Thứ Sáu, 30 tháng 4, 2021

HẠT NGỌC - Thạch Lam

 

 
Tặng Nhung và Đằng
 
Hôm nay, Ban ở trường học cắp sách về, có vẻ buồn. Về nhà, Ban vứt sách trên bàn, rồi ngồi phịch xuống ghế, thừ người ra như đang nghĩ ngợi lắm. Ban vốn là một đứa trẻ ngoan ngoãn, biết vâng lời và rất chăm học, nên cha mẹ nó quý lắm. Ông Ba thấy con như vậy gọi đến bên cạnh, dịu dàng hỏi:

- Ban, con làm sao mà buồn thế? Có việc gì đấy? Hay hôm nay ở trường con bị phạt?

Ban trả lời:

- Con không bị phạt, nhưng bài luận hôm nay con làm hỏng cả, không được như mọi khi.

- Bài luận thế nào mà con làm hỏng? Xưa nay con vẫn khá về luận cơ mà. Đầu đề bài luận ra sao?

Ban chạy lại bàn học lấy quyển sách đem đến. Cậu giở sách đến buổi học hôm nay, rồi đọc cho cha nghe:

- Bài luận như thế này: "Anh hãy tả rất kỹ lưỡng một buổi gặt lúa ở nhà quê: Công việc của những người gặt hái ra sao, và cảm tưởng anh thế nào?"

Ông Ba bảo:

- Thế thì có lấy gì làm khó, mà con không làm được?

Cậu Ban gấp sách ngửng nhìn cha, rồi đáp:

- Nhưng mà con chưa trông thấy người ta gặt lúa bao giờ thì làm thế nào mà tả được?

Câu trả lời gọn ghẽ ấy khiến ông Ba bỗng sửng sốt. Ông lẩm bẩm trong miệng "ờ nhỉ", rồi lặng im. Sự thực giản dị ấy, ông không ngờ đến, nay khiến ông suy nghĩ. Ờ mà thực như vậy: thằng Ban chưa được xem gặt hái bao giờ thì làm thế nào mà nó tả được? Mà sao nó lại chưa được xem? Vì từ bé đến giờ nó vẫn ở luôn trên Hà Nội, chưa được về nhà quê lần nào.
 
Ông bà Ba trước kia vẫn ở nhà quê, ở một làng đông đúc và sầm uất về tỉnh Hưng Yên . Sau vì nghèo nàn, ông bán hết vả nhà cửa và ruộng nương, thu xếp lên trên tỉnh làm ăn. Từ độ ấy đến nay, ông cũng không có dịp nào trờ về thăm quê cũ ; hai con ông, Ban và Hồng, em nó, đều sinh trưởng ở trên này cả. Ông rất chăm chút các con, rất để ý đến sự nuôi dạy chúng. Ban năm nay học lớp nhì trường Hàng Vôi, còn em Hồng, còn bé theo học một trường tư ở gần nhà.

Ông vẫn yên trí rằng cho con đi học như thế là đủ. Nhưng nay ông mới thấy còn cần phải thỉnh thoảng đưa chúng đi chơi các nơi nữa mới được. Nhất là về nhà quê. Về quê để chúng biết công việc đồng áng ruộng nương ra sao, cái công việc cốt yếu và quan trọng ấy của cả một nước. Để chúng biết sự làm ăn khó nhọc, của những người chân lấm tay bùn, của những người làm ruộng, suốt ngày giãi nắng giữa cánh đồng ; để chúng biết được giá trị của một hạt thóc, mà bao nhiêu công quả mới gặt được về. Ông thường thấy trẻ con các nhà giàu có ở Hà Nội không biết coi trọng hạt cơm: trong bữa ăn, thường khi bỏ thừa bỏ mứa hoặc để vung vãi ra đất rồi dầy xéo lên không tiếc. Ông lại thấy các cậu đó đối đã với những người nhà quê rất là khinh bạc, tỏ ý khinh bỉ những người quần nâu áo vải. Rất thường khi ông được nghe các cậu ấy mắng người nhà người cửa là "đồ nhà quê" tựa như ba tiếng ấy có nghĩa là hèn hạ lắm.

Ông thôi nghĩ, quay lại nhìn con ; cậu Ban đã gấp sách cất đi, và trên mặt vẫn phàng phất một vẻ buồn rầu vì bài luận không biết làm. Ông gọi cậu lại bên cạnh, và bảo:

- Trong tháng này có ngày nghỉ lễ nào không?

- Thưa thầy, có ạ. Đến 11 này là ngày lễ Đình Chiến, chúng con được nghỉ hai ngày.

- Thế thì hay quá. Bây giờ tháng mười ta, lại đúng về vào vụ gặt. Để đến hôm nghỉ ấy, thầy sẽ đưa con và em Hồng về quê xem gặt.

Cậu Ban mừng quá, reo lên:

- Thật nhé, thầy đưa chúng con về xem nhé. Con muốn xem gặt lắm. Xem gặt có vui không, hở thầy?

- Vui lắm. Con về xem sẽ biết.

Bà Ba lúc ấy ở ngoài vào, cũng tán thành:

- Phải đó, về mà ăn cơm nếp mới. Nhân thể thầy nó về, tôi gửi ít qàu về biếu và Tú ở làng ta một thể. Từ ngày ra tỉnh làm ăn đến giờ, tôi cũng chưa có dịp nào về thăm bà cụ, không biết bà ta có được mạnh khỏe không. Ngày còn ở nhà quê, bà ta thường giúp đỡ luôn luôn trong lúc mình túng thiếu, tôi vẫn nhớ không quên.

Ông Ba nói:

- Ừ thế bà sửa soạn sẵn đi. Đến hôm ấy tôi với chúng nó sẽ đi chuyến ô tô sớm.


VỀ QUÊ

Sáng sớm hôm mồng mười, ông Ba cùng cậu Ban với cô Hồng ra bến ô tô, đường đi Hưng Yên. Xe đi quá ga Phú Thụy thì ông Ba bảo đỗ trước một cái chợ nhỏ bên đường. Ba người cùng xuống. Ban ôm gói quà bánh, hỏi thầy:

- Đã đến làng ta chưa ạ?

- Chưa, còn phải đi một quãng xa độ gần hai cây số nữa. Bây giờ ta hãy vào hàng nghỉ, uống nước đã.

Xếp hàng bên một con đường đất đều có nhiều hàng quán bán nước. Hôm ấy là phiên chợ, nên các hàng đều đông khách cả. Những người nhà quê ngồi chen trên cái ghế dài quanh cái chõng hàng: người thì ăn thuốc lào, người thì bưng bát chè tươi nóng lên miệng, húp từng ngụm nhỏ và tắc lưỡi ra dáng ngon lành lắm. Các bà nhà quê đi chợ thì ngồi trên chiếc giường nan phía trong, vừa ăn trầu, vừa nói chuyện, thúng mủng và quang gánh ngổn ngang trước mặt. Tiếng cười nói, lẫn với tiếng ồn ào của người họp trong chợ, làm vang động cả không khí.

Ông Ba cùng với Ban và Hồng vào ngồi trong một hàng nước. Người bán hàng là một bà cụ già đầu tóc bạc phơ, quần áo rất tươm tất và sạch sẽ. Bên cạnh bà, một đứa cháu gái mới độ hơn mười tuổi ngồi trông bếp nước. Bà cụ thấy Ban và Hồng là người trên tỉnh về, vui vẻ mời:

- Cô, cậu ăn quà đi. Hôm nay có bánh rợm và bánh chưng mới ngon lắm.

Ông Ba quay lại hỏi hai con:

- Hai con có đói không? Đói thì ăn đi.

Hồng nhanh nhẩu trả lời:

- Đói lắm ạ. Từ sáng đến giờ chúng con chưa ăn gì cả.

Cô và anh, mỗi người bóc một chiếc bánh rợm. Nếp mới thơm phức, và nhân đậu nhuyễn, rất bùi. Bà cụ hàng vui tính nói đùa:

- Hai cô cậu chả mấy khi ăn quà nhà quê, hẳn lạ miệng lắm.

Hai người ăn rất ngon lành. Vừa ăn vừa nhìn ngắm phong cảnh. Trước mặt quán, bên kia đường, là đồng lúa chín vàng mãi tận đằng xa. Hôm nay trời nắng, nên tuy có gió may mà cũng không lạnh lắm. Nhiều thửa ruộng đã bắt đầu gặt. Những người thợ gặt quần áo nâu nổi bật lên trên màu vàng đậm của lúa chín.

Trong quán, người vào uống nước nghỉ chân càng ngày càng đông. Trên chiếc ghế ngay cạnh chỗ hai anh em ngồi, hai ông cụ già đang nói chuyện về gặt hái, mùa màng. Ông Ba cũng bàn góp vào câu chuyện, cất tiếng hỏi:

- Năm nay vùng ta có được mùa không hai cụ?

Một ông cụ đeo kính trắng, nghe câu hỏi, ngửng lên nhìn ông Ba rồi lễ phép đáp:

- Cũng khá, ông ạ. Không đến nỗi như năm ngoái, phần bị sâu cắn, phần bị trận bão, thành thử hỏng mất cả.

Ông cụ kia nói thêm:

- Năm nay mà trời lại ra tai như thế nữa thì chết đói.

Rồi như ngẫm nghĩ lại chuyện cũ, cụ tiếp theo bằng một giọng buồn buồn:

- Ấy ngày trận bão năm ngoái, cụ có biết không, tôi có bốn mẫu nếp ở ngay chỗ đầu gió thành ra mất hết cả. Ngày hôm sau ra gặt không còn vớt được một phần mười.

Bà cụ hàng từ nãy vẫn lắng tai nghe, bây giờ cũng chép miệng nói chen vào:

- Rõ thật là trời sinh tai sinh vạ. Nhà cháu chả có gì, ấy thế mà hai sào ruộng cấp của con cháu ở xóm dưới cũng bị mất sạch. Mẹ con ngày ấy thật chật vật mới kiếm đủ ăn.

Ông Ba ái ngại hỏi:

- Thế ngôi hàng nước này của cụ có khá không? Ở đây xem chừng cũng đông người đi lại.

- Khá gì. Ông tính khách tuy nhiều nhưng chỉ cơi trầu bát nước, cả ngày không thu nổi dăm hào. Có ngày phiên chợ, bán được thêm chút quà bánh, nhưng lời lãi cũng chả là bao.

Rồi bà cụ cười, nét mặt tươi như hoa dưới làn tóc trắng:

- Rổi việc, bà cháu tôi dọn hàng cho vui. Chứ ở nhà không cũng buồn.

Cậu Ban yên lặng nghe, chăm chú nhìn mọi người, từ hai ông cụ đến bà hàng, cô bé đun nước cũng dừng tay têm trầu để nghe chuyện, hai con mắt đen ngạc nhiên nhìn lại cậu và cô Hồng. Ban hiểu rằng quần áo sang trọng của mình và của em đã khiến cho cô bé kia chú ý. Cô bé nhà quê ấy chỉ mặc có một chiếc quần đen, và một cái áo cánh nâu vá nhiều chỗ. Tự nhiên Ban thấy mến cô gái bé đảm đang ấy, hãy còn ít tuổi mà đã trông nom được cửa hàng giúp bà. Mỗi lần thấy cô bé nhanh nhẹn làm việc này việc khác, nét mặt vui vẻ, Ban lại thêm có cảm tình đối với cô ta. Cậu nghĩ đến những trẻ củng trạc tuổi ấy ở Hà-nội, hơi có việc gì đã sai người nhà, đầy tớ, không chịu mó tay vào việc gì, dù là dễ dàng, nhỏ nhặt: như múc thau nước, lau đôi giầy chẳng hạn.

Cậu đang suy nghĩ như thế, thì bỗng nghe tiếng ông Ba bảo:

- Thôi, đi vào trong bà Tú đi chớ. Để rồi còn ra đồng xem gặt.

Ông mở ví lấy tiền trả bà hàng: quà nhà quê thật là rẻ, hai cô cậu ăn no mà chưa hết một hào chỉ, cả tiền nước. Xong ba cha con vái chào hai ông cụ già, chào bà hàng nước rồi bước ra ngoài quán.


ĐI VÀO LÀNG

Ba người theo con đường đất nhỏ đi về phía làng. Hai bên đường có giồng những cây gạo, thân đứng thẳng tắp. Thỉnh thoảng lại có một cây bứa cành lá rườm rà xanh thẫm, hay một vài cây nhãn cổ thụ, gốc sần sùi và cành uốn rủ xuống thấp tới gần mặt đất. Ông Ba bảo hai con:

- Vùng này nhãn có tiếng là ngon. Cứ đến mùa nhãn là khách các nơi về mua đông lắm, họp thành hẳn cái chợ nhãn.

Hồng hỏi thầy:

- Bao giờ có quả hở thầy?

Ông Ba giảng cho con biết:

- Nhãn có hoa về cuối tháng hai hai đầu tháng ba. Đến cuối tháng sáu sang đầu tháng bẩy thì nhãn chín. Người ta nghiệm rằng năm nào nhãn sai thì nước to. Điều đó cũng có lẽ đúng, vì có nắng to trong mấy tháng nhãn ra hoa thì mới đậu nhiều quả. Mà nắng to trong mấy tháng ba, tư thì tất những tháng sau sẽ mưa nhiều.

- Nhãn giồng bao nhiêu năm thì được ăn quả, thầy?

- Lâu lắm. Nhãn là một giống cây mọc rất chậm, thưởng thì bẩy tám năm mới có nhiều quả. Những cây nhãn ở làng này toàn là nhãn cổ thụ, giồng đã lâu năm lắm.

- Cậu Ban nhắc lại:

- Con nhớ năm nào bà Tú có cho người đem ra biếu mấy trăm nhãn lồng ngon lắm. Nhãn lồng có phải là thứ nhãn mà lúc chín người ta đan cái lồng bọc ngoài để giữ có phải không ạ?

Ông Ba bật cười:

- Không phải. Nhãn lồng là một thứ nhãn rất chắc cùi dầy, múi có khi lồng lên nhau. Còn nhiều thứ nhãn khác nữa, nhãn đường phèn, nhãn nước, nhãn ráo. Ở vùng đây có thứ bạch nhãn quý lắm, gọi là nhãn tiến, vì ngày xưa vẫn đem tiến vua.

Mấy người mải nói chuyện nhãn, đã đi đến cổng làng lúc nào không biết. Qua mấy bậc đá xanh, ba cha con vào trong đường làng. Đường ở ngoài nắng vào đây mát rợi hẳn đi, vì hai bên đường hẹp có lũy tre mà cành lá giao nhau ở trên ngọn làm thành một cái vòm lá kín.

Đi một quãng, ông Ba dừng lại trước một cái trại có tường đất thấp bao bọc. Trên tường, giồng cây xương rồng làm thành một bức rào tươi kín mít. Một cái cổng mái gạch lộ ra dưới lá một cây bưởi rất lớn. Ông Ba bảo:

- Đây là nhà bà Tú đây. Hai con vào phải chào hỏi cho có lễ phép nhé.

Ban và Hồng đều vâng lời. Ông Ba bèn đầy khẽ cánh cửa, cất tiếng gọi. Tức thì ở trong có tiếng chó sủa ran, rồi có một người đàn bà đi ra đuổi chó, tay cầm một cái que.

- Ai đó?

- Tôi đây. Tôi hỏi bà Tú có nhà không ạ?

Người đàn bà đã ra đến cổng, mở rộng hai cánh cửa, và khi thấy ông Ba thì vui mừng reo lên:

- Ô kìa, ông Ba đấy à? Ông về bao giờ thế? Mời ông vào nhà.

Ông Ba vội vàng đáp:

- Thưa, tôi mới đi ô tô về, vào đây ngay đấy ạ. - Và ông quay lại bảo hai con:

- Bà Tú đây, các con chào đi.

Hai anh em Ban đều ngả mũ nón chào rất lễ phép. Bà Tú nhìn hai đứa trẻ, cười hỏi ông Ba:

- Hai cháu đấy à? Úi chào, chóng nhớn quá nhỉ?

Rồi bà âu yếm giắt tay cô Hồng, bảo:

- Đi vào trong này, con.

Mấy người qua cái sân gạch rộng, đã có một ít thóc phơi bên cạnh một đống rơm mới và một cái cối đá kê nghiêng trên mấy viên gạch.

Bà Tú mời khách vào nhà trên. Đó là một cái nhà gạch rộng rãi, làm theo lối cổ, có hiên và cửa bức bàn. Trong nhà, rất nhiều câu đối sơn treo ở các cột, và trên cao, một bức hoành phi lớn có bốn chữ đại tự mà cậu Ban chỉ biết được có một chữ là chữ "tâm". Bà Tú mời ông Ba ngồi trên chiếc trường kỷ kê liền một chiếc án thư, rồi gọi người nhà pha nước. Ban không ngồi ; cậu đứng tựa cánh cửa bức bàn nhìn ra ngoài sân, và qua đấy, cái vườn rộng bao bọc quanh nhà, rất nhiều cây quả mà cậu chưa từng trông thấy bao giờ. Lần này là lần đầu cậu mới được vào một nhà ở thôn quê, nên cái gì cũng khiến cho cậu chú ý, ngạc nhiên.

Bà Tú đặt khay chè lên án thư mời khách, rồi hỏi ông Ba:

- Bà nhà ta ngoài ấy có được mạnh khỏe không? Đã lâu nay, vì công việc đồng áng bận quá, tôi cũng chưa có dịp nào lên thăm bà được.

- Nhà tôi vẫn thường nhắc đến bà luôn. Hôm nay nhân mùa gặt, tôi đưa hai cháu về thăm bà, và xem gặt một thể. Chúng nó từ bé đến giờ chưa được xem gặt hái bao giờ.

Bà Tú nhìn hai đứa trẻ, cười:

- Về đây thì tha hồ mà xem gặt. Rồi tối tôi bảo người nhà thổi cơm nếp mới cho mà ăn, ngon lắm.

- Năm nay bà cấy được bao nhiêu mẫu?

- Hơn mười mẫu mùa, với vài sào nếp cái và hai sào tám lùn. Thứ tám mà năm ngoái tôi đã cho đem ra biếu ông bà ấy mà.

- Vâng thứ tám ngon và thơm quá. Hạt cơm trắng và rẻo. Nhà tôi quý lắm, cứ để dành ăn dần.

- Ấy, hôm nay đương gặt chỗ tám ấy đấy, ông đưa cháu ra mà xem. Con bé Đào nhà tôi nó cũng đương trông nom gặt ngoài ấy, từ sáng sớm.

Ông Ba đứng dậy:

- Vâng, xin phép bà để đưa hai cháu ra xem.

Bà Tú theo ra đến cửa, còn dặn với:

- Chong chóng mà về ăn cơm, ông nhé. Không sợ các cháu đói.

Hồng từ nãy thấy bà Tú hiền từ và âu yếm, mới bạo dạn trả lời:

- Thưa bà, ban nãy chúng cháu đã ăn lót dạ ở hàng rồi ạ.


RA XEM GẶT

Ông Ba lại giắt hai con quay ra. Nhưng lần này theo con đường khác, đi quanh co giữa làng, hai bên toàn là lũy tre và tường đất thấp của các nhà. Thỉnh thoảng bọn này gặp ở trước một cái cổng ngỏ, vài ba đứa trẻ nhà quê, đương chơi đánh khăng đánh đáo. Thấy người lạ đi qua, chúng dừng chơi đứng lên nhìn, có đứa mắt nhấp nháy vì ánh nắng, có đứa há hốc mồm ra như ngạc nhiên lắm. Ban nhận thấy phần nhiều chúng đều gầy còm cả, và quần áo vừa rách rưới vừa bẩn thỉu. Cậu biết rằng vì cha mẹ chúng nghèo.

Ra gần đến cuối làng, hàng lũy tre dầy kín tách hở ra để tầm mắt có thể nhìn thẳng ra ngoài cánh đồng lúa chín. Ông Ba dừng lại một lát bảo hai con:

- Ruộng của bà Tú về phía này. Phải, thầy hãy còn nhớ.

Ba người rẽ sang tay phải, đi men theo lũy tre. Gần đến một cái Văn miếu làm trên một mô đất cao, cây cối um tùm, ông Ba chỉ tay bảo:

- Đây rồi.

Ven đường, là một thửa ruộng đương gặt. Năm sáu người thợ gặt đang cúi mình trong hàng lúa. Trên bờ ruộng đã thấy nhiều lượm lúa chồng lên nhau, cùng với nhiều quang gánh để sẵn.

Một thiếu nữ nhà quê đang ngồi coi gặt bên đống lúa, thấy bọn người đến bèn đứng dậy. Ông Ba gọi:

- Cô Đào trông gặt đấy à?

Thiếu nữ vội vã chạy lại, mừng rỡ:

- Ồ kìa, ông Ba. Lại cả hai em nữa kìa. Vui quá.

Ông Ba đáp:

- Chúng tôi đưa nhau về xem gặt đấy, cô ạ.

- Ông đã vào trong nhà chưa?

- Đã. Chúng tôi ở trong ấy ra đây.

Cô Đào đưa ông Ba đến ngồi dưới bóng mát của một cây đa nhỏ. Hồng từ lúc trông thấy Đào đem lòng yêu mến ngay. Cô thân mật ngồi nép vào bên cạnh Đào, nghe thiếu nữ nói. Hai má Đào hồng lên vì ánh nắng, hàm răng đen nhánh và miệng cười rất tươi.

Ban đã chạy xuống ruộng lúa, đứng cùng hàng với những người gặt. Cậu thấy họ gặt rất nhanh nhẹn. Một cái vung tay ra, đã thu gọn một ít lúa vào cái hái. Rồi đến tiếng soạt cứ ngọt đi của lưỡi hái, cắt đứt thân cây, thế là một bó lúa đã nằm hàng trên đất ruộng cùng với những bó trước, trông rõ thật là dễ dàng, và giản dị.

Một người thợ gặt đã có tuổi, thấy Ban tò mò đứng xem, dừng tay lại nhìn lên, cười hỏi:

- Gặt thì có gì lạ mà cậu chăm chú xem thế?

Ban đáp:

- Thế mà lần này là lần đầu tôi mới được xem đấy, cụ ạ - Rồi cậu hỏi:

- Gặt có dễ không, hở cụ?

Người thợ gặt mỉm cười:

- Dễ lắm. Cậu thử mà xem.

Ông ta tháo cái hái ở tay ra rồi đưa cho Ban. Cậu đỡ lấy ngắm nghía. Cái hái có một thân chính bằng gỗ dài hơn một cánh tay, về phía giữa thân, có ghép một cái lưỡi bằng thép rất sắc. Một đầu cái thân có buộc dây vòng để luồn vào cánh tay giữ cho chắc ; đầu kia là một thanh gỗ khác - cũng có khi bằng tre - gập lại gần như thước thợ đối với thân chính, nhỏ hơn và vút nhọn như một cái sừng, người gặt dùng cái ấy để vơ lúa về thành bó, rồi đưa lưỡi hái ở thân chính ra cắt.

Ban thử đeo cái hái vào tay...

Cậu lúng túng mãi chưa biết cầm hái thế nào cho thuận. Ông cụ thợ gặt bèn chỉ bảo cho Ban biết cách cầm hái, và cách vơ lúa thành bó thế nào cho dễ cắt. Ban chăm chú nghe.

- Nào, bây giờ cậu thử gặt đi xem nào.

Ban cúi mình xuống các bông lúa, mắt đưa nhìn những người gặt quanh cậu để nhận xét họ làm thế nào.  Nhưng cử chỉ của họ nhanh nhẹn và thoăn thoắt đến nỗi cậu không nhận xét được rõ. Cậu cũng vung tay vơ lúa gọn về mình, tưởng thu về được nhiều, nhưng đến lúc sắp đưa lưỡi hái, cậu mới thấy trong tay mình chỉ có vài thân lúa. Cậu đưa lưỡi hái cắt: hình như thân lúa dai lắm, cắt mãi không đứt, và các bông lúa cắt không đều. Cô Đào ở trên bờ reo đùa:

- À, em Ban nhà ta cũng tập gặt lúa kia đấy. Cố lên, rồi chiều chị trả công cho.

Ban lại càng lúng túng. Tuy vậy cậu vẫn hăng hái làm việc ; mỗi lần vơ lúa gần người, cậu lại ngửi thấy mùi lúa chín thơm ngát, và bông lúa sắc sát vào tay, vào má. Một lát cậu thấy nực, và thấy nắng rát trên lưng ; mồ hôi đã rỏ giọt ở trên trán. Lúc bấy giờ cậu mới biết gặt là một công việc khó nhọc, chứ không phải dung dị và nhẹ nhàng như cậu tưởng khi mới đứng xem. Ban cố gắng cắt thêm được mươi bó lúa nữa. Khi cậu dừng tay ngửng lên, thì thấy các người thợ gặt khác đã bỏ cách cậu một quãng xa rồi. Ông cụ thợ gặt đỡ lấy cái hái và bảo:

- Thôi cậu nghỉ tay uống nước. Để tôi gặt chóng cho kịp.

Trên bờ, lúc ấy Đào cũng lên tiếng gọi:

- Lên đây uống nước ăn quà em Ban.

Cậu bước lên ngồi cạnh mọi người, ngay trên nền cỏ mượt, vắt áo lên lau mồ hôi trán và cầm lấy nón của em Hồng quạt. Cậu nói với ông Ba:

- Gặt thế mà nhọc lắm thầy ạ.

Ông Ba cười đáp:

- Ấy là con mới tập làm có một tí. Những thợ gặt này họ làm việc từ tờ mờ sáng đến giờ, chiều lại còn phải gánh lúa về làng. Thế mà công việc gặt kể cũng còn là một công việc nhẹ đấy. Kể từ lúc cầy ruộng đến lúc lúa chín, còn bao nhiêu là công việc nặng nhọc bằng mười nữa.

Cô Đào đã gọi một người bán hàng đổi đồng đến. Đó là một trong số những người đàn bà cứ đến mùa gặt, gánh các thứ quà bánh ra đổi cho các thợ gặt lấy lúa. Các thợ gặt được dùng ít lúa đổi lấy các quà bánh ấy, tuy lúa không phải của họ. Đó là một tục rất hay, biết đến cái công khó nhọc của những người gặt. Gặp chủ ruộng rộng rãi thì họ đổi được nhiều quà bánh hơn. Cô Đào là một thiếu nữ rất thương người và độ lượng, nên bạn gặt làm cho cô đều mến yêu cô.

Người đàn bà đặt gánh hàng xuống trước mặt Hồng. Trong hai thúng Hồng thấy có xôi lạc, xôi đậu đen, chả, các thứ bánh lá, như bánh chưng, bánh nếp, bánh tẻ, và diêm, thuốc lào với giầu, cau. Cô Đào bảo đơm một đĩa xôi gấc và cắt ít chả, mời khách. Ông Ba kêu còn no không ăn, nhưng Ban và Hồng thì ăn ngon lành lắm. Quà mới vừa lạ miệng, lại vừa ăn dưới bóng cây mát, trên bờ ruộng, nên Ban thấy có một vị cậu chưa từng biết. Cô Đào lại gọi các thợ gặt:

- Trưa rồi, các bác nghỉ tay lên ăn quà một thể.

Bọn họ vui vẻ kéo cả lên quây quần lấy gánh hàng. Người ăn giầu, kẻ uống nước, hút thuốc, và trò chuyện rất là vui vẻ. Bấy giờ mặt giời đã gần đứng bóng. Trên cánh đồng rộng bao la trước mặt, lúa chín lóe vàng dưới ánh nắng. Về phía chân trời, mấy đám mây trắng lững thững bay trên màu lam biếc.

Ban nhìn chung quanh thấy những người gặt ở các thửa ruộng khác cũng đã nghỉ cả. Phía đầu làng có nhiều cây to mọc trên bờ ruộng, nên quãng đồng này có vẻ thân mật của một cái vườn. Các bọn thợ gặt họp nhau dưới bóng cây, hoặc uống nước ăn thuốc, hoặc giở cơm nắm ra ăn với nhau. Thỉnh thoảng gió đưa lại tai Ban một tiếng cười, hay tiếng rít dài của chiếc điếu cầy hút mạnh. Không khí trên cánh đồng rất thoáng và dễ thở, khiến Ban thấy trong người khoan khoái, các mạch máu chạy đều. Và cậu tự nhiên cảm thấy một mối vui sướng nhẹ nhõm, từ lúc thấy cái vui vẻ làm công việc của những người thợ gặt ; hình như chính cậu cũng có dự phần vào sự hoạt động ấy.

Ông Ba bảo cô Đào:

- Ruộng nhà hôm nay đã gặt hết chưa cô?

- Hết rồi ạ. Bắt đầu gặt từ ngày hôm kia cơ ạ. Còn thửa ruộng tám này nữa là hết. Đến chiều nay thì xong cả.

Hồng ngây thơ hỏi:

- Thế là hết cả công việc, không còn phải làm gì nữa phải không chị?

Đào cười, giơ tay âu yếm quàng lên vai cô bé:

- Đã xong thế nào được. Lúa mang về còn phải đập, phải phơi, sàng sẩy, rồi mới đổ vào cót. Ấy là không kể nếu muốn có gạo ăn thì lại còn phải xay, phải giã nữa.

Đào đứng lại một chút, và chợt nghĩ ra, tiếp theo:

- May quá, hôm nọ chị đã bảo người nhà làm thúng gạo nếp mới, để tối chị bảo thổi xôi cho các em ăn. Xôi gạo mới ngon lắm cơ.

Ban và Hồng cùng đáp:

- Chị cứ nhắc mãi làm chúng em thèm.


TRỞ VỀ NHÀ

Ăn quà xong, Đào đã cố mời ông Ba và định đưa hai anh em Ban về nhà nghỉ, và ăn cơm chiều. Bà Tú cũng cho người nhà ra mời. Nhưng Ban và Hồng nói vừa ăn quà no, chưa muốn ăn cơm. Và hai anh em nói muốn ở lại bên cạnh Đào suốt đến chiều để xem gặt. Ông Ba cũng chiều ý hai con, để Ban và Hồng ở lại xem gặt nốt, còn mình ông về nhà trước không sợ bà Tú trông đợi.

Nghỉ ngơi xong, các bọn thợ gặt lại trở nhau xuống ruộng làm việc. Bọn thợ của cô Đào cũng xuống gặt nốt. Tất cả cánh đồng lúa lại diễn ra cảnh hoạt động tấp nập của ban sáng ; tiếng hái soàn soạt cắt lúa lại nổi lên lẫn với tiếng cười nói của những người gặt.

Cô Đào không muốn đứng không. Cô xuống ruộng thu gọn và buộc những bó lúa xếp vào quang gánh cho người nhà gánh về. Ban và Hồng cũng đến bên làm giúp, và công việc ấy dễ dàng, nên hai anh em làm được chu đáo. Đào pha trò:

- Ừ, hai em cố làm đi, cho xứng với nồi nếp mới chờ ở nhà chứ.
 
 Buổi ban chiều qua lúc nào không biết. Đến khi gánh lúa cuối cùng đã xếp, Ban mới hay rằng ngày đã sắp hết rồi. Cậu mải vui công việc quên cả thì giờ và cậu thấy trong lòng vui vẻ và tự bằng lòng mình lắm. Chị Đào bảo:
 
- Thôi, chúng ta cùng theo gánh lúa này trở về thôi. 
 
Bọn thợ gặt đã thu xếp liềm hái và quần áo. Tất cả chừng ấy người men theo ven bờ ruộng. Trên con đường về làng nhiều người gánh những gánh lúa vàng nặng trĩu.
 
Mặt trời đã lặn sau lũy tre của làng xa. Tuy vậy chưa tối hẳn. Các đám mây trên cao vẫn còn chiếu sáng, và trên cánh đồng còn phảng phất một chút ráng chiều tươi đỏ. Mọi người đều bước mau để chóng về tới nhà. Một mùi lúa chín thơm, theo anh em Ban đi, như vướng vào bụi cây, ngọn cỏ. 
 
Về đến sân nhà bà Tú thì trời bắt đầu tối. Bà Tú thấy thợ gặt về, vội vã ra đón hai anh em Ban.
 
- Gớm, sao chơi lâu ở ngoài ruộng thế. Làm ở nhà tôi mong mãi.
 
Rồi bà quay sang nhìn cô Đào, có ý trách:
 
- Sao con không đưa hai em nó về sớm ăn cơm, lại chịu nhịn đói.
 
Đào chỉ cười. Ban lễ phép đáp lại:
 
- Thưa bà, chúng con không đói ạ. Chị Đào đã gọi hàng quà đến cho chúng con ăn hồi chiều.
 
Bà Tú vỗ vào lưng hai anh em:
 
- Thôi, mau mau đi rửa chân tay rồi ăn cơm. Thầy đương đợi trên nhà kia kìa. 
 
Đào đưa Ban và Hồng ra cầu ao rửa. Bọn thợ gặt đã ở đấy rồi. Họ chen nhau vui vẻ trên chiếc cầu ao tre, khoắng nước rộn rịp khiến bóng các ngôi sao chiều lay động rung rinh giữa đám bèo.
 
 
ĐẬP LÚA
 
Cơm nước xong, Đào bắc một chiếc ghế dài ra ngoài sân, ngay nhà trên trông xuống. Bấy giờ, giăng đã lên quá ngọn tre, một mặt giăng trong sáng và gần tròn, vì hôm nay là ngày mười bốn ta.
 
Bà Tú bảo:
 
- Hôm nay có giăng sáng thế này thì dễ không phải thắp đèn đâu nhỉ.
 
Một người thợ gặt thưa:
 
- Cũng phải thắp, cụ ạ. Đèn sáng dễ vét thóc hơn.
 
Bà Tú gật đầu khen phải. Tức thì một người nhà đi lấy một cây đèn chân, thắp lên và đặt trên một chiếc đôn gỗ. Giữa sân, bên cạnh cái cối đá kê nghiêng, các bó lúa đã xếp sẵn thành mấy đống. Vài người khác đem một lá cót to và cao, quây vòng lấy cái cối, và cách xa cối độ ba bước chân. Sửa soạn xong đâu đấy, bọn thợ, miệng còn ngậm tăm, đã gọi nhau:
 
- Thôi, bắt tay vào việc đi chứ. Làm sao cho đêm nay hết được chỗ lúa mới gặt này.
 
Cô Đào nói khuyến khích:
 
- Hết chứ. Một mình bác Hiên đập cũng xuể rồi. Bác ấy vẫn nổi tiếng là người làm nhanh công việc cơ mà.
 
Người gọi đến tên đó là một người lực điền còn trẻ tuổi, rất vạm vỡ, khỏe mạnh. Nghe cô Đào nói, bác chẳng đáp lại, lặng thinh bước vào đập lúa.
 
Hồng nắm áo Đào hỏi:
 
- Ơ chị, người ta cầm cái gì đấy nhỉ.
 
- Đấy là cái néo, hai khúc tre có dây nối vào nhau. Người ta dùng néo để cặp lấy bó lúa giơ lên đập vào cối.
 
Ba bốn người liên tiếp nhau đập lúa rất nhanh nhẹn. Tiếng lúa đập trên cối đá thình thịch lẫn với tiếng hạt thóc bắn ra rào rào vào lá cót. Mỗi lần bó lúa đập xong, người thợ lại vừa mở cái néo, vừa quăng bó lúa hết thóc ra đằng sau.
 
Cô Đào cười, vỗ vai Ban, đùa bảo:
 
- Cậu lực điền, thủ ra tập đập lúa đi xem nào.
 
Ban nghe lời, đến bên đống lúa. Cậu cũng lấy néo quàng chặt lấy bó lúa, rồi giơ cao đập xuống cối đá. Cậu tưởng đã néo rất chặt, ai ngờ vừa đập xuống thì bó lúa đã bật tung ra ngoài mất. Ban lại cúi xuống nhặt bó lúa lên, néo lại. Nhưng hễ đập mạnh là lại tuột. Năm bảy lượt như thế. Thành thử trong lúc cậu loay hoay mãi, chưa xong với một bó thì có người thợ đã đập xong đến năm sáu bó rồi. Chị Đào cứ nhìn Ban mà cười - chị hôm nay vui vẻ lạ -, rồi rủ Hồng:
 
- Thôi, để mặc anh ấy loay hoay với cái néo. Chị em chúng mình ra phía này tuốt lúa chơi đi.
 
Chị giắt Hồng đến cạnh đống bó lúa đã đập rồi. Ở đấy bên cạnh một chiếc đèn hoa kỳ nhỏ, mấy người đàn bà đang ngồi tuốt lúa chung quanh một cái nia lớn. Hồng hỏi:
 
- Những bó lúa này đã đập hết thóc rồi cơ mà?
 
Đào giảng:
 
- Không hết sạch được. Thế nào cũng còn sót lại ít thóc. Có khi chỉ vài hạt. Nhưng mà cũng phải tuốt nhặt cho hết, vì một hạt thóc quý lắm.
 
Mỗi người cầm một đôi đũa tre, cặp lại trên từng bông lúa rồi tuốt những hạt thóc còn lại xuống nia. Công việc thật là cẩn thận và tỉ mỉ. Khi tuốt xong, thì không có hạt thóc nào sót lại, bông lúa chỉ còn là cuống rơm.
 
Ai nấy cùng hết sức làm việc. Ở dưới nhà ngang, phía bên trái gian nhà chính, bỗng nghe có tiếng chầy giã gạo, tiếng cười nói khúc khích của mấy cô gái quê. Lát sau, một giọng hát nổi lên, giọng hát trong vắt và lanh lảnh, êm như ru. Mọi người đều dừng tay lại nghe. Bà Tú nói:
 
- Lại giọng hát của cô Tuế rồi. Ở đâu có cô ấy là có tiếng hát.
 
Ban cũng chú ý nghe. Cậu nhận ra cô Tuế hát những câu ca dao mà cậu đã đọc qua trong sách. Nhưng tối hôm nay, giữa cái quang cảnh tấp nập ngày mùa này, cậu mới hiểu được hết ý nghĩa của các câu hát. Đó là những câu hát giản dị, về công việc đồng áng ở thôn quê, nói tới sự chăm làm và nhẫn nại của những người làm ruộng : thức khuya, dậy sớm, cả ngày cặm cụi ngoài cánh đồng, trong những ngày nóng nực của mùa hạ cũng như trong những ngày rét mướt của mùa đông.
 
Nhờ có tiếng hát phấn khởi, nên ai nấy đều hết lòng làm việc. Chẳng bao lâu mà lúa đã đập hết. Bây giờ người ta bắt đầu vun thóc vãi lại thành đống ; người cất tấm cót, người vần cối đá ra rìa sân. Nia thóc tuốt của chị em Đào, Hồng cùng với mấy bà khác cũng đã hơi đầy ; còn Ban thì cậu đang xuýt xoa, hai tay sát nhẹ vào nhau, vì từ nẫy đập lúa, da tay cậu đã có chỗ phồng lên.
 
 
TỪ GIEO ĐẾN GẶT
 
Bà Tú từ dưới bếp đi lên, theo sau có một người nhà mang một mâm đầy cơm nếp, muối vừng và bát đĩa. Mâm cơm để ở giữa sân, cạnh cái đôn để đèn. Bà Tú bảo các thợ:
 
- Nếp mới đây, mời các bác ăn đi cho vui. Hôm nay làm tuy vất vả, nhưng xong sớm tôi mừng lắm.
 
Rồi bà quay ra bảo Đào bắc thêm ghế và kê bàn ở trước thềm. Một mâm cơm nếp khác được mang lên, ít hơn mâm kia, nhưng bát đũa tươm tất hơn.
 
- Nào, ông Ba và hai cháu đâu, ra ăn đi. Gọi là có chút nếp mới ăn với muối vừng. Ở nhà quê này chả có quà gì khác.
 
Ban thành thực đáp:
 
- Thưa bà, chả có gì ngon hơn cơm nếp mới với muối vừng nữa ạ. Nhất là lại ăn dưới sáng trăng như thế này.
 
Hồng víu tay vào chị Đào:
 
- Chị cũng ngồi ăn một thể, chứ chị.
 
Bà Tú so đũa, mời. Mọi người đều xới cơm vào bát ăn. Ban đưa bát cơm nếp lên miệng, thấy mùi gạo mới thơm phức, phảng phất như hãy còn là lúa chín ở ngoài ruộng. Gạo vừa rẻo vừa quánh nhựa, ăn với muối vừng đậm và béo. Vì làm việc vận động xong, nên Ban thấy đói, ăn rất ngon lành. Suốt đời cậu chưa từng bao giờ ăn bữa cơm ngon đến như thế.
 
Mặt giăng bấy giờ ở giữa trời, trong vắt và sáng lạ thường. Bóng người in xuống sân gạch cứ rõ mồn một. Các lá cây bưởi, cây mít ở trong vườn đều sáng bóng lên như ướt nước. Qua hàng rào, các nhà hàng xóm cũng lao xao tiếng người cười nói, và thỉnh thoảng có tiếng chó cắn sủa một người thợ nào đi khuya. Tối hôm nay thật là cả làng đều hoạt động vui vẻ: thóc chín đã gặt về rồi, suốt một năm làm lụng khó nhọc bây giờ đã đến ngày kết quả.
 
Ăn cơm nếp xong, bọn thợ đều thu xếp đi nghỉ, vì họ đã làm việc từ sáng sớm. Chỉ còn có bà Tú, cô Đào cùng với ông Ba và hai con, thêm vài cô gái quê giã gạo, là còn thức. Mọi người đều kéo xuống nhà ngang, quây quần trên chiếc phản thấp. Ông Ba với điếu thuốc lào hút một hơi, rồi quay sang hỏi hai con:

- Thế nào, hôm nay hai con xem gặt có vui không? Và Ban đã biết rõ ràng chưa?

Ban thưa:

- Đã ạ. Bây giờ có ra luận thì con không sợ để giấy trắng nữa. Nhưng thầy nói cho con biết tất cả các công việc từ lúc cầy ruộng đến lúc gặt lúa, thì con mới biết đầy đủ được.

- Việc ấy thì không gì bằng hỏi chị Đào đây. Chị là người làm ruộng thì không ai còn biết rõ công việc hơn nữa. Hồng chưa để thầy nói hết, đã víu lấy tay áo Đào:

- Chị nói cho chúng em nghe đi, chị. Để rồi nhớn lên em sẽ về đây làm ruộng với.

Chiều ý hai người bạn bè mà cô thấy mến yêu ngay từ sáng, lúc mới gặp gỡ, cô Đào vui lòng kể lại những công việc cô vẫn làm quanh năm.

- "Ở đây đồng khô mà đất tốt, nên thường chỉ cấy lúa có một mùa thôi, còn lúc khác thì giồng mầu vì giồng mầu lợi hơn cấy chiêm. Giồng mầu nghĩa là giống các thứ ngô, khoai, cà, đậu. Có người giồng khoai tây và một thứ cây làm thuốc gọi là bông mã đề nữa. Giồng từ tháng một, đến tháng hai tháng ba thì giỡ. Cỏn thân cây đậu, hay khoai đem bón đất để thêm mầu, (như thế nên gọi là giồng mầu). Tháng ba thì bắt đầu sửa soạn mùa lúa. Ruộng đã cầy và để ải (1) từ trước, đập đất cho nhỏ, bừa, tát nước nếu năm nào ít mưa để gieo mạ. Mặt ruộng lúc bấy giờ phải xấp xỉ nước và san phẳng cho đều. Trong lúc ấy thóc giống đem ngâm đã mọc mầm, vớt lên rồi đem ra ruộng gieo. Chờ hai tháng thì được mạ. Lại nhổ lên để đem cấy. Trước khi cấy ruộng cũng đã phải cầy, bừa rồi. Độ hai tháng thì lúa lên đã cao, lúc ấy người ta gọi là "lúa con gái". Ba tháng thì có đòng đòng. Từ lúc ấy thì chỉ còn đợi lúa chín mà thôi, nhưng không phải vì thế mà hết công việc. Còn phải vơ cỏ, bón phân, tát nước, trăm công nghìn việc vất vả. Đến lúc trông thấy lúa chín không bị sâu, không bị mưa bão, mới hơi mừng. Rồi đến tháng mười như bây giờ thì bắt đầu gặt."

- Như thế là hết công việc, chị nhỉ.

- "Kể là hết công việc làm ruộng. Nhưng gánh thóc về còn phải đập, phải xay, giã mới thành được hạt gạo mà các em ăn đó. Nghĩa là công việc làm mất một năm, trừ có mấy tháng trước Tết và tháng giêng là còn được nhàn đôi chút. Ấy ở đâu đồng mầu, khô ráo và đất bỏ, công việc làm ruộng còn dễ. Ở các nơi đồng chiêm, quanh năm nước phủ, thì công việc lại khó nhọc hơn nữa. Cũng có nơi đồng tốt, tiện lợi nước, người ta cấy cả hai vụ, vụ lúa chiêm, gặt trong tháng sáu, và vụ lúa mùa, thì gặt bây giờ.

"Em muốn biết rõ các công việc ruộng nương thì học thuộc lấy bài hát này."

Ban và Hồng nhao nhao lên hỏi:

- Bài hát thế nào cơ chị? Chị dạy chúng em học với.

- Khoan đã. Để chị nhớ lại đã.

Đào lặng yên nghĩ ngợi, lẩm bẩm trong miệng như để nhắc thầm lại các câu hát, rồi cô bắt đầu đọc:

Tháng giêng là tháng ăn chơi,
Tháng hai giồng đậu giồng khoai giồng cà.
Tháng ba thì đậu đã già,
Ta đi ta hái về nhà phơi khô.
Tháng tư đi tậu trâu bò,
Để ta sắp sửa làm mùa tháng năm.
Tháng này đem lúa ra ngâm,
Đến khi mọc mầm ta sẽ vớt ra.
Gánh đi ta ném ruộng ta,
Đến khi lên mạ thì ta nhổ về.
Đặt tiền mượn kẻ cấy thuê,
Cấy xong rồi mới trở về nghỉ ngơi.
Cỏ lúa dọn đã sạch rồi,
Nước đã vơi mười còn độ một hai.
Ruộng thấp đóng một gầu giai,
Ruộng cao thì phải đóng hai gầu sòng.
Chờ cho lúa có đòng đòng,
Bấy giờ ta sẽ trả công cho người.
Bao giờ cho đến tháng mười,
Ta đem liềm hái ra ngoài ruộng ta.
Gặt hái ta đem về nhà,
Phơi khô quạt sạch ấy là xong công.

Đào vừa dứt tiếng hát, Ban đã reo lên:

- Bài hát hay quá chị nhỉ. Để em lấy bút ra em chép.

Đào bảo:

- Phải đấy. Em chép thì mới nhớ được. Rồi học thuộc lấy để biết rõ các công việc đồng ruộng.

Rồi chị Đào nói thêm:

- Làm ruộng thì phải chịu khó, thức khuya dậy sớm, chân lấm tay bùn, không ngại khó nhọc thì mới làm được, không phải là công việc dễ. Em Hồng sau này dẫu có chí thích cũng không làm được đâu, vì em không quen công việc khó nhọc từ lúc bé.

Bà Tú cười, điểm thêm vào câu chuyện:

- Các cô các cậu ở tỉnh quen ăn trắng mặc trơn rồi, có làm ruộng lại sợ bẩn áo.

Mọi người cùng cười. Ông Ba hút một điếu thuốc lào nữa, rồi thong thả bảo hai con:

- Đấy công việc làm ruộng chật vật như thế đấy. Kể từ khi gieo mạ, cấy lúa, cho đến lúc thành hạt thóc gặt về nhà, biết bao là công lao khó nhọc, dãi nắng dầm mưa. Người ta nói "Đổi bát mồ hôi lấy bát cơm" quả không sai. Ấy là không kể những năm lại mất mùa đói kém nữa. Tuy vậy những người làm ruộng ở nhà quê không chán nản bao giờ, họ cứ vẫn chịu khó làm lụng. Hạt thóc cần để nuôi sống loài người, và lại mất bao nhiêu công của, bao nhiêu sức lực mới giồng lên được.

Vậy các con phải kính trọng và cám ơn các người làm ruộng, nhờ có họ chúng  ta mới có cơm ăn.

Bà Tú dịu dàng nói thêm:

- Hạt cơm là hạt ngọc đấy, hai cháu ạ. Ngày xưa có người học trò nhặt  hột cơm trên đống phân trăn mà cất đi, sau Trời Phật phù hộ cho thi đỗ. Vậy hai cháu phải quý trọng hạt cơm trong bữa ăn đừng để phí phạm rơi xuống đất bẩn nhé.

Ban và Hồng đồng thanh trả lời rất lễ phép:

- Vâng ạ. Chúng cháu xin theo đúng lời bà.
 

CHUNG

_____________ 
(1) Để chồng đất lên nhau cho tơi dưới nắng mưa và thấm hút không khí.
 
 


Thứ Ba, 27 tháng 4, 2021

ĐỪNG ĐẾN SÂN GA - Hoàng Ngọc Tuấn

 

Toàn không ngồi yên một phút nào trên tàu hỏa đi từ Huế vào sáng nay. Bây giờ, đã nhiều nắng đầy bầu trời trong, Toàn bị ngợp mắt vì cứ đứng hoài ở khung cửa xe, nhưng anh cảm thấy ấm áp.

Khi tiếng máy nổ ở đầu toa tàu rời rạc chậm lại, một nhà ga nhỏ đàng kia tiến đến lần hồi. Toàn chăm chú nhìn người bẻ ghi cúi xuống đường rầy chuyển con đường sắt lắp vào đường đi trước mặt nhà ga. Còi tàu kéo một vài hồi báo hiệu xe ngừng, khói không còn bay mạnh ngược chiều, bốc lên tan loãng chậm rãi.

Đến Lăng Cô rồi, không cần nhìn vết chữ sơn đã phai gần hết trên mái nhà ga đầy rêu ủ dột, Toàn cũng biết là đã đến ga Lăng Cô. Vì những người bán hàng ùa ra mời khách hàng mua những chai mắm sò, thứ đồ đặc biệt của địa phương. Nút chai làm bằng lá khô đã bịt kín không cho mùi mắm hấp dẫn bay ra, nhưng bên trong những vỏ chai trong suốt bằng thủy tinh, mắm sò ép sát vào nhau gợi thèm đến bữa cơm đậm đà và làm Toàn chảy nước miếng.

Toàn xuống xe với chiếc xắc tay nhỏ. Một con bé quần áo rách rưới đụng phải anh, chắn lối bực thềm. Nó oang oang nói một tràng dài, cái câu mời khách quen thuộc nãy giờ anh đã nghe chúng nheo nhéo giống hệt nhau.

– Mua vài chai mắm sò đi thầy. Thứ thượng hạng chính hiệu đây. Ở Lăng Cô mới có, vô trong Nam tìm mua không có đâu thầy.

Toàn mỉm cười:

– Em mời khách vào Sài Gòn kìa, họ mang vô làm quà cho vợ con. Tôi xuống ga này, thứ này rồi tha hồ ăn ở đây thiếu gì.

Con bé bây giờ mới nhìn thấy cái xắc tay của Toàn. Nó bỏ vội anh, leo lên toa tàu, lời rao hàng khản giọng mất đâu đó trong tiếng cười nói ồn ào của hành khách.

Một vài người vô ý chạm phải vai Toàn làm anh suýt ngã khi bước vào ga. Anh cố tình không quan tâm gì đến điều khiếm khuyết của mình, nhưng rốt cuộc, cái đó lại ám ảnh anh như thường lệ. Anh thấy mình rõ ràng bước đi khập khễnh, chân thấp chân cao, mọi vật nhấp nhô không đều trước mắt anh làm anh rịn mồ hôi trán. Anh cúi xuống nhìn chân mình hai ống quần rộng thùng thình, hậu quả của mấy tháng nằm ở quân y viện ốm hẳn người đi. Không biết có ai nhìn xuyên được qua lớp vải quần của anh không, để tò mò khám phá thấy đùi bên trái tóp nhỏ lại thua sút chênh lệch so với chân phải, kết quả của một viên đạn xuyên thủng vào phía trên đầu gối chừng một gang tay.

Toàn liếc nhìn mọi người nhưng chẳng ai buồn chú ý đến anh cả, hành khách xuống ga Lăng Cô cũng ít và chẳng mấy chốc, tàu hỏa hú còi sình sịch chạy. Viên xếp ga đưa tay lên vẫy chào về phía đầu máy rồi mệt nhọc quay vào phòng làm việc chật hẹp trong nhà ga. Tất cả đều bám đầy bụi bặm kể cả chiếc máy điện thoại màu đen to tướng trên bàn. Toàn mong đừng có ai chăm chú nhìn anh cả, nhất là nhìn cái chân tật nguyền này, và anh yên tâm. Anh rời khỏi nhà ga khá mau lẹ, khỏi phải dáo dác tìm kiếm một ai bởi vì anh biết chắc chẳng còn ai đón mình.

Băng qua con đường cát lún đầy bụi rậm và cỏ dại hai bên, anh đi về phía xóm nhà nhỏ nằm xúm xít với nhau ở đàng kia, dọc theo bờ biển. Xóm toàn là những mái nhà lá xác xơ của dân cư làm nghề chài lưới. Chỉ có một căn nhà gạch thấp nằm ngang đầu xóm, đó là văn phòng Xã trưởng hay Quận trưởng. Và còn thêm một căn nhà gạch mái đỏ thứ hai nữa, khá rộng hơn, có nhiều phòng và khoảng sân mát mẻ dưới tàn cây trứng cá. Chưa đến nhưng Toàn mường tượng nhìn thấy tấm bảng thiếc treo sơ sài trên cổng nhà, nét sơn thô kệch vụng về mấy hàng chữ trường tiểu học Lăng Cô. Chính nó, chính mái trường tiêu điều này là nơi gợi nhớ mênh mang cho một ngày trở về. Và anh đang bước chân thấp chân cao khó nhọc lún trong cát bỏng, nhưng người như đang ngợp mát trong tiếng sóng biển dồn dập lại gần. Ba bốn năm xa miền biển này rồi, anh tự nhủ nếu mọi chuyện có đổi thay xa lạ thì cũng không phải là điều đáng kinh ngạc.

Cậu học trò mặt mày đen đủi gõ vào cửa phòng, rụt rè:

– Thưa cô Hiệu trưởng, có khách hỏi cô.

Tiếng đàn bà nghiêm trang vẳng ra:

– Phụ huynh của em nào hả?

Cậu bé liếc trộm nhìn Toàn rồi ấp úng trả lời:

– Thưa cô không biết … ông này … lạ hoắc ạ.

– Được rồi.

Cánh cửa mở nhẹ. Cậu bé bỏ chạy đi chỗ khác, và trước khi cánh cửa mở toang ra hết để Toàn có thể gặp lại chị Lục, anh cảm thấy một chút nôn nao vui thích trong lòng, thế là trong ba năm cũng có nhiều thay đổi, nhưng khá dễ chịu. Từ một cô giáo viên chánh ngạch chăm chỉ nhất, chị Lục bây giờ đã lên chức cô hiệu trưởng trường tiểu học. Điều dễ chịu nữa là cô giáo ấy vẫn chưa trở thành bà.

Chị Lục mở cánh cửa, mở lớn mắt ngạc nhiên rồi la lên:

– Trời ơi! Toàn đó hả?

Anh chỉ biết nhe răng cười sung sướng, gật đầu mà không nói lên lời gì cả. Chị Lục chạy ra khỏi phòng, nét mặt rạng rỡ và có lẽ chị sẽ ôm chầm lấy Toàn nếu không có đám học trò đang kéo nhau ra về, reo đùa inh ỏi. Nhưng chị Lục cũng cầm lấy tay áo anh, kéo vào văn phòng. Thêm một thằng bé khác, cũng đen như cột nhà cháy, đang vòng tay quỳ gối quay mặt vào tường như một tìm đồ sám hối. Chị Lục vỗ đầu cậu bé:

– Thôi, lần này cô tha cho em. Mau về nhà ăn cơm đi. Nhớ lần sau mà bắt còng còng bỏ vào áo bạn cùng lớp là cô phạt nặng nghe không.

Thằng bé đứng phắt dậy, đầu gối đỏ lừ nhưng nét mặt sáng rực. Nó lí nhí cảm ơn chị Lục và cũng đủ thông minh để biết rằng mình được tha vì cô Hiệu Trưởng có khách, nó liếc nhìn Toàn một cái tỏ vẻ thân mật rồi vù mất.

Căn phòng làm việc của chị Lục cũng là văn phòng trước kia của lão Hiệu trưởng cũ. Ít có gì khác lạ, một tấm bản đồ Việt Nam treo trên tường và quả địa cầu xoay đặt trên bàn, chỉ thêm vài vỏ ốc láng bong làm đồ chặn giấy, chắc là của học trò biếu chị.

Toàn ngồi xuống ghế, lặng lẽ nhìn chị Lục và chị thì cắn môi để khỏi nói lên lời cảm động run rẩy gì đó. Chị vẫn dịu dàng như thuở nào, mắt rơm rớm long lanh. Một lúc sau chị mới bình tĩnh hỏi chuyện Toàn. Anh nói từng tiếng ngắn:

– Cái chân…

– Sao?

– Bị trúng đạn… Tôi què rồi. Giải ngũ.

Chị Lục nắm chặt lấy tay Toàn

– Trời ơi… trời ơi…

và Toàn thấy bàn tay anh lạnh ướt nước mắt.

– Thôi… Toàn không chết là may rồi. Toàn được về là may rồi. Ở mãi đây nghe.

Anh mỉm cười:

– Tôi biết làm gì ở đây? Không lẽ ăn bám vào chị.

– Đừng nói thế. Toàn dạy học lại như lúc trước, tôi thu xếp cho Toàn một chỗ… và mọi chuyện như cũ, có gì thay đổi đâu.

– Cái chân.

– Toàn!

– Trường Lăng Cô sẽ có một ông giáo què làm trò hài hước cho học sinh. Chị muốn tôi làm huấn luyện viên thể dục không? Nhảy cao nhảy dài, chạy đua biểu diễn cho học trò xem… với một cái chân cà thọt.

Chị Lục im lặng cho Toàn nói lải nhải một hồi những lời cay đắng. Rồi chị đứng dậy, vẫn nghiêm trang và thân mật tự nhiên như lúc trước, chị dìu vai Toàn đi vào phòng trong. Cách văn phòng chỉ với một tấm màn vải, phòng riêng của chị Lục sạch sẽ ngăn nắp nhưng cũng có đôi chút bừa bộn của một người đàn bà độc thân. Thau còn ngâm đồ giặt sủi bọt xà phòng trắng, vài chiếc áo cánh treo trên dây thép gai, bếp lửa gần với chân giường ngủ. Toàn còn nhớ trường này có hai phòng học bỏ trống, được chia ra cho vài ông và các cô giáo viên ở. Chị Lục hồi trước cũng ở chung với một hai cô, nhưng bây giờ chị làm hiệu trưởng nên lên ở đây một mình. Chị Lục nói:

– Toàn hãy nằm nghỉ một lát. Chờ đây rồi tôi đi chặt cho Toàn một trái dừa. Còn thích uống nước dừa không?

Toàn mỉm cười, cảm giác yên lành ngập tràn người anh. Anh nhắm mắt lại, và ngủ mệt. Tiếng chị Lục êm ấm bên tai: Ngủ một lát đi cho khỏe… mọi thứ rồi sẽ như cũ.

Anh thiếp được một chút rồi đầu óc tỉnh lại, nhưng vẫn còn váng vất, lao xao. Như cũ… trước kia chị Lục và anh là đồng nghiệp thân nhất với nhau, dầu chị lớn hơn anh vài tuổi. Chị dạy và coi sóc lớp Nhất, anh lo về lớp Nhì. Tụi học trò của anh nhỏ con hơn nên mỗi khi có trận bóng đá giao hữu giữa hai lớp, lớp của anh thường bị thua hoài mặc dù anh cố tình ăn gian đôi chút khi được làm trọng tài. Anh bật cười. Có lần bóng trúng ngực một thằng lớp nhất trong vòng cấm địa, anh bảo là trúng tay và phạt “pê-nan-ti”. Cầu thủ nhao nhao phản đối và kêu cứu, chị Lục từ ngoài sân chạy vào gây gổ cãi cọ với anh, nhưng anh đã nóng mặt nhất định vẫn phạt đền để lớp anh có dịp gỡ huề. Nhưng rồi cái thằng nhóc chó chết, “vua phá lưới” sáng chói nhất của lớp nhì, run run hồi hộp quá nên đá mạnh bóng bay lệch sang một bên rơi tuốt xuống biển. Rồi còn gì nữa… Anh bị gọi đi lính. Giã từ phấn trắng bảng đen, giã từ đám học trò quê kệch vẫn thường cùng thầy giáo bơi thi vui nhộn ngoài biển, giã từ chị Lục… những mùa hè êm đềm rạng rỡ ánh nắng.

Và anh đã trở về, như thế này đây, không phải hoàn toàn vì mái trường cũ và chị Lục, nhưng không còn một nơi nào để trở về nữa.

… Giờ khắc thong thả trong căn phòng tĩnh mịch. Anh mơ màng ngủ lại. Trong giấc mơ mệt nhọc của buổi trưa anh thấy mình vừa chạy vừa thở hào hển trên bãi biển, đuổi theo chị Lục. Chị ở trước mặt anh một quãng ngắn nhưng anh không tài nào bắt kịp, cái chân què của anh như níu kéo lại, cuống quýt bối rối trong lòng cát. Anh đau đớn tuyệt vọng nhìn thấy khuôn mặt của chị Lục quay lại, đôi mắt nhìn anh chế giễu, bọn học trò chung quanh vỗ tay cười cợt ầm ĩ… Rồi anh ngã xuống úp mặt ướt mồ hôi vùi trên cát nóng, mắt anh mờ đi, chao động, mơ hồ, hình ảnh chị Lục chốc lát bay xa như cánh chim trắng đi vào cõi vô cùng… Anh sợ hãi hét lên…

– Toàn!

Anh giật mình tỉnh dậy, Chị Lục đang ngồi xuống bên cạnh anh, tay chị đặt trên vầng trán tươm đầy mồ hôi của anh. Chị ân cần dìu anh ngồi dậy, đưa cho anh một ly nước dừa, đá lạnh bốc hơi lấm tấm ngoài lớp thủy tinh. Anh uống ừng ực một hơi ngon lành, mát mẻ sảng khoái làm anh dịu lại đôi chút. Anh nhìn ra khung cửa sổ, một vài ngụm mây trắng trên nền trời chiều, màu xám buồn rầu nhưng êm ả, anh ngẩng đầu dậy:

– Chiều rồi. Sao chị không dạy học?

– Thứ bảy, Toàn không nhớ gì đến ngày tháng nữa à.

Anh ngồi dậy. Anh định đi một vòng quanh bờ biển nhưng lại thôi. Anh lục lạo một xấp bài tập của học sinh, đọc bâng quơ.

– Toàn có thích đọc truyện kiếm hiệp không? Ở Lăng Cô thì chỉ biết thuê mấy thứ vớ vẩn đó đọc cho đỡ buồn.

Anh lắc đầu. Anh tìm thấy dưới gầm bàn của chị Lục cuốn sách Truyện cổ Nước Nam, giấy vàng xỉn, trên bìa rách mềm tả tơi có dán tấm nhãn đề chữ: Sách đọc thêm cho học sinh… thư viện trường tiểu học Lăng Cô và một con dấu đỏ lờ mờ. Anh nói với chị Lục:

– Thôi đọc cái này vui lắm.

Chị Lục cũng bật cười. Chị nói:

– Tôi làm cơm chiều đây. Lát nữa Toàn tha hồ ăn bữa cơm nhà quê xứ biển. Học trò mới đem lại cho mấy con cá ngừ tươi lắm…

Chị mở cánh cửa

– Có lẽ phải chạy đi mua mấy chục bánh tráng.

Khi chị Lục đi ra khỏi phòng, Toàn lật những trang sách nhưng không đọc được gì hết. Anh liếc cái mục lục một loáng rồi đặt cuốn sách vào chỗ cũ. Căn phòng đã tối nên anh đứng dậy, thắp ngọn lửa đèn măng sông. Anh đã quen với thứ đèn này một thời nên anh khêu sáng ánh đèn dễ dàng. Màu vàng lung linh, đáng lẽ phải làm căn phòng nóng bức, nhưng nhờ những ngọn gió biển thổi vào qua cửa sổ mở toang, không khí trở nên dịu ngọt và ấm áp.

Cửa sau nhà bếp của chị Lục mở ra là bãi cát của bờ biển, vài gốc dương rủ là xuống mái nhà và đem lại một ít bóng mát cho những buổi trưa vắng. Nhưng bây giờ đã chiều, mặt trời chỉ còn lại một đốm đỏ sắp lặn mất ngoài chân trời, ở đâu cũng toàn là bóng mát, cát không còn nóng ran dưới chân người.

Chị Lục trải một tấm vải dầu trên cát, bữa cơm chiều được dọn ra trong cơn gió biển thoang thoảng thổi vào làm tóc chị bay rối một vài sợi, nhưng không đi những giọt mồ hôi vì bếp lửa. Bữa cơm thịnh soạn cho hai người. Nhất là đối với Toàn, mấy năm nay ăn toàn là cơm sấy khô hoặc chỉ được nấu chin vội vàng trong những chiếc thùng đen đo bẩn.

– Quấn với bánh tráng mới ngon Toàn à.

Chị Lục nhúng bánh tráng sơ sài vào nước cho bánh hơi mềm một chút. Chi mở nồi cá ngừ kho, mùi thơm bốc lên, những khoanh cá chín ngả sang màu nâu tỏa đầy khói. Chị Lục làm cho Toàn cuốn đầu tiên. Rau sống, cá ngừ, rau muống tươi trẻ nhỏ được tràn vào nhau, quấn trong bánh tráng mỏng. Anh cầm lấy, nhúng vào nước chấm được làm bằng nước cá hòa với những trái ớt dầm nát thành từng mảnh, hột ớt lấm tấm. Anh cắn một cuốn bánh tráng ngon lành, mùi thơm nồng của loại cá biển tươi, mát mẻ giòn tan của rau xanh, mặn mà của nước cá và vị ớt cay cay…Gió biển lại thổi lồng vào sống lưng lạnh mát, làm khô đi hơi nóng vừa bốc lên một chút trong người vì anh hau háu ăn không ngừng nghỉ.

Chị Lục tỏ vẻ thích thú, thỉnh thoảng chị lại mỉm cười và khẽ nuốt nước bọt thèm thuồng nhìn anh. Phần chị, chị đã quá quen với món ăn này rồi. Chị ăn chậm rãi bình thường và tay bận bịu đậy nồi cá để giữ hơi nóng, thấm nước cho bánh tráng hay xắn thêm một vài trái ớt xanh giòn. Anh mải miết ăn, không còn hơi sức đâu mà nghĩ đến cái chân què của mình nữa. Chị Lục mở nắp chai bằng một cái khoen đinh trên cánh cửa. Chị nói:

– Ở đây chỉ có bia Quân tiếp vụ thôi, họ lại hết đá rồi.

Anh gật đầu. Bia hơi đắng nhưng vẫn nồng, cay xé trên lưỡi như mùi ớt. Anh đưa chiếc ly cạn một nửa cho chị Lục.

– Chị uống một ít đi. Thứ này nhẹ lắm.

Chị Lục vấn mái tóc lại rồi cột bằng một sợi dây cao su. Mắt chị long lanh.

– Uống lỡ say rồi sao. Tôi đâu biết uống ruợu.

– Có sao đâu, mai là chủ nhật mà.

Chị Lục cầm lấy ly bia, chị bỗng nhìn bâng quơ ra ngoài biển.

– Ờ… mai chủ nhật, thích thật. Mọi khi tôi sợ ngày chủ nhật lắm, học trò nghỉ hết mình không có chuyện gì làm cả. Bây giờ có thêm Toàn mới vui.

– Có ‘chương trình’ gì vui không?

– Trời ơi, ở đây mà có chuyện gì được. Nhưng mai tôi ra chợ sớm. Tìm một ít mực tươi về luộc ăn với nước tương. Không biết mùa này có ‘nuốt’ không… ‘nuốt’ ăn mát lắm, chấm với ruốc ớt thì buổi trưa lại càng thích, vừa đổ mồ hôi vừa ăn.

Anh nhìn chị Lục, mìm cười khuyến khích. Chị Lục nhắm mắt uống một hớp bia, rồi nhìn quanh như sợ có ai bắt gặp, nhất là mấy cô cậu học trò vẫn thường ngoan ngoãn nghe chị nghiêm trang giảng bài uống ruợu tai hại như thế nào. Nhưng giờ đây, chiều đã xuống trên xóm vắng, ngọn đèn dầu vàng rực đã thắp lên trong những mái nhà lá, mọi người đều xúm xít bên mâm cơm, đâu có ai ra dạo mát ngoài bãi biển nữa, và nếu có cậu bé nào nghịch ngợm ham chơi nhất, thì chắc cũng chỉ đang nhảy nhót ở một khoảng cát nào xa tít, nó đâu muốn lại gần trường học, một tuần phải đến đây sáu ngày là cũng đủ ngán quá rồi.

Mặt chị Lục đỏ ửng nhưng chị lại uống thêm một hớp. Anh nhìn thấy lóng lánh bia vàng chảy vào môi chị, mắt nhắm và đôi lông mày hơi nhíu lại. Và chị trả lại chiếc ly cho anh, với một nụ cười thắm thiết. Nhưng có lẽ là anh đã tưởng tượng quá nhiều nụ cười của chị. Trời đã tối quá rồi, anh chỉ nhìn được lờ mờ khuôn mặt chị, chỉ có đôi mắt sáng là thấy rõ ràng lắm. Ánh đèn hắt ra từ song cửa bếp. Giọng nói của chị Lục nhỏ lại như vỗ về:

– Ngày mai là chủ nhật, tôi sẽ ….

Vâng, anh biết. Ngày chủ nhật. Ngày nghỉ ngơi, rộng rãi thời khắc dịu dàng và êm đềm như một dải lụa mềm mại trải dài ra. Ngày còn làm lính, anh không biết phân biệt ngày nào với ngày nào. Chỉ nhớ ngày phát lương và ngày hết tiền cách đó không đầy một tuần. Chỉ lo lắng ngổn ngang vào ngày lên đường chuyển quân và nôn nóng chờ ngày chấm dứt cuộc hành quân, trở về. Nhưng ở đây, biển Lăng Cô, trường học và chị Lục. Một ngày chủ nhật…

Anh ra biển vào lúc nắng đã lên rực rỡ trên mặt nước. Biển Lăng Cô không phải là một thắng cảnh danh tiếng, tấp nập du khách như một vài nơi khác. Ở đây, sóng rì rào lặng lẽ. Ngoài khơi cảnh mênh mang tịch mịch, lác đác những thuyền buồm đánh cá. Bãi cát cũng vắng người, một vài đứa trẻ con lội nước đuổi bắt nhau đàng xa cuối xóm chài lưới. Anh ngồi xuống một đụn cát âm ấm. Tiếng chị Lục đằng sau:

– Mấy năm rồi, thấy có gì lạ không?

– Đâu biết được, bề ngoài thì muôn đời vẫn như thế.

Biết bao biến chuyển tàn tạ, sinh thành trong lòng sâu của biển cả từng mỗi phút giây. Nhưng làm sao anh biết được. Anh chỉ nhìn thấy bộ mặt bên ngoài lúc nào cũng lững lờ bất động của mặt biển.

Đằng kia, về phía tay phải là một chỗ biển cạn, nhỏ hẹp, gọi là Đầm, nằm trong lòng trũng sâu sát với ven rừng và ngọn núi cao sừng sững của dãy Trường Sơn. Anh theo dõi những chiếc xe hàng như những hộp diêm bé tí nối đuôi nhau bò lên đỉnh núi. Con đường đèo Hải vân, hay Ải Vân, trời đất chỉ chan hòa mấy trắng sa thấp cùng biển cả. Hay là Quan Ải cheo leo cao ngất thấu đến mấy từng mây?

Bỗng chốc, anh mơ hồ nghe tiếng còi tàu yếu ớt nhỏ nhoi như trong tưởng tượng. Từ phía nhà ga Lăng Cô, những toa tàu chậm chạp đàng xa xa, trông như lướt nhẹ chứ không phải là nghiến bánh trên đường rầy, từ từ chui vào lòng hầm Sen, đục thủng chạy xuyên qua dãy núi. Khi con tàu như bị nuốt chửng đến toa cuối cùng, anh còn kịp thấy một cụm khói nhỏ gió thổi tạt ngược chiều, bay loãng rồi tan đi mất biệt. Ngày hôm qua, vào giờ này, có lẽ anh cũng có mặt trên chuyến tàu đó. Anh lẩm bẩm:

– Chuyến tàu chỉ ghé ga Lăng Cô … rồi tiếp tục đi, qua biết bao nhiêu bãi biển, ven rừng, đồng bằng, qua những quê làng là thành phố. Tam Quan, Tam Kỳ, Bồng Sơn, Diêu Trì, Nha Trang, Sài Gòn… rồi lại lên đường…

– Toàn định đi đâu nữa ?

Tiếng chị Lục sau lưng, anh không quay đầu lại nhưng vẫn biết rõ chị đang đến gần. Khi chị ngồi xuống bên cạnh, anh nhận thấy tóc chị hôm nay buông rũ trên vai, làn da tươi sáng như đang hớn hở đón lấy một buổi sớm mai rảnh rang và tốt trời.

Toàn đưa tay chỉ cho chị Lục nhìn về phía đường đèo xa, nhưng bây giờ không còn bóng dáng một chiếc tàu hỏa nào nữa. Thật lâu sau câu hỏi của chị, anh mới trả lời:

– Không biết, nhưng chắc là phải đi. Ở Lăng Cô, không có một chỗ nào cho tôi cả.

Giọng chị ân cần:

– Đừng, Toàn. Đừng đi đâu nữa. Toàn không thích dừng lại ở một nơi nào sao?

Anh im lặng nhìn về phía nhà ga. Chị Lục nói tiếp. Tuần nào đến chủ nhật là bỏ trường phóng về Huế luôn mấy ngày. Ông Hiệu trưởng cằn nhằn hoài, tôi phải dạy thế cho Toàn biết bao nhiêu lần…

Chị Lục cười:

– Trong trường, Toàn là ông thầy giáo bê bối nhất đó. Bây giờ phải thay đổi đi chứ.

Anh cũng mỉm cười, mơ màng nhớ đến phòng học buổi trưa có ngọn gió biển thoang thoảng thổi vào, anh gần như đứng giảng một mình trong khi bọn học trò ngủ gục hơn một nửa lớp. Anh còn nhiều kỷ niệm dưới mái trường này quá. Và kỷ niệm đẹp chính là điều làm anh lo âu, vì biết rằng mình sẽ không bao giờ xây dựng lại được những gì tương tự như thuở trước.

Có tiếng cười đùa của bầy trẻ con đuổi bắt nhau từ xóm chài lưới làm Toàn và chị Lục đều giật mình. Chị Lục có vẻ bối rối, dầu sao thì hai người nãy giờ đã ngồi sát bên nhau trên bãi cát vắng vẻ, và bất cứ một đứa nào trong xóm này, nếu đến tuổi đi học là đều biết mặt cô Hiệu trưởng nghiêm trang đáng kính của chúng.

Chị Lục đứng dậy, chậm rãi đi xa hơn. Toàn khập khiễng theo chị. Không ai nói với ai, nhưng có lẽ cả hai đều có ý định tìm một nơi tránh xa tất cả những đôi mắt tò mò của dân cư trong làng. Họ đều quên Toàn, ở đây không còn ai nhớ mặt ông giáo viên này nữa. Họ sẽ nghĩ rằng đây là một gã đàn ông lạ mặt, từ một nơi xa nào đó ghé lại Lăng Cô, đêm vừa qua đã ngủ trong nhà của chị Lục, và sáng sớm, hai người đã sánh vai dạo chơi trên bãi cát vàng hoang vắng. Nhưng hôm nay là chủ nhật, bọn trẻ con được nghỉ học đều ùa ra bãi biển nghịch cát, té nước hay sửa soạn leo lên thuyền của cha mẹ chúng bắt đầu ra khơi đánh cá. Không còn một chỗ hoàn toàn vắng vẻ cho hai người.

Chị Lục và Toàn đành phải về trường. Bây giờ chỉ có sân trường và những lớp học là nơi tĩnh mịch nhất, trái với sáu ngày vừa qua trong tuần. Khi đi qua hành lang vắng, Toàn chợt dừng lại ở phòng cuối cùng, trên cánh cửa đóng kín vẫn còn treo tấm bảng nhỏ cũ kỹ: Lớp Nhì. Toàn nắm lấy một chốt cửa, bồi hồi ngước nhìn chị Lục. Chị hiểu ý, cầm xâu chìa khóa, lựa một chiếc mở cửa. Thiếu ánh sáng, trong phòng mờ tối. Những bức tranh cắt từ báo dán trên tường đã thay đổi, lúc trước Toàn chỉ thích treo tranh phong cảnh, bây giờ là hình những bầy thú lạ mắt của rừng già Phi Chấu : cá sấu, ngựa vằn, sư tử… Trên góc của tấm bảng đen, còn mấy nét phấn trắng ghi sĩ số học trò trong lớp, hiện diện và vắng mặt.

Tự dưng Toàn cảm thấy thích thú. Anh leo lên đứng trên bục gỗ, mân mê một thỏi phấn trắng trên tay. Chị Lục ngồi vào hàng ghế đầu tiên, cố nén cười để giả vờ làm một cô học chó chăm chú nhìn lên bảng. Lớp học chỉ có một thấy và một ‘trò’, Toàn chợt muốn đùa nghịch. Anh đằng hắng giọng, sửa lại cổ áo rồi nghiêm trang nói lớn:

– Trò Nguyễn Thị Huyền Lục

Chị Lục đỏ mặt, nói nhỏ:

– Toàn còn nhớ cả tên họ tôi à?

Anh không trả lời, giả vờ nhíu mày, kêu lớn hơn:

– Nguyễn Thị Huyền Lục!

Chị Lục bậm môi, lên tiếng:

– Có mặt.

– Lên bản mau, coi trò có thuộc bài Việt Sử không.

– Thưa thầy, đêm qua… em phải khâu lưới giùm cho ba em nên em quên học bài.

– Ze-ro! thôi bây giờ lên bảng làm toán.

Chị Lục mỉm cười, rón rén cầm viên phấn đứng trước bảng đen chờ đợi. Toàn cố nặn óc để nhớ lại một đầu đề toán vì anh đã quên hết, có lẽ bây giờ anh là một tên học trò dốt nhất chứ đừng nói gì đến chuyện làm thầy nữa.

Anh chậm chạp nói:

– Nghe cho kỹ để chép đầu đề: một chiếc xe hơi và một chiếc tàu hỏa chạy ngược chiều với nhau. Tốc độ của tàu hỏa là … viết đi chứ…

Chị Lục viết nguệch ngoạc trên bảng: Toàn đừng ở trên chuyến tàu đó, nghe không…

– … năm mươi cây số một giờ. Tàu khởi hành vào lúc tám giờ sáng…

Những nét phấn của chị Lục tiếp tục, làm như ngoan ngoãn chép đúng lời nói của ‘thầy’, nhưng dĩ nhiên chị chẳng hề chú ý đến bài toán về vận tốc bậc tiểu học đó làm gì, chị đang làm bài toán gay go riêng biệt của đời chị. Trên bảng đen, thêm một dòng chữ khác: Tàu sẽ khởi hành một mình nó, Toàn đừng đến sân ga nữa…

Toàn thẫn thờ nhìn những chữ viết của chị Lục mặc dù miệng anh vẫn tiếp tục đọc đề toán một cách máy móc, cuối cùng anh lẩm bẩm nói:

- … hỏi hai xe gặp nhau trên đường lúc mấy giờ?

Chị Lục có vẻ ngần ngại một lát, chị khẽ liếc nhìn Toàn rồi run run viết … tôi và Toàn đã gặp nhau rồi. Không phải lúc mấy giờ mà là gặp nhau suốt đời, bên nhau vĩnh viễn, Toàn…

Toàn đứng sững nhìn chị Lục. Chị đã đánh rơi viên phấn, hai tay chị run rẩy nắm chặt vào nhau, môi mấp mấy và đôi mắt gần như sắp ứa nước mắt. Chị có vẻ như một cô học trò nhỏ chịu bí trước bài toán khó, khổ sở trước đôi mắt nghiêm khắc của ông thầy.

Chị Lục bỗng khóc, chị quay đi định lau những dòng chữ nồng nàn trên bảng nhưng Toàn đã nắm tay chị lại. Bàn tay chị nóng hổi và lấm tấm mồ hôi. Cả hai ôm lấy nhau như mê man. Nước mắt chị Lục ướt lạnh ngực áo anh, cùng với mùi hương dịu ngọt từ tấm thân đàn bà mềm ấm như gối chăn trong một đêm đông mưa bão. Anh và chị Lục san sẻ cho nhau đôi môi ướt đầm đìa rạo rực. Lớp học tối và nóng bức, nụ hôn mang vào biển xanh và gió lộng khơi nguồn mầm sống.

*

Chiến tranh vẫn chưa chấm dứt đối với một kẻ đã giải ngũ. Nhất là với một con người tật nguyền như Toàn, dầu anh vẫn còn đứng vững trên đất, vẫn còn đi được không cần chiếc nạng gỗ, nhưng thỉnh thoảng, hình bóng cái chân hằn vết sẹo thóp nhỏ cứ lởn vởn trước mặt anh.

Đêm nay, anh thấy sự tàn tật của mình rõ hơn lúc nào hết. Ngọn đèn vàng trong phòng của chị Lục tắt sớm, chỉ còn bóng tối rạo rực của nhiệt tình. Tóc chị sổ tung trên gối, mắt nhắm nghiền trong hơi thở dồn dập và tấm thân của Toàn cuống quýt trên người. Chị kêu lên những tiếng rời rạc vô nghĩa, lả người trao phó trong tay Toàn. Dần dần, anh khám phá da thịt của chị sau làn vải áo, từng chút một, từng hàng nút được tách ra nhẹ nhàng, đầu ngực trần mát rượi hơi ươn ướt mồ hôi dưới bàn tay vuốt ve của anh. Đến khi tất cả những mảnh áo quần của hai người vứt bỏ bừa bộn trên sàn nhà, anh háo hức ôm siết lấy thân thể đang rung động của chị Lục dưới thân người anh… và lúc đó… ngay giây phút cuối, ngay trước cánh cửa hoan lạc sắp mở ra, anh chợt chết lặng người, thân thể chợt trơ lì nhạt nhẽo…

Chính tại nó, cái chân. Mồ hôi nóng bức khó chịu tuôn sau cổ anh nhột nhạt, anh cắn môi cố quên nó đi, cố vùi đầu điên cuồng trong tóc tai và trong đôi môi hé chờ của chị Lục, nhưng không thể nào được nữa. Sảng khoái nguội lạnh dần, cảm giác lo lắng lẫn đau đớn ngập tràn người anh như một gáo nước lạnh buốt, dập tắt da thịt đang nồng cháy. Anh nằm buông xuôi người, nhắm mắt lại, lắng nghe từng hơi thở, và cuối cùng, không dằn được sự thúc đẩy gần như ma quái, anh nghiêng đầu ra đằng sau để nhìn cái chân của mình. Anh sợ hãi khi nhìn thấy cái chân xấu xí thóp nhỏ như chân một đứa trẻ nít. Phất phơ như một sợi rong, có vẻ lủng lẳng như không liên hệ gì với thân thể, vết sẹo láng bó với đường khâu sù sì nổi lên trên da thịt. Anh không rời mắt được khỏi cái chân tàn tật đó nữa, anh mở lớn mắt nhìn trừng trừng, rồi anh bắt gặp đôi mắt chị Lục mơ hồ nhìn anh như có vẻ ngạc nhiên, nhưng anh có cảm tưởng nhận thấy những dấu hiệu ghê tởm trong ánh mắt chị.

Anh bàng hoàng buông vội thân thể chị Lục, ngồi vụt dậy, cúi đầu giấu trong hai bàn tay, bật khóc. Những sợi tóc của chị Lục mơn man trên lưng anh, chị vòng tay qua cổ anh, miệng ghé bên tai anh thì thầm dịu dàng:

– Sao thế, Toàn?

Anh vẫn cúi đầu lặng thinh. Chị Lục ôm lấy người anh nhè nhẹ, má chị tựa sát trên lưng anh và thỉnh thoảng chị hôn vào đường rãnh chạy dài của sống lưng anh làm anh hơi rùng mình. Giá mà vào một lúc khác, chắc anh sẽ thích thú vì những cái hôn nghịch ngợm của chị, nhưng lần này anh chỉ thấy đau xót thêm. Anh úp mặt trên đầu gối của cái chân tật nguyền, cả thân thể dường như dần dần co rút tê liệt, không còn tuân theo ý muốn của anh nữa.

Vết thương cũ đã lành, nhưng một liều độc dược giờ đây đột ngột tác hại khắp cơ thế và đầu óc, chói lòa trước mắt anh …

Cái chân què quặt còn làm liên tưởng tới những việc điên cuồng mà anh đã làm khi ở giữa hỏa ngục của chiến trường. Tất cả như một màng lưới đen dày đặc trói buộc tâm hồn làm người anh rũ rượi và đầy những cảm giác nhờm gớm. Anh ớn lạnh run rẩy… Hình như nước mắt của chị Lục đang thấm ướt trên vai anh, chị rụt rè vuốt ve nhưng người anh đã như một vỏ cây già rã mục. Anh chán chường khổ sở thêm, chị Lục bàng hoàng khi anh vùng mạnh hất vòng tay của chị đi để đứng vụt dậy. Anh ôm đống quần áo vội vàng vào người, mở cửa ra phòng trước.

Biển đêm không ào ạt như buổi chiều. Bây giờ mênh mang với ngàn sao nhỏ lập lòe như những hạt ngọc, tiếng sóng đều đều âm u. Anh tỉnh người, dễ chịu đôi chút trong làn gió mát. Anh đứng một mình trên bãi cát, thầm nghĩ mình chẳng bao giờ đi vào một mái nhà, một căn phòng nào được nữa.

Mặt trận, chiến tranh, súng đạn, máu, mồ hôi… Đau đớn yếu đuối và hung dữ thù hận… Những cái đó chưa thực sự chấm dứt đối với anh. Chúng vẫn chưa chịu chết tiệt hẳn mặc dầu bây giờ anh đang ở thật xa nơi chốn đầy thuốc súng, chúng vẫn còn âm ỉ lúc nhúc trong người anh như một thứ vi trùng độc địa.

– Toàn!

Chị Lục kêu lên một tiếng rồi đứng khóc bên song cửa. Chị không dám chạy ra khỏi phòng theo anh vì tóc chị đang rũ rượi sổ tung, vành mắt đỏ hoe và ánh sáng, hôm nay là thứ hai, một vài đứa học trò đi sớm đã bắt đầu đến trường. Chị phải trở lại với công việc, với bộ mặt nghiêm khắc lạnh lùng của một cô Hiệu trưởng.

Toàn lầm lũi đi từng bước nặng nhọc trên bãi cát lầy, chiếc xắc tay nhẹ đeo trên vai nhưng người anh vẫn cảm thấy nặng như chì, anh hướng về phía sân ga Lăng Cô. Một lát nữa sẽ có tàu hỏa từ Huế ghé lại đây, anh sẽ ngồi trong một toa tàu, và như thế là vĩnh biệt bãi biển vắng này với ngôi trường nhỏ, hình ảnh chị Lục cũng như một giấc mơ ngắn đã tan tành.

Nhà ga thưa thớt người, Toàn mua một vé vào Nam, đến trạm cuối cùng. Anh ngồi một mình nhìn trên băng ghế lạnh, nhớ lại đêm vừa qua. Đêm dài tăm tối cho anh, một kẻ thương binh không phục hồi được cuộc sống bình thường, tâm hồn và cơ thể chết khô vô vị trước trái cây ái tình xanh tốt. Anh là một người đàn ông bất toàn, vô dụng, anh không đem lại gì được cho chị Lục, món quà yêu thương đã thất lạc, chỉ mang nặng quà tặng của chiến tranh, thương tích và quá khứ.

Có tiếng còi tàu vang lên trong bầu không khí lặng lẽ của buổi sáng. Đoàn tàu từ xa tiến đến chậm chạp rồi dừng lại trước nhà ga. Vài hành khách bước xuống. Đợi một lát sau, Toàn khập khễnh leo lên toa tàu. Một người nào đó chen lấn chạm vào sau lưng Toàn làm anh bực mình quay lại, định càu nhàu. Nhưng một cánh tay đột nhiên bị giữ chặt, anh ngạc nhiên…chị Lục. Chị đã đến sân ga từ hồi nào, mặt chị ướt đầy mồ hôi hay nước mắt, hơi thở gấp gáp sát mặt Toàn. Anh đứng lại dưới bục cửa của toa tàu, lặng thinh cúi đầu trước chị Lục. Giọng nói của chị vang lên nho nhỏ, bao dung lẫn cầu khẩn:

– Toàn, hãy ở lại với tôi. Tôi…không thể không có Toàn được…

Anh quay mặt đi, run rẩy:

– Tôi chỉ là một người tàn tật… Tôi không thể…

Chị Lục ôm cánh tay Toàn, nhẹ nhàng dìu anh đi. Chị bất kể những ánh mắt tò mò của đám hành khách đang nhìn hai người. Từ trường học vội vàng đến sân ga, chị cũng không kịp phục sức tươm tất như thường lệ cho xứng với một cô Hiệu trưởng. Bên ngoài bộ áo quần ngắn mặc trong nhà, chỉ một chiếc áo choàng rộng đã sờn cũ.

Toàn nhắc lại lời nói của anh, giọng anh ấp úng như một cậu bé con, chị Lục lắc đầu ôn tồn và âu yếm:

– Tôi cũng thế… Tôi cũng sẽ trở nên một người tật nguyền thiếu thốn nếu mất Toàn.

Toàn thấy người được đôi chút ấm áp, hình như thân thể anh, cả cái chân què nữa, bỗng dưng trở nên nhẹ nhàng. Chị Lục tiếp tục dìu Toàn đi dần xa con đường sắt, giọng chị thủ thì bên tai anh, như một nguồn suối ngọt:

– Toàn và tôi, chúng ta cần có nhau…

Bây giờ anh có thể quay sang nhìn thẳng vào đôi mắt chị Lục, anh sung sướng bồi hồi khi được tận hưởng màu mắt lóng lánh ngập tràn yêu thương.

Chị Lục nói đúng, chúng ta cần có nhau, cả hai cần trao gởi hết lòng và chia sẻ quả ngọt suýt rụng rơi mất hút vì một lần giã từ nông nổi. Có vị danh y nào, liều thuốc tiên nào cứu chữa được vết trọng thương sâu đậm ngay chính trong tâm hồn? Sao cho bằng chính hai kẻ tật nguyền cùng góp sức xoa dịu vết thương cho nhau. Và làm sao anh có thể chạy trốn chính mình suốt đời được. Trong anh, một con người dằn vặt sẽ truy nã một con người đầu hàng yếu đuối đến kỳ cùng.

Khi địa ngục đã xây huyệt trong lòng người, còn có cách nào khác hơn là phải dấn mình dập vùi trong địa ngục, chịu tuốt da một lần tối hậu qua hành lang nhỏ hẹp dầy gai góc, để đạp tung cánh cửa mở hướng về trần gian tươi đẹp.

Còi tàu đã hú lên vài hồi, hai hàng bánh sắt từ từ lăn trên đường rầy, để lại một chút mùi khói than cay cay trong không khí. Và đúng như những dòng phấn trắng của chị Lục đã viết trên bảng đen, không có Toàn trên chuyến tàu ra đi vô định đó.

Lần này, Toàn choàng tay lên vai chị Lục, những bước chân của anh chậm rãi nhưng cương quyết ngược chiều với sân ga mãi mãi.

– Mình về thôi, Toàn. Bữa nay vì Toàn mà tôi đã bỏ một buổi nói chuyện sáng thứ Hai đó. Rồi mấy anh đồng nghiệp sẽ xì xầm, Toàn phải… đền cho tôi cái gì đi…

– Tôi sẽ tìm mấy cái vỏ ốc, áp vào tai, sẽ được nghe rất nhiều bản tình ca.

Chị Lục mỉm cười. Giờ đây với một người thương luôn gần gũi bên cạnh, Toàn sẽ đổi khác, sẽ lành mạnh, sẽ dứt khoát hẳn với những ám ảnh bệnh hoạn trong người. Từ hôm nay cho đến ngày mai hồng sáng sủa đó, một cuộc chiến mới đã mở ra đối với Toàn. Không súng đạn, không ảo tưởng, không một mệnh lệnh, anh sẽ hoàn toàn tự do tiến bước trên mặt trận cuối cùng này.

 

Hoàng Ngọc Tuấn      


Thứ Năm, 22 tháng 4, 2021

NGỒI LÂU - Cao Bá Quát (Yên Nhiên chuyển ngữ)

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 Áng mây nhẹ lướt trôi
Ánh trăng mờ mờ chiếu
Sân xào xạc cánh dơi
Sương tan, muỗi im bặt
Tường chập chờn bóng cau
Vẳng tiếng chim trong gió
Cảm động đến nghẹn lời
Tự nhiên hứng bay mất


Yên Nhiên
 *
Cửu Tọa

Khinh khinh vân ám độ
Đạm đạm nguyệt vi quang
Yên tán văn cầm tĩnh
Phong điều điểu vận trường 
Đình không giao phục dực
Tường ảnh vũ sơ lang
Hứng đáo vong ngôn xứ
Du nhiên hứng diệc vong


Cao Bá Quát  (1809 - 1855)