Rồi
ghé sát tai ông đồ, ông thần thì thào:
-
Chẳng nói giấu gì bác, nhờ trời, nhà tôi giầu có. Tôi đã đem theo đây bốn nén
vàng để phòng phải ông chánh chủ khảo có máu tham đồng, đổi trắng thay đen, thì
sẽ tùy cơ ứng biến. Đây bác cầm hai nén rồi ngay đêm nay chúng ta cùng nhau tìm
vào nhà riêng của ông đốc học.
Ông
đồ Bể từ chối, nói thà rằng không đỗ, chứ nhất định không chịu đút lót, lễ lạt
để mất cả phẩm giá con người.
Đến
đây ông thần mới tỉnh ngộ và hiểu rằng không có cách gì, không thể dùng mưu
thần chước quỷ nào hại nổi một người chính trực, quang minh như ông đồ Bể được.
Lòng
thù ghét của ông thần đối với ông đồ vụt đổi ra lòng cảm phục. Từ nay ông sẽ cứ
ở luôn bên mình ông đồ như trước để ủng hộ chứ không phải hãm hại nữa.
Vì
thế ông đồ Bể lọt vào được bốn kỳ cũng là nhờ ở sức giúp đỡ của ông thần. Kỳ
nào chấm đến bài của ông đồ Bể, ông chánh chủ khảo cũng nhận thấy văn chương
lỗi lạc đáng được phê ưu. Nhưng ông nghĩ thầm : “Thằng này cậy có tài không
thèm biết đến ta. Vậy ta thử phê cho nó hỏng tuột xem nó còn chỉ cậy ở văn tài
và học lực nữa không”. Và ông mỉm cười thong thả viết chữ “liệt” đỏ rất to, rồi
khinh bỉ vứt quyển thi sang một bên. Điều ông không ngờ là chữ liệt của ông chỉ
là chữ “ưu”. Ông thần đã đưa tay viết chữ nọ hóa chữ kia mà ông vẫn không biết.
Thế
rồi, xong bốn kỳ thi, ông đồ Bể đậu thủ khoa.
Thành
thử cái người mà ông chánh chủ khảo định để đỗ đầu phải tụt xuống thứ hai.
Chính ông cũng không hiểu tại sao. Ông đành thở dài trả lại người ấy hai mươi
nén bạc, trong số năm mươi nén mà được người ấy đã khấn ông để mua cho bằng
được cái hương khôi.
Ông
đồ Bể thẳng thắn tự nhủ : “Đấy, ta đã bảo các quan trường công chính! Quả có
sai đâu!”.
Hôm
xướng danh, thiên hạ nô nức đi xem. Các cô thiếu nữ Long thành chen vai thích
cánh để được thấy mặt ông thủ khoa. Nhưng ông này chẳng buồn để ý tới một cô
gái nào, tiến thẳng lại các quan trường, vái dài rồi vội vàng lĩnh lấy mũ áo
vua ban ra đi.
Sợ
món tiền lộ phí thiếu hụt, nếu ông còn dềnh dàng ở lại xem các nơi danh thắng
chốn đế đô, ngay hôm ấy, ông tân khoa trở về làng.
Khi
qua miếu cũ, ông thần ra đón tiếp:
-
Chào ông cống mới.
Ông
thủ khoa đoán chừng người bạn cùng đường đã lạc đề nên lủi mất ngay từ khi nghe
tìn mình trúng cử, liền an ủi mấy câu:
-
Thi cử chẳng qua ăn nhau về số mệnh. Thôi thì khoa này chẳng đậu, bác chờ khoa
sau… Có tài như bác, lo gì!
Ông
thần cười nói:
-
Lần đầu tiên bác nói dối đấy nhé. Bác thừa biết rằng phải có tài lỗi lạc như
bác mới đáng đỗ sao bác còn đem câu khách sáo về số mệnh ra an ủi tôi.
Ông
thủ khoa cũng cười. Ông thần lại nói:
-
Nhưng nay dù bác có nói dối một câu vô tội với người hỏng thi để người ấy khỏi
buồn lòng tôi cũng không tìm cách trị tội bác đâu. Vì nay bác đã trở nên bạn
chí thân của tôi rồi.
Ông
thủ khoa ngơ ngác không hiểu. Ông thần liền đem chuyện thực ra kể, từ hôm ông
đồ qua miếu không ngả nón cúi đầu cho tới hôm ông trúng cử.
Nói
xong ông thần biến mất.
Ông
thủ khoa buồn rầu thầm nghĩ : “Thì ra nhờ có thần mình mới đỗ! Như thế cái thủ
khoa của mình không giá trị gì!”.
Ý
nghĩ ấy vẫn lẩn quẩn trong óc, ông lủi thủi về tới đầu làng. Vì thế, thấy dân
làng tấp nập mang cờ, mang lọng ra đón rước, ông xua tay nói:
-
Xin mời các ông về cho. Tôi chẳng đỗ đạt gì cả mà rước xách. Tôi vẫn là ông đồ
Bể như xưa thôi các ông ạ.
Ai
nấy kinh ngạc không hiểu và nhất định ép ông tân khoa ngồi lên võng. Xem chừng
không từ chối nổi, ông thủ khoa đành phân trần:
-
Tôi đỗ là nhờ sự may mắn, một sự bất công, nên thế nào rồi tôi cũng phải dâng
sớ tâu lên đức hoàng thượng để xin ngài đánh hỏng tuột cái thủ khoa của tôi đi
để tránh khỏi mọi sự gian trá do một hung thần bày ra. Vậy xin các ông có yêu
tôi mà cho tôi ngồi võng để khiêng tôi về thì tôi xin vâng. Còn nói to tát rằng
đón rước một ông thủ khoa thì quả thực tôi không dám nhận.
Dân
làng cho là tân khoa quá nhún nhường nên cũng tuân theo mà hạ cờ im trống, rước
ông về nơi nhà tranh chật hẹp.
Mẹ
già ông nghe tin ông đỗ đã đi vay tiền bà con mua một con bò, hai con lợn, chục
thúng gạo tẻ, dăm thúng gạo nếp, chờ con về thì làm tiệc ăn khao. Nhưng ông thủ
khoa khóc, lạy mẹ xin hãy để cho thong thả.
Rồi
lập tức ông lấy giấy bút thảo một tờ sớ tâu thiên tử, kể hết đầu đuôi việc gặp
thần và được thần giúp. Sau cùng ông xin hoàng thượng xuống chiếu tiêu hủy cái
thủ khoa gian lận của ông.
Nhận
được sớ của ông, vua và các quan trong triều đều kinh ngạc. Vua cho là một sự
rất lạ, rất hiếm ở chốn nhân gian : một người đã được chấm đỗ đầu rồi còn dâng
sớ khiếu oan, kêu rằng mình thực không đáng đỗ mà bỗng được người ta cho đỗ
oan. Một quan ngự sử quỳ tâu:
-
Kẻ hạ thần đồ rằng viên thủ khoa mắc chứng điên.
Vua
cười phán:
-
Hơn hết là đem các bài thi của hắn ra duyệt lại.
Khi
một viên hàn lâm tốt giọng đã lần lượt đọc hết bốn bài văn, kinh nghĩa thơ, phú
và văn sách của thủ khoa thì hoàng thượng trầm trồ khen ngợi:
-
Văn bài quả thực đáng phê ưu.
Ngài
bèn cầm các bài văn đọc lại một lượt nữa.
Và
vì thế ngài thấy bốn chữ “ưu” của viên chánh chủ khảo, phúc khảo. Ngài cảm động
nghĩ thầm: “Viên đốc học Sơn Nam
thực là một người tôi hiền. Không có hắn thì mất một vị thủ khoa có học vấn
uyên thâm” Ngài liền xuống chiếu cất viên đốc học Sơn Nam lên chức học bộ thượng thư và
ban lệnh cho đòi viên thủ khoa Bể đến triều bệ kiến.
Mười
hôm sau, một người quần áo nâu, đi đất tiến đến cửa Ngọ môn. Nghe người ấy xung
danh là ông đồ Bể vừa nhận được chiếu chỉ mời vào triều bệ kiến, quân lính
không tin và đến trình các quan để các quan tâu lên thiên tử. Thiên tử nghe tâu
cười ngất, truyền cho dẫn người kỳ dị vào hầu.
Ngắm
vẻ mặt khôi ngô và nghe lời biện bạch thâm thúy, vua biết ngay rằng đó là một
bậc chân tài.
Ngài
liền phán:
-
Sao mũ áo trẫm ban cho, ngươi không dùng?
-
Dạ kẻ hạ thần tự xét không xứng đáng với phẩm phục của triều đình.
Dứt
lời liền mở khăn gói lấy mũ áo kính cẩn dâng lên.
Vua
cười:
-
Trẫm đã xét lại văn bài của ngươi rồi, ngươi thật đáng đậu thủ khoa. Vậy trẫm
cho phép nhà ngươi hãy vào trong sửa sang mũ áo chỉnh tề rồi ra đợi lệnh.
Đại
danh của ông thủ khoa đồn khắp kinh thành và đến tận tai hoàng hậu ; hoàng hậu
liền vời vào nội cung để xem mặt. Rồi sau khi ban thưởng một chén rượu thọ,
ngài truyền thủ khoa thuật lại câu chuyện gặp thần mà thủ khoa nói sơ trong bản
văn dâng lên thiên tử.
Thủ
khoa không quen uống rượu nên mới nhấp một chén đã chếnh choáng nóng bừng mặt.
Vì thế ông không còn đủ sáng suốt để giữ gìn, đem hết sự thực ra kể. Tới đoạn
viên chủ khảo định hạ bút phê liệt, chữ “liệt” lại hóa ra chữ “ưu”, hoàng hậu
chau mày nói:
-
Tên chủ khảo gian trá đến bực ấy mà sao thiên tử lại cất hắn lên chức học bộ
thượng thư?
Hoàng
hậu bèn truyền thủ khoa theo đến trước mặt thiên tử và kể lại câu chuyện thi cử
để ngài nghe. Lúc bấy giờ ông thủ khoa đã tỉnh rượu, nhưng không dám giấu giếm
một điều gì, vì đã trót một lần thuật hết sự thực.
Vua
nổi cơn thịnh nộ, lập tức xuống chiếu đòi viên thượng thư học bộ đến trước ngai
rồng mà mắng rằng:
-
Trẫm giao cho nhà ngươi cái trọng trách kén chọn nhân tài, ai ngờ ngươi chỉ
tưởng đến ăn lễ chứ không nghĩ gì đến sự phó thác ân cần của trẫm. Như những
bài thơ của viên thủ khoa đây mà ngươi định phê “liệt” thật không còn coi ai ra
gì nữa. Tội khi quân này đáng lẽ phải xử trảm, nay trẫm hãy tạm giáng ngươi
xuống chức huấn đạo cho ngươi ăn năn sửa mình.
Viên
thượng thư sợ hãi mướt mồ hôi cúi đầu đứng im thin thít vì không hiểu sao hoàng
thượng lại đoán biết được ý nghĩ thầm kín của mình.
*
Mùa
thu năm sau ông thủ khoa Bể lại tới kinh đô thi hội và thi đình. Lần này ông y
phục chỉnh tề, ung dung cưỡi ngựa trắng vua ban, và không phải khệ nệ mang theo
lều chiếu như ngày đi thi hương nữa. Nhưng cái khăn gói nâu cũ ông vẫn khoác
bên vai, vì ông vẫn nghèo như xưa, tuy đã đậu thủ khoa, mà vẫn không tiền mượn
tiểu đồng. Hôm ông vào bệ kiến, thiên tử ban vàng, ban lụa ông đều từ chối, nói
chưa có công trạng gì, ông không dám nhận của nhà vua.
Đến
trước tòa miếu cổ, ông thủ khoa xuống ngựa cho đúng với chữ “hạ mã” đề trên mốc
đá, vả lại ông đã có lòng kính mến ông thần. Ông kính mến ông thần không phải
vì nếu không có ông thần giúp mà viên chủ khảo ăn lễ đút lót thì ông chẳng thể
nào đỗ được! Ông kính mến ông thần là vì ông phục lòng hào hiệp của một kẻ thù
quân tử: thù ghét, ông thần đã không vật chết ông ngay mà còn chờ khi ông phạm
tội mới dám hạ thủ. Như thế, kể cũng là một ông thần anh hùng.
Ông
vừa xuống ngựa định vào miếu thì ông thần đã hiện lên chắp tay vái ông:
-
Kính chào ông hai lần thủ khoa.
Ông
thủ khoa Bể đáp lễ rồi ngạc nhiên hỏi:
-
Sao lại hai lần thủ khoa?
-
Vì đỗ đầu rồi, bác lại còn lai kinh ứng thí nữa mà vẫn đỗ đầu.
Cả
hai cùng cười. Ông thần chắp tay nói:
-
Thôi chúc bác thượng lộ bình an. Khi nào đỗ trạng, tôi sẽ đem lễ đến mừng.
Dứt
lời, thần lại biến đi.
Ông
thủ khoa Bể tới kinh đô thi hội xong thi đình, quả nhiên đỗ trạng nguyên.
Hoàng
thượng ban yến. Lúc các quan tân khoa đang ngồi dự tiệc bỗng một người đến
trước Ngọ môn xin vào bệ kiến, nói việc rất quan trọng. Vua cho vào.
Người
ấy đến nơi, ông trạng Bể sửng sốt đứng quỳ tâu:
-
Muôn tâu bệ hạ, người này chính là thần miếu cổ trong câu chuyện “liệt, ưu”.
Vua
cười phán hỏi ông thần:
-
Ngươi xin bệ kiến có mục đích gì?
-
Muôn tâu bệ hạ, kẻ hạ thần đến dâng lời kính mừng bệ hạ đã kén chọn được những
vị tân khoa có chân tài. Hạ thần xin bệ hạ cho phép hạ thần được tặng ông bạn
trạng nguyên một vật kỷ niệm.
Vừa
nói vừa giơ ra một cái nhẫn kim cương nạm trong bạch kim, rồi lại nói:
-
Muôn tâu bệ hạ, nhẫn này có một đức tính rất lạ, là đeo vào ngón tay thì không
ai nói dối mình được một câu. Vì hễ ai nói dối thì mình thấy viên kim cương
trong sáng này vẩn đục ngay như tro. Còn nếu mình mà cố ý nói dối thì nhẫn sẽ
bay đi không trở về nữa.
Vua
đỡ lấy chiếc nhẫn kỳ dị ngắm nghía. Lúc ngài ngẩng lên thì ông thần đã biến
mất. Ngài liền thân đeo nhẫn vào ngón tay út trạng nguyên vì nhẫn rất nhỏ.
Rồi
ngài phán hỏi:
-
Cớ sao thần miếu cổ lại tặng khanh cái nhẫn ấy?
-
Muôn tâu bệ hạ, thần suốt đời chưa từng nói dối một câu. Nguyên trước thần miếu
cổ là kẻ thù của hạ thần, chỉ rình thần nói dối một câu là vật chết.
Vua
cười nói tiếp:
-
Nhưng vì khanh không nói dối nên hắn không làm gì nổi phải không?
-
Muôn tâu bệ hạ.
Muốn
thử phép thiêng của nhẫn thần, vua hỏi một vị tiến sĩ trẻ tuổi:
-
Khanh có vợ chưa?
Ông
tiến sĩ biết rằng công chúa Liên Hương tài sắc hoàn toàn và ông ta lại đương có
dã tâm bỏ vợ tào khang, liền sung sướng quì tâu:
-
Muôn tâu thánh thượng, kẻ hạ thần vì nhà nghèo nên chưa dám nghĩ đến đàng gia
thất.
Vua
quay sang phía trạng nguyên cười phán:
-
Khanh giở nhẫn ra xem.
Quả
nhiên mặt kim cương đang sáng bỗng xạm lại như màu tro. Vua phá lên cười. Và
các ông tân khoa đã chếnh choáng hơi men cũng cất tiếng cười theo.
-
Thế là khanh nói dối rồi nhé!
Ông
tân khoa bẽn lẽn, mặt đỏ lên, rồi tái đi, rồi cũng xạm theo màu tro như mặt
nhẫn.
Vua
lại hỏi trạng nguyên:
-
Còn trạng nguyên thì hẳn cũng đã có vợ rồi?
Trạng
thẳng thắn đáp:
-
Muôn tâu bệ hạ chưa ạ.
Vừa
nói vừa giơ nhẫn ra, mặt nhẫn đã trở lại trong sáng như trước. Vua cười:
-
Khanh làm thế là thừa, vì nếu khanh nói dối ta nhẫn đã bay mất rồi còn đâu.
Buổi
chiều, các ông tân khoa lại được hoàng thượng và hoàng hậu vời vào dự yến trong
nội cung một lần nữa. Trong tiệc yến này có cả công chúa Liên Hương và các nàng
công chúa khác. Để các công chúa ngồi dự tiệc với các ông tân khoa, đó là một
điều hiếm có ở các triều đình Á-đông. Nhưng trong truyện này, hoàng hậu và hoàng
thượng ưa những sự giản dị, thẳng thắn, không bắt các công chúa xinh đẹp phải
cấm cung.
Đương
khi yến ẩm, các nàng công chúa tâu với hoàng hậu truyền trạng nguyên đưa cho
xem chiếc nhẫn thần. Hoàng thượng phán:
-
Các con muốn xem nhẫn thần phải tuyên bố câu này : “Trong đời con, con chưa
từng nói dối bao giờ”.
Các
nàng công chúa lần lượt vâng lệnh. Nhưng sau mỗi câu tuyên bố, hoàng thượng và
hoàng hậu lại phá lên cười vì thấy mặt nhẫn của trạng nguyên vẩn đục.
Đến
lượt công chúa Liên Hương, nàng khép nép tâu rằng:
-
Muôn tâu phụ vương, vương mẫu, con xin phép đổi và thêm bớt vài chữ trong câu
tuyên bố có được không ạ?
Hoàng
thượng mỉm cười đáp:
-
Được.
Công
chúa liền tâu:
-
Trong đời con một đôi khi con cũng nói dối nhưng là những câu nói dối vô hại,
hoặc vì phép xã giao, hoặc vì lòng nhân đạo.
Sau
khi nhận thấy mặt nhẫn vẫn sáng, hoàng hậu ban lời khen ngợi lòng thành thực và
tính ngay thẳng của công chúa Liên Hương. Rồi hoàng thượng truyền trạng nguyên
đưa nhẫn cho công chúa xem.
Ông
trạng Bể tâu:
-
Muôn tâu thánh thượng và hoàng hậu, câu tuyên bố của công chúa Liên Hương tỏ
rằng công chúa là một thiếu nữ thông minh, lịch thiệp và nhân từ. Vậy hạ thần
xin phép thánh thượng và hoàng hậu kính tặng công chúa cái nhẫn thần này.
Vừa
nói vừa tháo nhẫn dâng lên vua. Vua trao cho hoàng hậu, hoàng hậu mỉm cười đeo
vừa khít vào ngón tay giữa của công chúa Liên Hương vì bàn tay của công chúa
rất bé nhỏ xinh xắn.
Công
chúa Liên Hương sung sướng đỏ mặt đứng dậy bẽn lẽn nói:
-
Tôi xin cám ơn ông trạng nguyên.
Hoàng
thượng cười nhìn công chúa:
-
Con nên tặng lại trạng nguyên một vật kỷ niệm chứ?
Công
chúa Liên Hương liền lấy chiếc khăn hồng nhờ vua cha trao cho ông trạng Bể mà
nói rằng:
-
Chiếc khăn này tự tay tôi thêu lấy, xin kính tặng ông trạng nguyên.
Chẳng
nói các bạn độc giả của tôi cũng đoán biết rằng ông trạng Bể sẽ lấy công chúa
Liên Hương và công chúa Liên Hương sẽ là người vợ hiền, vì suốt đời không dám
nói dối chồng một câu, sợ nhẫn bay đi mất.
KHÁI HƯNG
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét