Thứ Ba, 29 tháng 7, 2025

KHI CỤM HOA TIGÔN NỞ - Đỗ văn Ngọc


Đây là thời gian chàng dưỡng bệnh. Bệnh tim vừa mới bộc phát, từ hơn hai tháng nay.
 
Vì ở một thị trấn lớn, quá ồn ào náo nhiệt và khí hậu nơi đó không thích hợp cho việc chữa trị của chàng, nên chàng phải rời đó đến nhà của một người cô ở một tỉnh nhỏ. Ngôi nhà mà chàng đang ở là một ngôi nhà cổ từ hồi Pháp thuộc, tọa lạc trên một khu đất rộng xa thành phố, biệt lập. Con đường rất ít xe cộ và người qua lại nên thật yên tĩnh. Xung quanh nhà được bao phủ bởi các lại cây ăn trái và phía trước có một vườn hoa. Căn nhà có được sinh khí là nhờ vườn hoa ấy. Có đủ các loại hoa, đủ màu, đủ sắc thi nhau nở rộ theo bốn  mùa của trời đất. Và bây giờ những cành Tigôn đỏ đã bắt đầu đơm bông.
 
Chàng chỉ về đây chưa đầy một tháng, thế mà chàng tưởng đã lâu lắm. Thời gian như dài ra bởi sự nhàn hạ của chàng. Căn nhà thì quá rộng so với số người ở trong đó, nào là phòng khách, phòng ngủ, phòng ăn, phòng học, thật ngăn nắp. Chàng đếm được tất cả là sáu phòng, duy phòng của chàng và phòng của người cô đang ở là có hơi hám của con người, còn những phòng khác trông hiu quạnh vô cùng. Nhà vỏn vẹn có bốn người. Cô Bích thì suốt ngày buôn bán ngoài chợ, hai đứa con cô ấy đi học ở một trường đạo nội trú chỉ về nhà ngày thứ bảy và chúa nhật. Đôi lúc chàng thèm được nói chuyện, thèm được vui đùa nhưng chẳng có ai ngoài con chó Tây cũng buồn rầu xích ở góc nhà kia.
 
Suốt ngày chàng chỉ biết nằm dài trên giường nhìn lên trần nhà, đọc sách, nghe một vài bản nhạc, rồi ngủ, rồi uống thuốc. Bữa ăn thì có người mang cơm từ tiệm đến. Dù sung sướng đến thế nhưng chàng vẫn thấy khó chịu trong người. Chàng vốn thích rong chơi hoạt động, thế mà phải tự nhốt mình trong bốn bức tường hẹp, mọi cử động, đều điều độ, rập khuôn như những định lý toán học, thì không có gì buồn thảm cho bằng.
 
Ngày ngày vào buổi chiều, chàng thường ra ngoài, quanh quẩn trong vườn hoa, chàng sửa lại những cành hoa xiêu gãy, cắt xén những là già héo úa. Đây cũng là cái thú tiêu khiển duy nhất của chàng trong lúc chữa bệnh và giết bớt thì giờ thừa thãi nhàm chán. Thỉnh thoảng chàng bắt gặp những tia nhìn lạ lẫm về chàng của khách qua đường và chàng có cảm tưởng chàng là một nhà tu khổ hạnh, hay lú lẫn như một ông già trăm tuổi, vì cái thú chơi hoa ngắm nguyệt chỉ dành cho những cụ già tóc bạc. Còn chàng, chàng còn quá trẻ để tìm đến các cuộc vui khác đang chực chờ mời gọi. Nhưng chàng không buồn, chàng vẫn thản nhiên làm việc. Làm việc như một tập quán cần thiết, như người ta phải súc miệng rửa mặt hoặc uống café vào buổi sáng...
 
Cho đến một hôm khi những cành Tigôn bắt đầu nở rộ, đang đứng bên khung cửa sổ để ngắm nhìn chàng thấy một cô bé học trò trên tay cặp vở, qua lại trước vườn hoa nhiều lần, và dường như cô bé muốn dừng lại. Chàng chợt thấy bâng khuâng, một cái gì là lạ thoáng qua hồn. Chàng vội đóng tất cả các cánh cửa, rồi bắc một chiếc ghế đứng lên nhìn ra khu vườn bằng một lỗ thông hơi qua đầu chàng. Chàng muốn rình xem cô bé định làm gì. Quả nhiên cô bé dừng lại, cô bé láo liên đôi mắt, ngó trước, ngó sau, cong môi bậm miệng và thò cánh tay vào bờ giậu. Chàng thích thú hồi hộp chờ đợi. Đây là lần đầu tiên chàng thấy khuôn mặt và cử chỉ sợ hãi của một tên trộm vặt lúc hành nghề.
 
Vì cái lỗ quá nhỏ và cô bé lại khuất một bên nên chàng phải cố gắng nghiêng người nhón gót nhưng vẫn chưa thấy tường tận cô bé đang hái loại hoa nào. Chàng cố thêm, cố thêm chút nữa, nhưng chẳng may chiếc ghế mất thăng bằng, và chàng như một pho tượng nặng nề rơi xuống... Chàng lồm cồm bò dậy mở tung cửa thì cô bé đã vụt chạy đâu mất. Chàng nhìn theo thấy một vài cành hoa, một đôi guốc, rơi cách quãng trên mặt đường và một chiếc cặp sách ngay bờ rào. Chàng vừa buồn cười vừa tiếc rẻ ân hận, nhặt chúng đem chúng vào nhà.
 
Đến tối khi cô Bích ngoài chợ về, theo thói quen bà gặp chàng ngay để hỏi về sức khỏe của chàng. Khi vừa vào phòng bà ngạc nhiên nhìn chàng thật lâu rồi hỏi:
 
- Ủa, sao có đồ này ở đây, của ai lạ vậy? 
 
Chàng vẫn còn tức cười trong bụng chưa trả lời được.
 
Bà hỏi tiếp:
 
- Của ai vậy, sao lại có chuyện lạ thế này?
 
Chàng ngồi dậy nở cho bà nụ cười thích thú nói:
 
- Của một cô bé học trò ăn trộm hoa.
 
Bà cướp lời:
 
- Cháu rượt người ta hả?
 
Chàng chưa kịp trả lời, bà mắng yêu chàng:
 
- Con trai gì mà cù lần quá sức, không biết ga lăng tí nào. Đáng lẽ phải biết ra hái một cành hoa mà cô ấy ưa thích nhất rồi trang trọng trao cho nàng mới đáng mặt tu mi nam tử. Đàng này lại đuổi người ta như đuổi quái vật. Thật khiếm nhã quá.
 
Chàng phân trần:
 
- Cháu đâu có đuổi.
 
- Không đuổi sao người ta phải bỏ guốc lại?
 
Chàng phì cười thành tiếng, rồi kể hết đầu đuôi câu chuyện cho bà cô nghe.
 
Nghe xong bà cô ngẫm nghĩ một hồi, nói:
 
- Chắc là nó rồi, chắc là con bé ấy rồi.
 
Chàng giương mắt nhìn bà cô:
 
- Cô nói sao? Cô bé ấy là ai vậy?
 
- Cô nhớ ra rồi, mấy năm trước cũng vậy cứ vào mùa Tigôn nở, thì trong vườn mỗi ngày mất một cánh hoa, nhưng chẳng biết ai đánh cắp.
 
- Không lẽ, cô bé ấy để ý đến vườn hoa này nhiều năm như vậy sao?
 
- Có thể lắm chứ. Biết đâu có một uẩn khúc nào trong màu hoa ấy khiến cô ta yêu mến nó. Từ nay về sau nếu cô bé có đến hái hoa thì hãy hái cho cô ấy hay để cô ấy lấy tự nhiên đừng làm cô ta sợ hãi nữa nghe.
 
- Vâng, cháu sẽ nghe lời cô.
 
Cô Bích mở trong giỏ xách lấy ra một gói trái cây trao cho chàng bảo ăn đi cho khỏe rồi quay lưng đi về phía sau. Chàng cảm động  về sự săn sóc chu đáo của cô Bích, dù chàng đã lớn, đã trên hai mươi mấy tuổi đầu, nhưng trong lúc này chàng thấy chàng như còn bé bỏng dại khờ lắm.
 
Đêm hôm đó, dù chàng đã cố vỗ về giấc ngủ, nhưng không làm sao chàng ngủ được. Chàng nhìn hoài đôi guốc và chiếc cặp da trên bàn. Chàng nhớ lại vạt áo dài, mái tóc đen nhánh, đôi mắt bồ câu to tròn, cặp môi long bướng bỉnh, dễ thương, và cái sự việc buồn cười xảy ra ban chiều. Thêm vào đó những ý nghĩ vu vơ cùng với lời nói của cô Bích "biết đâu có cái gì bí ẩn trong màu hoa đó" càng khơi dậy tính tò mò của chàng, chàng tìm cách dể cô bé trở lại khu vườn.
 
Sáng hôm sau, chàng lấy một mảnh giấy viết mấy chữ thế này, treo trên bờ rào:
 
"Cấm hái trộm hoa".
 
Buổi chiều cô bé đến nhưng hôm nay nét mặt cô bé buồn trộn một chút căm tức. Chàng lại vội vàng đóng cửa đứng trong nhà, nhưng cô bé chỉ dừng lại một thoáng rồi bỏ đi chứ không thèm hái hoa. Chàng buồn bã bước ra ngoài bờ rào, thì mảnh giấy của chàng đã bị tước đoạt, thay vào một mảnh giấy khác của cô bé.
 
"Cứ hái".
 
Chàng lại viết một mảnh giấy khác treo lên.
 
"Cứ hái sẽ bị nhốt lại trong vườn".
 
Mảnh giấy của chàng lại bị mất thay vào mảnh khác.
 
"Nhốt lại trong vườn càng sướng, lại tha hồ phá hết vườn hoa".
 
Thấy cô bé vừa liều lĩnh vừa giận suốt hai ngày chưa hết, một ý nghĩ bất ổn đến với chàng, chàng sợ cô bé chẳng thèm lại đây nữa, thì tội nghiệp cho cô bé và buồn chàng biết mấy, chàng đành chịu thua, chàng không dám chọc tức cô bé và chơi cái trò chơi ấy nữa, nên chiều hôm sau cô bé ngang qua nhà, chàng lơn tơn như một anh hề, tay xách guốc, cặp chạy ra gọi:
 
- Cô bé, cô bé, cô bé!
 
Đến tiếng thứ ba cô bé mới quay lại. Chàng vừa nhìn vừa đưa hai tay lên nói: 
 
- Cái này của cô bé!
 
Cô bé không trả lời.
 
Chàng hỏi lại:
 
- Cái này của cô bé? 
 
Cô bé cong môi, hất mạnh mái tóc và vẫn không chịu trả lời.
 
Chàng cố chọc:
 
- Không phải của cô bé hả? Thôi tôi mang xuống cảnh sát nhờ đài phát thanh loan báo nghe.
 
- ???
 
- Tôi sẽ nhờ họ nói thế này "không biết cô Nguyễn thị Minh Tâm, có gặp một tai nạn nào không mà Cảnh sát Công lộ chúng tôi có nhặt được một chiếc cặp da và một đôi guốc của cô trên đường P.T.G. Nay thông báo cho gia đình đương sự rõ"
 
Chàng vừa nói dứt câu thì cô bé liền đáp cho chàng một cái nguýt dài và một tiếng "xí":
 
- Trả đây.
 
- Ủa, của cô bé hở?
 
- Trả đây.
 
- Tôi đâu có mắc nợ cô bé mà đòi dữ vậy?
 
Trên bờ mi của cô bé nước mắt đã bắt đầu rươm rướm.
 
Tiếng nói cô bé nghẹn lại:
 
- Người gì mà ác quá chừng làm người ta mất hồn, rách cả áo dài và không có cặp đi học mấy ngày mà còn chọc tức người ta nữa.
 
Bỗng dưng chàng thấy nao nao trong lòng. Chàng trìu mến nhìn cô bé:
 
- Đây này, tôi trả đó, nín đi đừng có khóc.
 
Cô bé bẽn lẽn cúi mặt cầm lấy.
 
Chàng tiếp:
 
- Xin lỗi cô bé nhé?
 
- Ác thấy mồ.
 
- Đâu phải tại tôi, tiếng động hôm nọ là do mèo nó rình chuột làm rơi khung ảnh đó chứ.
 
- Thôi đi, đừng có phịa nữa. Không phải ông định phá cửa để ùa ra đuổi người ta sao? 
 
- Đâu có, tại sao cô bé nghĩ thế? Một cành hoa có là bao. Hơn nữa, trồng hoa để làm gì nếu không để trang điểm, để ngắm nhìn, để cho kẻ khác. Đó cũng là một vinh dự, một niềm vui sướng của kẻ trồng hoa.
 
- Ông là chủ ngôi nhà này?
 
- Tôi là quản gia.
 
- Ông đừng đùa nữa, tôi hỏi thật mà.
 
- Của cô tôi.
 
- Dường như ông mới đến đây?
 
- Sao cô biết?
 
- Mọi năm tôi đâu có thấy.
 
- Cô bé ở đây lâu đến thế cơ à.
 
- Gần mười năm rồi.
 
Chàng liền nghĩ tới lời nói của cô Bích. Có lẽ cô ấy nói đúng. Chàng hỏi:
 
- Cô bé thích những cành hoa này?
 
- Tôi chỉ thích có một loại hoa Tigôn. 
 
Chàng định hỏi tại sao thì cô bé tiếp:
 
- Ăn cắp có xấu, có tội không hở ông?
 
Chàng ngập ngừng:
 
- Không, không có xấu, có tội chi hết, nếu ăn cắp để phục vụ cho một điều thiện.
 
- Có bao giờ ông ăn cắp gì chưa?
 
- Có chứ, có đôi lần, nhưng tôi ăn cắp để thỏa mãn nhu cầu và thú tính của tôi, chứ không phục vụ cho một điều thiện nào cả. Chẳng hạn như hồi nhỏ tôi hay ăn cắp tiền của má tôi để ăn quà.
 
Cô bé nhìn chàng với đôi mắt rưng buồn muốn khóc, chàng vội an ủi:
 
- Có gì mà khóc, ăn cắp chưa hẳn là một tội mà. Bỏ cái mặc cảm phạm tội ấy đi cô bé.
 
Cô bé òa khóc thành tiếng. Nghẹn ngào trong nước mắt.
 
- Ông... Ông làm Tâm nhớ mẹ Tâm.
 
- Sao? Mẹ Tâm ở đâu mà nhớ?
 
- Chết lâu rồi... 
 
Một khoảng không yên lặng chĩu xuống hai người. Cô bé đưa mắt xa xăm nhìn lên lưng trời. Buổi chiều xuống thấp, nắng chết đuối trên cành cây. Một luồng gió lạnh ùa tới. Một cụm mây xám bay qua, một vài cánh chim mỏi rời, sau một ngày kiếm ăn bay về núi. Một chút gì xót xa ngậm ngùi vừa đậu lại làm tim chàng  nhói đau. Chàng nghĩ đến thân phận tủi hờn của một đứa con mất mẹ.
 
Người ta thường bảo : Mẹ êm đềm như giòng sông, mẹ bao la như biển cả, mẹ vỗ về ôm ấp và nâng niu chiều chuộng. Mẹ là bóng mát cuộc đời, là thân cây cổ thụ cho ta trú ẩn, nương tựa. Mất mẹ là mất cả bầu trời. Chàng thấy thương cô bé làm sao.
 
Chàng vừa mân mê cành hoa vừa hỏi cô bé:
 
- Mẹ Tâm mất lâu chưa?
 
- Từ hơn tám năm nay.
 
- Tâm ở với ai bây giờ?
 
Cô bé không trả lời mà đưa tay lên quẹt nước mắt (dù bên đường có một vài người qua lại) và dường như cái tâm tư u uẩn của cô bé từ trước đến nay chưa được một lần thố lộ, chưa được cùng ai chia xẻ. Nói cũng là một cách để trút bỏ, để vỗ về những muộn phiền đeo đuổi trên vai, nên cô bé thật thà tâm sự với chàng:
 
- Mẹ Tâm chết cách đây tám năm, hồi đó Tâm lên bảy tuổi. Tâm có nghe mẹ Tâm kể lại rằng : Trước khi mẹ lấy chồng (tức ba Tâm bây giờ) mẹ có yêu một người đàn ông khác. Mẹ bảo, mẹ yêu người ấy và hứa hẹn nhiều lắm, vì đó là cuộc tình đầu đời của mẹ, nhưng chưa cưới nhau được thì người đàn ông ấy qua đời ở một phương xa. Vì người ấy là lính.
 
Không biết có một cái gì bí ẩn trong màu hoa Tigôn và cuộc tình mà sau ngày người đàn ông ấy chết mỗi năm (dù đã có chồng, có Tâm) vào mùa hoa nở mẹ thường mua một bó hoa Tigôn, dối với ba Tâm là đi thăm họ hàng để đến viếng mộ người đàn ông ấy. Đến năm đó cũng vào mùa này mẹ Tâm cũng mang một bó hoa Tigôn lên phi cơ về một nơi nào đó viếng mộ, nhưng chẳng may một tai nạn máy bay khủng khiếp xảy ra và mẹ Tâm chết trong chuyến bay đó...
 
Nước mắt cô bé lại chảy thật nhiều. Hồi lâu chàng nói:
 
- Vì thế mà Tâm yêu loài hoa này.
 
- Vâng Tâm thích lắm, nhưng còn đi học, Tâm không có tiền, để hằng ngày mua một cành hoa để cúng mẹ. Hơn nữa hoa Tigôn ở đây rất hiếm, nên hằng năm khi cụm hoa này nở, Tâm thường đến đây ăn cắp mỗi ngày một cành để cúng mẹ, như vậy có tội không hở ông?
 
Chàng vội vã:
 
- Không, không tội lỗi gì hết.
 
- Tâm vẫn nghĩ là mình có tội vì ăn trộm đồ của kẻ khác.
 
Ngừng hồi lâu chàng nói:
 
- Từ nay Tâm không cần sợ hãi vì ăn cắp nữa, mỗi ngày tôi sẽ tặng cô bé một cành hoa để về cúng mẹ.
 
Mắt cô bé bỗng nhiên long lanh ngời sáng, như vừa đón nhận một niềm vui, nhìn chàng như thầm cám ơn...
 
Trời đã bắt đầu mờ tối, sương đêm là thấp, ngọn đèn trước ngõ bật sáng. Cô bé đưa tay dụi nước mắt nói:
 
- Thôi sắp tối rồi, xin phép ông Tâm về nhé.
 
- Mong cô bé được vui và đừng khóc nữa. Tôi cũng sẽ buồn nếu mắt Tâm còn ướt.
 
Cô bé quay đi, chàng đứng tần ngần nhìn theo mãi đến khi bóng cô bé khuất dần ở một góc tối...
 
Sau hôm đó, chàng lấy một lọ hoa nhỏ, đổ đầy nước, và mỗi sáng thức dậy chàng cắt một cành hoa Tigôn cắm vào treo một chỗ khuất ở bờ rào. Còn cô bé, chắc hẳn cũng vì một duyên cớ nào đó, nên ít khi muốn gặp chàng. Cô bé xuất hiện bất ngờ, không giờ giấc nhất định nào cả. Chàng chỉ biết được cô bé có đến hay không là khi gần tối ra ngõ nhìn lọ hoa. Và mỗi ngày một cành Tigôn mất đi, là một hương yêu ngào ngạt tỏa khắp đời chàng. Chàng lặng lẽ sống trong cái hạnh phúc mong manh nhưng êm đềm ấy.
 
 
ĐỖ VĂN NGỌC        
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 113, tuần lễ từ 2-8 đến 9-8-1973)
 
 

Thứ Bảy, 26 tháng 7, 2025

CÔ BẠN NHỎ CỦA TÔI - Duy Nguyên


Cây trứng cá trước nhà theo số tuổi tôi lớn dần. Má nói cây trứng cá trồng từ ngày tôi mới ra đời. Dòng cây gì mau lớn dễ sợ, gặp mùa mưa lá xanh dày mơn mởn và cao rất mau. Tôi không thể nào cao bằng nó được. (Trời đất, giả như tôi cao bằng nó chắc thiên hạ bỏ chạy khi thấy) Nhưng tôi không cao bằng phần mười của cây trứng cá nữa là. Bốn năm tuổi cây trứng cá cao ngất ngưởng, tàn xanh um bao phủ cả sân nhà trong khi tôi nhỏ chút xíu đứng ngước mỏi cổ nhìn hàng trái chín đỏ. Anh Được leo lên tót ngọn nhìn thấy toàn thể ngôi làng. Anh ba hoa nói, coi thằng Nghiêm y như con kiến vậy. Tôi đứng dưới tức tối đá mạnh vào gốc cây đau điếng, tôi không thể nào trèo lên được một phân.
 
Mùa hè hoa trứng cá nở trắng. Đêm thường có những cơn mưa rả rích sáng ra làm cánh hoa rụng đầy sân. Chị tôi có nhiệm vụ quét sân buổi sáng vẫn cằn nhằn hoài : đồ cây gì đâu, thấy ghét! Nói thì nói vậy chứ chị là người ăn trứng cá nhiều nhất. Chị leo ngồi trên một chảng ba nhai nhóp nhép đã đời nhưng chỉ đem xuống cho tôi vài trái. Chị nói với tôi rằng nhỏ không ăn được nhiều, đau bao tử. Tuy nhiên dạo sau này có anh Được qua phụ quét sân. Công việc đâu có nhiều thế mà hai người quét sân từ sáng sớm. Tôi nghĩ chắc anh Được leo lên rung cây cho lá rụng nhiều nhiều để được quét lâu lâu. Hoặc anh đã làm một chầu điểm tâm trái trứng cá. Bởi vì tôi thường nghe lũ chim sâu kêu ríu rít. Tội nghiệp, chắc mấy chú chim mất phần ăn nên kêu nháo nhào lên. Lũ chim sâu nhỏ nhắn với bộ lông xanh đỏ này ăn sang lắm kia : Chúng chỉ ăn nửa trái phần dưới còn chừa phần kia nham nhở treo lủng lẳng.
 
Mặc dù chẳng phải học trò tôi cũng yêu mùa hè ghê gớm! Đối với bọn nhỏ năm tuổi, suốt mùa là một mùa hè rong chơi. Tuy vậy mùa hè thực sự vẫn có nhiều cái khoái hơn. Bầy dế xuất hiện dưới lớp rơm rạ như một đạo quân hùng hậu. Chúng cắn đá nhau tơi bời, chúng tôi theo dõi hồi hộp lẫn thích thú. Tôi hay theo coi đá dế của mấy anh lơn lớn. Tôi chưa đủ lớn khôn để săn sóc, nuôi nấng mấy con dế nên chẳng được làm chủ chúng. Ba má đâu cho tôi đi bắt dế tận đồng cỏ bên kia suối.
 
Ngoài ra mùa hè tôi còn chạy theo xem rình bắn chim chóc ở khu vườn bỏ hoang sát bên nhà tôi. Tụi nó hách như ông tướng, ná cao su đeo trước ngực với tài bắn ná một cây. Bắn được chim nướng ngay trong vườn ăn uống reo hò. Đôi khi diễn kịch hoặc tập trận bắn đạn mồm vèo vèo. Đứa nào còn nhỏ chuyên môn đóng vai quân sĩ. Tôi cũng vài lần được đóng vai trò khiêm nhượng đó. Thấy thằng khác nhắm bắn thì phải ngã lăn ra chết. Nhiều lần xác chết đứng dậy khiến phe bên kia la lên : nghỉ chơi. Đồ ăn gian! Mày chết rồi chứ bộ! Hồi nãy tao bắn nó rõ ràng! 
 
Những chiều không mưa ba tôi dẫn ra đất trống thả diều. Khu đất rộng đầy cỏ may gió lồng lộng thả diều rất lý tưởng. Ba tôi làm diều thật tài. Loại diều to hơn cái bàn có cả ống sáo. Khi bay ngạo nghễ trên mây tiếng gió thổi qua sáo khi cao lúc thấp, trầm bổng không thua người thổi. Tôi chạy lăng xăng la hét lúc ba tôi chạy lấy đà. Mấy con diều này sức kéo thật mạnh mẽ, ba tôi phải giữ dây thật chắc chắn. Cỡ sức tôi ấy à : tôi nắm chắc sợi dây cước chắc diều nhấc tôi bay bổng như cái bóng chứ chẳng chơi! Hôm nào thả hết cuộn dây ba tôi giữ mối chặt và đi qua lại để giữ thăng bằng. Buổi chiều mùa hè thật tuyệt. Đến tối mịt mới ra về. Tôi nhỏ thấp chạy luồn lõi trong cỏ về nhà quần áo bám đầy cỏ may. Đêm về ngủ rêm xót mình mẩy. Tuy nhiên lăn trở một chút là ngủ thẳng cẳng trong đêm êm đềm, mãi khi lũ chim chộn rộn bay đi kiếm ăn đầu ngày.
 
Má tôi thì có một số cây trái trồng chung quanh nhà. Mùa hè tuồng như có phép mầu. Chắc vậy chứ sao, mỗi mùa hè cây cối trong vườn đều rủ nhau ra trái. Mấy mùa kia má tôi lúi húi cả ngày chăm sóc cây. Má có vẻ cưng đám cây trái lắm, ít ra cũng gần bằng mấy đứa con. Vì thế mảnh vườn nhỏ tốt xum xuê ai thấy cũng khen. Có con nhồng trong lồng treo trước hiên nhà thấy khách vào nói líu lo:
 
"Chào bác ạ. Bác vô nhà chơi!"
 
Làm như con nhồng mời khách vào xem mảnh vườn vậy. Chắc nó biết má tôi trồng mấy cây ớt hiểm cay xè dành riêng cho nó. "Giống gì mà khoái ăn ớt quá chừng. Mùa nào hiếm ớt nó kêu suốt ngày chẳng ăn thứ gì khác!". Thứ nói nhiều vậy chứ ngu lắm. Thấy bất cứ ai lấp ló ở cổng nhồng đều mời bác vào nhà chơi. Bọn nhỏ thường đến chọc dạy con nhồng nói. 
 
Tôi còn nhớ rõ vị trí từng cây một trong vườn nhà. Cây ổi sẻ cạnh giếng nước, bóng cây che rợp đám rau thơm. Tôi chịu nhất cây ổi này bởi nó thấp, nhiều nhánh dễ leo và lại có rất nhiều trái. Ổi sẻ trái nho nhỏ đã chua, ra trái gần như quanh năm. Còn một cây ổi xá lị ngoài chuồng gà. Cây này thì nhiều lá dày xanh nhưng trái thì phải rất lâu mới ăn được. Vài cây mãng cầu ta cũng rất sai ở tiếp giáp khu đất trống. Cây ô ma chưa ra trái cạnh bờ mương. Tôi ghét nhất cây này, Chưa có loại trái nào dở bằng nó, ăn lợ miệng. Cây mãng cầu xiêm của chị tôi mới bói vài ba trái treo thật hấp dẫn. Những trái thơm rải rác khắp vườn. Nhiều nhất giống chuối và đu đủ. Đôi khi má tôi bán bớt đi, nhất là chuối chín một lúc rất nhiều. Cây đu đủ nhìn mới bắt mắt chứ. Tựa như một cây khô mang nặng trịch hằng hà trái, tròn và dầy san sát. Tôi cảm tưởng mấy trái đu đủ chen lấn nhau để được bám vào thân cây.
 
Thỉnh thoảng má tôi hái mướp, bí, rau thơm ra chợ bán. Có khi cả mấy chùm ổi cột cẩn thận bán cho bọn nhỏ. Đối với tôi những lần má mang ra bán chỉ là vụ trao đổi bánh kẹo. Bà dùng trọn số tiền đó mua bánh hay vài món lặt vặt cho chị tôi.
 
Như thế mùa hè đối với tôi thật là hấp dẫn. Chẳng phải lo lắng gì, suốt ngày chạy rong chơi và ăn. Bạn cứ tưởng tượng cả một vườn cây đủ thứ trái quyến rũ mà mình tự do hái ăn. Úi dào, đúng là thiên đường mùa hè. Tiếc là cái bao tử tôi chẳng được lớn lắm và nó hay trở chứng đau bụng nữa mới chán chứ. Nếu không thì...
 
Năm đó đám trái cây bắt đầu ửng chín, tôi chắc mẫm thế nào cũng được cả ngày lang thang trong vườn kiếm ăn. Nghĩ đến thôi cũng đủ thèm chảy nước bọt.
 
Thế nhưng mùa hè của tôi bị cắt đứt tàn nhẫn. Tàn nhẫn và đột ngột như lưỡi dao bén ngót chặt ngang thân cây ngọt sớt. Trời ơi, tôi phải đi học! Mùa hè, nghỉ hè lại phải vác sách ê a đến trường buồn muốn khóc.
 
Sở dĩ ba má tôi có quyết định tối hậu trên là vì má tôi phải đi làm đồn điền. Chị tôi lo học sửa soạn thi vào trường tỉnh. Năm rồi chị bị bệnh phải bỏ thi. Đâu có thể nào bỏ tôi lếch thếch suốt ngày trong vườn rồi lén qua đất trống chơi với lũ trẻ chăn bò.
 
Chị tôi nói:
 
"Con không coi nó được đâu. Tối ngày chạy ngoài đường ai biết đâu mà kiếm." 
 
Má tôi tuyên bố:
 
"Cho nó đi học trường ông Tân. Từng tuổi này đến trường được rồi."
 
Cả nhà tán thành  quyết định sáng suốt đó.
 
Thế là tôi sắp bị thảy vào lớp học. Nghe mà nổi da gà. Ông giáo lăm lăm roi trong tay đập vun vút xuống bàn. Đây là trường học tư dạy cả trong kỳ nghỉ hè. Tuy là trường tư nhưng với uy tín đã có, ông giáo già thẳng tay đánh học trò. Đã vậy còn phải học cả ngày, nghỉ có hai chiều thứ tư và chúa nhật.
 
Chẳng biết mấy bà chị tôi nói gì với anh Được, anh đề nghị:
 
"Cho con Ly đi học luôn".
 
Dĩ nhiên là được bằng lòng gấp. Dường như ai cũng khoái cho con em mình tới trường và tự cho mình khôn ngoan khi có quyết định đó.
 
"Ừ. Cho tụi nó đi học chung có bạn".
 
Tôi sắp phải đi học rồi. Không gì buồn bằng phải từ giã khu vườn mùa hè để làm quen với bảng phấn. Chưa đi học nhưng tôi biết chắc chắn lớp học chẳng có gì để thích.
 
Mọi người đều có vẻ hả hê vênh vang như người thắng trận, trừ tôi và Ly.
 
Ly em anh Được. Tôi thường thấy con nhỏ tha thẩn bên chòi cùng mấy đứa con gái khác. Tụi nó chơi trò bán hàng, hái lá hoa về xắt nhỏ giả làm đồ ăn. Có lần nhỏ Ly lén nhón gót lên hái hoa dâm bụt hàng rào nhà tôi. Lúc đó tôi chỉ đứng nhìn ngại ngần không ra trợn mắt với nó cái tội "phá hoại hàng rào". Anh Được dẫn nó qua sân nhà hái trứng cá. Chị tôi cầm sào dẫn Ly ra hái ổi. Con nhỏ Ly này bị đặt cho một biệt danh "cái ly". Những tên con trai gặp Ly là đọc vang lên câu đồng dao lãng nhách : Cái ly uống nước, cái thước đo vải, củ cải làm chua... Tụi nó kéo dài chữ u ra thành giọng diễu cợt : chu... ua. Rồi phá ra cười rũ.
 
Con nhỏ Ly, cái ly uống nước sẽ bắt đầu cùng tôi bắt đầu một công việc cực nhọc và chán phèo : Đi học.
 
Má tôi đích thân dẫn hai đứa đến trường. Bà giao tận tay ông giáo với lời gởi gấm. Đại khái bà nói nhờ ông dạy dỗ, tụi nó hư lắm. Cả ngày đi rông như thằng mọi. (Trời đất, oan cho nhỏ Ly quá cỡ. Nó đâu có hư như tôi. Tôi thầm nghĩ). Má tôi không quên dặn một câu nẩy lửa:
 
"Thầy dạy dỗ nếu nó bướng không chịu học cứ đánh thẳng tay. Coi vậy mà cứng đầu lắm đó thầy, chỉ có roi mới trị được nó". 
 
Má tôi nhìn tôi và Ly có ý bảo bà đã nói rồi đó, liệu hồn nhé. Ông giáo xuề xòa:
 
"Vâng. Trẻ con phải vậy đấy chứ. Thương cho roi cho vọt..."
 
Thương cái kiểu này ai mà ham. Tôi len lén nhìn ông giáo già. Nhỏ Ly khép nép mặt méo xệch. Mắt chăm chú bầy kiến bò dưới chân. Coi kìa, cây roi thầy mới dễ sợ không chứ. Cây roi mây, dài và thẳng đong đưa trong tay ông giáo. Cái tiếng roi vút trong không khí nghe đã lạnh người rồi.
 
Má tôi và ông giáo còn nói chuyện một lúc lâu. Sau đó bà ra về, ông giáo xoa đầu hai đứa đưa vào lớp. Cái trường này duy nhất có một phòng học nhốt tất cả các lớp vào đó. Mỗi lớp ngồi một dãy bàn. Đúng là lớp học tạp lục, mấy tên gà cồ lớn đầu ngồi hỗn độn với bầy gà mới nở như Ly và tôi. Chúng nhìn hai đứa với đôi mắt hau háu làm như chúng tôi là món ăn ngon. Con nhỏ Ly ngồi sát vách đất, tay mân mê cuốn vở. Hai đứa chỉ có quyển vở và cây bút chì. Tôi quay sang hỏi nhỏ Ly:
 
- Đi học thích không?
 
Con nhỏ bĩu môi. Tôi bực mình : con gái làm bộ, con nhỏ làm như nó khi dễ tôi bằng cái trề môi đó. Không thích thì nói không thích cho rồi, bày đặt làm bộ làm tịch.
 
Lát sau ông giáo xuống viết vào vở hai đứa một chữ i. Ông nói đó là chữ i và bắt phải học thuộc. Xong ông quay sang "lớp" khác can thiệp một vụ cãi cọ. Suốt buổi tôi thấy ông không ngừng quất roi chan chát xuống bàn để duy trì trật tự. Hai đứa được bỏ quên muốn làm gì thì làm. Nhưng mà biết làm gì đây? Ngồi bó rọ một chỗ đôi chân tôi ngứa ngáy quá. Con nhỏ Ly ngồi cú rũ như con gà ướt không thèm nói năng gì. Hai đứa giống như ở tù lỏng.
 
Thật đúng như tôi nghĩ, đi học chẳng có gì vui.
 
Giờ ra chơi hàng cà rem đến. Ông giáo mua cho tôi và Ly mỗi đứa một cây. Hai đứa ngạc nhiên. Ờ, ông thầy coi vậy mà tốt bụng quá. Ông giáo chỉ mua cho hai đứa tôi mà thôi. Tôi nghĩ chắc ông không dữ lắm đâu.
 
Buổi học đầu tiên kết thúc. Tôi về nhà như tên bại trận. Đầu tóc rối giống cái tổ chim, áo quần nhăn nhúm thảm hại. Cuốn vở cầm lỏng lẻo trên tay. Suốt quãng đường về Ly chẳng nói với tôi tiếng nào. Chị tôi, anh Được cùng mấy chị bạn đứng dưới gốc cây trứng cá. Chị cười khúc khích:
 
"Coi tụi nó đi học về kìa!"
 
"Làm gì mà đi xa cả cây số vậy".
 
"Chắc giận nhau rồi!" 
 
Và mọi người cười to. Chị tôi hỏi:
 
"Sao? Đi học vui chứ?"
 
Mặt tôi chắc giống cái bánh tráng nhúng nước trả lời câu hỏi. Trái lại nhỏ Ly hí hửng nói:
 
"Vui lắm. Em được ông thầy cho ăn cà rem nè."
 
Thấy chưa, tôi nói con gái hay làm điệu bộ lắm mà. Hồi nãy tôi hỏi mặt con nhỏ nặng cả ký lô chứ đâu được vui vẻ như giờ.
 
Những ngày sau đó chúng tôi đến trường đều đặn. Ngày nào cũng được ăn cà rem, có khi là kẹo bánh. Sau này tôi biết đó là tiền má tôi gởi nhờ ông giáo mua đồ ăn để dụ dỗ chúng tôi chịu học. Ly đã có vẻ chịu nói chuyện với tôi rồi dần dần trở nên thân quen hơn. Đi học còn nhỏ sang nhà tôi và hai đứa vừa đi vừa gặm ổi. Mỗi lần đi ngang mảnh vườn hoang cả hai ù chạy, vừa chạy vừa cười. Tôi thường ba hoa rằng trong vườn có nhiều ma lắm. Đêm nào nó cũng hiện lên hát. Ma hát hay lắm kia. Nhỏ Ly trợn mắt theo dõi câu chuyện, con nhỏ có vẻ rất tin lời tôi kể. Đi ngang vườn tôi hét lên và chạy thật nhanh. Ly tất tả chạy theo mắt láo liên nhìn lại phía sau. Có bữa chuyển mưa trời tối sầm hai đứa nắm tay chạy thục mạng để về đến nhà đứng thở và cười.
 
Biết tính tình ông giáo tôi không còn sợ quá đáng như trước. Tôi bày Ly bắt những con cúc lùi lũi trong cát nền nhà. Hai đứa ngồi cong chân ra sức thổi tìm hang. Mấy con cúc rất nhanh nhẹn lủi đầu trong cát thật khó bắt. Chúng tôi say mê với trò này dù bắt được cúc chẳng để làm gì. Chúng không biết đá như dế chỉ biết đào hang xoáy trôn ốc và chui xuống dưới. Chán trò chơi tôi bày chơi búng thun hoặc đá dế. Đá dế lúc nào cũng thấp thỏm sợ ông thầy nghe. May mà ông lãng tai chẳng hề phân biệt dế gáy trong lớp hay bên ngoài. 
 
Như thế suốt buổi học hai đứa ngồi hoài dưới gầm bàn. Chán, tôi rủ Ly bò ra bên ngoài lớp. Và đi thơ thần quanh trường. Dù sao ở ngoài này vẫn thích hơn ngồi giam trong lớp.
 
- Về hái ổi ăn nghe?
 
- Thôi. Sợ lắm, thầy biết à.
 
- Ổng chẳng biết đâu.
 
Lúc đó hai đứa mon men gần khu vườn hoang. Tôi la lên "Ma kìa!" rồi ù té chạy khiến con nhỏ lật đật chạy theo. Quen dần tôi bắt đầu trốn học mà ông thầy chẳng hề hay biết. Ra cánh đồng bắt chuồn chuồn, châu chấu. Những con chuồn chuồn đuôi bị mang một cọng tranh không thể bay xa được, hai đứa đuổi theo bắt rồi lại thả bay thích thú. Thường sau những lần trốn học phải cực nhọc gỡ cỏ may, xem xét lại quần áo trước khi về nhà. Ly bị cuốn hút theo tôi bỏ học bởi tôi đương nhiên giữ nhiệm vụ dẫn con nhỏ đi học. Tôi tự trấn an, ở trong lớp cũng chẳng đứa nào học hành gì.
 
Ông giáo coi hai đứa là cặp bài trùng. Thảng hoặc nhìn xuống không thấy hai đứa ông quát:
 
"Nghiêm - Ly, hai đứa đâu rồi?"
 
Chúng tôi ngồi lê la dưới đất hoảng sợ đứng dậy. Hai cái đầu đột ngột nổi lên giữa đám bàn ghế. Thật giống ở dưới đất vừa chun lên.
 
"Làm gì ngồi dưới đất thế?" 
 
Tôi ấp úng:
 
"Dạ thưa thầy con hốt cát."
 
"Hốt cát làm gì?"
 
"Dạ. Con hốt cát thấm mực cho mấy trò kia."
 
Đó bạn thấy chưa. Tôi cũng tỏ ra thông minh số một chứ bộ. Biết bịa lý do hết sức chính đáng và ông giáo cười khề khà.
 
Như thế năm học đầu đời của tôi là vừa học vừa chơi. Má tôi coi như là để làm quen với lớp học vậy thôi. Vậy mà hai đứa đã học trường ông giáo trọn một năm. Kết quả là biết đọc lai rai cuốn vần. Đối với mọi người như vậy cũng quá đủ rồi, xứng đáng là ông trình vĩ đại tôi và Ly đạt được. Chúng tôi được nghỉ học vào mùa hè năm sau để chuẩn bị vào học trường công.
 
Mấy tháng hè tuyệt diệu đi qua một cách thật mau lẹ. Mớ chữ nghĩa học được theo mùa hè qua bay tuốt luốt hết. Tôi chỉ nhớ cái bài tập đọc ngộ nghĩnh : Anh cóc che dù. À, chàng cóc này ăn diện dữ. Anh cóc lấy trái ớt làm giày, lá vấp cá làm áo, lá tía tô làm dù. Mưa lạnh anh bước đi nghênh ngang kiêu hãnh... Người ta bắt được anh, sẵn gia vị họ xào lăn anh cóc...
 
Trường công ở khá xa, ngôi trường chung của cả hai làng nên ở khoảng giữa gần giáp đầu làng bên. Từ nhà tôi hai đứa đi qua trường ông giáo, quẹo mặt đi giữa khu đất trống. Hết khu đất là đến con suối, qua cầu, đi qua mấy vườn chuối thì thấy màu ngói đỏ nhà trường. Con nhỏ Ly nhát quá chừng, qua cầu nó đi rón rén tay vịn chặt thành cầu. Cầu làm bằng mấy thanh tre ghép lại chông chênh như lúc nào cũng sẵn lòng gãy. Tôi quen đi nhờ mấy tháng hè qua bên suối lêu lổng nên bây giờ có thể thả hai tay qua cầu dễ dàng. Dẫn nhỏ Ly đi học tôi được dịp biểu diễn cho nhỏ xem. Sau đó tôi qua mang sách vở sang trước. Cái dáng ốm qua cầu gió bay của Ly bước từng bước chậm trong khi gió thổi phần phật thấy tội nghiệp. Làm như đang đi qua cầu vồng không bằng. Qua được, Ly đứng nhoẻn miệng cười rất tươi.
 
Cô giáo tên là Sáu. Cô thật hiền, tôi nhớ giọng nói cô mới ngọt làm sao. Cô có tài vẽ rất linh động. Mỗi lần dạy chữ, bài học cô đều vẽ trên bảng bằng phấn đủ màu. Bọn học trò thích lắm. Nhỏ Ly về nhà khoe cô giáo vẽ đẹp hát hay.
 
Con nhỏ Ly bây giờ lớn rồi, cả tôi cũng vậy. Ly mặc quần đen bóng áo trắng thẳng thớm ít khi dính mực. Còn tôi lớn thì lớn vẫn không khá được. Quần áo xốc xếch, chân mốc thếch và quanh năm dính mực vung vãi. Đầu tóc bờm xờm khét nắng. Nhỏ Ly để tóc dài dài đi học cột đuôi gà nhỏng nhảnh. Chị tôi nói như thế này:
 
"Thằng Nghiêm đi với con Ly giống người ở với bà chủ quá trời!"
 
Nhỏ Ly bây giờ lanh lắm kia. Hai đứa vẫn học cùng lớp và tôi phải đi cùng với Ly "cho có bạn". Con nhỏ lanh và khôn quá trời (dù vẫn phải vịn thành cầu hoài hoài). Năm lớp tư con nhỏ học được ở đâu cái câu này:
 
Mẹ em đi chợ đường ngoài,
Mua em cây mía vừa dài vừa cong.
Mẹ em đi chợ đường trong,
Mua em cây mía vừa cong vừa dài.
 
Lần đầu con nhỏ đọc bài đó cho tôi nghe, đến câu thứ hai con nhỏ hất tay ra ngang vai để diễn tả cây mía vừa dài vừa cong. Cái hất tay trúng mặt tôi đau đớn và con nhỏ cười ha hả. Lần sau Ly hất tay trước khi đọc, nhưng xui cho nhỏ cánh tay phải đập vào thân  cây. Lần này tôi cười to hơn, Ly đau và giận tôi mất mấy ngày. Tôi khổ tâm hết sức vì mỗi lần Ly giận chị tôi được dịp chọc tôi tơi bời.
 
Chưa hết đâu, con nhỏ bắt tôi chiều chuộng đủ thứ. Tôi phải lội dọc bờ suối lấy hột bo bo về cho Ly kết làm xâu chuỗi. Phải trèo hái hoa phượng về chơi bán hàng. Ly rủ tôi, thằng Sao cùng mấy cô bạn về nhà chơi bán hàng, cất nhà chòi và cho ăn bánh. Đã vậy lâu lâu con nhỏ gặp tôi là hét lên:
 
- Nghiêm! Quốc kỳ chào. Quốc ca... hai... ba!
 
Nhưng mà tôi kêu "cái ly uống nước", con nhỏ làm mặt giận hờn. Chán muốn chết!
 
Có lần Ly nhờ tôi hái cho ít hoa lài, con nhỏ thích hương thơm hoa lài lắm. Buổi sáng lén chui rào đến nhà ông Bá trộm hoa lài. Lúi húi hái được mấy cái chợt có tiếng người quát:
 
"Ăn cắp mận há!"
 
Tôi định co giò chạy người đàn ông đã nhảy bổ ra túm lấy. Đó là anh Ban con ông Bá. Bàn tay anh nắm chặt tay tôi đỏ rần. Và anh Ban thấy chùm hoa trong tay tôi, anh hỏi ngạc nhiên:
 
"Mày hái bông chi vậy?"
 
"Dạ... tui hái cho nhỏ Ly"
 
"Vậy hả?" Anh Ban cười thành tiếng.
 
"Nó nhờ tui hái giùm..."
 
Anh Ban buông tay ra, anh hái đưa tôi mấy chùm hoa trắng thơm ngát. Anh nói:
 
"Nè, cho mày đem về tặng nhỏ Ly".
 
Tôi ngạc nhiên nhìn, anh Ban xoa đầu tôi cười. "Tao tưởng mày tính ăn cắp mận chứ!" Tôi cười chào anh rồi chạy biến về nhà. Chùm hoa nở buổi sáng dịu dàng. Lát nữa đi học tôi sẽ mang theo tặng cô bạn nho nhỏ đồng hành. Chân tôi chạy dẫm trên cỏ ướt sương mát rượi.
 
Ly và tôi mỗi năm lên một lớp vẫn học chung nhau. Đi học cùng một lượt và về chung nhau. Đi đến khu đất trống là gặp mấy thằng bạn khác cùng đi học nói cười vang rân. Lần về, chúng tôi chơi đùa đã mới về nhà.
 
Năm tôi mười tuổi và Ly cũng vừa vặn mười. Cô bạn của tôi hát khá lắm. Vào một sáng chúa nhật Ly rủ thằng Sao và tôi đến nhà chơi. Bọn con gái cất nhà rồi bày trò nấu cơm. Tôi và Sao khoái đến là vì vườn nhà Ly có nhiều trái cây, cái ao rộng nuôi cá và hàng dừa trĩu trái dọc bờ ao. Tôi với Sao câu cá giúp và chúng tôi rất mê công việc này. Những chú cá hồng mập giẫy dụa với cái lưỡi câu bé xíu là một đam mê không tàn. Vườn nhà Ly có mận đỏ ngọt ngất môi có xoài chín vàng ửng. 
 
Chẳng biết mắc chứng gì, sáng nay Ly tuyên bố:
 
- Thôi, không thèm chơi bán hàng nữa. 
 
Cả bọn nhao nhao:
 
- Vậy làm gì bây giờ?
 
- Chơi trò đám cưới nghe.
 
Chúng tôi kêu lên ngạc nhiên thú vị. Hai đứa con gái mắt sáng lên. À, chắc nhỏ Ly nhớ bài Tập Đọc lớp Tư. Tôi còn nhớ cuốn vần có vẽ hình một đám tụi nhỏ giả làm đám cưới. Chúng đi thành hàng dài với vẻ mặt hí hửng và miệng cười mím chi. Cô dâu chú rể đi bên nhau che dù bằng lá đu đủ. Chú rể bưng một mâm trầu cau. Đám cưới đi chắc đang cười khúc khích, đám trẻ nhỏ hơn thì đứng hai bên vỗ tay reo. Tức cười nhất có thằng nhỏ bụng bự cầm lá đu đủ đi đủng đỉnh sau chót.
 
Lập tức cái trò chơi mới mẻ được chấp thuận liền, nhỏ Cúc hỏi:
 
- Đứa nào làm cô dâu?
 
Nhỏ Hà nói:
 
- Ly. Cái Ly làm cô dâu nghe. Còn ai làm chú rể?
 
Tôi và Sao lúng túng nhìn nhau cười. Dĩ nhiên là tôi phải làm chú rể, hai đứa con gái và thằng Sao cũng thấy như thế là rất hợp lý. Tôi hơi nóng mặt đồng thời thích thú với trò chơi mới. Sau đó là sự phân công : Thằng Sao đi kiếm lá đu đủ, nhỏ Hà lấy ti gôn trang hoàng, nhỏ Cúc hái cho cô dâu một chùm hoa, còn cô dâu thì đi mua bánh kẹo. Tôi tưởng mình được chẳng làm gì thì nhỏ Hà nhớ ra:
 
- Còn thiếu trầu cau Ly ơi.
 
Cô dâu nói:
 
- Vậy... Chú rể phải lấy trầu cau. Nhà... có cây cau đó.
 
Ở trường không dạy chúng tôi phải xưng hô thế nào, giữa con trai con gái. Mỗi khi thưa gởi với thầy cô, học trò mách trò A trò B phá em. Nói chuyện với Ly tôi khó chịu hết sức vì xưng hô bằng cách nói trổng, thật chẳng tự tin chút nào. Chẳng lẽ lại nói "mày tao" như nói chuyện với con trai?
 
Thế là tôi phải chạy về nhà tìm kiếm... lễ vật. Trầu thì dễ, ngoài vườn thiếu gì. Chỉ có cau tôi chẳng biết làm sao bởi không tài nào trèo cây cau suông đuột. Vừa đi tôi vừa nghĩ. Trong sách nói tụi nó lấy trái ô rô giả làm cau. Ô rô, ô rô ở tận dọc bờ sông xa lắc. Đám cưới này sang mà, dùng toàn thứ thiệt và có cả bánh kẹo nữa chứ.
 
À, má tôi vẫn thường có mấy trái cau để trên khay trầu của bà. Được rồi, tôi mỉm cười.
 
Xui cho tôi quá. má tôi đang ngồi têm trầu. Tôi giả vờ dến ngồi nhổ tóc trắng cho má. Chị tôi ngồi trên ván nói chuyện với chị bạn. Bàn chân tôi chạm cái khay trầu và nhè nhẹ kéo nó lại bàn. Ồ, có một cặp cau hai trái tròn xanh mướt.
 
Má tôi hơi ngạc nhiên về sự cố gắng hiếm có của tôi. Tuy nhiên bà không hỏi han gì. Một lát có tiếng con nhồng ỏn ẻn nhà trước. Má tôi đứng dậy tiếp khách. Tôi vơ vội cặp cau và co giò chạy.
 
- Ê! Làm gì chạy dữ vậy!
 
Chị tôi la và chạy ra. Tôi đứng lại luống cuống và bối rối trước đôi mắt chị dò xét. Chị tôi nói:
 
- Mày lấy cái gì vậy?
 
Tôi chối, tay trái cầm cặp cau giấu sau lưng:
 
- Đâu có gì đâu.
 
Tôi chửi thầm tôi. Sao ngu quá đi, phải chi hồi nãy chạy luôn là được việc. Chị bất thần chụp cánh tay tôi.
 
- A, lấy cau của má há - rồi giọng chị trở nên ngạc nhiên - Mày lấy cau làm chi vậy?
 
Chị cười tinh quái mắt nhìn tôi với tia nhìn soi mói. Thật dễ ghét. Tôi bỗng dưng giống như tên tội phạm dưới mắt quan tòa. Chị tôi giương mắt rắn nhìn đăm đăm tôi là con ếch.
 
Và chị phá ra cười nói với chị bạn:
 
- Nó định chơi trò đám cưới đó mà.
 
Chị nói:
 
- Phải không? Ai là cô dâu vậy, nhỏ Ly hả?
 
Tôi vùng vằng cau có nhưng không thể bỏ chạy. Chị tôi đã cầm chắc cặp cau trong tay.
 
"Tụi nó làm đám cưới đó. Hai đứa xứng đôi lắm."
 
"Phải con nhỏ tóc đuôi gà đi học chung với nó?"
 
"Ừ. "Cô dâu" đẹp mà dễ thương lắm!"
 
"Có lần thấy hai đứa dẫn nhau qua cầu."
 
"Thằng coi vậy mà lịch sự ghê há."
 
Hai bà nói và cười ríc rích như chuột kêu. Mặt tôi đỏ rần rần và sau đó hình như tái đi. Tôi tức muốn khóc.
 
Chị bạn nói:
 
"Trả cau cho "chú rể" đi".
 
"Ừ. Để kịp làm lễ chứ. Chắc "cô dâu" đợi nãy giờ nóng ruột".
 
Tôi la lên:
 
- Có chị đó. Chị với... với anh Được đó! 
 
Rồi tôi chụp cặp cau trên tay chị chạy thật nhanh ra khỏi sân. Chị tôi la lên, sau đó tôi tưởng chị giận. Nhưng không, chị cười vang vọng vào tai tôi. Cái tiếng cười đó càng làm tôi tức thêm.
 
Ra khỏi nhà tôi bỗng ngần ngại. Lòng tôi đang tức và giận vô kể. Tôi giận cả con nhỏ Ly. Cái con nhỏ bày chuyện. Rồi chị tôi sẽ được dịp ghẹo tôi nhiều lần. Đám cưới với đám ma. Hừ, chú rể với cô dâu. Cái trò chơi quái ác. Tay tôi xé nát những chiếc lá, tôi mà là chú rể hả.
 
Tôi nóng cả mặt tưởng chừng là sự thực vậy. Chân tôi bước hậm hực về phía khu vườn hoang. Đồng thơi tôi cảm thấy ngượng ngùng khi nhớ tới Ly. Tôi lẩm bẩm, tôi sẽ không đi học cùng con nhỏ đuôi gà đó, tôi sẽ chẳng dắt nó qua cầu, nhất định không thèm nói chuyện, chẳng thèm qua nhà con nhỏ "ly nước" đâu. Rủi qua đó, đi học ai... thấy làm sao!
 
Thôi, tôi đếch thèm chơi trò đám cưới nữa đâu. Tôi ghét cô bạn nhỏ của tôi rồi. Với tất cả sự tức bực dồn vào tay tôi ném thật mạnh cặp cau vào bụi cây trong vườn hoang.
 
Rồi tôi ngồi xuống bậc thềm, buồn hiu.
 
 
DUY NGUYÊN       
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 112, tuần lễ từ 26-7 đến 2-8-1973)
 
 

Thứ Tư, 23 tháng 7, 2025

CÔ HỌC TRÒ THÚ VỊ - Lê Miên Tường


Một ngày giữa tháng sáu. Buổi đầu, lúc vào nhận công việc dạy dỗ, gặp học trò, học trò chào thầy như thế này : thưa thầy. Chào với con mắt nheo nheo rất chi là ngổ ngáo. Ngổ ngáo nhưng dễ thương. Cái chào như ngụ ý : học trò này không phải vừa. Đừng tưởng bở.
 
À. Đụng phải thứ "hip" chính cống rồi đây. Thầy tự nhủ thầm như vậy. Tuy nhiên, thầy không lấy làm lo, trái lại, cơn kích thích cảm khoái về một cuộc chơi đối với một kẻ trong ê kíp người lâu nay thầy cho không ra gì, đột ngột nổi lên khiến thầy thích thú. Thích nên bắt đầu. Nhưng bắt đầu một cách dè dặt. Phải dò dẫm từng bước. Phải đo từng chút mắt nhìn. Phải cân từng ly lời nói. Phải cảnh giác từng điệu đi đứng mới mọc. Phải đủ thứ. Không phải cho học trò, mà về phía chủ nhà. Xưa nay, bọn nhà giàu vất tiền mướn thầy dạy dỗ cho con cái, ít có người coi trọng ông thầy. Đã không trọng lại còn tỏ ý coi thường. Nhưng thầy không cần chi hết. Chỉ dạy chơi. Không phải, nghỉ. Sòng phẳng.
 
Nhưng gia đình của học trò thuộc loại hiểu biết. Không kính trọng quá đáng. Không vồn vập vượt bực. Chỉ ở mức đối đãi vừa phải.
 
Đó là về gia đình. Riêng học trò thì khác. Ở những buổi đầu, thầy gặp phải sự ngấm ngầm chống đối. Chống một ít thôi. Chống, để khỏi bị đồng hóa. Lạ gì tính ngang ngạnh của các cô bé vừa lớn. Có cái gì các cô chịu đồng ý cho đâu. Cứ luôn luôn làm ra vẻ ta đây bất cần và đứng về phía đối lập. Mặc. Thầy cứ tỉnh bơ dạy. Tỉnh bơ trình diễn bộ mặt nghiêm nghị lầm lý suốt hai giờ học. Đệ tam cỡ như cô bé cũng chưa thông minh lắm. Chưa biết "quậy" ông thầy. Chưa có những câu hỏi lắt léo. Vị thứ cuối năm đứng thứ ba, đè đầu cả mấy chục mạng, như cô bé, ở cái tỉnh lẻ miền núi này, đối với những trường lớn ở các thành phố lớn, chưa thấm vào đâu. Tuy nhiên, để bù vào cô bé có sự nhận xét tinh vi. Có cái nhìn sắc, thấp thoáng vẻ mơ mộng nghiêng hẳn theo giòng chiêm ngưỡng cây cỏ, đồi núi, thiên nhiên.
 
Ít ra, với đời sống của tốp nhà giàu như cô bé, giữa miền vốn hoang rỗng của tâm hồn, cô bé là kẻ ngoại lệ, biết tự cấy vào đó những ngọn lá, ươm xuống đó những hạt mộng, chảy qua đó từng con suối mùa thu lăn tăn sóng gợn các giòng xanh, đưa cô bé thăng hoa lên mấy nấc, vượt thoát khỏi đời vốn bị bao vây bởi tiền, danh và giả dối.
 
Với cô bé, đã có sự dung hòa. Với cô bé, đã có sự cộng chung tuyệt vời giữa những thao thức hồng và mơ mộng biếc. Như thế đó. Nói về một cô học trò có tâm hồn điệu nghệ nhưng lạc loài như tiếng kêu cô độc, vút lên, cao, như đưa đi, như bay thoát, nhưng cõi thinh không câu kết với cơn gió mông lạnh đầu thu, cột níu, bắt víu lấy đôi cánh mỏng đang đập bay theo cùng cái hun hút của dặm trường. Cùng độ loãng hụt hẫng của bát ngát những chân trời tăm tắp. Của điệp điệp rừng cây xa. Của trùng trùng đồi núi rộng.
 
Thầy nghĩ về học trò bằng những khơi dẫn khách quan, đẹp như thế. Còn học trò thì sao?
 
Với mấy buổi đầu, hoặc bắt chước, hoặc tỏ sự mềm dịu chống đối, học trò cũng trình diễn bộ mặt lầm lỳ.
 
Nói cái đáng nỏi. Hỏi điều đáng hỏi. Im lặng chỗ nên im lặng. Thầy và học trò "triển lãm" hai bộ mặt như đưa đám ra như để đối chọi nhau. Như cùng hai cực dương xô đẩy. Nhưng sức chịu đựng của học trò phải thua thầy. Thua là cái chắc.
 
Không lâu, một tuần sau, học trò đã tỏ cho thầy rõ sự thua. Tỏ một cách rất trẻ con. Rất đáng yêu.
 
Đầu tiên, học trò nói với thầy vài câu. Đại khái như : Thầy biên chữ lu quá, bay bướm quá, nhìn không rõ. Thầy vẽ vòng tròn đó chưa hoàn toàn tròn. Thầy cho bài tập nhiều quá, làm bắt mệt...
 
Biết là cô bé nói kháy, cho hả. Mặc. Biên chữ lu thì biên lại. Vẽ vòng tròn chưa hoàn toàn tròn thì xóa, vẽ vòng tròn khác. Rên bài tập nhiều, thầy sẽ cho ít. Ông thầy ổng kiên nhẫn lắm. Mọi sự ông đều chiều theo ý cô bé. Chịu. Cô bé hết cớ để giận lẫy. Hết cớ thì tìm. Tìm mãi. Một cớ nhỏ cũng thêm thắt cho nó lớn. Chẳng hạn như với cây bút nguyên tử, thì nói : bút chi viết mực ra cả cục, cả cục. A lê, vụt xuống bàn. Với cây thước kẻ, thì nói : mấy ông thợ đúc thước, làm biếng quá, đúc thước cong vòng. A lê, vụt. Với vở thì vở giấy không trắng. Với sách thì sách in chữ mờ. Hết cớ sách vở bút thước, bí quá, bèn sang cớ thiên nhiên. Với thiên nhiên thì trời mưa chi mưa mãi. Gió chi lạnh ác v.v...
 
Tội cho lũ sách vở. Tội cho thiên nhiên bị cô bé rầy oan. Ông thầy vẫn phớt tỉnh ăng lê. Đôi khi ông quay mặt cười thú vị. Nếu thấy được ông thầy cười, học trò liền chớp lấy cơ hội đó để nói một câu (cũng tức cười):
 
- Học trò có chi mà thầy cười? 
 
Ông thầy chọc thêm cho tức:
 
- Cười mà cũng cấm.
 
- Cấm chứ.
 
- Khó quá.
 
- Nghiêm nữa.
 
- Nghiêm như thế này này.
 
Này... Này... Cô bé kéo dài chữ này ra, rồi ngậm miệng, nhướng mắt lên, phình má ra... đại khái nói là phải nghiêm thế. Nhưng mặt đó không phải mặt nghiêm. Mặt đó để chọc cười. Thế là cả trò lẫn thầy đều cười.
 
Bầu không khí lúc đó hơi dễ thở một chút. Nhưng cười cũng chẳng lâu. Ông thầy lại đưa bộ mặt lầm lỳ ra. Học trò cũng như thầy. Có khi nghiêm hơn. Mà là nghiêm giả. Ai cũng giả. Ai cũng giả vờ hết.
 
Thầy chăm chú giảng bài. Học trò chăm chú nghe. Giảng xong ông thầy ngồi nghỉ. Học trò ngồi đối diện với thầy hí hoáy biên chép, thỉnh thoảng liếc mắt lên nhìn thầy cầm chừng. Thầy tỉnh bơ đọc sách. Đôi khi học trò cắn bút vờ suy nghĩ nhưng thật ra đang tìm cớ để "làm khó" thầy chơi. Biết "tim đen" của cô bé, ông thầy cố giữ. Không để sơ hở.
 
Nhưng dù cho cố giữ, thỉnh thoảng thầy cũng phải lỡ quên. Ví dụ, trời đang mưa lạnh, lúc giảng bài xong, ngồi nghỉ, cảm thấy thèm một hơi thuốc quá, thầy quên khuấy sự "chực gờm" của cô bé, bèn mò túi rút ra một điếu, gắn lên môi, bật lửa, hít hơi đầu tiên khoái chí, chưa kịp nhả khói ra, sực nghĩ rằng cô học trò khó tính này không thích ai hút thuốc, tức thì, vội vàng dựng cuốn sách lên che, xong từ từ thở khói xuống gầm bàn. Một cơn gió ác ôn, lúc đó, sẽ chui lòn qua khe cửa, thổi tạt một ít khói về hướng cô bé. Cô bé cười mỉm. À, cơ hội đây rồi. Thầy có giữ đằng trời. Thế là cô bé bỏ viết, gấp vở, làm ra vẻ thật quan trọng, đưa hai tay ra trước mặt quạt lia lịa để đuổi khói, trông điệu bộ như sắp chết ngộp đến nơi, làm như khói nhiều lắm (Thật ra chỉ một tí khói thôi. Không để ý sẽ không thấy). Tay quạt khói và miệng cô bé hô lớn:
 
- Ngồi với con gái mà cũng hút thuốc?
 
Thầy chưa kịp phân bua gì, dường như thấy câu nói của mình có vẻ sao sao, cô bé vội sửa lại:
 
- Ngồi với học trò mà cũng hút thuốc?
 
Chữ "con gái" đổi thành chữ "học trò". Ông thầy nghe thế, chợt hiểu ra, lấy làm thích thú quá, nên quên chuyện phân trần, lại buột miệng nói một câu gián tiếp bày chỗ nhược của mình cho học trò thấy:
 
- Tại thèm quá. Trời mưa lạnh hút thuốc mới đã.
 
- Tập nhịn cho quen.
 
- Bắt nhịn như thế là ác.
 
- Ác ở chỗ nào đâu?
 
= Ở chỗ đó đó.
 
- Đâu?
 
- Thì ác. Ác lai ác. Ở chỗ ác đó.
 
- Đâu?
 
- Đâu hoài. Không cho người khác hút thuốc là ác.
 
- Ác rồi có sao không?
 
- Ác là ác báo. Sang năm thi sẽ trượt vỏ chuối.
 
- Sang năm đâu đã thi mà trượt. Nói hớ rồi.
 
- Thì sang năm nữa.
 
- Sang năm nữa, lâu quá, "nguội" rồi, cái ác cũng quên  đi, đâu còn nhớ mà "báo"?
 
- Sẽ có người nhắc "nó" tới báo.
 
- Ai?
 
- Chẳng hạn người-hút-thuốc bị cô bé làm khó.
 
- Thù dai.
 
- Ờ, dai.
 
- Nhưng sang năm nữa chắc chi học trò còn ở đây. Có khi lên Đà Lạt. Như chim bay cái vụt, mất rồi. Ở đó mà nhắc.
 
Hề. Nói xong cô bé nheo mắt cười. Ông thầy cũng cười. Cười vì không nín được. Cô bé tinh nghịch và dễ thương. Những mẩu đối thoại, nói trống, không có chủ từ. Dường như ai cũng muốn thế. Học trò thì không muốn làm học trò. Ông thầy cũng chẳng thích làm thầy. Thầy trò không có ranh giới. Không đẳng cấp. Không có rào cản. Như ngọn gió sớm lồng lộng lên cao, lướt qua bao nhiêu chòm lá còn óng ánh sương, từ đó, tự do nẩy sinh những mơ ước hồng, cũng tinh khiết như buổi sớm và luồng gió tình trường đó. Như nụ cười chưa vẩn đục của hài nhi thuở vừa chui ra khỏi lòng mẹ. Không trách. Không chê. Không kết án. Những gì được dấy động, khởi phát từ tự nhiên, do sự chân thành, đều không mang nhiều mặc cảm tội lỗi nào. Cứ như thế, lòng mở ra chào nhau. Cứ như thế, lòng trải ra thành hai chỗ ngồi chung. Và sẽ ngồi lại với nhau - điều tiên tri (?) - một ngày sắp tới. Mai. Mốt. Hay vài tháng. Một năm nữa? Chưa biết chừng.
 
Những vụ "đấu khẩu" giữa thầy và trò thường được kết thúc bằng các nụ cười dòn, trong. Rồi giờ học hết. Thầy lững thững ra quán cơm. Học trò mở cửa đứng ngó theo, bâng khuâng.
 
Rồi chiều mai, như công thức, thầy lầm lỳ ôm sách tới. Học trò đã ngồi đợi từ lâu. Thầy thường nói với học trò rằng thầy rất ghét những gì có tính cách đều đặn, công thức ; nhưng vì bất khả kháng, thầy rán lăn theo như chiếc xe. Học trò hơi buồn buồn lúc nghe thầy tự ví thầy như chiếc xe. Chiếc xe còn lăn nữa. Mãi mãi.
 
Lần tới, lại vờ quên chuyện cười chiều qua, vẫn như cũ, ông thầy giữ mặt nghiêm. Học trò cũng như thế, nhưng độc đáo hơn một chút.
 
Hai khuôn mặt lạnh. Bàn ghế. Ly trà sâm. Bảng đen. Khăn lau. Phấn viết. Nói. Và trời mưa. Cũng lạnh.
 
Và rồi chuyện gì sẽ xảy ra?
 
Chuyện thương yêu. Chữ viết rất xác định. Bóc trần. Không ngầm giấu. Nói rất rõ, to. Không đậy che.
 
Nhưng chỉ là chuyện yêu thương câm. Âm thầm như những cánh én cuối đông tụ về đất. Nhảy đùa ở đó. Buồn ở đó. Và có lẽ, chết cũng im lìm ở đó. Ở đó, tình yêu. Ở đó, thấp thoáng những cánh quạ đen vờn quanh, nhiều, đen kịt như truyền rao những đe dọa ngầm, nhưng rộng tỏa.
 
Chuyện xảy ra như thế này:
 
Một chiều, như thường lệ, cô bé đang ngồi làm bài. Làm gần một giờ không ra. Làm không ra, đổ quạu, bèn bỏ bút, vùng vằng với ông thầy:
 
- Vì không cho hút thuốc, tức quá, nên mới ra bài khó.
 
Nói xong, cô bé trề môi ra. Thầy định cười, nhưng cố nín, vờ làm mặt nghiêm, nói với học trò:
 
- Khó mới mau giỏi. Ra dễ thôi học chi.
 
- Học trò không thèm giỏi.
 
- Không thèm giỏi, sang năm sẽ đứng chót.
 
- Có sao không?
 
- Đứng chót, sẽ đội hơn năm chục mạng, ê đầu.
 
- Kệ.
 
- Kệ cũng không được. Cái đầu đâu phải tiệm tạp hóa mà "kệ".
 
- Được. Được. Được.
 
- Không được.
 
- Không được cũng được. Nhưng học trò đứng chót, ông thầy xấu.
 
- Sang năm ông thầy đâu còn ở đây nữa mà xấu. Lúc đó học trò sẽ xấu một mình.
 
- Thầy xấu.
 
- Học trò xấu.
 
- Thầy...
 
Cô bé chực khóc. Ông thầy không nỡ, xuống nước nói, thôi thôi, để giảng cho. Đừng đem nước mắt ra dọa. Học trò lầm bầm nói, thèm dọa. Ông thầy lên đứng trên bảng đen. Học trò ngồi nghe nhưng vẫn chưa hết tức.
 
Thầy bắt đầu nói. Những danh từ đại số có vẻ mới. Những hệ thức nhị cấp. Tích Descartes. Tính phản hồi. Tính đối xứng. Tính gián truyền. Tính phản đối xứng...
 
Thầy say sưa nói. Học trò chống cằm nhăn nhó. Thầy viết công thức. Học trò cũng biên chép... Giảng xong bài, thầy hỏi : hiểu chưa? Học trò lắc đầu. Thầy giảng lại. Hiểu chưa? Chưa. Hiểu chưa? Chưa. Thầy vẫn kiên nhẫn. Lần thứ năm giọng thầy hơi khàn khàn. Học trò cúi đầu xuống, rưng rưng. Thầy bỏ tới đứng tựa vào ô cửa nhìn mông ra ngọn đồi trùng điệp rừng cây mịt mù dưới cơn mưa lớn giữa mùa. Rồi học trò nói:
 
- Thầy hút thuốc đi.
 
Thầy hỏi:
 
- Không cấm nữa à?
 
- Bữa nay không cấm đâu. Thầy hút đi.
 
- Ừ, hút. Nhưng hiểu bài chưa? 
 
Học trò không nói. Lại cúi đầu, rưng rưng. Thầy xao xuyến. Học trò buồn bã. Thầy nói, thôi, tôi về. Hết giờ rồi. Bận sau đến giảng tiếp. Học trò ngước mắt lên, khẽ giật mình như vừa đánh mất một cái gì. Thầy ra cửa. Học trò quýnh quíu nói, mưa ướt hết. Để lấy dù thầy che. Thầy không cần dù, đội mưa đi. Quán cơm gần đó.
 
Chiều hôm sau, thầy cảm, không đi dạy được. Thầy bèn nhờ người bạn đem tới cho học trò tấm giấy viết vài dòng : Đau rồi. Học trò được nghỉ mấy buổi đó. Sướng chưa?
 
Nhưng học trò không sướng như ông thầy tưởng. Học trò buồn buồn. Những chiều mà ông thầy lững thững tới gặp học trò như một sự đều đặn, đã khiến học trò chấp nhận lấy sự đều đặn đó là niềm vui đầy, nỗi hạnh phúc lớn. Đôi khi, ta cũng cần có sự thường xuyên, miễn sao sự thường xuyên không thường xuyên lắm. Không đến độ như cái máy. Không đến độ ù lỳ, tuân phục. Vì thế, học trò cũng như thầy, cũng thấy rất cần sự thường xuyên đó. Nên chi, khi thầy đau không đến dạy, học trò buồn quá, tới thăm thầy.
 
Học trò tới, gõ cửa. Ông thầy ra mở. Học trò ngạc nhiên vô cùng. Mặt thầy bơ phờ, hốc hác. Học trò vội cúi đầu, nói nho nhỏ:
 
- Học trò xin lỗi thầy đó.
 
- Lỗi với phải. Vô đây kẻo mưa.
 
- Học trò xin lỗi lần nữa.
 
Ông thầy kéo ghế, nói:
 
- Ngồi xuống đi.
 
Học trò nghe theo, nhưng vẫn nói:
 
- Học trò xin lỗi.
 
- Không có lỗi đâu.
 
- Có. Lỗi học trò bắt thầy giảng bài tới năm lần. Bữa đó hiểu rồi, nhưng tức, giả vờ nói chưa để bắt thầy giảng. Giảng quá nên thầy mệt. Thầy phát đau. Học trò hối hận lắm. Thầy trách không?
 
- Không. Bỏ chuyện đó đi.
 
- Bỏ chi được. Hôm nay học trò "đền" thầy một buổi tới thăm, với một bịch cà phê.
 
- Trời đất. Đau mà cho uống cà phê.
 
- Để lành rồi uống. Hợp lý không?
 
- Hợp lý.
 
- Thầy hết giận học trò rồi nghe?
 
- Nghe.
 
- Chắc?
 
- Chắc.
 
Rồi học trò về. Thầy trở vô giường nằm. Như thế đó. Nhưng như thế là như thế nào? Ông thầy nghĩ ngợi điều đó rất dữ. Nghĩ, buồn. Những người đàn bà đã đi qua đời thầy, một thời, như những cơn lại nồm tàn bạo. Đi qua. Rồi hết. Không để lại một dấu tích. Không chứng cứ. Cõi miền tình yêu bỗng trở nên im sững, bất động, giẫy chết. Nhưng yêu một người đàn bà khác hơn yêu một cô bé. Quang Dũng có mấy câu thơ : Lòng trai ba mươi. Vui như trẻ lên mười. Yêu hơn tuổi mười bảy... Tuổi ba mươi thì còn lâu ông thầy mới tới. Tuổi mười bảy thì qua rồi. Ngó tới. Trông lui. Tuổi thầy lưng chừng giữa hai giới hạn đó, nhưng không hiểu sao thầy bỗng yêu ghê gớm. Lòng yêu rộn ràng như bông gạo một mai rụng rớt đầy đường. Chính là tình yêu rớt. Chính cô bé là ngọn gió nhẹ rung. Tình yêu lay. Ông thầy chới với. Cô bé nhập nhòa.
 
Cô bé tới thăm. Cô bé bỏ về. Ông thầy khỏi đau. Ông thầy tiếp tục đi dạy. Đã có những câu chuyện kể xen vào giữa giờ học. Đã có những bài thơ tình được ngâm nga. Đã cất bộ mặt lầm lỳ. Đã lộ ra bản chất tự nhiên. Đã có, thỉnh thoảng, vài lần hò hẹn. Đã có vài lần thỉnh thoảng cô bé khoanh tay đứng trước mặt thầy, nói:
 
- Thầy cho học trò đi uống cà phê đi ạ.
 
Lúc đó, ông thầy sẽ khoát tay:
 
- Bậy bạ. Học trò không được uống cà phê với thầy. Luân lý cấm.
 
Luân lý? Nói là để nói chơi. Không bao giờ ông thầy nghĩ tới luân lý đạo đức. Trái lại, ông thầy còn kiêu mạn, dẫm chân lên. Nói : Ta sống cho ta. Bất cần thị phi. Sống. Ăn. Ngủ. Đi rông. Mơ mộng. Đau khổ. Buồn bã. Vui sướng. Yêu... Ta sống cho ta. Mặc kệ thị phi. Ta sống cho ta. Không lý tới tha nhân. Khi vui, cười to một tiếng. Lúc buồn, hét tướng vài câu. Ta sống cho ta.
 
- Đi. Thầy cho học trò đi uống cà phê đi.
 
Đi. Đi. Đi đi. Ông thầy dại dột đến độ thích thú để tuân theo. Không cần cấm cản. Không cần tự chế. Mở ra để rước vào. Rước vào tiếng chim sơn ca thánh thót. Rước vào những khuôn trăng đêm rằm vằng vặc. Và rước vào mơ ước trắng hồng như bông lài bông huệ. Ơi cô bé tóc dài buông che. Ơi cô bé tay hồng lông măng sữa!
 
Và, dĩ nhiên sẽ đi uống cà phê. Đi ngồi quán. Giam kín hồn tại đó. Đi. Rồi còn đi nữa. Không cưỡng được, xếp sách vở lại. Đi. Đi uống cà phê. Đi kể chuyện những chàng thi sĩ đói rách làm thơ tình trên những ống khói. Đi nói chuyện có con bướm vàng, chiều vàng, đậu trên khóm cúc vàng.
 
- Thủng thẳng. Đi thì đi.
 
- Không phải thầy sợ à?
 
- Sợ chi?
 
- Sợ đi với học trò người ta bêu cho.
 
- Mặc kệ người ta. 
 
- Ngon dữ.
 
- Chứ sao. Mình sống cho mình. Dư luận là đất. Đất làm thành con đường. Hãy ngẩng đầu, bước lên đó mà đi.
 
Đi một bữa. Ba bữa. Chín mười bữa. Sẽ có chín mười chuyện tuyệt vời, khó quên. 
 
Nhưng, ít thì được. Nhiều quá là có chuyện. Nhiều quá, dư luận sẽ xía vô, sẽ đồn. Dư luận đồn, gia đình sẽ hay. Gia đình hay, sẽ nhân danh luân lý để cấm cản. Cấm cản bằng cách rẽ núi chia sông.
 
Một sáng đẹp trời, học trò buồn bã tới nhà thấy để báo tin : bể rồi. Có đứa chơi ác, mách với ba rằng học trò đi vô quán với thầy. Ba tức. Ba bắt học trò lên Đà Lạt học. Đi gấp. Bao giờ đi? Mai.
 
Mai? Ông thầy ngạc nhiên hỏi. Học trò gật đầu. Thế đã xếp đặt chưa? Rồi. Rồi là rồi. Xa rồi. Hết rồi. Phải không?
 
- Thôi. Mai thầy đưa học trò ra bến xe.
 
Học trò lại gật đầu, muốn khóc. 
 
Ông thầy đóng mạnh  cánh cửa màu xanh.
 
*
 
5 giờ sáng.
 
Học trò khoác áo choàng nhung tím, nón nỉ, quần "bát" xám. Thầy mặc chiếc len nâu. Hai thầy trò đang đi trên đường.
 
Học trò ôm cặp. Thầy xách giúp chiếc xắc, miệng môi phì phèo thuốc lá.
 
Trời mưa lất phất. Khối sương mù ít, loãng, vờn quanh, bị gió đẩy trôi là đã dạt về hướng ngọn đồi.
 
Quán T.N. Hai phin đen.
 
Đây là tách cà phê chót, học trò uống với thầy. Cô bé nói thế. Thầy im lặng.
 
Một lát, thầy đọc thơ René Char cho học trò nghe : ne regardez q'une fois la wague jeter. L'anere dans la mer.
 
Học trò nói học trò đi xe chứ không đi thuyền. Thầy đừng nói tới sóng và biển. Buồn. René Char kệ René Char.
 
Thầy không nói nữa.
 
Một lát.
 
- Đây là tách cà phê chót.
 
Cô bé lập lại. Thầy giả vờ cười.
 
- Học trò lên trên đó không được học thêm ai nữa nghe?
 
- Nghe.
 
- Không được cứ rủ ông thầy khác đi uống cà phê nghe?
 
- Nghe. 
 
- Nghe sao? Nói lại coi.
 
- Không được đi uống cà phê với ai. Chỉ đi với thầy này.
 
Cô bé chỉ vào ông thầy : này, này.
 
Ông thầy nói hứa đi. Cô bé gật gật, hứa.
 
Một lát. Cô bé hỏi:
 
- Dặn xong chưa?
 
- Xong.
 
- Giờ đến lượt học trò dặn.
 
- Dặn đi.
 
- Ở đây thầy không được đi dạy thêm ai nữa nghe?
 
- Nghe.
 
- Không được rủ học trò khác đi uống cà phê với thầy nghe?
 
- Nghe.
 
- Thầy đọc định đề Euclide đi.
 
- Từ một điểm ngoài một đường thẳng ta có thể vẽ một đường thẳng khác, thẳng góc với đường đã cho, và chỉ một mà thôi.
 
Cô bé nhắc theo định đề đó:
 
- Một ông thầy có thể "quen" một cô học trò, và chỉ một mà thôi.
 
Cả hai cùng cười.
 
6 giờ sáng.
 
Ngồi quán một giờ. Hai thầy trò lại ra đi ngơ ngẩn trên con đường. Trời mưa có hột.
 
Cô bé khe khẽ đọc thơ Nguyên Sa : Mai tôi đi chắc trời mưa. Tôi chắc trời mưa mau. Mưa thì mưa chắc tôi không bước vội. Nhưng chậm thế nào rồi cũng phải xa nhau...
 
Ông thầy nói:
 
- Không được "tôi". Không được lạm dụng chủ từ. Phải đọc là học trò.
 
- Dạ. Học trò.
 
Bến xe. Người đàn ông ngồi ghi vé sau quầy. Khoản tiền thối lại được ông thầy nhét vào cặp da của học trò. Dãy quán bên kia đường, phía trước những nồi soups sôi ùng ục thổi lên nghi ngút từng vệt khói xám vẽ thành các vòng tròn. Hai người cùng ở trên một vòng tròn nếu bỏ công tìm nhau chắc có ngày cũng gặp. Nhưng lâu. Những chuyến xe chờ sẵn với ì ầm tiếng động cơ nổ bao giờ cũng có chia ly.
 
Cô học trò nhắc cho ông thầy lơ ngơ nhớ điều đó:
 
- Thưa thầy. Học trò sắp xa thầy.
 
Ông thầy ngó lơ về phía núi. Hai giọt nước mắt thật đẹp bịn rịn ứa ra khỏi riềm mi mắt đen, từ từ lăn xuống, đậu lại trên đôi má bầu bĩnh của cô học trò mới lớn. Ông thầy ổng ngó lơ là phải.
 
- Thưa thầy...
 
- Thầy với bà. Đi đi. Ngoan.
 
Cô học trò cúi đầu.
 
- Học trò sẽ ngoan như thầy nói.
 
- Cười đi.
 
- Thầy ác lắm. Buồn "thúi ruột" mà biểu cười.
 
- Khóc đi.
 
- Ai lại đứng giữa bến xe mà khóc. Dị lắm.
 
- Thế thì đi đi.
 
- Lên trên đó học trò viết thư về liền liền. Thầy chờ không?
 
Một phút.
 
Xe rồ máy. Cô học trò ngỡ như tim mình đập nhịp tư.
 
Số ghế 13. Cô học trò ngồi xuống. Số xui.
 
Anh lơ xe hô lớn:
 
- Đà Lạt. Chạy.
 
Xe chồm tới. Một bàn tay con gái thò ra khỏi ô cửa, vẫy vẫy. Mới thoáng nhìn một chút, xe đã vụt đến gần chân cầu. Ông thầy chợt ngơ ngác đưa mắt ngó tìm quanh bến xe nhưng chẳng thấy cô học trò đâu. Chỉ thấy lơ ngơ thiên hạ quay về. Và thấy mưa.
 
 
LÊ MIÊN TƯỜNG      
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 63, tuần lễ từ 10-8 đến 17-8-1972)
 

Chủ Nhật, 20 tháng 7, 2025

CÒN LẠI ÂM THẦM MỘT THOÁNG HƯƠNG

Hân đứng lên, nghẹn ngào nói:

- Thưa cô, tụi em tha thiết xin cô ở lại đây vào mỗi vụ nghỉ hè, trước ngày bãi trường vài hôm, để xem lại mấy cây phượng vĩ của ta.

Cả lớp đều thấy một cục tròn như viên đạn, chạy lên chạy xuống dưới làn da cổ của Mỹ, Mỹ cố can đảm vì biết rằng, hễ nàng mà khóc thì cả lớp sẽ òa lên khóc như nhà có đám ma, vì phái nữ rất dư nước mắt. Đó là kinh nghiệm của bản thân.

Một nữ sinh khác, Loan, đứng lên đề nghị:

- Thưa cô năm tới hay năm tới nữa, cô có con đầu lòng, xin cô đặt cho em ấy tên là Diễm Phượng, tụi em về sau cũng vậy.

Cả lớp rộ lên mà cười.

Mỹ cũng cười nên khí hậu đổi màu sắc tức khắc. Mỹ cười vì nàng biết chắc rằng đề nghị của Loan không phải do tinh thần cởi mở của con gái đời bây giờ chi phối, mà chỉ vì Loan còn quá ngây thơ nên mới bạo miệng về chuyện lấy vợ lấy chồng ấy, trẻ con bảy tám tuổi vẫn thường chơi trò đám cưới một cách ngây ngô, không ẩn ý, không tà tâm. Loan cũng vậy, vì Loan chỉ là học trò lớp đệ ngũ mà thôi.

Duyên, cô học trò cao niên và to lớn nhứt lớp, rất có vẻ trưởng thành, ngồi tuốt dưới băng chót nói to:

- Rất là bất tiện. Xứ nầy sẽ có một thế hệ nữ sinh mà cả lớp đều mang tên Diễm Phượng, quí vị giáo sư sẽ lầm lẫn chết. Nào là Đào Diễm Phượng, Lê Diễm Phượng, Trần Diễm Phượng, Hồ Diễm Phượng, Ngô Diễm Phượng, Đinh Diễm Phượng, Tô Diễm Phượng, vân vân lộn xộn quá đi.

Mỹ đợi nửa phút cho sự im lặng trở lại rồi nói:

- Diễm Phượng không ổn. Tiếng Phượng phải đi với tiếng Vĩ thì nó mới có nghĩa loại cây mà các em thích. Chữ Phượng một mình trong tiếng kép Diễm Phượng có nghĩa là con phượng đẹp chớ không phải là cây phượng vĩ đẹp như các em nói đâu. Nhưng con phượng đẹp lại sai văn chương vì phượng là chim trống, hoàng là chim mái, Diễm Hoàng thì có, chớ giống đực thì không nên "Diễm" chút nào.

Loan cố nài:

- Nhưng Diễm Phượng kêu lắm mà kêu nghe rất hay thì ổn hay không, em thấy không quan trọng, cốt là ta hiểu với nhau rằng Diễm Phượng là cây phượng vĩ đẹp là đủ rồi, không cần người khác tán thành là đúng hay chê là sai.

Mỹ gục gặc đầu, thầm cho rằng cô bé Loan hữu lý.

Buổi học chia tay để vĩnh biệt vị nữ giáo sư Bùi thị Mỹ nầy cứ xoay quanh cây phượng vĩ, mặc dầu sinh hoạt chánh hôm nay của lớp đệ ngũ A2 là lễ ra mắt tờ bích báo "Hoa Nắng".

Học trò lớp đệ ngũ A2 đã xin phép soạn tờ bích báo nói trên, để làm văn nghệ hè, mà cũng để gián tiếp tỏ lòng cảm mến vị nữ giáo sư của họ sắp đi vĩnh viễn, cô ấy cũng ham văn nghệ y như các em.

Chính cô ấy đã dạy các em hai trò chơi mà cô rất thích hồi còn học ở Gia Long: đề thơ trên lá khuynh diệp và ép hoa, ép lá vào một tập vở đặc biệt.

Nhặt lá rụng hong thơ sầu trong nắng là một câu thơ của ai, Mỹ không còn nhớ nữa nhưng cứ ngâm lên mỗi lần khắc thơ trên lá khuynh diệp xanh rồi đem phơi, hồi còn ở Gia Long và đã truyền cả trò chơi lẫn câu thơ cho học trò của cô.

Lớp học được trang trí bằng một cành phượng vĩ vĩ đại mà các em đã thức hồi năm giờ khuya để đi đốn rồi khiêng vào lớp, trồng giữa hai bàn dài kéo sát đầu lại với nhau. Quanh gốc phượng vĩ thật mà giả này, là một bó hoa ngọc nữ trắng, nhị đỏ gồm năm mươi mốt bông, con số đó là nữ sinh của lớp học, mỗi em đem đến một cành ngọc nữ chỉ mang một đóa hoa độc nhứt mà thôi.

Cô Mỹ lại mặc áo đỏ màu hoa phượng vĩ. Tờ bích báo "Hoa Nắng" công phu của hai tháng trường thức đêm của các em bị bỏ quên phần nào và nhơn vật chánh bất ngờ của cái buổi họp mặt cuối cùng nầy là cây phượng vĩ.

Phượng vĩ trổ hoa đúng vào mùa nghỉ hè, một giai đoạn đời học sinh rất là quan trọng vì ba tháng sau, trở lại trường cũ thì đã có vài chị bạn thôi học vì gia cảnh hoặc bị tử thần đưa sang thế giới khác rồi. Còn nói chi ở các lớp cuối một cấp như lớp đệ tứ và lớp đệ nhứt thì chắc chắn là họ không bao giờ gặp lại nhau nữa, sau buổi chia tay cuối cùng.

Hoa phượng vĩ đỏ tươi nhưng lại không tượng trưng cho niềm vui mà lại là biểu hiệu của nỗi buồn của cả một lớp người trong toàn quốc. Văn thơ của học sinh ta tràn ngập danh từ phượng vĩ khiến người lớn ngấy ra mà buồn cười, nhưng các cô cậu nói đến phượng vĩ không phải là dùng sáo ngữ đâu mà họ rất thành thật đó.

Hay tin người giáo sư Việt ngữ của họ thôi dạy học sau vụ hè nầy, các nữ sinh lớp đệ ngũ đã trồng nơi sân trường năm cây phượng vĩ từ nửa tháng nay hầu kỷ niệm một niên học mà cả giáo sư lẫn học trò đều hay nói đến cây phượng vĩ.

Lạ quá, ở miền Nam, trừ thành phố Sài Gòn ra còn thì các nơi khác rất ít thấy phượng vĩ, muốn có phải cố mà trồng và hình như sân trường trung học nữ nào ở miền Nam nầy cũng được các cô học trò đa cảm trang trí bằng vài cây phượng vĩ.

- Nhá cô nhá ? - Loan lại cố nài.

- Cô sẽ nhớ mãi lời các em.

*


Nghỉ hè rồi mà trời còn nắng đổ lửa nên các nữ sinh nhà ở gần trường Sĩ Nhiếp thay phiên nhau vào ngôi trường hoang lạnh để tưới năm cái cây mà họ trồng giữa mùa nắng trên một đám đất gò khô.

Năm ấy, cả năm cây đều thoát chết !

Lớp đệ ngũ A2 cũng không thiếu mất một người khi biến thành đệ tứ A2 sau vụ hè.

Đó là một lớp gồm toàn con nhà khá giả nên họ sẽ đi tới đệ nhứt hết lớp, trừ vài cô đi lấy chồng sớm, vài cô vắn số. Họ không có dịp hay chưa có dịp "bùi ngùi phượng chia ly", nhưng họ vẫn quý cây phượng vĩ, vì đó là cái điện cực của tình cảm học trò con gái.

Họ làm quen với người nữ giáo sư Việt ngữ mới và bắt đầu thương mến cô nầy như đã thương mến cô Mỹ, nhưng cứ săn sóc năm cây phượng "của ta", ta đây là kể cả họ và người nữ giáo sư đã đi xa.

Giữa người ấy và họ bắt đầu một cuộc trao đổi thư từ ngay từ trong vụ hè và cô Mỹ được cho hay tin tức về năm cây phượng mỗi tuần, y như là đó là những đứa con mà cô gởi vú nuôi, người vú tốt bụng lắm, không phải chỉ làm việc ăn tiền, mà có để cả tấm lòng của chị ta trong công việc.

"Cô ơi, giếng xa quá như cô biết, giếng cũng sâu quá, kéo nước thật mỏi tay, xách nước đi mỏi chân lắm, nhưng tụi em quyết cứu sống năm cây phượng "của ta".

...........................

Cô ơi, tuần rồi thật là hú vía. Cây phượng bên trái cửa ngõ nó ngủm cù đèo nhưng may quá, tụi em tưới mỗi ngày bốn bận, còn chặt tàu chuối để che cho nó nữa nên rồi nó tươi trở lại....

............................

Cô ơi, hè tới cô về chắc năm cây phượng "của ta" đã lớn lắm rồi tuy nó chưa cho được bóng mát, nhưng có thể giúp cho mát mắt người nhìn ra sân...

... Cô ơi, cô giáo sư mới, người thay thế cho cô, cũng ưa phượng lắm, cô ấy định sẽ cùng tụi em trồng thêm; nếu thế, trường "của ta" nên đổi là trường "Phượng Vĩ" là hơn. Mà có lẽ dân chúng họ sẽ gọi như vậy, chớ cái tên Sĩ Nhiếp khó nhớ, họ kêu không được.

....................................."

Những bức thư như trên cứ thưa lần, thưa lần, khiến Mỹ nghe buồn quá, mặc dầu phải trả lời thư cho học trò cũ mãi nàng rất bực mình. Thư thưa lần mà thư cũng lần lần bớt đá động đến những cây phượng vĩ ngỡ là trung tâm vũ trụ ấy.

Mỹ chỉ buồn vài tháng rồi thôi khi nhớ lại chính mình cũng đã bạc tình với những cây khuynh diệp của trường Gia Long mấy năm trước và cũng đã quên được vài người nữ giáo sư mà nàng nguyện sẽ nhớ trọn đời.

Con người ai cũng bận sống. Sống ở đây, không phải chỉ có nghĩa là tìm sinh kế, mà là tìm học, thương, ghét, giận, yêu, bao nhiêu thứ ấy sao mà đông đúc thêm hoài, khó lòng mà trung kiên được với những tình cảm vụn vặt của tuổi thiếu niên.

Những bức thư buổi đầu, Mỹ hiểu được giữa dòng và thấy được sự cà nanh của em nầy đối với em khác: các em tranh giành tình thương của người thầy học cũ.

Nhưng những bức thư về sau, giọng các em bình thản hơn nhiều. Mỹ biết đó là dấu hiệu tiền phong của sự nhạt phai tình cảm của các em rồi vậy. Người ta chỉ bình thản được, hết ghen được khi nào người ta bớt thương và hết thương mà thôi.

*


Bốn mùa mưa nắng đã qua rồi và Mỹ không còn nhận được thư của những người bạn trẻ ở trường "Phượng Vĩ" nữa.

Nàng không bội ước, đặt tên cho đứa con gái đầu lòng là Diễm Phượng, mặc dầu cha nó cả quyết cản ngăn vì cái nghĩa không ổn của danh từ. Không bội ước, không phải vì Mỹ nuôi nấng ảo tưởng nào đâu. Nàng biết rằng các em học trò cũ của nàng chỉ tiếp tục tưới năm cây phượng vĩ ấy trong suốt hai mùa nắng rồi thôi, vì cây đã mạnh rồi, mà nhứt là vì các em cũng bận "sống".

Không bội ước vì nguyền xưa "còn một chút nầy" nàng là người độc chất còn nhớ được lời nguyền, các em còn lâu lắm mới nên gia thất và chừng ấy "Diễm Phượng" đã bị bao cái tên khác cướp mất chỗ rồi, chẳng hạn tên một người yêu vắn số, tên một người yêu không cưới được em nào, vì trắc trở nào đó - người độc nhứt là nàng không có quyền bỏ trôi luôn thệ ước xưa.

Mỹ không nuôi nấng ảo tưởng nào cả nhưng vẫn nuôi dự định về Chợ Búng một chuyến để thăm lại cố nhân, cố cảnh.

Sài Gòn - Chợ Búng là một lộ trình chỉ tốn vài mươi đồng bạc xe mà thôi nhưng nàng không còn một phút hoàn toàn là của nàng để đi cái chuyến đi dự tính ấy.

Năm nay nàng đã đi được rồi đây. Mỹ chuẩn bị rất nhiều ngày, quà cho bạn cũ chẳng có gì đáng kể đâu, mà chuẩn bị tấm lòng, cho bõ cái tội ít thư từ với các em ngay cả năm đầu cũng vậy.

Đến cái tuổi nào đó trong đời con người, tự nhiên người ta đâm ra lười viết thư; các em chắc không hiểu cái điểm đó và chắc đã giận nàng lắm.

Mỹ đi Bình Dương hai tuần trước ngày bãi trường, mong thấy lại được nguyên vẹn cái khí hậu của ngày ấy bốn năm về trước với mầu sắc, mùi vị, âm thanh cũ, thay đổi theo mùa chớ không phải tháng nào cũng có thể nghe trong gió mùi bông bưởi, tháng nào cũng thấy màu lá mạ non đâu.

Xuống xe đò tại đầu con ấp lộ trải đá đỏ đưa vào trường, nàng đứng đó, lòng rộn vui khi thấy cái quán bánh bèo bì Mỹ Liên ở cạnh đầu lộ vẫn còn buôn bán như xưa.

Cái quán này tàng trữ kỷ niệm của thầy trò họ mấy năm trước. Khách sang của quán nầy là dân Sài Gòn, nhưng khách quen của quán là học trò trường nữ trung học Sĩ Nhiếp và giáo sư của họ.

Mỹ đếm bước trên đường đá đỏ mà ở hai bên nhà cửa vẫn còn đủ số. Ngôi nhà đồ sộ của ông cụ chơi non bộ vẫn cứ đặc biệt với pho tượng cẩm thạch một cô gái khỏa thân, lối trang trí sân nhà của Âu châu mà xứ ta rất là hiếm có.

Rồi tim Mỹ đập thình thình khi thấy dạng hàng dừa quen thuộc ớ đàng xa.

Hàng dừa nầy trồng ở bờ một con rạch con; sang tới bên kia rạch còn phải qua một thửa ruộng bắp nữa mới tới trường.

Đây là hàng dừa danh tiếng đối với nữ sinh Sĩ Nhiếp, nhứt là cây dừa thứ năm.

Cây dừa thứ năm nhìn rạch, soi bóng xuống mặt nước. Một nếp nhà xinh xắn núp bóng cây dừa thứ năm ấy. Đó là nhà riêng của một nữ sinh, học trò của nàng, em nầy nhà ở xa đây, cha mẹ em là người có của nên mới mua cho em nếp nhà đó để em đỡ nhọc đi, về, mỗi ngày hai buổi đường xa.

Cây dừa thứ năm nổi danh tức khắc vì bạn đồng song của cô chủ nhà tí hon và cả giáo sư của cô nữa, thường ghé nghỉ chơn nơi đây, núp nắng, đụt mưa, nói chuyện khào.

Cảnh vật y hệt như cảnh năm nào, nhưng Mỹ hơi lo lo vì cùng lúc ấy, nàng thấy có khói lam quyện lấy mái tranh của nếp nhà "cây dừa thứ năm", thấy bóng dáng người lớn và trẻ con.

Nàng mau bước tới đó, nhìn vào nhà thì bao nhiêu gương mặt lạ ở trong đó đều nhìn lại nàng. Mỹ đẩy cổng bước vào sân, một con chó vện núp đâu đó, sủa lên thình lình. Nàng hỏi một đứa bé ra sân đuổi chó:

- Em nè, cô Diệu, nữ sinh trường đàng kia, còn ở đây chớ ?

- Thưa cô không. Cô ấy đã đi lấy chồng năm ngoái. Nhà nầy đã bán lại cho ba má em.

- Lấy chồng về đâu em ?

- Dạ em không biết.

- Thôi cám ơn em nhé.

Mỹ vội trở gót rồi ra tới cổng, nàng thẫn thờ đứng lặng hồi lâu. Giờ nầy, nếu Diệu còn theo học ở trường Sĩ Nhiếp thì hẳn Diệu đang ngồi trong lớp. Thế nên Mỹ không định ghé qua nhà Diệu trước, nhưng mà phải ghé vì người lạ trong nhà khiến nàng đâm nghi có "tang thương" qua đây. Quả có "tang thương" thật, "tang thương" đối với nàng ấy, chớ đi lấy chồng là một điều tốt đẹp cho cô tú tài I Diệu.

Mỹ băn khoăn tự hỏi không biết năm nay Diệu có tự học để thi nốt bằng tú tài hay chăng, và nhứt là băn khoăn về cái chốn xa mà có lẽ Diệu đã đến ở vì chồng em ấy sinh sống ở đó, Định Tường chăng ? Hay Kontum ?

Mà biết đâu lại chẳng là Sài Gòn.

Ai cũng bận sống nên có thể cùng ở một thành phố với nhau mà Diệu không tới thăm nàng được. Thời kỳ trăng mật có thể kéo dài một năm, mà trong thời kỳ ấy người con trai con gái sẵn sàng quên tất cả để hưởng hạnh phúc riêng của họ.

Mỹ lặng lẽ bước qua chiếc cầu gỗ dẫn vào ruộng bắp, mặt ngước lên nhìn cái cây chết trơ cành, đứng giữa ruộng từ không biết bao nhiêu năm rồi mà chưa ngã. Cho đến cái cây chết nầy mà cũng còn đây, chơn trời quen thuộc xưa không thay đổi chút nào cả.

Từ nãy giờ, nàng cố tránh "thấy" ngôi trường, để dành cho chính mình, không phải sự ngạc nhiên, bởi nàng biết rằng không có gì thay đổi bao nhiêu, mà một cuộc thưởng ngoạn khoái mắt vào phút chót. Ngôi trường Sĩ Nhiếp là cây đinh của cuộc đi chơi hôm nay, cái đích của cuộc hành hương, nếu muốn nói lớn lối.

Mỹ chỉ dạy ở đây có hai năm, nhưng cũng đã quá thân lắm rồi với ngôi nhà gạch xinh xắn ấy, với cái bối cảnh sau trường: một bãi tha ma và bên kia bãi tha ma là một khu rừng.

Đó là một người bạn gần như thân, người bạn ấy lại che chở những người bạn rất thân đang chuẩn bị thi tú tài đôi và đang dọn lòng để vĩnh biệt người bạn chung ấy.

Mỹ đã để lại nơi nầy một phần tấm lòng nàng và mang theo những mảnh lòng thơ dại của các em nhỏ dễ thương, gói trong hình bóng rộng lớn và mơ hồ của ngôi trường mà nàng quyết chỉ "thấy" vào phút chót mà thôi.

Mỹ ngước lên và nàng được thấy.

Có ai đốt lửa trại giữa ban ngày ngoài sân trường. Không, đó là năm cây phượng vĩ đã lên bông, cả năm cây đều lớn như thổi y như học sinh qua cái tuổi mười hai và cả năm cây đều cháy bừng bừng.

Mỹ lại dừng bước, tim đập thình thịch trong lồng ngực nàng. Nàng xúc động đến ứa nước mắt nhưng lòng lại rộn ràng, vừa muốn chôn chân nơi đó để nhìn đuốc phượng, lại vừa nôn nao tới trường để gặp lại những cô bạn mà chắc có cô đã cao hơn nàng đến nửa cái đầu. Các em đã trồng năm cây phượng vĩ, không phải là sự tình cờ đâu. Số học sinh trong lớp đệ ngũ A2 năm ấy là 51. Không lẽ trồng đến năm mươi mốt cây ? nên họ chọn số 5 làm biểu tượng vậy.

Mỹ cố tự trấn tỉnh rồi mau bước đến cổng trường.

Nàng gặp nơi sân, chị gác-dan ngày trước. Chị ta kiêm luôn chức vụ lao công và đang ngồi chồm hổm mà nhổ cỏ. Chị ta bỏ việc ngước mặt lên nhìn người khách lạ giây lát rồi đứng lên gọi:

- Cô !

- À chị Tư ! Mạnh giỏi !

- Trời, lâu quá cô mới về đây ! Cô cũng mạnh giỏi ?

- Cám ơn chị. Ở đây có gì thay đổi hay không ?

- Dạ không cô à.

- Để tôi đi thăm các lớp một lát rồi sẽ nói chuyện với chị nhiều hơn.

Vào giờ nầy, học sinh lớp nào cũng đang học. Trên lý thuyết thì như vậy chớ thật ra, các em đang nghe giáo sư kể chuyện cổ tích, hoặc đang làm giặc trong lớp. Còn có bốn hôm nữa là trường làm lễ phát phần thưởng thì còn học tập gì, và các em đã nghỉ chơi như vậy cả tuần, cả tháng rồi, tùy lớp. Biết thế, Mỹ vẫn giữ lễ độ đi thăm ông hiệu trưởng trước, để rồi xin phép ghé qua các lớp mà nàng đã dạy học năm xưa, nhứt là lớp đệ ngũ A2, à quên, lớp đệ nhứt A2.

Khi Mỹ gõ cửa văn phòng ông hiệu trưởng, cửa nầy vốn không đóng, thì nàng thấy ông ấy là người lạ, trẻ hơn ông hiệu trưởng ngày trước nhiều. Mỹ đã liếc sơ vào mấy lớp nàng đi ngang qua và thấy giáo sư toàn người lạ.

- Mời cô vào.

Ông hiệu trưởng nói to lên, và Mỹ vừa bước vô văn phòng vừa xưng tên:

- Thưa ông hiệu trưởng, tôi là Mỹ, nguyên giáo sư trường này cách đây bốn năm.

- Vậy à ? Hân hạnh. Mời cô ngồi.

Mỹ ngồi lên chiếc ghế đặt trước bàn viết của ông Hiệu trưởng và hỏi:

- Thưa ông, chắc đã có nhiều cuộc thuyên chuyển.

- Người cũ không còn ai hết. Mấy ông và mấy cô dạy học ở đây hiện nay, chưa ai tới đây quá hai năm.

- Thế ra, tôi sẽ không còn gặp đồng nghiệp cũ nào hết ?

- Chắc là như vậy.

- Nhưng tôi cũng xin phép ông đi thăm mấy lớp mà tôi đã dạy qua.

- Xin mời cô. Cô thứ lỗi cho vì cô phải đi một mình, tôi bận chuẩn bị cho thật chu đáo lễ phát phần thưởng.

- Không hề gì, ông hiệu trưởng cứ làm việc. À lớp đệ ngũ, à không, lớp đệ nhứt A2 nằm về hướng nào, thưa ông hiệu trưởng ?

- Lớp đệ nhứt A2 ? Không, không có lớp đó.

- Sao lại không, thưa ông ?

- Lớp ấy đã bị giải tán rồi.

Mỹ chết sững giây lát rồi ấp úng:

- Các em... đã... làm gì ?

- Không, các em không có làm gì tội lỗi hết. Chẳng, có hai mươi lăm em rớt tú tài I rồi thôi học, một em thì điên đang được điều trị, hai em qua đời...

- Trời !

- Ừ, một lớp học, đi tới cuối chu kỳ là hao hụt hết năm bảy học sinh vì họ yểu tử. À hai em qua đời, tám em đi lấy chồng, bốn em đi làm, còn lại mười một em thì các em ấy lại xuống Sài Gòn để theo học lớp đệ nhứt ờ dưới ấy.

- Trời !

- Chắc cô buồn lắm nhưng đời các lớp học là thế, biết sao.

Mỹ tần ngần đứng lặng hồi lâu rồi xin phép ông hiệu trưởng để đi. Nàng thất thểu bước xuống sân, quên thăm mấy lớp khác mà tuy học trò không gắn bó nhiều với ràng, chớ giữa thầy trò vẫn có tình mà tình chưa phai nơi lòng vài em.

Nàng lủi thủi đi trên sân, quên cả chị gác-dan nhổ cỏ có lẽ cũng đang đợi nàng trở ra. Người nữ lao-công ấy là nhơn chứng độc nhứt còn sót lại của những năm nàng bắt đầu vào đời ở đây. Nhưng đó là một nhân chứng thờ ơ, quả chị ta có mừng đón nàng, nhưng nàng biết chị ta xem cuộc ở, đi, còn, mất, của các giáo sư, các lớp học, không dính dáng mảy may đến chén cơm của chị, không ghét ai mà cũng chẳng thương ai.

Tới ruộng bắp, Mỹ xây lưng lại để nhìn lần cuối cùng cái nơi không còn mang dấu vết nào cả của một đoạn đời của nàng.

Không còn gì hết !

Hay là còn, đó là hình bóng xa mờ của những em bé áo dài trắng, đầu đội nón lá, đi trên các bờ ruộng quanh trường, đó là hình bóng của những cánh diều vào mùa gió, những cánh diều đã được nói đến rất nhiều trong tờ bích báo "Hoa Nắng".

Bỗng một mùi phân chuồng thoang thoảng đâu đây. Mỹ nhìn lại thì thấy cái chuồng bò nơi góc ruộng bắp ngày xưa vẫn còn. Cái chuồng bò này chỉ có nàng và vài nữ sinh thi sĩ chú ý mà thôi.

Mùi phân chuồng thơm chớ không hôi đâu. Nó thơm hương đồng áng, hương của một nông trại hẻo lánh nào, hương ấm của một gia đình nông dân đủ ăn.

Tự nhiên Mỹ nhớ đến hai câu thơ mà tên tác giả vụt thoát khỏi ký ức nàng vì nàng đang bị xúc động mạnh:

Về đây rồi nhạt dần duyên sắc,
Còn lại âm thầm một thoáng hương.


Mấy đoạn đời qua của nàng chỉ còn lại ảo ảnh, kể cả đoạn đời gần nhất nầy nữa ?

(Ý truyện cô Hạnh)   
Tuần báo Gia Đình - 1967

(Trích từ tập truyện ngắn Diễm Phượng)