Thứ Ba, 20 tháng 9, 2016

CHƯƠNG VII_THỀM HOANG


CHƯƠNG VII


Trời chưa sáng hẳn mà cụ Nết đã mò mẫm trở dậy.Thật ra cụ thao thức từ đêm. Nằm nghe mãi tiếng mọt nghiến gỗ trên rui nhà, tiếng chuột chạy rúc rích trên mái lá và giở mình suốt một đêm trên phản gỗ, lưng cụ đau ê ẩm. Trong cái màn nâu lụp xụp, ba chị em cái Hai vẫn ngủ li bì. Mỗi đứa nằm xoay một góc. Chân đứa nọ ghếch lên bụng đứa kia. Không khí oi nồng của đêm mùa hạ làm mồ hôi chúng vã ra như tắm. Phía chân giường, thằng Út đái dầm đầy ra một vũng. Dòng nước khai nồng nặc chảy loang khắp mặt phản, thấm vào áo, vào mền, vào cả những cái gối mỏng làm mùi hôi hám xông lên sặc sụa. Qua khuôn cửa sổ nhỏ hẹp, trời trong và sáng như có ánh trăng. Những vì sao nhạt dần trên vòm cây. Lúc gà gáy sáng lần đầu tiên, bà cụ đã mò đậy. Cụ với lấy bao diêm ở đầu giường châm vào ngọn đèn đầu đặt trên bàn gỗ.Vừa vấn lại đầu, cụ vừa bước xuống đất. Hơi đất ẩm thấm vào gan bàn chân làm cụ thấy tỉnh táo hơn. Tuy vậy lưng và vai cụ vẫn mỏi như dần. Nhất là hai cánh tay, cả đêm phe phẩy cái quạt cho chúng nó, bây giờ thấy rã rời. Trong bóng tối, cụ sửa soạn bếp lửa và vo đầy một rá gạo. Cụ định nắm cơm ăn một ngày cho ba đứa trẻ rồi sẽ mang chúng nó đến trại mồ côi. Lời của mụ Năm Trà ác khẩu thế mà bây giờ lại đúng:

– Tôi còn lo thân tôi chớ. Đó!… Bà coi nuôi được chúng thì nuôi, không thì mang cho đi, tôi không tiếc.

Cứ nghĩ như thế cụ lại bật ra tiếng khóc. Khuôn mặt nhăn nheo của cụ dúm lại. Nếp da sần sùi, tái sạm thấp thoáng dưới ánh lửa đỏ. Dòng nước mắt chảy lăn tăn trên gò má chằng chịt tàn nhang, rơi từng giọt xuống thấm lên những mảnh tro lá dừa đùn ngoài miệng bếp. Nồi nước đang sôi âm ỉ. Anh lửa chạy chập chờn trên vách gỗ. Cụ nghĩ đến tiếng cười nói nô đùa của ba đứa trẻ trong những ngày nào năm trước. Dạo ấy thằng Năm còn ở nhà. Buổi chiều có gió mát, ba bốn bố con bắc ghế ra ngồi ở đầu hè. Cái Ba cười khanh khách trên đôi vai vạm vỡ của bố. Phía đằng sau, trên bực gỗ, cái Hai ngồi vắt vẻo, hai chân đu đưa, thỉnh thoảng lại rũ lên cười. Ở một góc thềm, mụ Năm ôm thằng Út ngồi trên chiếc chõng nhỏ. Thằng bé hai tay ôm lấy bầu vú căng sữa mút chùn chụt. Nụ cười không ngớt nở trên vành môi dầy và mọng của người đàn bà trẻ.

Mới có mấy năm trời mà bây giờ tan nát đến như thế. Bà cụ đau đớn gạt nước mắt. Lúc trời sáng rõ thì cụ cũng vừa nắm xong ba vỉ cơm trắng. Cụ hối hả lên đánh thức từng đứa mang đi tắm rửa. Bây giờ cụ mới lấy quần áo mới ra thay cho chúng nó. Cái Hai và cái Ba mỗi đứa bận một cái váy đầm xanh hoa trắng, thằng Út có một bộ đồ lính thủy. Nhìn ba đứa súng sính trong những quần áo đẹp, bà cụ ôm chầm lấy chúng nó nghẹn ngào, hôn chùn chụt mãi lên mái tóc của chúng nó. Được quần áo mới, bọn trẻ cười nói huyên thuyên. Chúng ngắm vuốt cho nhau bằng vẻ mặt hoan hỉ, mừng rỡ, rồi rủ nhau chạy tuốt ra đường. Những bàn chân đen thủi khẳng khiu dẫm bừa lên từng viên gạch lổn nhổn. Vạt váy của hai đứa con gái xòe tung lên, hở cả rốn lẫn bụng. Lúc khóa cửa, bà cụ Nết nói với mọi người:

– Tôi mang chúng nó đem cho nhà mồ côi đây!

Một người đàn bà la lớn:

– Trời đất ơi, không thấy đứt ruột sao mà mang cho?

Bà cụ trả lời:

– Ruột gan gì bằng đói.

– Thôi bà cụ ơi, rán đi. Rồi thì bố chúng nó về…

Bà cụ lại ôm mặt khóc. Một lát sau, bà nói:

– Tôi thì tôi chịu cực được nhưng còn chúng nó. Thiếu một bữa là chúng nó có yên cho đâu. Không, tôi thà đem cho còn hơn là để chúng nó đói.

Nói rồi bà cụ xốc thằng Út lên tay. Cái Hai reo lên vui mừng:

– Đi. Đi bà đi…

Mấy bà cháu đi ra đường cái. Một người chạy theo:

– Thôi, cho tôi đứa lớn này cho. Nó sẽ được ăn no.

Bà cụ nắm lấy tay đứa bé:

– Không… tụi nó phải đi với nhau. Tôi không chịu cho chúng phải lìa nhau đâu.

– Bộ tưởng vô trỏng làm vua sao mà đòi người ta cho ở chung với nhau.

– Nói tầm bậy!

– Chèn ơi!… Nhà mồ côi tôi lạ gì… chúng nó về sau rồi vô nhà tu kín hết.

– Tôi không tin đâu.

– Chó đẻ đứa nào nói sai! Tôi quen biết người mang con cho thiếu gì.

Bà cụ lắc đầu:

– Tôi đã đi hỏi trước rồi. Chúng nó sẽ được nuôi tử tế. Mà mình muốn xin ra lúc nào cũng được.

Người đàn bà chợt phá lên cười. Tiếng cười ngặt nghẽo làm cụ Nết sa sầm nét mặt. Bà dẫn mấy đứa hầm hầm đi thẳng ra ngõ.

Qua nhà Phó Ngữ, thấy Hai Hào đang lúi húi lau xe, cụ nói:

– Đi không mầy, Hai?

Gã đàn ông ngẩng lên nhìn. Có vợ vào nom gã sáng sủa đẹp trai thêm ra. Gã hỏi:

– Đi đâu đây, cụ Nết?

– Đến trại mồ côi!

Gã kêu lên:

– Trời đất ơi… bộ mang cho hả?

Bà cụ ứa nước mắt gật đầu. Gã đàn ông nhẩy quẫng lên như vừa dẫm phải lửa. Gã nhìn vào trong nhà, hai tay vẫy rối rít:

– Mình ơi… chèn đéc ơi!…

Đào hớt hải chạy ra, tay còn cầm cái gương soi mặt. Gã nói hốt hoảng:

– Cho! Lũ này đem cho vào trại mồ côi.

Đào ngớ mặt ra hết nhìn cụ Nết lại nhìn lũ nhỏ. Cái Hai xấu hổ che gói cơm lên ngang tầm mắt. Một lát, Đào mới cất tiếng hỏi:

– Thật đấy hả cụ?

Bà cụ gật đầu làm hai tay Đào buông thõng xuống, mồm nàng há ra. Qua kẽ vách, có tiếng Phó Ngữ kè nhè:

– Sáng bảnh mắt ra rồi mà chưa đi à Hai?

Hai Hào rối rít:

– Dạ đi! Đi chớ!

– Quẩy đầy nước chưa?

– Dạ quẩy rồi chớ.

– Bảo cái con vợ nhà mày là hôm nay dậy muộn đấy nhá. Rồi héo bố nó hết rau.

Gã đáp:

– Dạ bảo rồi.

Đào đứng cạnh cấu vào lưng gã. Miệng gã nhăn ra cười, nhe hai hàm răng trắng nhởn. Gã ấn cái giẻ vào thùng rồi quay đầu xe về phía đường cái. Gã nói:

– Nên đây tôi đạp ủng hộ một cuốc.

Mấy bà cháu líu ríu lên xe. Tay bấm chuông liên hồi, gã bắt đầu cong lưng lên đạp. Chiếc xe chao đi mấy lần rồi lăn ì ạch trên mặt đường khấp khểnh. Đào giơ tay ra vẫy gã đàn ông. Gã nheo mắt điệu lại. Chợt nàng bỏ chỗ đứng chạy theo. Hai Hào vội phanh riết cái xe lại. Đào vừa móc túi vừa nói:

– Để tôi cho các cháu mấy đồng ăn quà.

Lúc ấn mấy tờ giấy bạc vào tay cái Hai, Đào mỉm cười với nó. Nó nhe răng ra cười theo rồi dúi tiền vào trong túi bà cụ. Bà Nết nắm lấy tay Đào tỏ ý cám ơn. Hai Hào lại gò lưng lên đạp. Đào trông lên những giải nắng vừa mới bừng trên những mái lá, nhưng hình ảnh của ba đứa nhỏ bỗng làm cho nàng thấy cay cay ở mắt.


Đến tối, lúc trở về, lão Hói thấy bà cụ ngồi khóc ở ngưỡng cửa. Căn nhà không đèn đóm, âm thầm yên lặng nom như một cái miệng sâu và tối. Lão ngừng lại, ngất ngư cái đầu, hai cẳng chân nhún nhẩy trên đôi giầy ba-ta rách. Giọng lão kè nhè, sặc sụa hơi men:

– Chèn ơi… nghe tôi đi… Yêu đời đi! Can gì mà khóc.

Bà cụ không đáp, đưa vạt áo lên hỉ mũi. Lão lại tiếp:

– Tôi nói không sai đâu. Có ông trời. Có ông trời thiệt tình mà. Bây giờ mà khổ ấy nhen, rồi sau này ắt sướng. Bây giờ mà sướng ấy nhen, rồi sau này ắt khổ. Ông trời bình đẳng mà, vậy mới xứng bực làm ông trời chớ!…

Cụ Nết lại càng khóc to hơn, và bây giờ cụ bật ra thành tiếng:

– Ới cháu ơi…

Lão Hói ngạc nhiên, mắt lão trố ra nhìn bà cụ, rồi lão cúi xuống nắm cái vạt áo của bà lên hỏi:

– Chèn đéc ơi… bộ chết cháu rồi hả?

Một người ở trước cửa nói sang:

– Không, bà ấy mang cho nhà mồ côi hết cả ba đứa rồi.

Lão Hói buông cái vạt áo ra, lảo đảo đứng lên, quay sang nhìn người hàng xóm. Rồi ngó bộ câu nói ấy không phải nói đùa, lão mới cất tiếng:

– Thiệt ư? Bà đem cho mấy cháu tôi thiệt rồi ư? Ui chao ơi… Bộ không còn là người sao?

Bà cụ nổi đoá vơ lấy hòn gạch ném về phía lão, la lớn:

– Xéo tuốt đi! Xéo đi!

Lão Hói lùi lại ba bốn bước. Lão thò tay xoa xoa cái chỗ bị ném đau rồi ngồi phệt ngay xuống đất. Chân lão duỗi thẳng ra phía trước, tay lão loay hoay mở cái túi vải moi ra bao thuốc, rồi vừa cuộn vừa ngó bà cụ Nết, lát sau lão nói:

– Tội nghiệp mấy cháu tôi. Biết trước thì tôi đã mua cho chúng nó mấy tấm bánh. Thằng Út thích ăn bánh bàng là hạng nhứt!

Lòng lão tràn ngập nỗi bùi ngùi. Lão thấy cay cay ở mũi, nhưng chẳng bao giờ lão chịu để cho nỗi buồn đến xâm chiếm mình. Lão moi trong bị ra cút rượu còn giở nửa chừng, ngửa cổ lên, tu một hơi. Rồi lão đổi giọng vui vẻ:

– Thằng Út ngoan và mắc tức cười quá đi. Coi bộ thế chớ, nó ưng theo tui hoài à. Mà mấy kí? Nó chừng sáu bảy kí chứ bao nhiêu. Vậy mà tui bế nó hổng nổi đó. Chèn ơi… phải ngày xưa coi, tay này phải biết, khỏe hạng nhứt ở bến tàu đó nhen…

Ngừng lại một chút để nhấm nước bọt lên điếu thuốc, lão lại tiếp:

– Mà điều không nhằm nhò gì. Rầu làm chi mất công. Có ông trời mà nghe bà cụ. Ông trời mà giáng xuống thì êm hết trơn. Tới lúc đó nhen, căn nhà này sẽ lên bốn năm từng lầu bê tông cốt sắt đàng hoàng. Mà điều khỏi đóng cửa. Không ai vô hết đó. Vô làm chi? Đến cái nước đó thì thái bình rồi, khỏi có còn cái sự tùm lum như vầy nữa. Ông trời làm mà!… Vậy mới xứng bực ông trời chớ!…

Rồi lão đổi giọng ngâm:

Ngọc xuất thiên cung thủ quả châu
Hoàng thiên thương mến quả địa cầu
Giáng tạo thay đời không tranh đấu
Thế giới thanh bình khỏi thuế sâu.

Ngâm xong lão phá lên cười khoái trá. Đến lúc lão đứng dậy thì chẳng còn ai ở chung quanh lão. Căn nhà cụ Nết bỏ ngỏ cửa. Cụ ấy đang đi về phía đường cái. Những lùm cây cao mọc thẳng tắp soi từng bóng đen dài chạy giăng lên mãi đầu phố. Phía đằng xa, những ngọn đèn xanh đỏ nhấp nháy trên từng bảng hiệu. Ở đâu, chỗ nào cụ cũng vẩn vơ nom thấy hình ảnh chị em thằng Út. Cụ nhớ tiếng chúng nó cười, nhớ hơi thở đều hòa của chúng mỗi khi chúng ngủ. Nếu chúng còn ở nhà thì bây giờ cụ đã quạt cho chúng nằm thiu thiu trong cái màn nâu lụp sụp. Ba đứa xoay vần như chong chóng. Đùi chúng nó gác lên nhau. Mặt đứa nọ úp vào gối đứa kia thi nhau ngủ. Bây giờ, lang thang vất vưởng trong thành phố, cụ thấy hình bóng của chúng ở khắp nơi, trên tủ kính, trên biển hàng, trong ánh sáng chói chang và âm thanh rộn rã của đô thị lúc về đêm. Bất giác cụ ôm mặt khóc. Nước mắt của cụ chan hòa in nhòe cả thành phố trước mặt. Bên tai cụ chỉ còn thấy vang lên tiếng nói, tiếng cười, và tiếng khóc của ba đứa cháu.

Đêm hôm ấy, cụ ngủ gục ở cổng sắt nhà mồ côi. Sáng ra, xin vào thăm, thì người ta ngăn lại:

– Phải chờ đến ngày Chủ Nhật!…

Đến khi trở về, nhà cụ bị trộm nó khoắng không còn lấy một ly. Xúc vải Mỹ-A mẹ Năm cho may quần chưa kịp cắt, rồi ba bộ quần áo mới ở trại mồ côi người ta bắt mang về vì trong trại bọn chúng không dùng đến, rồi nồi, niêu, xoong, chảo cất dưới đáy trạn từ hồi xưa cũng đều bị khuân đi hết sạch. Tiếc của, bà cụ điên người chạy ra lối ngõ, một tay cụ cầm con dao mẻ, một tay cụ xắn quần lên ngang đầu gối, cụ cứ chém mãi con dao xuống mặt đường mà chửi:

– Cha đời quân chó đẻ… trẻ không tha, già không thương. Cửa nhà cơ nghiệp người ta chả có bao nhiêu mà khuân hết đi, đem về xây mồ cất mả bên nội bên ngoại nhà tụi bay… trời vật chết hết tụi bay đi… quân chó đẻ…

Tiếng bà cụ gào to, vang lên từ đầu đến cuối xóm. Cụ chạy hết ngõ ngang sang ngõ dọc, hết cửa nhà này sang cửa nhà khác. Mỗi lần cụ đứng ở đâu là trẻ con người lớn bu lại đến đấy. Xóm Cỏ bỗng nhiên đông rần rần như ngày hội. Người ta tụm nhau lại bàn tán om sòm. Chỉ khổ bà cụ phơi đầu ra từ sáng đến trưa, quần áo tả tơi, mặt mũi nhem nhuốc, tiếng nói thì khản đặc lại, có lúc nói năng y như người lẩn thẩn. Đến xế chiều, cụ về ngồi ở hàng hiên khóc thút thít. Đầu cụ gục xuống, hai đầu gối trơ xương áp vào hai bên mang tai. Mái tóc nửa đen, nửa bạc xù lên rã rượi. Con dao mẻ cụ cắm sâu vào cột gỗ còn dính đầy vết vôi lở và gạch non. Người ta không một ai dám lại gần. Trong tia nhìn hằn học của cụ ẩn chứa một cái gì dữ dội lúc nào cũng như sẵn sàng nổ bùng ra, nom cụ bây giờ chẳng khác một con chó ốm, già và đang hóa dại.

_________________________________________________________________
Xem tiếp CHƯƠNG VIII

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét