Tôi không hiểu gì cả. Đám
quân trói tôi xong dẫn đến trước ngai vàng. Lúc ấy tôi mới vỡ lẽ khi thấy quan
cận thần ngồi trên ngôi báu. Vừa thấy tôi hắn thét lên:
- Quân bây đâu, đem hắn ra
móc con mắt để trả mối thù hắn đã làm cho ta.
Nghe lời nói đó, tôi hoảng
hốt vùng vẫy mong thoát khỏi cực hình nhưng đám quân lính đã bắt tôi lại, rồi
lôi ra pháp trường.
Nguyên tên phản thần này với
tôi có một mối thù vì trước kia thuở phụ vương tôi còn sống, chỉ vì hay thích
săn bắn, nên một hôm tôi đã vô tình buông một mũi tên theo con chim bay, mũi
tên lạc vào nhà hắn và trúng vào mắt hắn. Tôi đã đích thân xin lỗi hắn, nhưng
hắn vẫn giữ mối cựu thù. Ngày nay hắn quyết trả.
Sai quân móc mắt tôi xong
hắn vẫn chưa vừa lòng, muốn trừ hậu hoạn, hắn truyền quân giết tôi rồi đem vứt
thây vào rừng làm mồi cho thú dữ.
Tên giám sát là một kẻ trung
thành với phụ vương tôi nên khi thấy tôi khóc lóc, hắn liền tha tôi và bảo:
- Thưa hoàng tử, ngài hãy đi
ngay ra khỏi nước, và nhớ đừng bao giờ trở lại nữa, vì nếu tân hoàng thượng bắt
được chúng tôi sẽ bị nguy.
Tôi sụp lạy cám ơn cứu mạng
rồi ra đi với một mắt bị móc.
Sau nhiều ngày trốn tránh,
tôi thoát ra khỏi nước và đến nước của vương thúc tôi.
Nghe tôi kể rõ sự tình,
vương thúc tôi đau đớn kêu lên:
- Trời ơi! Sao đến nỗi nầy?
Sao mà bao nhiêu điều tai biến dồn dập trên đầu tôi thế?
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Thưa vương thúc, có gì mà
ngài đau khổ thế?
Vương thúc tôi buồn bã nói:
- Ôi! Ta vừa mất con chưa
hết buồn sao lại còn lâm vào tình trạng lãnh một cái tang của người anh yêu quí
nữa?
Tôi biết ngay vương thúc tôi
nói đến hoàng tử con ngài nên hỏi:
- Tâu hoàng thúc, thế hoàng
đệ mất lúc nào?
Vương thúc tôi nức nở nói:
- Từ độ hoàng đệ về nước, ta
trở về và hay tin hoàng tử đã đi đâu biệt tăm. Ta đã sai bao nhiêu người tìm
khắp nơi nhưng vẫn không thấy.
Biết vương thúc tôi chưa rõ
về sự bí mật kia nhưng không thể chịu nổi trước sự đau đớn của ngài, tôi đành
phản lại lời thề, nói tất cả sự thật về cái hầm bí mật.
Nghe xong, ngài mừng rỡ nói:
- Nếu đúng như lời hoàng
điệt thì ta vẫn còn hy vọng tìm ra đứa con phản phúc kia. Nhưng để tránh tai
tiếng thì hoàng điệt nên giữ bí mật. Ta sẽ thân hành cùng hoàng điệt đến nơi để
khám phá điều bí mật giấu kín nơi nhà mồ.
Tôi không cần tìm hiểu vì
sao vương thúc tôi lại giấu kín chuyện kia. Tôi chỉ cho đó là vì ngài muốn
chính mình tìm ra đứa con thân yêu mà thôi.
Chúng tôi cải dạng ra khỏi
hoàng cung rồi tìm đến nơi nhà mồ nóc tròn.
Vào bên trong nơi cửa hầm,
tôi ngạc nhiên thấy nắp hầm đã bị bịt kín và niêm bằng thạch cao.
Qua một hồi mệt nhọc, chúng
tôi mới mở nổi cửa hầm, rồi cùng nhau lần theo thang xoáy tròn chúng tôi bước
xuống.
Qua độ mấy nấc thang đã nghe
một mùi hôi thối xông lên nặc mũi, chúng tôi cố nén leo xuống tận nơi thì thấy
dưới đó là gian nhà rộng có nhiều phòng.
Chúng tôi bước vào gian thứ
nhất và thấy bỏ trống, đến phòng thứ hai rộng hơn và có ánh sáng lờ mờ, mùi hôi
thối càng bốc lên nồng nặc.
Giữa phòng, tuy không rõ lắm
nhưng tôi cũng thấy một thùng chứa đầy nước và lương khô, trong góc phòng có
xây một chiếc bệ thấp, trên bệ là một chiếc giường rộng, chung quanh có màn
che.
Không còn chịu nổi mùi hôi
mà tôi biết rõ chính nơi đây bay ra, vương thúc tôi bước đến vén màn.
Một cảnh tượng ghê rợn làm
tôi rùng mình : trên chiếc giường đẹp đẽ có hai xác người chết thiêu.
Nhìn kỹ lại thì chính là xác
hoàng đệ tôi và người đàn bà mà hoàng đệ nhờ tôi dẫn đến đây.
Tôi lùi ra và tin chắc vương
thúc mình phải than khóc trước cái chết của đứa con yêu dấu, nhưng không khỏi
ngạc nhiên khi thấy ngài không những không cảm động mà còn nhổ nước miếng lên
xác hoàng tử và khinh bỉ nói:
- Đồ khốn kiếp, loạn luân.
Đây chỉ là hình phạt của trời đất sẽ còn muôn đời cho mi.
Vẫn còn chưa hết giận, vương
thúc tôi lại cởi giày lên đập vào mặt xác chết mấy chiếc.
Tôi càng lạ khi thấy hành
động của vương thúc tôi với người chết, vì dù sao hoàng tử cũng là con ruột của
ông, nên đến gần nói:
- Tâu vương thúc, tại sao
ngài lại đối với hoàng đệ khắc nghiệt thế? Chẳng hay hoàng đệ đã làm điều gì
cho vương thúc buồn?
Vương thúc tôi âu sầu nói:
- Hoàng điệt ạ, nói ra thì
thật là khốn khổ, đứa con của ta không còn xứng với vinh dự của hoàng tộc mà
còn làm điếm nhục gia phong của vương quốc. Chính nó đã phạm tội loạn luân cùng
công chúa em ruột nó.
Công chúa cũng yêu nó mà ta
đâu có ngờ, chỉ ngỡ là tình máu mủ. Đến lúc ta hiểu được thì đã muộn. Tình ấy
đã hóa ra tình yêu của vợ chồng. Và dù đã trễ thì ta vẫn tìm cách ngăn hành động
tội lỗi kia. Ta mang công chúa nhốt vào một phòng kín, sai lính canh giữ còn
tên ngỗ nghịch kia thì ta cho đến một nơi xa để làm cho hắn quên đứa em máu
thịt kia. Nào ngờ hắn lại len lỏi về tìm cách lén gặp công chúa rồi không hiểu
sao lại khiến được công chúa tìm cách xây ngôi nhà mồ nầy, mục đích theo đuổi
tình yêu loạn luân.
Nhưng cho dù thế gian có
không hay biết thì thượng đế cũng rất công minh nên khi hắn phá được phòng kín
đưa công chúa đến để cùng nhau sống nơi thầm kín nầy, thượng đế không dung tội
lỗi nên mới trừng phạt chúng như thế. Ta chỉ tội nghiệp cho công chúa còn nhỏ
dại bị đứa anh quyến rũ nên phải bị tội lây.
Hoàng thúc tôi nói xong khóc
nức nở, tôi cũng cảm động khóc theo. Một lúc sau hoàng thúc ôm lấy tôi nói:
- Thôi ta cũng không buồn
lòng vì trời đã công chính như thế. Chỉ cần có được đứa cháu đáng mến như hoàng
điệt thì cũng giúp ta quên được đứa con hư hỏng kia.
Mặc dù nói thế chứ hoàng
thúc không khỏi cảm động, đôi giọt lệ vẫn dâng trên khóe mắt.
Chúng tôi trở lên bậc thang,
đậy nắp huyệt lại rồi ra về.
Và để cho câu chuyện xấu xa
nầy không bay ra khắp nơi, chúng tôi còn trở lại một lần nữa vào mấy hôm sau để
đóng cửa nhà mồ và phá mọi dấu vết.
Điều này khắp hoàng cung
không một ai hay. Tôi cố theo một bên vương thúc tôi, để mong an ủi ngài bớt
cơn phiền muộn.
Nhưng sự trừng phạt của
thượng đế vẫn chưa hết, chúng tôi chưa nguôi nỗi buồn thì lại có tin ngoài
thành đang có giặc tiến đến đánh phá.
Chưa kịp cho quân phá vây
thì quân giặc đã đến sát bên hoàng thành ; do tên phản thần đã cướp ngôi của
phụ vương tôi cầm đầu.
Vì lính ít, vương thúc tôi
trở tay không kịp nên bị tên phản thần cướp được ngai vàng. Ngài cũng bị giết
khi bôn đào.
Tôi lúng túng theo ngả hậu,
cố tìm cách thoát thân, nhưng quân giặc đã tràn vào bốn ngõ. May mắn làm sao,
tôi nhờ một cận thần của vương thúc tôi che chở đi thoát khỏi hoàng thành.
Ra khỏi nơi nguy hiểm, tôi
liền cạo hết râu tóc, lông mày để cải dạng cho khỏi ai biết mà theo dõi.
Tôi, cõi lòng tan nát, phần
vì nhục quốc, phần vì hai cái tang trên đầu, nhưng vì cô thế nên đành phải ra
đi để tránh tủi hờn. Đã bao nhiêu ngày gian khổ sống nhờ lòng thương hại của
mọi người, tôi đến đây. Và vì nghe người ta đồn quốc vương Phương Lạc Chi là
người đại lượng nên tôi nhất quyết mong gặp ngài để nhờ cứu giúp.
Đang lúc lang thang trước
cửa thành, tôi gặp hai anh bạn này. Cảm vì đồng cảnh ngộ, chúng tôi nguyện kết
thân nhau, một bước không rời nơi đất khách quê người.
Giữa lúc tối trời không nơi
nương dựa, chúng tôi may mắn được mấy bà cho ăn uống, nghỉ ngơi, chưa kịp vui
mừng thì lại gặp tai nạn đến nỗi này.
Đấy là lai lịch của tôi rõ
ràng, bà đã bằng lòng chưa?
Đỗ Bích gật đầu nói:
- Được rồi, ông cứ việc ra
đi tự do, và nhớ đừng tò mò việc người nữa nhé!
Chàng chột mắt thứ nhất nói:
- Thưa bà, vì có hai bạn
đồng hành với tôi ở đây đợi đến phiên nên xin bà cho tôi ở lại chờ họ với.
Đỗ Bích bằng lòng.
Mọi người đều chăm chú nhìn
chàng chột thứ nhất với đôi mắt thương hại, nhất là quan cận thần Mạch Gia và
đức vua Phương Lạc Chi. Quan cận thần nói thầm vào tai vua:
- Thưa hoàng thượng, thật là
một trường hợp đáng thương tâm chưa bao giờ nghe nói đến.
Lúc ấy chàng chột mắt thứ
hai đứng lên xin kể chuyện của đời mình.
Đỗ Bích gật đầu.
Chàng kia liền bắt đầu:
CHUYỆN TÊN ĂN MÀY THỨ HAI
Thưa bà, câu chuyện của tôi
cũng rất đáng thương tâm như của anh bạn tôi vậy
Thưa bà tôi xin nói mau, tôi
cũng là con vua, phụ vương tôi cai trị một nước ở về phía nam.
Thuở còn bé, vì thấy tôi có
trí thông minh nên phụ vương tôi rất yêu mến, thường gọi các bậc kỳ tài trong
nước đến dạy dỗ để mong tôi trở nên một người tài giỏi mà nối ngôi ngài về sau.
Tôi học hành mau hiểu hơn
mọi người, những quyển sách nào đến tay, tôi đều học thuộc làu về mọi mặt. Tôi
cũng chăm học các loại khảo cứu về địa dư, văn chương và các danh nhân trong
lịch sử.
Chưa được bao lâu tôi đã
được nhiều người khen tặng và các nước láng giềng cho người đến thử tài học đều
khen tôi thật thông minh.
Đức vua nước Ấn Độ, một quốc
gia hùng cường, nghe tin ấy liền sai sứ đến mời tôi sang bệ kiến. Phụ vương tôi
rất vui lòng vì cho tôi sẽ được mở rộng kiến thức văn hóa để cần dùng ngày sau nên
đồng ý cho tôi sang thăm nước Ấn.
Để cho tình giao hảo giữa
hai nước thêm phần thân mật, phụ vương tôi cho một đám quân lính theo để tải ít
món quí giá, chở bằng mười con ngựa để mang sang biếu vua nước ấy.
Đường sá xa xôi cũng như lên
thác xuống ghềnh, hơn tháng sau mà vẫn chưa đi được nửa đường.
Còn đang để ý đến chuyến du
hành bình yên, bỗng đâu một hôm chúng tôi ngạc nhiên thấy trước mắt mình một
đám bụi mịt trời bay đến như có hàng vạn đám quân binh tiến đến gần.
Chưa kịp có phản ứng thì đám người ngựa đã đến gần, đó
là một đám cướp chừng năm mươi tên võ trang đầy đủ, đến vây lấy chúng tôi.
Không có bao nhiêu người,
chúng tôi liền nghĩ cách hòa giải. Tôi tìm cách nói để thuyết phục chúng.
Tôi nói:
- Thưa các ngài, các ngài
muốn cần gì tôi xin nghe theo ngay.
Tên đầu đảng nói:
- Ngươi biết điều đấy, ta
cần những thứ ngươi có bên ngươi cũng như mang theo kia.
Tôi nói:
- Nếu các ngài hiểu lẽ của
nhà Phật thì các ngài nên làm theo vì Phật dạy cái gì không phải của ta thì
không được lấy.
Tên cướp cười lên ha hả nói:
- Tại sao các ngươi bảo ta
đạo đức trong khi các thứ đã gần kề bên túi ta chứ?
Tôi cố dịu giọng nói:
- Nhưng ít nhất ngài cũng
phục tùng lịnh vua phép nước vì đây là lễ vật của đức vua Ấn Độ.
Tên cầm đầu đảng cười lớn
hơn, nói:
- Ta không là dân của nước
Ấn Độ, ta cũng không có đạo gì cả, ta chỉ làm theo ý muốn của ta thôi.
Nói xong, hắn ra dấu cho thủ
hạ vây lấy chúng tôi vào giữa. Chúng tôi ra sức chống cự để mong giữ lấy sinh
mạng.
Quân lính hộ vệ của tôi đều
lần lần bị giết chết hết, viên sứ giả của nước Ấn Độ cũng tử trận, còn tôi thì
bị trúng nhiều thương tích khắp mình.
Nghĩ không thể liều mình vô
ích, tôi liền cố mở một đường máu, cố sức thúc ngựa chạy dài.
Bọn cướp không đuổi theo,
chỉ còn bận lo đoạt của cải. Tôi chạy thật xa mới thấy chỉ còn có mình tôi sống
sót.
Một mình giữa rừng hoang xa
lạ, ngựa đã kiệt lực vì bị thương quá nặng đi không nổi, ngoài ra còn rất đau
đớn với các vết thương nhưng vì một mình không người giúp đỡ nên tôi đành phải
cố sức lê thân tàn phế đi qua rừng núi. Cứ ngày đi, đêm tìm chỗ nghỉ, đói thì
tìm trái cây, khát lại uống nước mưa trong rừng.
Suốt cả tháng trường gian
khổ, tôi đến một thị trấn khá to, có sông, biển cùng đất cát phì nhiêu.
Tôi mừng rỡ vô cùng nhưng
khi nhìn thấy thân hình đen đúa bẩn thỉu với những quần áo, giầy vớ rách nát dơ
dáy, tôi lại ngậm ngùi cho số kiếp của mình.
Tôi lần đến cửa thành để hỏi
thăm xứ này thì gặp ngay một người ăn mặc tươm tất đứng trước một hiệu buôn tơ
lụa, có vẻ là chủ nhân.
Tôi đến gần cúi chào rồi lễ
phép hỏi:
- Thưa ngài, xin ngài cho
tôi biết xứ nầy tên là gì?
Người chủ hiệu nhìn tôi một
lúc có vẻ muốn tìm hiểu rồi hỏi:
- Có lẽ ông là người lạ mới
đến xứ nầy lần đầu?
Tôi cung kính đáp:
- Thưa ngài, chính thế. Tôi
ở ngoại quốc đến đây do một sự tình cờ.
Người chủ hiệu mời tôi vào
nhà giải khát rồi hỏi lai lịch. Tôi cứ sự thật bày tỏ tất cả mọi điều gian lao
khổ cực mà tôi phải chịu trong vòng mấy tháng nay và tại sao tôi lại ra đi.
Người kia chăm chú nghe tôi
kể rồi cuối cùng người ấy nói:
- Nầy ông bạn, ông nên cẩn
thận, đừng bao giờ cho một ai nghe điều mà ông bạn vừa kể cho tôi nghe, vì nhà
vua nước nầy với nước ông bạn vốn có thù riêng, nên nếu nghe được chắc là có sự
nguy hiểm xảy ra.
Và anh ta thu xếp cho tôi
một chỗ ăn ở đỡ lúc bơ vơ.
Tôi rất cám ơn tấm thịnh
tình kia nên khi anh ta bảo sẽ giúp tôi một việc để tìm sự sống, tôi liền tỏ ý
bằng lòng ngay.
Ông ta hỏi tôi:
- Ông bạn biết làm gì?
- Tôi biết viết văn, thơ,
hiểu rõ về khoa học và nghệ thuật.
Người chủ hiệu buôn lắc đầu
nói:
- Không nên mơ tưởng, những
điều đó sẽ không giúp bạn có cơm áo. Cái cần bây giờ là ông bạn có mạnh khỏe để
làm việc bằng tay chân kiếm ăn hằng bữa.
Tôi nói:
- Thưa ngài, tôi xin cố gắng
hết sức để không phụ lòng tốt của ngài giúp tôi.
Người chủ hiệu nói:
- Nếu thế ông đừng lo, tôi
sẽ sắm cho ông bạn những món cần thiết đó.
Hôm sau, ông ta mua cho tôi
một chiếc áo cụt, một cây búa và bảo tôi:
- Anh hãy theo tôi, tôi sẽ
chỉ cho anh việc làm.
Ông ta đưa tôi đến ông thợ
rừng, xin chỉ giáo cho tôi trong nghề tiều phu, rồi ra về sau khi đã khuyến
khích tôi.
Tôi rưng rưng nước mắt cám
ơn lòng tốt của ông ta đối với tôi.
Sáng hôm sau, tôi theo người
tiều phu vào rừng đốn củi mang ra chợ bán. Rừng không xa chợ lắm, nhưng vì ở
đấy người ta cho nghề đốn củi khổ cực nặng nề nên củi bán rất được giá.
Tôi cố gắng làm việc và dành
dụm được đủ tiền để hoàn lại cho ông chủ hiệu buôn đã sắm sửa cho tôi. Ông ta
không bằng lòng nhận nhưng tôi cố nài nỉ. Để khỏi làm cực lòng ông ta sau này,
tôi liền đem gửi cho ông mỗi ngày số tiền tìm được.
Tôi cảm thấy vui mừng với sự
thanh thản với ý nghĩ lúc nào có đủ tiền sẽ tìm đường về xứ. Hy vọng gặp lại
phụ vương làm cho tôi hân hoan, không còn nghĩ gì đến mệt nhọc.
Một hôm, quãng rừng kia đã
hết củi nên tôi liền tìm đến nơi mà tôi rất vừa ý với những cây vuông dễ chặt.
Vừa chặt một cây củi, tôi
bỗng chú ý đến một cái móc sắt chôn ở dưới đất.
_______________________________________________________________________
Còn tiếp
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét