Đây là thời gian chàng dưỡng bệnh. Bệnh tim vừa mới bộc phát, từ hơn hai tháng nay.
Vì ở một thị trấn lớn, quá ồn ào náo nhiệt và khí hậu nơi đó không thích hợp cho việc chữa trị của chàng, nên chàng phải rời đó đến nhà của một người cô ở một tỉnh nhỏ. Ngôi nhà mà chàng đang ở là một ngôi nhà cổ từ hồi Pháp thuộc, tọa lạc trên một khu đất rộng xa thành phố, biệt lập. Con đường rất ít xe cộ và người qua lại nên thật yên tĩnh. Xung quanh nhà được bao phủ bởi các lại cây ăn trái và phía trước có một vườn hoa. Căn nhà có được sinh khí là nhờ vườn hoa ấy. Có đủ các loại hoa, đủ màu, đủ sắc thi nhau nở rộ theo bốn mùa của trời đất. Và bây giờ những cành Tigôn đỏ đã bắt đầu đơm bông.
Chàng chỉ về đây chưa đầy một tháng, thế mà chàng tưởng đã lâu lắm. Thời gian như dài ra bởi sự nhàn hạ của chàng. Căn nhà thì quá rộng so với số người ở trong đó, nào là phòng khách, phòng ngủ, phòng ăn, phòng học, thật ngăn nắp. Chàng đếm được tất cả là sáu phòng, duy phòng của chàng và phòng của người cô đang ở là có hơi hám của con người, còn những phòng khác trông hiu quạnh vô cùng. Nhà vỏn vẹn có bốn người. Cô Bích thì suốt ngày buôn bán ngoài chợ, hai đứa con cô ấy đi học ở một trường đạo nội trú chỉ về nhà ngày thứ bảy và chúa nhật. Đôi lúc chàng thèm được nói chuyện, thèm được vui đùa nhưng chẳng có ai ngoài con chó Tây cũng buồn rầu xích ở góc nhà kia.
Suốt ngày chàng chỉ biết nằm dài trên giường nhìn lên trần nhà, đọc sách, nghe một vài bản nhạc, rồi ngủ, rồi uống thuốc. Bữa ăn thì có người mang cơm từ tiệm đến. Dù sung sướng đến thế nhưng chàng vẫn thấy khó chịu trong người. Chàng vốn thích rong chơi hoạt động, thế mà phải tự nhốt mình trong bốn bức tường hẹp, mọi cử động, đều điều độ, rập khuôn như những định lý toán học, thì không có gì buồn thảm cho bằng.
Ngày ngày vào buổi chiều, chàng thường ra ngoài, quanh quẩn trong vườn hoa, chàng sửa lại những cành hoa xiêu gãy, cắt xén những là già héo úa. Đây cũng là cái thú tiêu khiển duy nhất của chàng trong lúc chữa bệnh và giết bớt thì giờ thừa thãi nhàm chán. Thỉnh thoảng chàng bắt gặp những tia nhìn lạ lẫm về chàng của khách qua đường và chàng có cảm tưởng chàng là một nhà tu khổ hạnh, hay lú lẫn như một ông già trăm tuổi, vì cái thú chơi hoa ngắm nguyệt chỉ dành cho những cụ già tóc bạc. Còn chàng, chàng còn quá trẻ để tìm đến các cuộc vui khác đang chực chờ mời gọi. Nhưng chàng không buồn, chàng vẫn thản nhiên làm việc. Làm việc như một tập quán cần thiết, như người ta phải súc miệng rửa mặt hoặc uống café vào buổi sáng...
Cho đến một hôm khi những cành Tigôn bắt đầu nở rộ, đang đứng bên khung cửa sổ để ngắm nhìn chàng thấy một cô bé học trò trên tay cặp vở, qua lại trước vườn hoa nhiều lần, và dường như cô bé muốn dừng lại. Chàng chợt thấy bâng khuâng, một cái gì là lạ thoáng qua hồn. Chàng vội đóng tất cả các cánh cửa, rồi bắc một chiếc ghế đứng lên nhìn ra khu vườn bằng một lỗ thông hơi qua đầu chàng. Chàng muốn rình xem cô bé định làm gì. Quả nhiên cô bé dừng lại, cô bé láo liên đôi mắt, ngó trước, ngó sau, cong môi bậm miệng và thò cánh tay vào bờ giậu. Chàng thích thú hồi hộp chờ đợi. Đây là lần đầu tiên chàng thấy khuôn mặt và cử chỉ sợ hãi của một tên trộm vặt lúc hành nghề.
Vì cái lỗ quá nhỏ và cô bé lại khuất một bên nên chàng phải cố gắng nghiêng người nhón gót nhưng vẫn chưa thấy tường tận cô bé đang hái loại hoa nào. Chàng cố thêm, cố thêm chút nữa, nhưng chẳng may chiếc ghế mất thăng bằng, và chàng như một pho tượng nặng nề rơi xuống... Chàng lồm cồm bò dậy mở tung cửa thì cô bé đã vụt chạy đâu mất. Chàng nhìn theo thấy một vài cành hoa, một đôi guốc, rơi cách quãng trên mặt đường và một chiếc cặp sách ngay bờ rào. Chàng vừa buồn cười vừa tiếc rẻ ân hận, nhặt chúng đem chúng vào nhà.
Đến tối khi cô Bích ngoài chợ về, theo thói quen bà gặp chàng ngay để hỏi về sức khỏe của chàng. Khi vừa vào phòng bà ngạc nhiên nhìn chàng thật lâu rồi hỏi:
- Ủa, sao có đồ này ở đây, của ai lạ vậy?
Chàng vẫn còn tức cười trong bụng chưa trả lời được.
Bà hỏi tiếp:
- Của ai vậy, sao lại có chuyện lạ thế này?
Chàng ngồi dậy nở cho bà nụ cười thích thú nói:
- Của một cô bé học trò ăn trộm hoa.
Bà cướp lời:
- Cháu rượt người ta hả?
Chàng chưa kịp trả lời, bà mắng yêu chàng:
- Con trai gì mà cù lần quá sức, không biết ga lăng tí nào. Đáng lẽ phải biết ra hái một cành hoa mà cô ấy ưa thích nhất rồi trang trọng trao cho nàng mới đáng mặt tu mi nam tử. Đàng này lại đuổi người ta như đuổi quái vật. Thật khiếm nhã quá.
Chàng phân trần:
- Cháu đâu có đuổi.
- Không đuổi sao người ta phải bỏ guốc lại?
Chàng phì cười thành tiếng, rồi kể hết đầu đuôi câu chuyện cho bà cô nghe.
Nghe xong bà cô ngẫm nghĩ một hồi, nói:
- Chắc là nó rồi, chắc là con bé ấy rồi.
Chàng giương mắt nhìn bà cô:
- Cô nói sao? Cô bé ấy là ai vậy?
- Cô nhớ ra rồi, mấy năm trước cũng vậy cứ vào mùa Tigôn nở, thì trong vườn mỗi ngày mất một cánh hoa, nhưng chẳng biết ai đánh cắp.
- Không lẽ, cô bé ấy để ý đến vườn hoa này nhiều năm như vậy sao?
- Có thể lắm chứ. Biết đâu có một uẩn khúc nào trong màu hoa ấy khiến cô ta yêu mến nó. Từ nay về sau nếu cô bé có đến hái hoa thì hãy hái cho cô ấy hay để cô ấy lấy tự nhiên đừng làm cô ta sợ hãi nữa nghe.
- Vâng, cháu sẽ nghe lời cô.
Cô Bích mở trong giỏ xách lấy ra một gói trái cây trao cho chàng bảo ăn đi cho khỏe rồi quay lưng đi về phía sau. Chàng cảm động về sự săn sóc chu đáo của cô Bích, dù chàng đã lớn, đã trên hai mươi mấy tuổi đầu, nhưng trong lúc này chàng thấy chàng như còn bé bỏng dại khờ lắm.
Đêm hôm đó, dù chàng đã cố vỗ về giấc ngủ, nhưng không làm sao chàng ngủ được. Chàng nhìn hoài đôi guốc và chiếc cặp da trên bàn. Chàng nhớ lại vạt áo dài, mái tóc đen nhánh, đôi mắt bồ câu to tròn, cặp môi long bướng bỉnh, dễ thương, và cái sự việc buồn cười xảy ra ban chiều. Thêm vào đó những ý nghĩ vu vơ cùng với lời nói của cô Bích "biết đâu có cái gì bí ẩn trong màu hoa đó" càng khơi dậy tính tò mò của chàng, chàng tìm cách dể cô bé trở lại khu vườn.
Sáng hôm sau, chàng lấy một mảnh giấy viết mấy chữ thế này, treo trên bờ rào:
"Cấm hái trộm hoa".
Buổi chiều cô bé đến nhưng hôm nay nét mặt cô bé buồn trộn một chút căm tức. Chàng lại vội vàng đóng cửa đứng trong nhà, nhưng cô bé chỉ dừng lại một thoáng rồi bỏ đi chứ không thèm hái hoa. Chàng buồn bã bước ra ngoài bờ rào, thì mảnh giấy của chàng đã bị tước đoạt, thay vào một mảnh giấy khác của cô bé.
"Cứ hái".
Chàng lại viết một mảnh giấy khác treo lên.
"Cứ hái sẽ bị nhốt lại trong vườn".
Mảnh giấy của chàng lại bị mất thay vào mảnh khác.
"Nhốt lại trong vườn càng sướng, lại tha hồ phá hết vườn hoa".
Thấy cô bé vừa liều lĩnh vừa giận suốt hai ngày chưa hết, một ý nghĩ bất ổn đến với chàng, chàng sợ cô bé chẳng thèm lại đây nữa, thì tội nghiệp cho cô bé và buồn chàng biết mấy, chàng đành chịu thua, chàng không dám chọc tức cô bé và chơi cái trò chơi ấy nữa, nên chiều hôm sau cô bé ngang qua nhà, chàng lơn tơn như một anh hề, tay xách guốc, cặp chạy ra gọi:
- Cô bé, cô bé, cô bé!
Đến tiếng thứ ba cô bé mới quay lại. Chàng vừa nhìn vừa đưa hai tay lên nói:
- Cái này của cô bé!
Cô bé không trả lời.
Chàng hỏi lại:
- Cái này của cô bé?
Cô bé cong môi, hất mạnh mái tóc và vẫn không chịu trả lời.
Chàng cố chọc:
- Không phải của cô bé hả? Thôi tôi mang xuống cảnh sát nhờ đài phát thanh loan báo nghe.
- ???
- Tôi sẽ nhờ họ nói thế này "không biết cô Nguyễn thị Minh Tâm, có gặp một tai nạn nào không mà Cảnh sát Công lộ chúng tôi có nhặt được một chiếc cặp da và một đôi guốc của cô trên đường P.T.G. Nay thông báo cho gia đình đương sự rõ"
Chàng vừa nói dứt câu thì cô bé liền đáp cho chàng một cái nguýt dài và một tiếng "xí":
- Trả đây.
- Ủa, của cô bé hở?
- Trả đây.
- Tôi đâu có mắc nợ cô bé mà đòi dữ vậy?
Trên bờ mi của cô bé nước mắt đã bắt đầu rươm rướm.
Tiếng nói cô bé nghẹn lại:
- Người gì mà ác quá chừng làm người ta mất hồn, rách cả áo dài và không có cặp đi học mấy ngày mà còn chọc tức người ta nữa.
Bỗng dưng chàng thấy nao nao trong lòng. Chàng trìu mến nhìn cô bé:
- Đây này, tôi trả đó, nín đi đừng có khóc.
Cô bé bẽn lẽn cúi mặt cầm lấy.
Chàng tiếp:
- Xin lỗi cô bé nhé?
- Ác thấy mồ.
- Đâu phải tại tôi, tiếng động hôm nọ là do mèo nó rình chuột làm rơi khung ảnh đó chứ.
- Thôi đi, đừng có phịa nữa. Không phải ông định phá cửa để ùa ra đuổi người ta sao?
- Đâu có, tại sao cô bé nghĩ thế? Một cành hoa có là bao. Hơn nữa, trồng hoa để làm gì nếu không để trang điểm, để ngắm nhìn, để cho kẻ khác. Đó cũng là một vinh dự, một niềm vui sướng của kẻ trồng hoa.
- Ông là chủ ngôi nhà này?
- Tôi là quản gia.
- Ông đừng đùa nữa, tôi hỏi thật mà.
- Của cô tôi.
- Dường như ông mới đến đây?
- Sao cô biết?
- Mọi năm tôi đâu có thấy.
- Cô bé ở đây lâu đến thế cơ à.
- Gần mười năm rồi.
Chàng liền nghĩ tới lời nói của cô Bích. Có lẽ cô ấy nói đúng. Chàng hỏi:
- Cô bé thích những cành hoa này?
- Tôi chỉ thích có một loại hoa Tigôn.
Chàng định hỏi tại sao thì cô bé tiếp:
- Ăn cắp có xấu, có tội không hở ông?
Chàng ngập ngừng:
- Không, không có xấu, có tội chi hết, nếu ăn cắp để phục vụ cho một điều thiện.
- Có bao giờ ông ăn cắp gì chưa?
- Có chứ, có đôi lần, nhưng tôi ăn cắp để thỏa mãn nhu cầu và thú tính của tôi, chứ không phục vụ cho một điều thiện nào cả. Chẳng hạn như hồi nhỏ tôi hay ăn cắp tiền của má tôi để ăn quà.
Cô bé nhìn chàng với đôi mắt rưng buồn muốn khóc, chàng vội an ủi:
- Có gì mà khóc, ăn cắp chưa hẳn là một tội mà. Bỏ cái mặc cảm phạm tội ấy đi cô bé.
Cô bé òa khóc thành tiếng. Nghẹn ngào trong nước mắt.
- Ông... Ông làm Tâm nhớ mẹ Tâm.
- Sao? Mẹ Tâm ở đâu mà nhớ?
- Chết lâu rồi...
Một khoảng không yên lặng chĩu xuống hai người. Cô bé đưa mắt xa xăm nhìn lên lưng trời. Buổi chiều xuống thấp, nắng chết đuối trên cành cây. Một luồng gió lạnh ùa tới. Một cụm mây xám bay qua, một vài cánh chim mỏi rời, sau một ngày kiếm ăn bay về núi. Một chút gì xót xa ngậm ngùi vừa đậu lại làm tim chàng nhói đau. Chàng nghĩ đến thân phận tủi hờn của một đứa con mất mẹ.
Người ta thường bảo : Mẹ êm đềm như giòng sông, mẹ bao la như biển cả, mẹ vỗ về ôm ấp và nâng niu chiều chuộng. Mẹ là bóng mát cuộc đời, là thân cây cổ thụ cho ta trú ẩn, nương tựa. Mất mẹ là mất cả bầu trời. Chàng thấy thương cô bé làm sao.
Chàng vừa mân mê cành hoa vừa hỏi cô bé:
- Mẹ Tâm mất lâu chưa?
- Từ hơn tám năm nay.
- Tâm ở với ai bây giờ?
Cô bé không trả lời mà đưa tay lên quẹt nước mắt (dù bên đường có một vài người qua lại) và dường như cái tâm tư u uẩn của cô bé từ trước đến nay chưa được một lần thố lộ, chưa được cùng ai chia xẻ. Nói cũng là một cách để trút bỏ, để vỗ về những muộn phiền đeo đuổi trên vai, nên cô bé thật thà tâm sự với chàng:
- Mẹ Tâm chết cách đây tám năm, hồi đó Tâm lên bảy tuổi. Tâm có nghe mẹ Tâm kể lại rằng : Trước khi mẹ lấy chồng (tức ba Tâm bây giờ) mẹ có yêu một người đàn ông khác. Mẹ bảo, mẹ yêu người ấy và hứa hẹn nhiều lắm, vì đó là cuộc tình đầu đời của mẹ, nhưng chưa cưới nhau được thì người đàn ông ấy qua đời ở một phương xa. Vì người ấy là lính.
Không biết có một cái gì bí ẩn trong màu hoa Tigôn và cuộc tình mà sau ngày người đàn ông ấy chết mỗi năm (dù đã có chồng, có Tâm) vào mùa hoa nở mẹ thường mua một bó hoa Tigôn, dối với ba Tâm là đi thăm họ hàng để đến viếng mộ người đàn ông ấy. Đến năm đó cũng vào mùa này mẹ Tâm cũng mang một bó hoa Tigôn lên phi cơ về một nơi nào đó viếng mộ, nhưng chẳng may một tai nạn máy bay khủng khiếp xảy ra và mẹ Tâm chết trong chuyến bay đó...
Nước mắt cô bé lại chảy thật nhiều. Hồi lâu chàng nói:
- Vì thế mà Tâm yêu loài hoa này.
- Vâng Tâm thích lắm, nhưng còn đi học, Tâm không có tiền, để hằng ngày mua một cành hoa để cúng mẹ. Hơn nữa hoa Tigôn ở đây rất hiếm, nên hằng năm khi cụm hoa này nở, Tâm thường đến đây ăn cắp mỗi ngày một cành để cúng mẹ, như vậy có tội không hở ông?
Chàng vội vã:
- Không, không tội lỗi gì hết.
- Tâm vẫn nghĩ là mình có tội vì ăn trộm đồ của kẻ khác.
Ngừng hồi lâu chàng nói:
- Từ nay Tâm không cần sợ hãi vì ăn cắp nữa, mỗi ngày tôi sẽ tặng cô bé một cành hoa để về cúng mẹ.
Mắt cô bé bỗng nhiên long lanh ngời sáng, như vừa đón nhận một niềm vui, nhìn chàng như thầm cám ơn...
Trời đã bắt đầu mờ tối, sương đêm là thấp, ngọn đèn trước ngõ bật sáng. Cô bé đưa tay dụi nước mắt nói:
- Thôi sắp tối rồi, xin phép ông Tâm về nhé.
- Mong cô bé được vui và đừng khóc nữa. Tôi cũng sẽ buồn nếu mắt Tâm còn ướt.
Cô bé quay đi, chàng đứng tần ngần nhìn theo mãi đến khi bóng cô bé khuất dần ở một góc tối...
Sau hôm đó, chàng lấy một lọ hoa nhỏ, đổ đầy nước, và mỗi sáng thức dậy chàng cắt một cành hoa Tigôn cắm vào treo một chỗ khuất ở bờ rào. Còn cô bé, chắc hẳn cũng vì một duyên cớ nào đó, nên ít khi muốn gặp chàng. Cô bé xuất hiện bất ngờ, không giờ giấc nhất định nào cả. Chàng chỉ biết được cô bé có đến hay không là khi gần tối ra ngõ nhìn lọ hoa. Và mỗi ngày một cành Tigôn mất đi, là một hương yêu ngào ngạt tỏa khắp đời chàng. Chàng lặng lẽ sống trong cái hạnh phúc mong manh nhưng êm đềm ấy.
ĐỖ VĂN NGỌC
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 113, tuần lễ từ 2-8 đến 9-8-1973)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét