâm chỉ đọc thoáng qua rồi không để ý đến. Sống trong hoàn cảnh giàu sang chắc chắn, Tâm không bao giờ nghĩ đến quê nhà nữa. Hoặc có nghĩ đến, chỉ để lại tự chế riễu mình, khi còn nhỏ, đã có cái đời ở thôn quê là giản dị, và sung sướng. Chàng mơ màng yêu một cô thôn nữ, và ước mong cùng nhau sống trong cảnh thanh bạch dưới một túp lều tranh. Cái mộng ấy, bây giờ làm chàng khi nghĩ đến mỉm cười.

Không còn một cái liên lạc gì ràng buộc Tâm với thôn quê nữa. Những người họ hàng ở làng chỉ làm chàng sinh ghét, vì những sự đi lại nhờ vả lôi thôi. Còn đối với mẹ chàng, Tâm tin rằng đã làm đủ bổn phận khi mỗi tháng gửi về giúp bà cụ một số tiền, chàng lại càng tin như vậy lắm, khi nghĩ đến những cái khó khăn chàng phải vượt qua để có số tiền ấy. Bao nhiêu sự dối trá chàng phải cần đến để giấu không cho vợ biết! Có khi chàng nghĩ giận bà mẹ, vì bà mà chàng phải giấu diếm như thế.

Tuy vậy, khi đến gần đầu làng, Tâm trong lòng cũng thấy cảm động. Hai bên cánh đồng lúa xanh gió đưa như nổi sóng. Trên đường giải đá, mặt đất khô rắn lại và nứt nẻ nhiều chỗ. Tâm nhớ lại cái đất ấy đã làm đau đớn bàn chân non nớt của chàng khi còn nhỏ ngày ngày cắp sách đi học.

Một cái cảm giác mát lạnh bỗng trùm lên hai vai: Tâm ngửng đầu lên nhìn, chàng vừa đi vừa bước vào dưới vòm lá tre xanh trong ngõ. Mấy đứa trẻ nhà quê trần truồng và đen sạm đương chơi khăng ở vệ đường. Khi thấy chàng đi qua, chúng đưa những cặp mắt bẩn thỉu nhấp nháy nhìn, và chùi tay giây bùn vào bắp chân. Nghĩ đến thuở nhỏ, chàng cũng chỉ là một đứa bẩn thỉu như những đứa trẻ này, Tâm tự phụ vì mình bây giờ đã vượt hẳn được cái bực nghèo hèn ấy.

Khi vào đến sân nhà, Tâm thấy bốn bề yên lặng, không có bóng người. Cái nhà cũ vẫn như trước, không thay đổi, chỉ có sụp thấp hơn một chút và mái gianh xơ xác hơn. Tâm bước qua sân đồi đẩy cái liếp bước vào. Vẫn cái gian nhà mà chàng đã sống từ thuở nhỏ. Tâm cất tiến gọi. Chàng nghe thấy tiếng guốc đi, vẫn cái tiếng guốc ấy, thong thả và chậm hơn trước, rồi mẹ Tâm bước vào. Bà cụ đã già đi nhiều, nhưng vẫn mặc cái bộ áo cũ kỹ như mấy năm về trước.

Khi nhận ra con, bà cụ ứa nước mắt:

– Con đã về đấy ư?

– Vâng, chính tôi đây, bà vẫn được mạnh khỏe đấy chứ? – Câu nói như khó khăn mới ra khỏi miệng được, vì Tâm thấy cái lãnh đạm của mình.

– Bà ở đây một mình thôi à?

Bà cụ cảm động đến nỗi không nói được. Một lát bà mới ấp úng:

– Vẫn có con Trinh nó ở đây với tôi.

– Cô Trinh nào? Có phải cô Trinh con bác Cả không? Tâm nhớ mang máng cái cô con gái bé nhỏ ngày trước vẫn hay chơi với chàng. Tôi tưởng cô ta đi lấy chồng rồi.

Bà cụ ngồi xuống chiếc phản gỗ, đáp:

– Đã lấy ai đâu. Con bé dở hơi chết đi ấy mà. Cũng đã có mấy đám hỏi, mà nó không chịu lấy. – Bà cụ yên lặng một lát. – Thỉnh thoảng nó vẫn nhắc đến cậu đấy.

Tâm nhún vai, không trả lời. Tuy ngoài trời nắng, mà Tâm thấy bên trong cái ẩm thấp hình như ở khắp tường lan xuống, thấm vào người.

Bà cụ âu yếm nhìn con, săn sóc hỏi:

– Năm ngoái bác Cả lên tỉnh về bảo cậu ốm. Tôi lo quá, nhưng quê mùa chả biết tỉnh thế nào mà đi, thành ra không dám lên thăm. Bây giờ cậu đã khỏe hẳn chưa?

Tâm nhìn ra ngoài đáp:

– Như thường rồi. – Rồi muốn nói sang chuyện khác, Tâm hỏi:

– Ở làng có việc gì lạ không?

Bà cụ trả lời:

– Chả việc gì lạ sất, ngày nào cũng như ngày nào, nhưng được có con Trinh sang đây với tôi nên cũng đỡ buồn. Nó thường vẫn làm giúp tôi nhiều công việc, con bé thế mà đảm đang đáo để, đã chịu khó lại hay làm.

Có tiếng người đi ở ngoài vườn. Bà cụ ngừng lại: Có lẽ nó về đấy. Rồi bà cụ cất tiếng gọi:

– Trinh đấy phải không con? Vào đây, có cậu Tâm vừa về chơi.

Một thiếu nữ lách cửa liếp bước vào. Tâm trông ra thấy một cô gái quê ăn mặc giản dị, nhưng sạch sẽ. Đôi mắt Tâm gặp đôi mắt cô ta, đen láy, mở to nhìn chàng:

– Cậu Tâm đấy, con không nhớ ư?

Cô Trinh mỉm cười:

– Thưa, có ạ, ai chứ cậu Tâm thì quên thế nào được.

Hình như lỡ lời, cô thiếu nữ cúi mặt, hơi e lệ. Cái cử chỉ ấy, và lời nói đã không làm cho Tâm cảm động, lại làm cho chàng hơi ghét. Cô gái quê mùa tưởng chàng để ý đến chắc? Vì vậy, Tâm cất tiếng hỏi hơi sẵng:

– Thế nào, cô Trinh còn đợi gì mà không lấy chồng đi cho tôi ăn mừng.

Thấy thiếu nữ không trả lời, Tâm để ý nhìn. Chàng thấy cô ta không thay đổi, tuy có nhớn lên mà vẫn là cái cô bé chơi đùa với chàng thuở còn nhỏ. Tâm nhận thấy, ở thôn quê, người ta không thay đổi mấy, và tính tình vẫn giữ được y nguyên. Nhưng chàng, thì chàng thay đổi khác hẳn rồi. Những kỷ niệm cũ đối với chàng bây giờ thành ra trẻ con và vô vị. Tâm không thấy có sự tha thiết giữa chàng và cảnh cũ nữa. Bây giờ, chàng không khi nào có cái ý tưởng điên rồ đi lấy một cô gái quê như Trinh để sống một cái đời tối tăm nghèo khổ.

Tâm lơ đãng nghe lời mẹ kể những công việc và cách làm ăn ngày một khó khăn ở làng. Chàng dửng dưng không để ý đến. Con bác Cả Sinh lấy vợ, hay chú bác ta chết thì có can hệ gì đến chàng? Cái đời ở thôn quê với đời của chàng, chắc chắn, giàu sang, không có liên lạc gì với nhau cả.

Câu chuyện nhạt dần. Những câu hỏi và sự săn sóc của bà cụ về công việc của chàng chỉ làm cho Tâm khó chịu. Chàng trả lời qua loa lấy lệ.

Nghĩ đến vợ đợi, Tâm vội vàng đứng dậy. Bà cụ nhìn theo khẩn khoản:

– Cậu hãy ở đây ăn cơm đã. Đến chiều hãy ra.

– Thôi, bà để tôi về. Độ này bận công việc lắm.

Tâm lại an ủi:

– Nhưng thế nào có dịp tôi cũng về.

Rồi Tâm mở ví lấy ra bốn tấm giấy bạc 5 đồng đưa cho mẹ. Tâm hơi kiêu ngạo, trước mặt cô Trinh, chàng nói:

– Đúng hai chục, bà cầm lấy mà tiêu, có thiếu tôi lại gửi về cho.

Bà cụ run run đỡ lấy gói bạc, rơm rớm nước mắt.

Tâm làm như không thấy gì, vội vàng bước ra:

– Thôi, bà ở lại. Chào cô Trinh nhé. Bảo tôi có nhời hỏi thăm tất cả họ hàng.

Ra đến ngoài Tâm nhẹ hẳn mình. Chàng tự cho đã làm xong bổn phận.

Khi Tâm bước vào hàng cơm, vợ chàng vui mừng lộ ra nét mặt, vì không ngờ chàng chóng thế. Trời hãy còn sớm. Hai vợ chồng rủ nhau đi ngắm cảnh, đợi đến chiều mát sẽ đi ô-tô về hứng gió.

Hai người đi quanh quẩn trong phố, nhìn những cửa hàng nước tiều tụy của ta và những hiệu lớn của người Khách. Mặt trời xế ngang chiếu ánh nắng lóe vào mắt, và giải vàng lên trên những mái nhà tranh. Chợ đã vãn: những người đàn bà gồng gánh sắp ra về, trên mặt đất đầy những rác bẩn, những vỏ dưa, những lá gói ; một cái mùi âm ấm bốc lên, cái mùi đặc biệt, hình như lẫn mùi đất, mùi ẩm, và mùi rác đốt. Tâm nhớ lại rõ rệt những ngày trẻ.

Bỗng nhiên, Tâm giật lùi lại: Một bà cụ già khom lưng dựa bên một cô con gái, đi ra phía ga. Tâm nhận ra bà mẹ. Có lẽ bà cụ muốn được trông thấy con một lần nữa. Chắc bà tưởng Tâm đi xe hỏa. Chàng lộ vẻ khó chịu. Bà cụ còn ra đây làm gì? Tâm sợ lúc bà cụ lại khóc lóc, để cố giữ chàng lại. Hay nắm lấy áo chàng mà kể lể giữa chốn đông người. Chàng tưởng nghe thấy những câu bình phẩm to nhỏ, và trông thấy những cái mỉm cười chế riễu của mọi người. Vợ chàng sẽ nói thế nào?

– Thôi, chúng ta về ngay đi.

Tâm nói như người sốt ruột, giật cánh tay vợ rảo bước mau.

Đợi bà cụ đi khuất đầu phố, Tâm và vợ trở lại nhà hàng trả tiền, rồi đánh xe ra ngoài. Máy chạy đều, cái xe êm ru bắt đầu lướt trên đất.

Khi đến chỗ quặt quá ga, bỗng nhiên Tâm thoáng thấy đứng bên cạnh đường, một bà cụ già khom lưng dựa vào một cô con gái. Chiếc xe chạy bắn vọt bùn lên quần áo hai người. Trong một giây, Tâm thấy cặp mắt đen láy của cô gái quê mở to ngạc nhiên nhìn mình.

Tâm không ngoảnh lại, chàng nghĩ đến bà mẹ, đến cô Trinh vẫn chơi đùa với chàng thuở nhỏ. Song những hình ảnh ấy như xa xăm lắm, và Tâm vẫn thấy dửng dưng không bận tâm trí. Giữa những kỷ niệm ấy với Tâm, như có một cái bờ ngăn cản: xe ô tô, vợ chàng, cái đời sang trọng, sung sướng của chàng hiện giờ.

Phong cảnh đồng ruộng hai bên đường vùn vụt trốn lại sau như càng làm xa cách chàng với cảnh thôn quê cũ.
 

THẠCH LAM    

(Trích từ tập truyện ngắn Gió Đầu Mùa)

Thứ Năm, 15 tháng 6, 2023

TRĂNG HUYẾT - Nguyễn thị Ngọc Minh

 

Biển ngợp ngụa trong màu đỏ của trăng. Tôi ngợp ngụa trong cái thứ nước mặn tanh đó. Đêm lặng gió, sóng nhỏ, những cù lao đen đủi ngoài kia khiêu khích. "Lúc nào buồn, em sẽ bơi ra đó, bứt một nhúm rong mơ rồi quàng lên cổ bơi về". Tôi thường nói câu đó với Huyên nhưng chưa bao giờ tôi thực hiện cả. Bởi mọi sự với tôi chưa có gì trầm trọng để gọi là buồn. Sự lì lợm đã như một món quà Huyên tặng riêng tôi trong những ngày sinh nhật vào mùa trăng huyết tháng tám. Huyên có cái lối trui luyện em gái như tập tục của một giống dân da đỏ ở vùng hàn đới nhúng trẻ sơ sanh vào nước suối và lớn lên một chút, xô nó xuống dòng sông cá sấu ; Nếu nó chịu được lạnh và cá sấu không ăn được thì coi như trời đã nhận. Tôi sẽ không cãi nếu có ai bảo Huyên không biết thương em. Cãi làm gì. Nói ra chẳng ai hiểu đâu. Mà cũng chẳng cần ai hiểu.

Huyên hơn tôi gần mười tuổi nên khi chơi với Huyên, tôi có cái dáng lúc thúc của một con gà con. Đúng hơn là con gà què. Một chuyến lên núi Tà-Cú nhân dịp Trung Thu, cái bánh xe đạp sau quấn nghiến bàn chân tôi. Huyên cõng tôi vào bỏ trong bụng ông Phật nằm dài 49 thước để đi kiếm thuốc. Trăng đêm đó cũng là trăng huyết. Hơi trăng hắt sáng qua khe mắt Phật rọi trên gót chân bầm tím của tôi lạnh như ai rắc băng trong tủy. Sau nầy tôi đi hơi cà nhót. Sao chẳng lúc nào tôi tỏ ý - dù ý thầm - oán giận Huyên. Nhà chúng tôi ở gần một cái đầm nước mặn, dưới chân một đồi cát, kề một nghĩa trang. Bên kia đầm là một vườn rau xanh ngắt ẩn dưới bóng cau rợp lá loáng thoáng thấy được bóng người. Một chỗ nửa chợ nửa quê. Bọc ngoài đồi cát đầy dứa dại táo gai là biển, nơi cung cấp những trò chơi không chán. Ngay trong nhà chúng tôi cũng đã có nhiều thứ để giải trí rồi. Con mèo chột là của Huyên. Con heo vá đen là của tôi. Con nhồng kêu được nhiều tiếng người là của Huyên. Đàn vịt có bệt sơn xanh đánh dấu trên lưng là của tôi. Chúng tôi còn chia nhau nhiều thứ. Cây đu đủ đực, giàn bầu, cụm hoa tử vi, chậu xương rồng hoa trắng muốt... Có một cái mà chúng tôi không thể chia. Đó là má. Cũng chẳng biết được má thương đứa nào nhiều hơn. Đôi lúc thấy Huyên "hành hạ" tôi quá, như là má cũng xót xa, nhưng ít khi nghe bà la anh về việc đó.

Mà mọi sự, rõ ràng là còn sự tự nguyện của tôi, Huyên đâu có ép. Đóng một cái nhà cho con heo sắp đẻ. Dựng thêm giàn cây. Đi quơ cây khô trên đồi về nhà chụm lửa. Khi tôi đang tuổi lớn, Huyên đi học xa. Nên trong một năm đối với tôi mùa hè là mùa thần tiên nhất. Có những chuyến phiêu lưu xa hơn giang san chúng tôi đang ở. Đến rừng dương lăn trên những nệm đá xanh óng ánh như triền suối chảy ở Đá ông Địa. Leo tận đồi mai rừng quanh đồi Lầu ông Hoàng. Chân vẹo xiêu lẽo đẽo theo anh khắp nẻo. Kỳ diệu nhất là đi trên nước biển. Thuở mới tập bơi, tôi đau đớn lùng bùng với cái chân xiêu vẹo. Cuối cùng, Huyên phải rứt tay tôi bám, xô mạnh. Cứ ngỡ chìm mất mình thì Huyên nắm cổ kéo lên.

Thường, cuối một dịp hè, Huyên thường có cái lối chào tạm biệt tôi bằng những cái xô thật bạo tàn mà một đời tôi khó quên. Vì nó thường trùng với mùa trăng sinh nhật của tôi. Lần tập bơi đó là một. Lần thứ hai trong một dịp đi hái dừa vườn hoang với anh. Trời lạnh và đầy sao. Một năm, trăng rằm lớn nhất vào tháng tám, đầy, to, tròn và đỏ như máu nhuộm khắp cảnh vật một màu u uất, tóc tang và hoang dã, đục mờ. Những rằm khác trăng trong thì sao biến đi. Nhưng tháng tám ở đây thì đặc biệt sao đầy dầu đêm rằm. Tháng tám ma quái của tôi! Huyên mang theo một cuộn dây dừa lớn để thòng trái xuống cho tôi tháo. Rồi như thường lệ hai anh em chọn hai gốc cây ngả lưng nói lung tung chuyện hay không nói gì hết. Gió thổi xô đẩy lá dừa rào rào không phân nổi với tiếng sóng ngoài kia. Hai tay tôi chắp sau ót thì Huyên gỡ ra, nói thầm vào tai: "Ngày xưa có thằng cha kia ăn xong trái vườn hoang buộc tiền vào gốc cây trả cho chủ. Bây giờ tao cột mầy vô đây để trả tiền mấy trái dừa". Huyên nói và Huyên làm. Rồi Huyên đi. Tôi định nói thôi em không chơi cái trò kỳ cục nầy đâu nhưng sự lì lợm khớp miệng tôi lại. Tay Huyên trói không chặt nhưng chắc chắn. Cọng dây dừa nhột nhạt cổ tay tôi. Nước mắt tôi chảy ào nhưng răng cắn nhất định không kêu. Có những người đi đánh vó khuya sóng sánh đèn bão ngoài bãi. Từng nhóm tới lui ẩn hiện như ma trơi. Tiếng cười nói lất lây trong cụm lá dừa nầy, bụi cây gai nọ. Sao vẫn nhiều và dầy. Trăng tươm ứa thêm màu máu sẫm. Vẫn còn một chút yên tâm rằng Huyên lẩn quất đâu đó, sẵn sàng ào ra nếu sinh vật nào ăn hiếp em gái anh.

Lần xô thứ ba nầy thì hết hy vọng đó rồi. Sau khi đỗ đầu trong kỳ thi ra trường, Huyên về nhà tuyên bố: "Sẽ lấy vợ trước khi trình luận án và... đi lính". Cái xô dứt tình, dứt nghĩa. Thôi thế là em sẽ bơi ra cù lao đó. Quàng rong mơ lên cổ rồi bơi về. Bơi về rồi làm gì nữa đây. Chị dâu tương lai của tôi quá đẹp. Điều đó khiến tôi hơi ngạc nhiên. Con người Huyên cứng cỏi, không có dấu vết của sự thường tình. Chính cái nhan sắc kia khiến cảm nghĩ đầu của tôi là mình bớt nhìn Huyên cao ngất như xưa. Bớt nhưng không hết. Làm sao hết! Có những ngày tôi không làm gì hết. Tôi nắm khềnh ra trên đệm lá dương khô, ngủ cho no, cho muồi hai mắt. Cũng có lúc thả mình nổi trôi lênh đênh trên mặt nước. Tôi đen như cục đất thó. Tóc cháy vàng chẻ đôi ngọn khô gẫy. Mặc dầu đám cưới chưa cử hành, nhưng tôi tránh đi chơi với Huyên.

Tôi hân hoan khi thấy những đóm buồn trách ẩn hiện trong mắt anh. Sự độc ác, lạnh lùng Huyên truyền thụ cho tôi được tôi thực tập với vài người quen. Nhưng họ hơi đần khiến tôi không còn hứng thú. Đâu dễ gì trời phát cho ta một đối thủ vừa tay. Những buổi đi chơi tay ba bề ngoài có vẻ thật dễ thương. Tần là người mềm mỏng, có cố gắng trong sự chiều chuộng tôi. Sau đó thái độ dửng dưng cửa tôi vẫn không thay đổi gì hết. Nhưng cũng có lúc bất thần nằm dưới vòm keo, nghe tiếng chim líu lo, bỗng dưng tôi xấu hổ với con chim vô danh nào đó. Nên về nhà cố gắng tỏ vẻ thân ái lại với Huyên, sốt sắng phụ tay vào việc dựng thêm một gian nhà mới cho đôi vợ chồng sắp cưới. Huyên cũng cười cầu hòa, chọc thẳng vào vết thương tôi: "Làm gì mấy ngày nay mày phịu mặt thế con nhỏ. Tần sẽ thay mày đi chợ, sẽ cho heo ăn, sẽ chia xẻ gần hết những việc nặng lâu nay của mầy". Tôi nói thầm: "Nhưng tôi đâu có ham. Tôi đâu có cần được như vậy". Huyên chọc thầm: "Rồi bộ mi không lấy chồng sao. Trong đám đó tao ngó bộ có mấy thằng trông được lắm." Nghe Huyên nói giọng buông xuôi chưa. Ngày nào lũ bạn trai của tôi còn khổ sở vì những trò hề của Huyên để trắc nghiệm từng đứa. Bây giờ thì đâm ra dễ dãi như vậy. Tôi bỗng nói to: "Thôi tốt hơn là Huyên đừng nói gì nữa cả thẩy".

Trời mưa bay bay ngoài nghĩa trang. Người xà ích nạt nộ tôi tránh lối cho xe mang gạch hồ vào xây một ngôi mộ mới. Đám ma nầy khi sáng tôi có gặp. Thằng nhỏ chết trạc tuổi tôi. Má nó khóc mùi mẫn. Ba nó mặt lạnh như đá. Như là ông có ngồi trên xe ngựa và ngó châm bẩm tôi. Tôi không nhìn lên nhưng tôi biết. Theo Tần kể, thằng nhỏ tự tử vì bực bội trước mối bất hòa của ba má nó. Tự tử bằng một cây súng của ông. Có vẻ như đó là một người có chức phận và danh vọng. Dĩ nhiên, từ đó sẽ kéo thêm nhiều mối bận tâm khác, phải chăng tôi bị quyến rũ từ đầu bởi nét khổ tâm trong mắt ông và nét quý phái sang trọng nơi người đàn bà vợ ông. Buổi chiều đó, tôi đứng dưới gốc cây đào ngắm người thợ hồ xây mộ và ngắm người đàn ông có nỗi khổ nát lòng ngụt trong hai mắt. Thỉnh thoảng ông có nhìn lại tôi, mắt dịu xuống. Nhưng mắt tôi không hề chớp. Tôi quan sát người cũng như quan sát vật để quên buồn. Vì trời mưa, tôi chưa thấy hứng bơi ra cù lao Hống.

Ngày cưới kề, Huyên đi xa một chuyến lấy cớ để mua một ít đồ cần cho đám cưới. Chắc chắn đó là cái cớ. Tần vẫn đến nhà thân ái dịu dàng với má và tôi. Bỗng tôi thấy tội nghiệp cho cái nhan sắc đó phải về sống ẩn nhẫn giữa chốn đầm lầy hoang lạnh như thế này. Tôi sợ sẽ có lúc chị hối hận. Thì có bao giờ tôi kêu ghét Tần đâu. Nhưng lâu nay thấy dửng dưng. Dịp đi xa của Huyên mới thấy chớm lên chút nào hảo cảm dành cho chị. Tôi nghi ngờ như có một điều gì toan tính giữa hai người.

Sáng mai là ngày Huyên về, Tần đến xin phép má cho tôi đi với chị trong một buổi tiếp tân. Tôi ngồi cho Tần trang điểm. Tần nói nhỏ: "Hải sẽ là người nổi nhất trong đêm nay." Có lẽ, nhờ cái chân cà thọt của tôi. Chị cho tôi mượn cái maxi vàng óng - để phủ che chút chân tật nguyền, phải thế không? - Phải lắc đầu với nhiều người mời ra sân nhảy, tôi nghĩ mình giống một nhân vật cổ tích, con nhỏ công chúa cá thích lên bờ phải đổi cái lưỡi lấy đôi chân người để gặp hoàng tử. Nó phải câm, mất đi tiếng hát tuyệt vời đã làm hoàng tử mê mệt nếu không sẽ biến thành bọt nước. Hình như cuối cùng con nhỏ không ngăn nổi mình vì tựa truyện là Bọt Nước Chung Tình. Như bao giờ, tôi đứng một chỗ riêng. - Ở đâu cũng có một chỗ riêng cho tôi - nhìn ngắm từng người. Ai sẽ là hoàng tử của tôi đêm nay. Chỗ này là chỗ người lớn. Không có lấy một tên nhóc bạn tôi. Nhưng trong mắt nhìn tôi biết những người kia không coi tôi nhỏ. Họ đến từng tốp hai ba người rồi đi. Tôi thích như thế. Thật là thoải mái. Trời trong sáng và đầy sao trên những lùm cây như đêm nào Huyên trói tôi vào gốc dừa. Trăng mới nhú. Kéo lướt thướt cái bóng ngầu đục của nó qua những tàn lá thấp. Phải cám ơn Thể Tần mới được. Ban đầu ngỡ Tần đẹp nhất đêm nay. Nhưng rồi mới thấy. Sang trong quý phái trên tất cả vẫn là bà Hạo, cái người đàn bà ảo não trong đám ma hôm nào. Tôi ngắm bà ta không chớp mắt và buột miệng nói với người đàn ông đứng cạnh: "Trông cái bà trong áo nhung đen kìa. Tôi mê bà ta quá". Có tiếng cười ngắn: "Bà ta là vợ tôi"...

Tôi quay hẳn người lại. Nhìn trừng trừng người đàn ông lạ lùng đó. Mắt ông ta vẫn buồn dù nụ cười còn giữ trên môi. Tôi tự nghĩ người đàn ông nầy dù có nghe những gì người ta xì xầm về vợ chồng ông thì chắc đó cũng chẳng phải là nguyên do khiến ông phải buồn thêm. Nỗi buồn như thấm tự đời thuở nào trong xương tủy ông. Chẳng hiểu vì sao tôi muốn bắt tay ông để chút buồn nhỏ của tôi lẫn hòa trong buồn rộng. Rồi tôi nói về cù lao nhỏ. Ông có bao giờ thấy cù lao đó chưa. Tôi cứ dọa anh tôi bao giờ buồn tôi sẽ bơi ra đó. Hái rong mơ choàng lên cổ rồi về. Ông ta nghiêm trang: "Ngày mai tôi sẽ thực hiện giấc mơ đó giùm cô." - "Sợ ông bơi không nổi" - "Tôi có vẻ bệ rạc lắm sao" - "Không, nhưng ông có vẻ nặng nề vì một nỗi buồn nào đó. Đâu có ai mang khối đá trên lưng mà bơi nổi" - "Thế thì tôi sẽ cất tạm nó ở nhà" - "Tại sao không ném quách đi cho rảnh, ông còn tiếc rẻ lắm sao" - "Đó là một phần của tôi. Không ai cắt bỏ được thịt da mình. Vì nó sẽ nẩy chồi mọc ra cái mới. Trừ khi tôi chết đi."...

Im lặng một lát, đột nhiên tôi hỏi: "Chắc ông yêu bà ghê lắm". Tiếng ông lạnh lẽo: "Cô có cần biết lắm không." Tôi xin lỗi. Có lẽ vì bà ta đẹp quá. Tôi bị mê hoặc bởi bà ta. Và hơi phiền lòng khi thấy họ không được hạnh phúc. La Rumeur! "Cô tin những lời đồn đãi lắm sao?" - "Tôi ghét chúng nhưng dầu gì cũng không chối được là có một chút gì thật trong đó." Ông ta bỗng kéo tay tôi. Mà tại sao ta phải nói về những điều đó trong một đêm thế này. Đi! Tôi mời cô bản nầy. Tôi từ chối. Tôi nói thẳng là vì chân tôi hơi cà nhót. Ông Hạo à à. Ra đó là nguyên nhân nỗi kiêu ngạo của cô. Tửu lượng ông ta làm tôi ngán. Đó là người thứ nhì tôi nể về chuyện nầy, sau Huyên. Họ nhà tôi có máu háo thắng. Nên dễ lì lợm trong mọi trò đùa. Ông Hạo nói tôi chẳng phải vì đùa như ông anh của cô mà uống nhiều đâu. Ông biết Huyên à. Biết chớ. Thằng cha nổi tiếng lì rượu. Năm đầu tiên ra nghề, tôi dạy Huyên. Chúng tôi thuê phòng ở gần nhau. Đêm đầu Huyên đến H, chúng tôi đã uống với nhau những giọt rượu đầu tiên rồi ôm cái mặt nứt nẻ, sau trận đòn của du đãng xứ ấy lết về phòng. Chuyện đó tôi có nghe Huyên kể. Té ra là ông sao. Sao ông có con lớn thế. Tôi lấy vợ sớm, Cẩm Lai học lớp tôi. Dạo còn ở Đ., chúng tôi thường ôm nhau lăn từ những đỉnh cỏ cao mượt mà xuống chân đồi. Mẹ Cẩm Lai hỏi tôi có ba triệu không? Cách đây mười bẩy năm, ba triệu không phải dễ kiếm. Nhưng cuối cùng tôi cũng cưới được Cẩm Lai vì chúng tôi đã có con với nhau. Tôi thường nghe Huyên nhắc về cô. Hải Đường! Té ra chúng ta quen nhau mười lăm năm nay rồi mà không hay. Tôi nhỏ nhẹ: "Hãy gọi tôi là Hải thôi. Tôi không thích phải mang tên thứ hoa đó."

Ông Hạo lái xe đưa tôi về. Cô có vẻ khôn ngoan trước tuổi. Kiêu ngạo, tự tin, lúc nào cũng ở một thế thủ vững chắc. Tự rót uống lấy một mình. Cô chưa uống một giọt rượu tôi mời. Lúc ở trên xe, gió lộng làm tôi nhớ mình chưa cho Tần hay mình về xe ông Hạo. Ông cũng chưa cho bà ấy hay. Thế cô nghe người ta đồn thế nào. Chúng tôi đang ở thời kỳ ly thân. Nghe giọng nói như là ông vẫn còn yêu bà. Tôi nhắm mắt và cảm thấy có một cái gì đó nát tan không cứu vãn nổi. Cái cảm giác của một người bị đẩy truồi từ đỉnh xuống chân một đồi cát. Mình sao thế này. Tôi kêu ông Hạo cho tôi xuống. Ông thắng xe và nắm tay tôi. Cô sao thế. Chẳng sao hết. Sắp đến nhà tôi. Tôi muốn đi bộ một quãng. Ông Hạo khóa xe. Tôi sẽ đi với cô. Những lời nói như truyền lệnh nầy là của Huyên. Huyên mà tôi sắp mất. Thốt nhiên tôi cảm thấy chán nản và rã rời mọi sự. Còn hay mất. Sống hay chết. Đời sống lung linh những nỗi không tưởng. Chúng tôi im lặng đi chậm rãi bên nhau. Như một đôi bạn già. Kỳ dị nhỉ. Sao giờ này tôi lại ở đây. Tiếng ve thống thiết trong những bụi cỏ. Gió hất tóc tôi sang vai ông Hạo. Jupe dài làm vướng víu những bước chân lướt thướt trên cỏ của tôi. Rồi một lúc nào không rõ. Chúng tôi lạc lối đến nghĩa địa. Lẩn quẩn đến ngôi mộ người con ông Hạo. Ông đứng lại một chút. Trăng hắt lênh láng màu đỏ sậm trên mặt ông tỏ lộ một điều gì đó thê thiết khôn tả. Tôi đứng như tượng nhìn một bức tượng khác là ông. Rồi một lúc nào không rõ. Chúng tôi hôn nhau. Nụ hôn nhẹ tưởng như không có. Nhưng mà lâu. Lâu như nỗi buồn. Một pho tượng hôn một pho tượng. Lạnh biết mấy. Sau đó cảm được một chút gì yên tâm và vơi bớt chán nản. Hôn, thay cho bắt tay, như một dấu hiệu chào nhau để nỗi buồn vỡ ra, chảy bớt. Tôi chảy nước mắt. Cô từ đâu đến thế này. Tôi ở đây. Thế sao tôi không biết cô. Vì tôi không biết ông. Chúng ta không biết nhưng cây cỏ biết. Mả mồ biết. Sao trăng biết. Và đứa con tôi sẽ chứng giám rằng... Tôi sẽ thường ra thăm cậu ta. Mong tình cờ gặp lại. Bây giờ nên chia tay ở đây. Lúc nầy người truyền lệnh là tôi. Ông đứng đó. Tôi quay thoắt đi sau những hàng lau sậy dẫn vào nhà. Lọt vào trong nhà mới biết mình đánh rơi đâu đó một chiếc giầy. Như con bé lọ lem chưa. Nhưng nằm ngoài dự liệu của Huyên và Tần, lọ lem không gặp hoàng tử mà lại gặp ông già của hoàng tử. Tần ngồi chờ tự bao giờ. Má tôi đang trách sao để lạc tôi thì tôi vào. Con về đây. Còn nguyên vẹn nè má. Nhưng mất mát rơi rớt theo nhịp chạy rất nhiều. Làm sao má biết. Làm sao má đếm được hồn con. Rồi ngày qua ngày. Sóng làm đôi lúc tôi tưởng điên lên được. Nhưng nước biển làm tôi dịu lại. Tôi vẫn chưa bơi ra cù lao Hống. Chưa có gì trầm trọng mà. Một đôi lần tôi suýt chạm mặt bà Hạo nơi mộ cậu bé. Bộ đồ đen làm tăng thêm vẻ đẹp não nùng của bà. Cẩm Lai! Tên một thứ gỗ quý. Tôi biết ông Hạo còn yêu bà ghê lắm. Chẳng thế mà ông buồn. Mà liên can gì đến tôi. Cô có cần biết lắm không. Ông Hạo đã hỏi. Nếu là bây giờ, tôi sẽ trả lời. Cần lắm. Để làm gì tôi cũng không hiểu nhưng cần lắm.

Có đêm tôi mơ thấy mình bơi ra cù lao. Đó là những hòn đá sắc cạnh màu huyết loang lởm chởm hàu hến. Huyên đứng trên đỉnh tự bao giờ. Anh gỡ tay tôi nhoi lên bám đá, xô hất xuống bể. Đá sắc cào xước một bên ngực, vẫn mạnh bạo như một con kình ngư tôi thong dong bơi vào bờ. Có tiếng ông Hạo gọi sau lưng. Ông ta vừa bơi vừa giơ cao một nhánh rong mơ định trao cho tôi. Nhưng sóng giạt, chẳng bao giờ chúng tôi chụp bắt được nhau. Rồi tôi thấy mình đứng trước một tấm kiếng lớn. Áo toạc ra, tay cầm bông băng định băng vết thương nơi ngực nhưng vết xước đẹp quá khiến tôi cứ đứng ngắm nghía hoài hủy. Máu tươm một đường đỏ chấm dứt ở ở đầu vú trông như một nhánh hồng đầy gai máu. Rồi tôi hôn tôi. Cành hồng đỏ vỡ nhòa. Nụ hôn lạnh lẽo mùi ngấn thủy của gương.

Cũng có lúc lờ mờ tôi thấy cậu con của ông Hạo tìm tôi. Tại sao chị thường đến thăm mộ tôi. Vì tôi mê má cậu và tôi đã hôn ba cậu. Tôi không thích thế, tại sao chị không đến vì chị thích đến với tôi. Thế thì tôi không đến được đâu, cậu bé! Nhưng đó là mơ! Thật ra tôi vẫn đến ngôi mộ ấy thường và lánh mặt mỗi lần thấy người ở đó. Có lần ông Hạo nhìn thấy tôi. Ông đuổi theo nhưng bao giờ cũng lạc lối giữa những hàng lau sậy. Những con chim vịt động ổ bay lên quang quác kêu rợp trời. Lẫn lộn trong đó tiếng kêu trầm, nhỏ, yếu ớt của ông Hạo: "Hải! Hải! Em ở đâu, cho tôi gặp một chút". Không khác tiếng kêu tôi đã nghe trong giấc mơ bao nhiêu.

Bốn chúng tôi, Huyên, Tần, má và tôi vẫn sống êm đềm và có vẻ hạnh phúc. Chúng tôi sắp rời khỏi nơi nầy. Huyên vào lính. Tôi được gởi đi học xa. Thể Tần bị thuyên chuyển về vùng cao nguyên. Má sẽ theo sống với Tần. Những buổi tối tôi ngồi sành soạn những món quà xa ngày xưa của Huyên. Một đốt ngón tay ướp formol. Bàn tay cán mỏng thành hình hoa pensé. Pensé à moi. Điều đó cần thiết chăng. Đêm, gió vẫn hú dài trên những đồi cát hoang dã sau nhà rồi lướt chân vòng qua những bụi bờ lau sậy giữa đầm lầy và nghĩa trang. Rồi sóng, sóng vẫn rên siết những lời tuyệt vọng một cách nhàm chán. Và sao, sao lấm chấm dày đặc âm u. Đã qua mùa trăng huyết cuối cùng của tôi ở P.

May mắn tôi là người rời nhà đầu tiên. Huyên có tổ chức một buổi rượu tiễn. Dành cho tôi bất ngờ, anh có mời ông Hạo. Huyên kiêm luôn chức đầu bếp. Món thịt nướng anh làm thật tuyệt. Đủ cả tỏi, quế, ngũ vị hương, cà ri cay... Mấy chai Mai Quế Lộ được đào lên... Càng về khuya tôi càng sợ hãi trước sự bình tĩnh của Huyên và vẻ mặt ngây ngô của ông Hạo. Dưới sự điều động của Huyên, ông khóc cười như một đứa trẻ. Lòng tôn quý của tôi đối với ông tiêu tan như nỗi buồn không còn đọng vết trong mắt ông. Huyên bấy giờ độc ác như một gã phù thủy. Mắt anh đỏ những đường gân chằng chị, cơ hồ rượu đổ ngụt vào hai cái hố khủng khiếp ấy. Nó vẫn chưa vật ngã anh.

Tôi chịu hết nổi. Chạy vòng ra sau nhà. Thấy Tần ngồi khóc bên đống lông chuột, tôi nghĩ rằng chị đã hiểu lờ mờ. Nhưng tôi thì hiểu thấu suốt mọi sự. Tôi cào nát cổ vẫn không ọi được mớ thịt thơm phức đã nuốt vào khi nãy. Ông Hạo đang chuệnh choạng múa may bước ra cổng và ngã sóng soài giữa bậc đá. Má tôi mang khăn ướt ra lau vết bầm trên trán cho ông. Huyên liệng ra một tấm mền. Tôi ngửng lên. Không phải hai con mắt lửa. Mà đó chính là hai vầng trăng huyết độc ác và thê lương theo đuổi tôi suốt cả cuộc đời. Trong chuyến đi xa ngày mai, tôi sẽ không còn lo phòng những bất trắc. Đánh đổi lại, sẽ là những mảng tình không. Ông Hạo! Ông Hạo! Và những gì sau nầy nữa. Hãy tha thứ cho tôi. Hãy tha thứ cho tôi...


NGUYỄN THỊ NGỌC MINH      

(Trích từ tạp chí Thời Tập số 7, phát hành ngày 31-5-1974)
 

Thứ Sáu, 9 tháng 6, 2023

ĐÔI GUỐC TRẮNG - Nhật Tiến

 

Tôi đứng trên vệ đê nhìn xuống. Chuối xanh cả một vùng ven sông.  Nắng lấp loáng trên những tầu lá. Vào buổi trưa, bốn bề êm ả quá. Chỉ có tiếng gió rì rào, tiếng chim chiêm chiếp và mơ-hồ có tiếng một nhà máy ở xa xa vẳng lại.

Qua những gốc chuối, bên kia là mặt sông. Nước xanh ngắt. Sóng nước nhòe trong ánh nắng loang-loáng như bạc.

Tôi đi xuống dưới ấy. Lối cát trong vườn chuối phẳng lì. Hơi đất phù sa từ mé sông đưa lên âm ẩm. Quanh tôi đầy bóng mát; ánh nắng nghiêng nghiêng trên những tầu lá xanh và mỏng. Những bẹ chuối đang nở hoa.

Có vết chân ai đi trên lối cát. Tôi nhìn ra bờ sông. Bốn bề vắng lặng. Vết đi in sâu xuống thành một hố xinh xinh. Những vết guốc gót nhỏ với bàn chân thon. Tôi lại chăm chú nhìn ra bờ sông. Nắng nhấp nháy chói mắt. Không có ai ở ngoài ấy cả.

Vết guốc quanh co trong vườn chuối. Tôi nghĩ đến một thiếu nữ có mái tóc đen dài, có cặp môi mộng đỏ. Lần theo vết guốc ấy, tôi tưởng tượng đến một cuộc đi chơi của hai người trong bóng mát.

Vết guốc mất dấu ở ven sông. Cát ở đây đẫm nước nên mịn hẳn. Sóng giạt lên bờ rồi rút ra xa. Mấy lớp bọt vàng bị bỏ rơi lại, sùi lên rồi ngấm xuống.

Tôi nhìn vào những lùm cây chìa ra mặt nước. Mấy quả sung chín rơi lõm bõm. Và có một đôi guốc. Đôi guốc trắng nằm ở ven sông, lấm tấm đất phù sa đỏ.

Tự nhiên tôi hồi hộp. Ở đây không phải có một mình tôi. Có hai người. Tôi và một thiếu nữ đang tắm ở sau bụi cây sung; tôi nhìn về phía ấy, và tưởng tượng sau bụi cây phải là một tà áo trắng mắc vào cành, gió đưa phơ phất. Tôi không nghĩ đến một mảnh quần lụa vo tròn trên bờ cỏ, nhưng nghĩ đến một mái tóc đen dài giãi trên mặt sóng, một thân hình óng ả đang đắm mình dưới làn nước trong veo. Có tiếng chim hót gần đây. Tôi ước gì mình được là con chim.

Ngoài mặt sông, sóng vẫn nhấp nhô rồi giạt lên bờ cát. Trời xanh lơ lơ. Khúc sông lấp loáng ánh nắng, lượn mình quanh những lùm cỏ, bụi cây. Bờ bên kia là ruộng mía. Đằng sau tôi là lối cát đi trong vườn chuối. Lối cát in những vết guốc lốm đốm chạy vòng lên chân đê.

Ở đây không có mình tôi. Có hai người. Hai đứa. Tôi mỉm cười, trầm ngâm.

Nhưng rồi tôi cũng phải ngược lại lối cũ. Bịn rịn đấy, nhưng cũng đành. Nếu không tôi sẽ xấu hổ với những con chim đang hót ở bờ sông.

Tôi bỏ lại phía sau đôi guốc trắng. Đôi guốc trắng nằm trên lòng cát mịn, có lấm tấm đất phù sa đỏ. Giá mang về được một chiếc để sau này khi quen nhau, lấy nhau rồi hai đứa cùng giở ra xem. Yêu biết mấy.

Và rồi tôi lại đứng trên vệ đê nhìn xuống dưới ấy. Chuối xanh cả một vùng ven sông. Nắng lấp loáng qua những tầu lá. Có những con chim đang chuyền cành. Có một mái tóc đen dài giãi trên mặt sóng và có một đôi guốc trắng nằm ở bờ sông.

Đôi guốc mà chẳng bao giờ còn có người đi.

Vì sáng hôm sau… có tin một thiếu nữ trầm mình ở chỗ ấy.

Nhật Tiến       

(Văn Hóa Ngày Nay-Tập 2-Tháng 7-1958)

Thứ Hai, 5 tháng 6, 2023

MẸ VÀ CON - Nguyễn Mộng Giác

 

Từ văn phòng xuống lớp, tôi phải qua một khoảng sân nắng còn bốc bụi mù mịt. Học sinh đã vào lớp, nhưng những bước chân chim nhảy nhót đùa giỡn mấy phút trước đó, vẫn còn lưu dấu trong không khí. Tôi ngửi thấy mùi hăng hăng của cát nóng, mùi ngai ngái của lá me khô, và thoang thoảng đây đó mùi khét nắng của những mái đầu tóc hoe. Tôi cười một mình. Cát nhỏ rào rạt dưới chân. Gót guốc cắm sâu vào lòng đất, cắm thật sâu, nhưng ăn thua gì, khẽ nhấc một chút, chiếc guốc đã nhẹ hẫng. Giơ lên cao hơn lệ thường, tôi ấn mạnh guốc xuống cát lún chút nữa. Nhưng tôi vẫn bước. Đôi gót lãng du. Vì, đúng là đôi gót lãng du, thích chạy nhảy quanh co, đùa cợt, quên hết cả giờ giấc như lũ học trò của tôi. Nắng thêu hoa lên mặt sân. Cát ươm nồng không khí. Bụi bay lãng đãng nhẹ nhàng... Tôi chợt vui vô cớ. Tôi hát, tôi hát nho nhỏ, một bài gì đó đầu Ngô mình Sở nhưng chắc là một khúc vui vì nhịp nhanh và ríu rít như tiếng chim sẻ trên cành bàng phía trước văn phòng. Lũ học trò đang lao xao trong kia. Cái lũ quỉ. Đã dặn không biết bao nhiêu lần là khi cô chưa kịp tới, phải ngồi vòng tay lại, không ai được nói chuyện, không ai được đập bàn xô ghế. Liên toán trưởng phải có phận sự lên đứng trên bục cao nhìn xuống phía dưới lớp ghi hết tên đứa nào không cho đôi môi kịp làm da non. Cứ biên hết tên lũ quỉ đó cho cô. Nhiều lần thằng liên toán trưởng phân vân. Nhưng thưa cô tụi nó không sợ em. Em mới mở miệng, tụi nó đã ê xuống đi. Tôi đã mách nước cho thằng liên toán trưởng: "Thế này nhé, em được cả lớp bầu lên chứ phải chuyện chơi đâu. Em được cô tin cậy, như vậy em phải cho tụi nó thấy cái oai của em chứ. Em đứng thế này này. Đứng thật thẳng. Hay tay chắp sau lưng. Ngực hơi ưỡn tới một chút. Em nhìn đăm đăm không chớp mắt xuống phía dưới, ráng đừng có nhảy. Em nhìn quét một lượt từ phía phải qua phía trái, rồi lại nhìn từ trái qua phải..."

Lúc tôi đến cửa lớp, bọn quỉ đang chọc ghẹo nhau, la hét chí chóe trong khi liên toán trưởng hí hoáy ghi gì đó lên bảng. Thằng bé chắc nó áp dụng bài học của mình, sau khi nghiêm nghị ra uy đã cương quyết ghi tên bọn mất trật tự lên bảng cho cô phạt. Tôi bước vào, cả lớp đứng dậy đồng loạt, im phăng phắc, không nhúc nhích, y như những pho tượng trong cái nhà mồ xi măng vuông vức sáu thước bề ngang, sáu thước bề dọc. Liên toán trưởng ngượng nghịu bối rối, nửa muốn đưa tay xóa hàng chữ trên bảng nửa muốn trở về chỗ mình. Tôi đọc thấy hàng chữ nguệch ngoạc "yêu cầu các trò..." Chết rồi! Yêu cầu! Yêu cầu! Làm lớn mà không dám ra uy, còn xuống giọng năn nỉ, yêu cầu các trò im lặng không thì cô la. Tôi bắt đầu ra dấu cho Tuấn về chỗ, chậm rãi bước lên ngồi trên bàn thầy. Đứa nào đó trong đội trực đã cắm vào bình hoa hai cái bông trang và mấy nhánh lá xanh. Chiếc khăn phủ bàn bằng ni lông trắng thật ngay ngắn, phẳng phiu. Đám học trò của tôi đáng yêu biết bao nhiêu. Tại sao tôi có thể gắt gỏng với những tâm hồn thơ ngây, những nét mặt non nớt nầy cho được. Tại sao có lần tôi đã ôm đầu mà thét lên trước mặt hiệu trưởng: "Anh cho tôi đi. Làm ơn cho tôi thoát khỏi cái địa ngục nầy. Toàn là lũ quỉ sứ, ồn như cái chợ và khét nắng không chịu nổi". Tôi ngắm hai cái bông trang trong bình, nói với học trò:

"Các em lấy vở viết chính tả".

Như một phép lạ, tiếng ồn ào vỡ như thác nước. Cả tụi nhao nhao:

"Cô chưa cho ngồi xuống mà cô!"

Tôi cười giả lả, phác tay bảo:

"Ờ, cô quên, thôi các em ngồi xuống đi. Môn đầu tiên là viết chính tả phải không?"

"Dạ, chính tả cô".

Tôi quay xuống hỏi:

"Em nào xung phong lên viết bảng".

Dường như không có đứa nào không đưa tay xung phong. Lần nào cũng vậy! Không hiểu được lên bảng, ngọ ngoạy phía sau cái màn che vải xanh phai màu để nắn nót viết những hàng chữ xiên xẹo lên dốc xuống ghềnh có cái gì hấp dẫn, đến giờ chính tả, đứa nào cũng tranh nhau giơ cao tay cho cô chọn. Một ý nghĩ ranh mãnh chợt đến, tôi nói:

"Cô biết chọn ai bây giờ! Thôi, cô chỉ chọn những em đẹp trai thôi!"

Quá nửa lớp rụt rè rút tay lại, không nhí nhỏm như trước nữa. Mấy đứa biết rõ mình đẹp trai, hết sức tự tin, đứng thẳng người lên, đưa tay cao lên hơn. Thấy vẻ tiu nghỉu của mấy đứa xấu, tôi hối hận. Sao lại tạo cho mấy đứa bé ngây thơ nầy sự thắc mắc vô lối về chuyện đẹp xấu, gieo cho chúng niềm oán trách hờn tủi đối với số phận, đối với Thượng đế? Mình có điên không đây? Trời đâu đã nắng bao nhiêu, và gió nam chưa thổi mà Nhàn! Mày có điên không Nhàn! Tôi bối rối, bảo học trò bỏ tay xuống, giải thích cho chúng hiểu:

"Cô nói đùa đó. Cô thương các em đồng đều, không phân biệt lớn nhỏ, giàu nghèo, xấu đẹp gì hết. Các em đừng có mặc cảm".

Lũ trẻ ngơ ngác không hiểu. Thằng Tuấn giơ tay hỏi:

"Thưa cô, mặc cảm là sao hở cô?"

Mày lại lầm lẫn nữa rồi Nhàn! Lũ trẻ lớp bốn có hiểu gì đâu mà nói chuyện mặc cảm không mặc cảm! Tôi không biết phải giải nghĩa thế nào, vừa nói bâng quơ, vừa tìm ý.

"Mặc cảm hả! Mặc cảm là... là mặc cảm. Chờ các em lớn hơn cô mới giải thích được. Cô cho ví dụ như thế nầy nhé. Như em Trần Xuân Đức ngồi chỗ cửa sổ kìa".

Thằng Đức giật mình không hiểu cô muốn gọi mình làm gì, sợ sệt đứng dậy. Cả lớp reo lên thúc dục:

"Đức vồ! Đức vồ! Cô gọi kìa!"

Tôi cười bảo Đức ngồi xuống, rồi chờ cho cả lớp yên lặng mới nói:

"Các em đặt cho Đức cái biệt hiệu Đức vồ, vì Đức có cái trán lồi hơn thiên hạ một chút. Đầu tiên Đức đâu có để ý, phải không. Nhưng về sau nghe các bạn chế nhạo, em chột dạ, cứ vuốt vuốt cho mái tóc trước trán che lấp phía trước, che lấp cả mắt luôn".

Cả lớp lại cười ồn ào. Tôi hỏi tiếp:

"Như vậy là Đức có mặc cảm".

Thằng Minh giơ tay hỏi:

"Thưa cô, như vậy mặc cảm là cái gì xấu trên thân thể mình phải không cô?"

Những đứa khác cũng còn thắc mắc nhưng sợ không dám hỏi, nên chú ý nghe lời tôi giải đáp. Tôi nói:

"Không phải thế. Minh hiểu lầm rồi. Thôi cô lấy một ví dụ nữa nhé. Tại sao em cứ đội mũ hoài vậy Minh? Vào lớp mát em đội mũ, ra sân có bóng mát, em cũng đội mũ. Cô vào lớp, em mới chịu bỏ mũ ra".

Minh bẽn lẽn, trả lời ngập ngừng:

"Mấy bữa nay trời nắng quá cô".

Cả lớp cười ồn lên. Đứa nào đó nói lớn:

"Không phải, Minh gáo nói xạo!"

Tôi làm mặt nghiêm để tái lập trật tự. Tôi nói:

"Nhiều hôm trời không nắng em vẫn đội mũ. Cô biết hết. Chỉ vì em sợ tụi bạn quỉ sứ len lén đến phía sau lưng đưa tay xoa cái đầu trọc của em rồi la lên: Minh Gáo ! Minh Gáo!"

Minh thẹn, ngồi im một chỗ không nói gì được. Tôi hơi hối hận, nhưng muốn nhân cơ hội tìm hiểu vì sao Minh thường cúp một cách tàn sát, trọc lóc như các nhà sư, tôi nói:

"Em sợ tụi nó chòng ghẹo nên đội mũ. Đó là mặc cảm. Nhưng cô hỏi thật nhé, tại sao em không cúp cao hơn một chút?"

Minh đứng dậy, giọng lí nhí:

"Thưa cô, cha me bảo cúp như vậy cho được lâu, đỡ tốn tiền".

Không khí trong phòng có vẻ ngột ngạt, vì sự nghiêm nghị, thẹn thùng của tôi. Mải vui tôi đã vô tình gợi cho Minh một điều em cố quên: Cái nghèo. Lũ học trò thấy vẻ mặt tôi, không dám vui đùa tự nhiên la hét nữa. Để xóa tan nỗi khổ tâm của Minh, tôi gắng cười nói, san sẻ bớt mặc cảm của em cho mấy đứa khác:

"Mà thôi, chuyện đó có gì đáng buồn đâu. Em nào lại không có cái hơi lạ, hơi khác thường cần phải che giấu bạn bè. Này nhé, trong lớp nầy, cô thấy thiếu gì! Có em cả tháng trời không chịu tắm, cổ có ba vòng kiềng đất đen. Mỗi lần cô gọi lên đọc bài cứ co ro thụt cổ thun vai cho cô khỏi trông thấy. Ai đó?"

Cả lớp lấy lại niềm vui ban đầu, trả lời lớn:

"Đồng đất".

"Có em không hiểu vì sao cứ áy náy mãi về cái quần, cái nịt của mình. Mỗi lần cô kêu lên bảng, trước khi gân cổ lấy giọng đọc bài em đó luôn luôn đưa tay lên nịt rán kéo lên".

"Bình Xách Quần".

"Có em vì không nghe lời cha mẹ, cả ngày chạy rong ngoài đường, nắng đốt đen thui cả mặt mũi, chân tay".

"Tương Ông Táo".

"Thôi, mất thì giờ nhiều rồi. Cô chọn một em lên viết chính tả nhé. Cô chọn một em không mặc cảm".

Tôi giơ tay chỉ lên trần, xoay người đảo một vòng như cái quay bán kẹo kéo trước cổng trường. Cả lớp yên lặng chờ đón. Tôi xoay qua xoay lại hai ba vòng, cuối cùng chỉ vào Tùng.

Cả lớp cười rồ, reo lớn:

"Tùng Bi Li! Tùng Bi Li!"

Tùng hãnh diện ra mặt, chạy nhanh lên bục, kéo mạnh cái màn che hết tấm bảng gỗ sơn màu lá cây. Che kín xong, Tùng ngồi xuống chui ra ngoài, đến bàn tôi lấy viên phấn. Tôi bảo cùng cả lớp:

"Các em viết cẩn thận nhé. Nhất là dấu hỏi, dấu ngã. Lần nầy em nào còn viết lầm hỏi ngã cô sẽ trừ một điểm chứ không phải trừ nửa điểm như kỳ trước. Nhớ chưa?"

"Thưa cô, nhớ".

Chờ cho Tùng chui trở vào màn, tôi đọc:

"Chính vì con
Chính vì con mà người thợ xay bột..."

Tương Ông Táo láu táu hỏi:

"Bột viết C hay T cô?"

Tôi mắng át:

"Viết chính tả mà còn hỏi cô. Với lại hỏi gì mà đần vậy. Bột viết C thành ra chữ gì?"

Bấy giờ cả lớp mới thấy cái ngớ ngẩn của Tương, ồ lên cười. Chờ cho chúng im lặng trở lại tôi đọc tiếp:

"... mà người xay bột phải mặc quần áo đầy bột trắng xóa. Chính vì con mà áo người hàng thịt nhuộm đỏ đầy những máu. Chính vì con mà nhà nông bị cháy nắng, dày dạn gió mưa. Chính vì con mà người thợ máy phải đứng trên đầu xe lửa, mà người lính phải chiến đấu ngoài biên thùy. Mỗi người trong khi làm việc riêng của mình phải phục vụ được toàn thể đồng bào. Ngày nào mà con đã hiểu mọi điều đó..."

Chờ cho học sinh viết tiếp, tôi đưa mắt nhìn quanh lớp. Dưới góc trái, thằng Viên ngồi cắn quản bút không viết, nhìn lơ đãng ra phía hàng rào dây thép gai đan theo hình ô vuông. Tôi hỏi:

"Viên, sao không lo viết mà ngồi thừ ra đó thế?"

Viên giật mình cúi xuống vở, nhưng vì không nghe câu trước nên phải quay sang hỏi đứa bên cạnh. Thằng Đồng lắc đầu quầy quậy, lấy tay che kín trang vở. Thấy dáng Viên tội nghiệp quá, tôi nhắc lại:

"... Ngày nào mà con đã hiểu mọi điều đó, không những con sẽ kính trọng những người lao động ấy, mà lại còn cố gắng để thành người có ích cho xã hội. Chấm hết. Cô đọc lại dò nhé!"

Lúc chấm điểm cả lớp đều khá cả, chỉ trừ có Viên. Xóa viết thành xóa ; nhuộm thành nhượng ; những thành nhửng. Không thể chịu đựng được nữa. Tôi quát lớn:

"Học hành như vậy hả? Đi học một hôm nghỉ hai ba hôm. Ngồi trong lớp chỉ lo ngóng chuyện ngoài đường. Không muốn học nữa, thì nghỉ học đi, đừng vác mặt đến đây nữa".

Viên cúi gằm mặt xuống bàn, vai so lại như run sợ vì không chịu đựng nổi những ánh nhìn thương hại, khinh bỉ của bạn bè đổ dồn về phía mình. Hình như Viên có khóc, vì Viên đưa cổ tay lên quệt nhiều lần ở mũi. Tôi vẫn giữ im lặng, để dằn mặt một học sinh lười biếng và cảnh cáo những đứa khác. Không khí trong phòng lắng đọng, tù túng, căng thẳng. May mắn, lúc bấy giờ, chuông báo hiệu giờ ra chơi giục giã, nô nức.

*

Chưa kịp cho học trò ra sân, con Phương dạy bên lớp năm đã chạy đến trước cửa léo nhéo:

"Nhàn, ra tao nói cái nầy!"

Tôi vờ không nghe thấy, gắng làm mặt nghiêm bảo học trò:

"Các em khá lắm. Thôi ra chơi đi. Không được chạy nhảy nhiều rách quần áo mẹ. Không được chọc ghẹo đập lộn nhau nghe chưa!"

Lũ trẻ đồng thanh trả lời:

"Nghe".

Tôi vừa phát tay, cả lớp đã ùa ra khỏi phòng nực nội như đàn ong vỡ tổ. Phương vẫn kiên nhẫn đứng chờ ngoài hiên. Tôi hỏi:

"Chuyện gì đó bà?"

"Ra đây. Vui lắm. Mày có biết chàng Tiêu hôm nay ăn mặc thế nào không?" Tôi miễn cưỡng đi theo Phương. Tôi muốn nói với cô bạn đồng nghiệp: "Biết rồi. Khổ lắm! Nói mãi!" Tiêu vừa đổi tới trường này sau khi được giải ngũ. Dáng người cao lớn, vạm vỡ. Vai rộng. Mái tóc cắt ngắn và mầu da nâu, dấu tích của bao năm binh nghiệp, khiến ở Tiêu tỏa ra một vẻ cường tráng, cương nghị của những chàng giác đấu La Mã. Phương tíu tít hỏi thăm người nầy một ít, người kia một chút, và chỉ trong vòng vài ngày sau đã biết rõ cuộc đời ái tình sự nghiệp của ông thầy mới. Phương chê Tiêu kênh kiệu, chê Tiêu thô. Bộ đi đứng cứng nhắc, thiếu vẻ nho nhã cần thiết. Chê Tiêu có đôi mắt lờ đờ, khác hẳn vẻ mơ màng của các nam nhân vật tiểu thuyết tình cảm của Phương đọc suốt sáng, suốt chiều. Chê Tiêu thiếu mái tóc óng ả nghệ sĩ của chàng tài tử Pháp mà Phương cắt báo xi nê lồng vào bìa vở soạn bài. Nhưng tôi biết Phương quá rồi! Gương mặt xương xương như bất cần của Phương như thêm một chút sinh khí xa lạ nào đó. Sáng nay Phương có thoa chút son hồng trên đôi má, đôi môi ướt vaseline. Phương nói liên miên, tôi chỉ nghe thấp thoáng, vì biết câu chuyện quanh quẩn bấy nhiêu. Nhưng Phương không chịu buông. Thúy ở lớp ba lên chú ý ngay chiếc áo hoa của Phương, nhận xét thật thà:

"Mày may áo mới hồi nào đó? Khổ người mày, nét mặt mày mặc áo hoa lớn đâu có hợp".

Phương giận đến đỏ mặt. Nhân cơ hội hai cô bạn cãi vã nhau về thời trang ăn mặc, tôi tìm lối thoát:

"Thôi, cho tao về lớp một chút. Bỏ quên cái thẻ kiểm tra trong cái mu soa, sợ tụi học trò lục lạo quăng mất".

Tôi bỏ đi. Cả Phương và Thúy vẫn còn cãi một cách hăng hái. Bước vào cửa, tôi hết sức ngạc nhiên. Viên vẫn ngồi ở chỗ cũ, hí hoáy vẽ gì đó lên bàn học. Tôi hỏi:

"Sao không ra chơi hở Viên?"

Viên ngước lên, đôi mắt còn thật buồn:

"Thưa cô, em không thích. Ra nắng sợ đau".

Lối thưa gửi lễ phép của Viên làm cho tôi cảm động. Tôi hỏi để giảng hòa:

"Khi nãy cô la, em có buồn cô không?"

"Dạ không, cô la đúng mà!"

Tôi đi xuống chỗ Viên, ghé ngồi lên bàn học sinh thấp lè tè và sơn màu nâu. Tôi hỏi Viên, cố hạ giọng cho thật êm ái, hòa nhã:

"Cô hỏi thật. Tại sao Viên lười biếng vậy? Em học khá lắm, nhanh nhẹn và thông minh lắm. Nhưng mấy tháng nay, em đi học thất thường. Mà dù có đi, đến lớp ngồi thờ thẫn mất hồn như con cá ươn. Lúc nãy, tại sao đang viết chính tả, em ngồi thừ nhìn ra đường cái? Nhớ nhung gì ngoài đó?"

Tôi đưa tay vuốt tóc Viên. Nó cảm động đến rơm rớm nước mắt. Tôi quay đi cho Viên khỏi thẹn và lấy lại bình tĩnh, Viên trả lời:

"Em viết xong câu chính tả cô đọc, ngửng lên nhìn tụi nó trong lớp có đứa ngoẻo đầu, có đứa mím môi đến tức cười. Có đứa nằm soài trên mặt bàn. Bỗng nhiên em nghĩ: Đứa nào cũng có Ba hết, trừ mình. Em buồn muốn khóc, không nghe tiếng cô đọc bài nữa".

Tôi cảm thấy nghẹn ngào trong cổ họng, sống mũi nhột nhạt. Tôi đã la oan cậu bé học trò bất hạnh của tôi. Mùi khét nắng tỏa ra từ mái tóc rối của Viên, lối ăn mặc cẩu thả dơ dáy của Viên, bàn tay dính đầy mực và những trang vở nhập nhòe chữ nghĩa của Viên không còn làm tôi khó chịu nữa.

Tôi hỏi:

"Ba em mất lúc nào?"

"Lâu rồi cô, cách đây bốn năm năm. Lúc ấy bé Xíu mới được có tám tháng".

"Bé Xíu là em út của Viên hả?"

"Dạ. Tụi nó sợ em lắm. Thằng Trung học lớp hai dưới Mai Xuân Thưởng. Con Xíu phải ở nhà giữ em cho má đi làm".

"Má em làm gì?"

"Dạ làm thư ký trong tòa hành chánh. Má đi làm cả ngày thưa cô".

Tôi tìm được một cớ chính đáng để khuyên răn Viên:

"Đấy em thấy không? Má em ở vậy. Suốt ngày đầu tắt mặt tối để ráng nuôi con, lo miếng cơm manh áo cho con đi học. Muốn mua cho em một quyển sách, muốn may cho em một cái áo, má phải vất vả biết bao ngày. Viên không biết nghĩ, bỏ lớp trốn học đi bụi đời ngoài đường là nghĩa lý gì! Má hi sinh cho Viên như vậy, nỡ nào Viên không thương má..."

Tôi còn định nói nhiều, thật nhiều. Tôi tưởng tượng Viên là Tường đứa con trai đầu của tôi. Sẽ có ngày bé Tường lớn lên, bằng tuổi Viên. Sẽ có ngày tôi khóc đến đỏ hoe cặp mắt khi hay tin bé Tường trốn học, la cà ngoài đầu đường góc chợ với lũ ma cô, ăn cắp. Tôi sẽ nói với bé: "Tường không thương mẹ sao Tường. Tường không nghĩ lúc mẹ dật dờ không ra người khi mang nặng thai con trên thân thể ốm yếu mảnh khảnh của mẹ. Tường không nghĩ nỗi lo âu của mẹ, bồn chồn khi con khẽ ho, khắc khoải khi con ấm mình đi tướt..." Tôi định nói, nói mãi nói hoài, nếu không nhìn trở lại dáng ngồi của Viên. Viên gục đầu lên bàn học, cố dằn lắm, nhưng không thể nào ngăn nổi những tiếng khóc ấm ức. Cuối cùng như một cơn nước lụt phá vỡ bờ đê, Viên khóc òa. Tôi luống cuống hỏi:

"Sao thế Viên? Cô có nói điều gì làm tủi thân em đâu. Sao thế Viên?"

*

Suốt ba hôm nay, Viên không đi học. Hôm đầu tôi nhìn về chỗ Viên ngồi, thấy trống, có cảm giác khó chịu của một kẻ thất bại. Tôi đã quá tin ở sức mạnh lời nói của mình. Viên đã khóc tức là đã ăn năn. Đứa con trai mười tuổi bất chấp mọi sự, ngồi khóc vùi trước mặt bạn bè, tất nhiên lòng nó phải xúc động cao độ, đến nỗi niềm kiêu hãnh chỉ là điều phù phiếm bá vơ. Trông cách Viên chăm chỉ viết tập, cẩn thận làm tính đố, ngoan ngoãn vâng lời, tôi đã tin rằng Viên hối hận. Viên đã hiểu, Viên biết Viên làm khổ mẹ. Viên ham chơi không nghĩ đến nỗi xót xa như muối đổ vào lòng của người mẹ góa chắt chiu từng chục từng đồng để gắng nuôi con nên người. Thấy Viên không đi học tôi bực mình. Hóa ra thằng bé vẫn chứng nào tật nấy: giả vờ khóc đấy rồi, buổi trưa về, nhìn cái bảng quảng cáo phim chưởng lòe loẹt xanh đỏ trước rạp chiếu bóng, nghe tiếng nhạc dồn dập rộn rã từ loa phóng thanh, tiếng gọi quyến rũ của phố phường vẫn đủ sức lôi mạnh Viên về con đường cũ. Qua ngày sau, nhìn chỗ Viên ngồi tôi đâm ray rứt tự hỏi: Lỗi ở thằng bé hay lỗi ở mình. Tuổi thơ hồn nhiên, sống bằng những sự việc trước mắt, lo ăn, lo ngủ, lo chạy nhảy nô đùa, có bao giờ thắc mắc đến những vấn đề trừu tượng, phiền nhiễu. Chính mình đã đưa Viên vào một thế giới khác, nhọc nhằn hơn, ảm đạm hơn. Thế giới có những cơn lốc xoáy bụi mịt mù có những thác lũ cuồn cuộn quấy đục dòng sông tuổi thơ. Mặc cảm. Phải rồi. Chính mình đã khiến Viên mang nặng thêm một mặc cảm phạm tội, một gánh nặng làm còng chiếc lưng mềm, làm oằn đôi vai nhỏ. Viên không chịu đựng được nữa. Viên thua cuộc. Trong nỗi thất vọng Viên đâm liều, Viên nhủ thầm: Mình hư đốn quá mức rồi! Không còn có cách nào cứu vãn được nữa. Mình đã xuống cùng tận của đáy sâu hôi thối và nhơ nhớp. Thôi! Thà liều thả mình rơi xuống, vì đã đến nước này, có làm gì cũng chỉ là vô ích, phí công.

Hết trách Viên, tôi lại trách tôi. Tôi bực bội, cáu kỉnh vô cớ. Cả lớp mường tượng cảm thấy một mối nguy hiểm thấp thoáng đâu đó, tự động giữ im lặng và nét mặt đứa nào cũng nơm nớp, lo lắng trong lặng lẽ. Mấy ngày đó, ở nhà, thằng Tường và con Tí lại đau. Tôi tưởng đang sống giữa địa ngục. Cho nên tôi vui mừng biết chừng nào, khi đến sáng hôm thứ ba, vừa vào lớp được bao mươi phút thì một người đàn bà dẫn Viên tới. Hôm ấy trời gió, hai cửa sổ và cửa lớn trông ra phía sân đều đóng im ỉm. Nghe tiếng gõ, Tuấn nhanh nhẹn chạy ra mở cửa. Người đàn bà ấy đã đứng chờ sẵn ngoài hiên, phía sau thằng Viên có thu mình cho nhỏ lại, ngượng ngập cúi đầu khi tôi bước ra. Không chờ tôi hỏi, người đàn bà tự giới thiệu trước:

"Xin lỗi cô, tôi là má của trò Viên".

Tôi không ngạc nhiên chút nào, vì đã đoán được dễ dàng từ đầu. Những lời xã giao ban đầu, ca tụng sự tận tụy của tôi và khung cảnh nhà trường, vừa vào tai này đã lọt qua tai kia, bay đi theo gió. Tôi không nghe được gì, tò mò nhìn người mẹ của Viên. Không hiểu sao tôi có ác cảm với bà ngay từ lúc mới gặp. Tôi chưa hề quen biết bà, lại không có một thành kiến nào với một phụ huynh học sinh xa lạ. Hơn thế nữa, chính tôi đã từng dùng hết sự dịu dàng khéo léo đề cao đức hy sinh của bà đối với Viên, để khuyên răn Viên chăm chỉ học hành. Tuy thế mới thoạt nhìn, tôi ngờ ngợ nhận thấy, mơ hồ thôi, có điều gì không hợp. Có thể tại vì mùi nước hoa hơi nồng, có lẽ cũng là loại champange đắt tiền nhưng bà đã lạm dụng, đi quá trớn. Ờ mà sao tôi lại khắt khe như thế được? Chính tôi, đôi lúc vào những ngày khó ở, vẫn dùng loại nước hoa này. Tại sao tôi đột nhiên khó tính với người mẹ của Viên. Có thể chuyện dùng nước hoa hay không, chưa thực sự đóng một tầm quan trọng nào nếu tôi không cố phác họa một hình ảnh khác, hoàn toàn khác về bà. Nghe Viên kể, tôi tưởng tượng ra một người đàn bà nhỏ thó, tóc rối, mắt buồn hiu, ăn mặc lôi thôi nhưng còn đủ đơn giản sạch sẽ để giữ tư cách con nhà. Tôi tưởng tượng một mẹ Việt Nam quên hết bản thân, quên hết cuộc đời mình để lo lắng cho con cái. Trong trí tưởng tượng đầy sương trinh và nắng hồng của tôi, người mẹ của Viên không bao giờ thèm dùng nước hoa. Nhưng nghĩ kỹ, có lẽ còn có nhiều chi tiết đáng ngờ khác: cái lối thường xuyên đưa lưỡi liếm đôi môi dầy cho luôn luôn ướt mọng, nũng nịu, nỗi lo lắng thái quá đến nỗi bàn tay cứ đưa lên vuốt nhẹ mái tóc chải kỹ sợ rối theo gió... Nói tóm lại, người đàn bà đang huyên thuyên kể lể trước mặt tôi đây là một kẻ xa lạ, bị tôi từ khước, vì dám ra ngoài những mẫu mực tự ý tôi qui định. Tiếng nói của bà hơi khao khao, đầm ấm, như pha lẫn một khát vọng huyền bí và một mệt mỏi quyến rũ. Bà nói, bà nói mãi. Tôi bất chợt chụp được một vài âm thanh, hơi lạnh mình vì giọng rã rời mà thúc giục vời gọi:

"... Cô nghĩ mà xem. Tôi góa bụa đơn chiếc. Anh ấy mất là khỏe thân cho riêng anh ấy, còn tôi phải lo nuôi đám con dại. Ban đầu tôi cứ tưởng rồi ra trời đất sụp đổ hết. Tôi biết lấy gì nuôi lũ trẻ đây? Tôi đập đầu vào quan tài anh ấy, tôi đòi nhảy xuống cho người ta chôn chung một huyệt với anh ấy. Nhưng bà con hàng xóm cứ khuyên răn mãi, bảo gắng sống mà nuôi con. Tôi sống được đến ngày nay, chịu cực, chịu khổ, chỉ vì không nỡ bỏ chúng bơ vơ trên đời. Thế mà thằng quỉ sứ này có thương tôi đâu. Tôi đi làm cả hai buổi, nhiều bữa giấy tờ ở sở làm không xong, phải ở lại làm đến tám chín giờ tối. Tôi cứ nghĩ mình cực khổ thế, con cái nó tự biết thương mẹ, chăm lo học hành. Không ngờ cả bọn a tòng với nhau. Thằng anh đầu đàn bỏ học đi chơi, hai đứa em lại nói dối mẹ để che chở cho anh. Nếu cảnh sát không bắt đám trẻ con cờ bạc du đãng đem về ty, nếu anh ty trưởng không điện thoại cho hay, thì tôi cứ tin rằng con mình ngoan ngoãn. Trời ơi! Tôi nghe điện thoại mà không tin tai mình. Trời đất đảo điên! Sụp hết, đổ hết!..."

Tôi không thể tiếp tục nghe cái máy phát thanh liên hồi tả oán nữa. Tôi tìm cách nói sang chuyện khác. Viên vẫn nép sau mẹ, hai tay vo vạt áo và bàn chân di di lên khóm cát vươn vãi trên nền xi măng. Tôi cắt ngang lời thiếu phụ nói với Viên:

"Đó, Viên thấy không? Em không chăm học, làm khổ sở cho má. Hôm trước cô đã khuyên răn em nhiều. Em chịu ngồi nghe. Cô nhớ em có khóc nữa. Thế mà tại sao bây giờ vẫn quen đường cũ hở Viên? Em có thương má không?"

Người mẹ quay lại nhìn con. Viên đứng yên, không trả lời, cũng không gật đầu. Thiếu phụ lắc đầu chán nản phân trần:

"Đấy, cô thấy không? Nó cứng đầu, cứng cổ! Tôi đang làm ở sở mà phải xin phép ông chủ sự về nhà, hỏi thằng Trung em nó, chỗ nó thường lui tới, bắt nó dẫn đến đây cho cô dạy dỗ giùm..."

Chụp được cơ hội may mắn, tôi mời khéo:

"Thôi, bà yên tâm về sở làm việc đi. Tôi sẽ ráng tìm hiểu, khuyên lơn nó. Tuy ham chơi, nhưng Viên nó thông minh và biết điều".

Thiếu phụ mừng rỡ, giọng vồn vã:

"Tôi chỉ mong có thế thôi! Trăm sự nhờ cô".

Bà quay lại đe dọa con vài câu rồi ra về.

Viên không nói gì, cũng không chào mẹ, theo tôi vào lớp. Lòng tôi hoang mang. Dáng điệu, cử chỉ, lời lẽ của mẹ Viên cùng thái độ bất kính của đứa con phải có liên hệ xa gần nào đó. Có cái gì không ổn giữa tình mẫu tử. Như tiếng máy xe lọc cọc, lọc cạch do một bộ phận mòn cũ, hư nát. Thế thì thứ gì đã mòn cũ, hư nát trong gia đình góa bụa này? Tôi dạy qua quít cho xong chuyện thấp thỏm chờ giờ ra chơi. Tôi giữ Viên ở lại. Viên run sợ thật sự, mắt rươm rướm khi ngước lên cầu khẩn tha thứ. Tôi không nói gì. Lấy kinh nghiệm mấy năm dạy học, tôi ngồi xuống bên Viên, sửa lại cái cổ áo cáu bẩn, phủi bụi trên quần đùi xanh, vuốt ve cho mái tóc bù rối của Viên thẳng lại. Kết quả như mọi lúc, Viên gục xuống khóc. Tôi tiếp tục vuốt tóc cậu bé, nói thật nhẹ:

"Em cứ khóc đi! Khóc cho thỏa thuê đi! Cô không giận em đâu! Cô hiểu em, Viên có điều gì u uất không thể nói được với ai, canh cánh bên lòng, giữ lại không nổi mà nói ra thì không đành. Cô biết em sắp nói hết cho cô biết, phải thế không? Phải thế không Viên?"

Viên khóc to hơn. Mấy đứa học trò lấp ló nơi cửa sổ, gặp đôi mắt tôi lườm quở trách, vội vã lảng xa. Rồi nước mắt cũng vơi, Viên thút thít, trong khi tôi vẫn kiên nhẫn chờ đợi. Chờ một lúc không được, tôi nói:

"Em đừng oán hận má. Má la rầy em, bắt em đi học, chỉ vì mong sao cho em nên người. Một người mẹ gương mẫu luôn luôn..."

Sự phẫn nộ òa vỡ. Viên nói lớn, vẻ nóng nảy, thảng thốt khác thường:

"Cô đừng nói vậy. Má em không xứng đáng. Bữa nào má cũng về lúc tối mịt và lúc nào cũng về có đàn ông đi kèm. Má cười với họ, má đùa giỡn với họ, chính tai em nghe má gọi cái ông lái xe Jeep xanh thường đưa má về là "cưng". Đưa cái xách cho em "cưng"! Thằng Trung chưa biết gì cứ gọi là chú Thảo. Con bé Xíu nhờ công giữ em được má cho tiền, ham tiền quên hết. Còn em, em lớn rồi, em..."

Tôi kinh ngạc hỏi vội:

"Giữ em? Bé Xíu là con út mà?" Hôm trước Viên bảo thế. Viên ngước lên mắt còn đỏ và đôi má nhớp nhúa còn rõ ngấn nước mắt:

"Má đẻ thêm bé Chút năm ngoái, thưa cô".

*

Sáng nay Viên lại không đến lớp. Tôi đành chịu thua vậy chứ biết làm thế nào. Tôi bất lực, không thể làm gì được. Mỗi người có một cuộc đời. Tôi có nỗi lo riêng của tôi. Cu Tường lại nóng mình. Bé Tí chụp vào cái tẹt mốt pha sữa, nước sôi làm phồng cả cánh tay non. Tôi đã xót xa nhìn hai đứa con khóc lóc cả đêm qua. Nhà tôi làm việc cực nhọc, tôi không dám đánh thức anh ấy dậy, đành phải lo âu một mình. Cho nên dầu hơi thất vọng khi không thấy bóng Viên xếp hàng, tôi vẫn giữ được thản nhiên.

Bà mẹ Viên lại tới. Biết rồi, khổ lắm, nói mãi! Ai không biết bà tảo tần nuôi con. Bà sinh con ra, có gan sinh con ra, thì phải ráng mà nuôi chúng chứ! Nói với tôi làm gì! Tôi lạnh nhạt hoàn toàn, và ngạc nhiên không hiểu tại sao người đàn bà đó có thể con cà con kê một cách chân tình với một pho tượng.

"Có trời đất chứng giám, tôi thương nó còn hơn cả tôi. Nó giống anh ấy như đúc. Nhiều lúc nhìn nó nháy mắt, nhìn nó hờn dỗi, tôi cứ tưởng anh ấy sống lại, anh ấy chòng ghẹo tôi, anh ấy giả vờ hờn dỗi tôi vào những ngày đầu yêu nhau. Tôi lo lắng cho nó, vậy mà nó không biết nghĩ. Có trời mới hiểu tại sao nó lêu lổng chơi bời không thương mẹ, thương em..."

Bực dọc quá, tôi nói:

"Thưa bà, có lẽ Viên nó sợ hãi quá mức. Trẻ con hay có nhiều trái chứng. Tâm hồn nó mỏng manh như sợi tơ sợi tóc, nhiều lúc xúc động quá nó có thể liều lĩnh. Tôi ngại hôm qua bị bắt vào ty, ông ty trưởng có nặng lời quát tháo với nó chăng. Nó sợ quá đâm liều".

Thiếu phụ vội cải chính:

"Không! Không bao giờ. Tôi biết tính anh Thảo, xin lỗi ông trưởng ty, ông ấy luôn luôn hòa nhã khả ái với tất cả mọi người. Không bao giờ ông ta dọa nạt nó. Mà thực ra, không bao giờ Viên nó sợ ông ty".

Một ý định đanh ác thoạt hiện, tôi mím môi trước khi dằn giọng:

"Bà nhớ lại xem, có vô ý nặng lời với em Viên không? Trẻ mồ côi thường có một tâm tính nhạy cảm hơn trẻ thường. Hoặc bà gay gắt với nó khi Viên xin tiền mua sách vở. Hoặc Viên vô ý làm té bé Chút bà trừng phạt quá đáng?"

Thiếu phụ giật mình, vội ngửng đầu lên nhìn tôi đăm đăm. Chưa bao giờ tôi thấy một đôi mắt bi phẫn như vậy. Ở đó toát ra sự đau đớn cùng cực và sự giận dữ cùng cực. Như đôi mắt con bò đã bị căng nọc xuống đất và bị cắt lìa khí quản. Tôi hơi lùi lại, hai bàn tay nắm chặt vào vạt áo dài. Nhìn tôi một lúc thiếu phụ mới lắp bắp nói được:

"Anh ấy chết đi. Tôi đã gắng nuôi con để quên. Để quên cô độc. Nhưng tôi mới có hai mươi tám tuổi đầu... Tôi còn trẻ quá..."

Tôi cảm thấy ngộp thở, như bước lùi vào một khoảng không. Tôi sợ. Tôi lùi lại phía cửa, lùi lại nữa. Tôi không nghe thiếu phụ nói gì, nhưng đôi tay bà ta giơ tới trước, mắt đổ lửa như muốn bóp chết hiện hình của nỗi cô độc là chính tôi. Khi lưng tôi chạm cánh cửa đánh một tiếng rầm, thiếu phụ giật mình khựng lại khóc òa lên, rồi bỏ chạy ra cổng.


Nguyễn Mộng Giác         
 
(Trích từ tập truyện Bão Rớt, nxb Trí Đăng 1973)