Để giải trí, tôi lấy xâu
chìa khóa mở các cửa phòng nhưng tự thề với lòng mình không bao giờ phụ lòng
tin tưởng của các nàng đối với tôi.
Cánh cửa thứ nhất mở ra, tôi
bước vào một vườn cây trái sum sê đẹp đẽ như một cảnh vườn thượng uyển, có lẽ
còn xinh đẹp hơn của phụ vương tôi.
Trong vườn, cảnh lạ lùng
nhất là những mương nước chảy trong vườn chia đều cho các cây đủ sức trở nên
xanh tốt một cách vừa phải. Mùi trái cây chín thơm ngào ngạt, trái nào cũng to
lớn mơn mởn, càng hay hơn nữa là chả có trái rụng nào.
Nhìn mãi không chán mắt, cho
đến lúc bước đi mà lòng tôi vẫn còn luyến tiếc.
Khóa cửa lại, tôi mở sang
cửa thứ nhì.
Đó là một vườn hoa đủ màu đủ
loại, muôn hương sắc, thứ nào cũng quý. Tôi chỉ nhận được những loại quen thuộc
như thủy tiên, hải đường, hồng nhung, tuyết mai, bạch cúc, còn các thứ hoa lạ
khác thì không biết hết. Có thứ cánh mượt như nhung đỏ điểm những ánh nhị vàng
và có thứ đẹp như một con bướm bay nghiêng.
Hương thơm ngào ngạt làm tôi
ngây ngất cả người, thơ thẩn không muốn rời.
Cánh cửa phòng thứ ba mở ra.
Tôi thích thú thấy toàn là
chim đủ các giống. Vốn biết tính tôi ưa thích chim từ thuở nhỏ nên phụ vương
tôi có lập một chuồng chim cho tôi thưởng thức. Nhưng dù sao thì không thể nào
tôi không công nhận nơi đây là một chỗ tập trung đủ loại chim, từ chim trĩ,
chim chích chòe, đến két, sáo cùng những loại chim lạ lùng tôi chưa từng thấy.
Những lồng chim quý như Anh Vũ thì lồng toàn bằng ngọc cắm cây vàng, những chén
đựng nước thì bằng ngọc minh châu và mã não. Vách vườn toàn bằng đá cẩm thạch
sáng óng ánh dưới nắng chiều huyền ảo.
Đi đến đâu cũng thấy chim
bay, cũng nghe tiếng hót của chim, toàn là những giọng trong như tiếng nhạc.
Dù là hàng ngàn con chim
nhưng đâu đó đều ngăn nắp sạch sẽ như có hàng trăm người săn sóc quét tước mỗi
ngày.
Tôi đi quan sát từng thứ
chim cho đến lúc xế chiều mới trở ra, trong người còn đầy những hương thơm hoa
quả, những ngây ngất ảo huyền của cảnh vật.
Bây giờ tôi mới nhớ là mình
đói. Tôi tìm thức ăn rồi trở về phòng ngủ, lòng nhất định hôm sau sẽ mở lần
lượt các phòng khác, và lại dặn dò mình không được rờ đến chiếc chìa khóa vàng.
Sáng hôm sau, khi điểm tâm
xong, tôi đến ngay gian phòng thứ tư. Tính tò mò khiến tôi không thể nào chờ
được.
Cửa phòng vừa mở, những ánh
sáng của những viên ngọc dạ quang lóe ra sáng rực.
Tất cả bốn mươi gian phòng
hẹp, mỗi phòng là một chỗ chứa nữ trang riêng biệt. Những hòn ngọc trai lấp
lánh một phòng, kế cận là những viên ngọc minh châu, mà là những hòn ngọc to
bằng trứng chim chiếu đủ màu sắc. Phòng khác là ngọc bích, đến vàng, bạc, bạch
kim. Những phòng khác nữa thì nào là tiền vàng, san hô, cẩm thạch, sừng tê
giác. Tất cả những của quý đều được tập trung ở đây. Thật là một kho tàng khổng
lồ của các bậc vua chúa góp lại.
Tôi mê mẩn nhìn không chán
mắt. Tôi cầm những viên ngọc quý lên ngắm nghía, chỉ cần một viên này cũng đủ
cho một gia đình giàu có sống sung sướng suốt đời.
Thích thú, tôi reo lên:
- Ồ, sung sướng quá, tất cả
những vật nầy đều là của ta, chính ta nắm giữ chìa khóa. Cả những nàng mỹ nữ
xinh đẹp cũng là của ta nữa. Ta sung sướng nhất đời.
Xem xong, tôi đến mở cửa
phòng thứ năm.
Trong đó toàn những bàn ghế,
tủ giường, ghế tràng kỷ, tất thảy đều bằng gỗ quý chạm trổ và cẩn vàng ngọc.
Mỗi thứ đều lộng lẫy sáng ngời, rất mỹ thuật.
Từ ngày này qua ngày khác,
tôi như quên mất nỗi buồn trong những gian phòng kỳ ảo. Cho đến hôm thứ ba mươi
chín thì tôi đã xem đến gian phòng cửa bằng ngọc thứ chín mươi chín.
Chỉ còn có gian phòng vàng
là tôi không dám nhìn đến vì tôi muốn giữ chữ tín với các nàng, cũng như sợ
phải xa nơi thân yêu thần tiên này như lời dặn.
Tôi buồn bã không biết làm
gì cho hết ngày hôm ấy, hết đứng lại ngồi, nằm, trông từng giây phút những nàng
kia trở về để giúp tôi nghị lực.
Thời gian như ngừng lại
trước sự tò mò càng lúc càng tăng lên của tôi. Tôi cố nhớ lại những lời thành
thật của các nàng lúc chia tay cũng như những hạnh phúc mà tôi được hưởng trong
một năm qua để ngăn lại lòng tò mò.
Tôi cố gắng hết sức cho đến
đêm, tôi liền về phòng ngủ sớm hơn, cố ý dỗ giấc ngủ để quên sức quyến rũ mãnh
liệt của tính tò mò. Nhưng dù cố làm hết sức tôi cũng không thể nào ngủ được.
Trằn trọc mãi, tôi cứ nhìn
thấy trước mắt tôi căn phòng vàng với những cái mà tôi chưa được chứng kiến.
Tôi tự nghĩ:
- Còn có một đêm nay nữa,
đến sáng các nàng đã về với mình, mình sẽ sống hạnh phúc như trước. Chỉ còn có
mấy tiếng đồng hồ nữa thôi, mình phải cố gắng.
Nhưng không hiểu cái gì xui
khiến tôi cứ luôn luôn nghĩ đến cánh cửa vàng. Tôi cho là chỉ có gian phòng đó
là tôi chưa được hiểu có gì bên trong.
Lòng tôi vô cùng thắc mắc
với ý nghĩ:
- Tại sao các nàng không cho
tôi vào đó?
- Gian phòng vàng kia có gì
bí mật mà đến nỗi các nàng phải căn dặn cặn kẽ thế?
- Có thật là tôi sẽ bị mất
các nàng nếu vào đó không?
Tôi không tin lời nói kia là
có thật. Có lẽ các nàng muốn đùa tôi cho vui, và biết đâu tôi không bắt gặp các
nàng đang nấp cả trong đó chờ cho đến ngày hẹn rồi mới nói cho tôi hay là tôi
đã bị các nàng gạt trong thời gian mong đợi.
Còn nếu như không đúng thế
thì các nàng cũng không làm sao biết được khi tôi chỉ mở cửa nhìn vào rồi khóa
lại ngay.
Nghĩa là những ý nghĩ của
tôi đều quy tụ có một chỗ của tính tò mò, làm sao tìm hiểu sự bí mật của gian
phòng này.
Sau cùng, không thể chờ đợi
được nữa, tôi leo xuống giường, mân mê chiếc chìa khóa rồi cương quyết làm theo
ý nghĩ của mình.
Đứng trước gian phòng, tôi
còn cố nghĩ lại một lần nữa xem có nên làm theo sự thúc đẩy không. Nhưng tính
tò mò càng mạnh khiến tôi không thể cưỡng lại hành động mà tôi thèm muốn.
Không chần chờ nổi, tôi tra
chìa khóa vào chiếc cửa vàng. Cánh cửa vừa mở thì một mùi hương ngào ngạt xông
ra làm cho tôi té xuống đất ngất xỉu.
Một lúc sau tôi tỉnh dậy. Lý
ra tôi phải lùi bước trước trở ngại kia, nhưng có một cái gì khiến tôi không
thể cưỡng được, tôi lần vào.
Đó là một căn phòng rộng,
trần nhà rất cao hình vòng cung theo kiểu kiến trúc cổ xưa, chạm trổ rất công
phu.
Giữa phòng, một ánh sáng
huyền diệu phát ra từ ngọn đèn to lớn thắp bằng dầu treo lủng lẳng.
Tường toàn bằng vàng khối
với những cây cột bằng cẩm thạch xanh biếc như được lau chùi mỗi ngày.
Dưới đất lót toàn bằng gạch
hoa xinh đẹp, được lau rửa thường nên bóng như gương. Một góc phòng có xây một
bệ bằng ngọc thạch tỏa ra muôn màu sắc. Trên bệ, một con ngựa bằng đá đen huyền
đẹp hơn các con ngựa thật và giống hơn các hình ngựa mà tôi đã nhìn thấy.
Dưới chân ngựa là một chiếc
máng bằng bạc chạm trổ rất đẹp. Trong máng có đựng lúa mì và lúa mạch, kế bên
lại có một chiếc máng khác bằng sứ đựng nước trong.
Tôi ngạc nhiên khi nhìn thấy
những món vật cho ngựa ăn, nhưng chẳng lẽ con ngựa bằng đá đen kia lại biết ăn,
nên lẹ làng đến gần xem.
Tôi vừa lấy tay đụng vào
mình ngựa thì hoảng hồn, giật mình lùi lại vì tiếng hí của nó.
Con ngựa bằng đá trước mắt
tôi phút chốc hóa nên ngựa thật. Nó hí vang rồi đập chân như muốn chạy.
Thích thú lẫn lo sợ, tôi thử
leo lên mình ngựa để xem thế nào. Bỗng tôi hoảng hốt ôm cứng lấy cổ ngựa vì nó
đã bay lên, xòe đôi cánh nhỏ mà tôi không để ý khi nó xếp vào hông.
Tôi lo sợ quá kềm cứng lấy
hông ngựa thì ngựa lại đáp xuống một nơi mà tôi chưa kịp nhìn thì đã bị nó hất
xuống rồi dùng chiếc đuôi đâm thủng mắt tôi và vỗ cánh bay mất.
Quá đau đớn, tôi ôm lấy mắt
bên mặt và chợt nhớ lại lời nói của các thanh niên đã khuyên tôi ngày trước,
tôi nằm lăn ra đất, đau khổ lẫn hối hận.
Máu me ràn rụa đầy mặt, tôi
xe vạt áo lau buộc lại mắt, rồi quanh quẩn tìm đường đi xuống.
Tôi không khỏi ngỡ ngàng khi
thấy nơi đó không phải xa lạ với tôi mà chính là lâu đài bằng đồng, nơi mà
trước kia tôi đã gặp các thanh niên chột.
Tôi buồn bã định đi tìm họ
để kể rõ sự tình nhưng trong lâu đài không một bóng người.
Nghĩ rằng họ đã bỏ đi, tôi ngồi
ôm mặt khóc, vì hận mình đã mất bao nhiêu hạnh phúc, lại làm hại cho thân mình
cũng chỉ vì tính tò mò.
Trong lúc tôi còn đang than
thở một mình thì mấy thanh niên chột và ông già quắc thước trước kia từ đâu
tiến đến. Nhìn thấy họ, tôi mừng rỡ tiến đến cúi chào.
Không chút ngạc nhiên, họ
lại lãnh đạm nhìn tôi, rất thản nhiên như không hề biết đến cái hình phạt mà
tôi vừa chịu.
- Chúng tôi tiếc khi thấy
ông bạn đã về lại đây, nhưng mong ông bạn nhớ lời nói xưa kia, chớ cho chúng
tôi đã làm hại ông bạn.
Tôi đáp:
- Thưa quý ngài, không bao
giờ tôi dám đổ lỗi cho các ngài, vì tôi đã làm thì tôi xin chịu.
Một người nói tiếp:
- Bây giờ thì chắc ông bạn
không còn thắc mắc tại sao chúng tôi lại bị chột mắt. Cũng như ông bạn, nếu
chúng tôi không mở cửa bằng vàng thì chúng tôi vẫn còn sống trong hạnh phúc vô
cùng, không bao giờ chấm dứt như đã sống qua một năm ở đấy. Nhưng không gì xấu
hổ bằng sự tò mò, chính nó đã làm cho ông bạn cũng như chúng tôi phải ân hận.
Tiếc rằng ông bạn không thể ở lại đây được vì chúng tôi đã đủ số, không thể giữ
ông bạn lại được như chúng tôi đã bảo trước kia.
Tôi khuyên ông bạn hãy tìm
đến Bá Đa để sám hối vì ở đấy số phận của bạn sẽ được định đoạt.
Tôi buồn bã hỏi thăm đường
đến Bá Đa, họ ân cần chỉ cho tôi, tôi liền từ giã họ.
Dọc đường, tôi cạo cả râu
tóc chân mày để sám hối tội lỗi, khoác áo hành khất nhờ lòng từ thiện của mọi
người để đến được đây.
Đến cửa thành này, tôi gặp
hai ông bạn cùng hoàn cảnh giống mình.
Sự gặp gỡ này khiến chúng
tôi nối liền nhau và sau đó đến đây xin tá túc.
- Thưa bà, lai lịch và điều
khiến chúng tôi đến đây chính là như thế, bà có bằng lòng không?
Nàng Đỗ Bích nói:
- Được rồi, ba người hãy tự
do ra khỏi nhà này.
Một chàng chột mắt đứng lên
thay lời hai bạn, nói:
- Thưa bà, xin bà cho chúng
tôi được ngồi lại nghe chuyện của ba ông bạn phú thương đây.
Đỗ Bích gật đầu rồi quay
sang phía hai quan cận thần và đức vua Phương Lạc Chi, nói:
- Các ngươi đã đến phiên,
hãy nói đi.
Quan cận thần Mạch Gia nói:
- Thưa bà, như tôi đã nói
trước, chúng tôi chỉ là phú thương ở xa đến Bá Đa để cất hàng và buôn bán các
món hàng của xứ chúng tôi, nhưng vì tàu đến trễ, không nơi trú ngụ, cửa thành
đóng, đành phải đến gõ cửa nhà của quý bà. Câu chuyện không có gì đáng phải kể
hay thắc mắc như các ông bạn này.
Nàng Đỗ Bích còn đang do dự
chưa biết phải xử trí ra sao với ba người khách sau cùng nầy thì ba chàng chột
mắt nói:
- Thưa bà, xin bà hãy cho ba
ông đây được hưởng trường hợp giảm khinh như chúng tôi.
Nàng Đỗ Bích mỉm cười nói:
- Ta cũng chấp thuận lời
thỉnh cầu của các ngươi. Thôi, các ngươi hãy đi khỏi nơi nầy và nhớ đừng bao
giờ héo lánh đến đây nữa, nếu không ta sẽ không đối xử nhã nhặn như thế nữa
đâu.
Lời nói tuy dịu dàng nhưng
nghiêm trang của nàng Đỗ Bích làm ai nấy đều vâng lời cùng nhau đứng dậy cúi
chào rồi ra đi.
Nhìn thấy trời còn tối, đức
vua Phương Lạc Chi hỏi ba người hành khất chột mắt:
- Ba ngài chưa quen ai ở
đây, vậy các ngài sẽ ở đâu trong lúc đêm khuya thế nầy?
Ba chàng chột không biết
người đứng trước mặt mình là vua nên nói:
- Thưa ngài, đó là điều
chúng tôi đang lo lắng lúc nầy.
Đức vua nói:
- Thế thì để tôi tính hộ cho
các ngài.
Nói xong, nhà vua quay sang
nói nhỏ với quan cận thần Mạch Gia:
- Khanh hãy đưa ba người nầy
về nơi tư dinh của khanh và sáng mai đem họ đến triều cho ta dạy việc.
Quan đại thần Mạch Gia tuân
lịnh, chào đức vua rồi dẫn ba anh em chột hành khất về nhà.
Đức vua Phương Lạc Chi và
quan hoạn Lễ Thi trở lại hoàng cung. Chàng khuân vác thì cũng chào mọi người
rồi đi một mình.
Suốt đêm hôm ấy, vua không
hề chợp mắt, lòng cứ băn khoăn mãi về hành động kỳ lạ của ba chị em nàng Đỗ
Bích.
Trời sáng, ngài liền đi tắm
cho sảng khoái tinh thần sau một đêm lo nghĩ, rồi lâm triều.
Bá quan đến đông đủ, có cả
quan cận thần Mạch Gia đến, dẫn theo ba tên ăn mày chột mắt.
Vua Phương Lạc Chi gọi quan
đại thần Mạch Gia đến trước tiên. Ngài phán:
- Khanh hãy đến ngôi biệt thự
hôm qua đòi cho được ba người đàn bà ở đó đến đây cho ta hỏi duyên cớ. Nhớ đi
cho mau vì ta nóng lòng lắm.
Quan cận thần lật đật làm
theo lời đức vua không chút chậm trễ. Ba chị em Đỗ Bích, Lý Minh. Lệ Phi nghe
lệnh vua truyền vội vã sửa soạn đến chầu.
Khi ba nàng đến, đức vua
liền đòi họ đến trước ngai, luôn cả ba chàng khất thực chột mắt. Ngài hỏi:
- Các người có biết ta là ai
không?
Cả ba người nhìn rõ đức vua
thì cùng sụp xuống đất, nói:
- Tâu hoàng thượng, xin ngài
thứ cho chúng tôi đã phạm thượng đêm qua.
Ba chàng khất thực cũng nhìn
ra chàng phú thương đêm trước thì vội xin vua đừng chấp những lời nói vô tình
hôm trước.
Đức vua mỉm cười nói với ba
chàng:
- Các người chẳng những
không có điều gì vô lễ mà lại còn có cử chỉ cung kính đối với danh ta khi ta
vắng mặt. Với đức hạnh đó, ta sẽ không quên.
Rồi nhìn ba nàng, đức vua
hỏi:
- Hôm nay ta gọi các bà đến
đây không phải để quở phạt về hành động đêm qua, vì chính ta giả dạng phú
thương nên các người lầm tưởng. Sở dĩ ta mời các bà đến là để hỏi cho tường tận
các điều thắc mắc.
Ta hỏi bà Đỗ Bích, tại sao
bà lại hành hạ hai con chó mực trong khi ta hiểu chính bà cũng rất thương yêu
chúng vì bà đã khóc và hôn chúng. Bà hãy nói đi.
Quan cận thần Mạch Gia theo
lệ trong triều lập lại những lời nói của đức vua, dù ngài phán rất rõ ràng.
Đức vua sai quân hầu mang
ghế đến cho sáu người ngồi. Nàng Đỗ Bích không dám trái lịnh đức vua, vội vàng
thi lễ rồi đứng lên nói:
- Tâu hoàng thượng, mọi việc
ngài trông thấy đêm qua tóm tắt qua câu chuyện lạ lùng này.
Chính hai con chó mực đó với
tôi là ba chị em ruột cùng cha mẹ, còn hai em tôi đây cũng là một cha nhưng
khác mẹ.
Khi cha chúng tôi qua đời,
người chia đều của cải cho năm chị em chúng tôi.
Lý Minh và Lệ Phi trở về với
mẹ ruột, còn ba chị em tôi thì ở với mẹ mình.
Khi nhận được gia tài thì
hai chị tôi, chính là hai con chó mực đó, đã có chồng nên đều xin theo chồng,
đem theo mọi của cải mình được cha chia cho.
Chị cả tôi thì theo chồng
sang Phi Châu, còn chị hai tôi cũng đi với chồng đến nơi xa, chỉ có mình tôi ở
lại làm nghề chăn tằm để nuôi mẹ. Được ít lâu thì mẹ tôi qua đời.
Tôi bơ vơ một mình nhưng vẫn
không nản chí, vẫn cố gắng làm việc để quên nỗi cô đơn.
Hơn ba năm sau, chị cả tôi
trở về với thân hình tiều tụy, quần áo rách rưới.
Tôi ngạc nhiên hỏi:
- Tại sao thân chị lại ra
thế nầy, còn tiền cha cho chị đâu?
_______________________________________________________________________
Còn tiếp