Tác Giả: VÕ HỒNG
Trong
thời hồng hoang của lịch sử, con người chỉ biết có mẹ. Khỏi cần tìm
hiểu đâu xa, cứ nhìn các con vật thì biết: gần gũi và hiền lành là con
chó, con gà, xa xôi và hung bạo như con beo, con cọp. Sinh ra và lớn lên
chỉ biết có mẹ, lúc thúc quanh mẹ. Bởi một lẽ đơn giản: khi biết mình
mang thai, con cái thường sống cách ly con đực, thậm chí còn cắn đuổi
con đực không cho lại gần.
Con người sau này thì không. Cha săn sóc mẹ
khi mẹ mang thai, cha đỡ đần mẹ, cha giúp tay mẹ pha bình sữa, giặt giũ
tã lót khi cha mẹ cùng nghèo. Khi cúng đầy tháng, cha châm hương đốt đèn
thành kính cầu xin Mụ Bà và tham lam cầu khắp thần linh phù hộ cho con
mau ăn, chóng lớn. Có lẽ đó là lần đầu tiên, lần trọng đại nhất trong
đời mà cha trọn lòng nghĩ đến những vị thần linh. Vì con mà tin, mà
khấn, mà cầu... cho dẫu mang tiếng mê tín cũng xin sẵn sàng vui nhận.
Con lên hai tháng, ba tháng, nằm ngửa huơ tay huơ chân, mở to đôi mắt
ngơ ngác, xoay đầu nhìn vu vơ sang trái sang phải. Rồi con biết hé miệng
cười, cái cười vô nghĩa nhưng đủ cho cả nhà mừng rỡ reo vui. Rõ ràng là
nụ cười của con làm nở những nụ cười xung quanh, làm rạng rở những
khuôn mặt, xóa mờ những nếp nhăn nơi trán. Lần lượt biết lật, biết bò...
rồi con ngồi vững, rồi vịn tay đứng được, rồi bước những bước rụt rè.
Tiếng reo vui, tiếng khuyến khích vang lên rộn ràng đầm ấm, trong đó có
lẫn tiếng của cha.
Cha được phân công ngồi bón cho con những muỗng cơm
đầu tiên, cha phải la: "Ùi ùi! Coi chừng con chuột kìa. Ăn mau chớ nó ăn
hết," rồi thừa lúc con đưa mắt tìm, cha đút nhanh muỗng cơm vô miệng.
Hỡi ơi, từ ngày có con, cha trở thành nhảm nhí đáng thương. Con mới mở
miệng ngáp, đôi mắt mới khép hờ mà cha đã vội vàng ru, ru cái kiểu nửa
ngâm, nửa hát vụng về và chọn những câu nhảm nhí phù hợp với trạng thái
tâm hồn của cha lúc đó.
À ơi, con gà cục tác lá chanh...
Có thể cha giỏi
nhạc, cha hát hay nhưng cha ngượng không dám nghiêm trang cất giọng sợ
người khác nghe biết cha đang tràn trề niềm vui, no nê hạnh phúc. Vả
chăng mặt con ngây ngô thế đó thì cha biểu diễn nghệ thuật để làm chi?
Cha phải ngây ngô theo, con duỗi chân thì cha nói: "Chà! Bộ định về thăm
ngoại hả?" Rờ cái đít nung núc thịt, cha bế chạy vừa nói nựng: "À, con
heo ú đây? Ai ra mua!" Quả là những giây phút hân hoan cực độ. Nhưng
phải chợt dừng lại. Sợ người khác nghe. Phải che giấu hạnh phúc để tỏ
rằng mình không tầm thường. Khi có học, cha thường phải tạo vẻ mặt
nghiêm trang. Dưới thời Nho giáo, cha được gọi là nghiêm đường. Hai mươi
tuổi đậu cử nhân, đậu tiến sĩ thì phải mang bộ mặt lạnh lùng của một
ông quan. Chỉ có người cha quê mùa mới thong dong cõng con bốn, năm tuổi
đi chơi nghêu ngao khắp xóm, bứt lá chuối quấn kèn. Lớn lên cha con
cùng làm lụng cạnh nhau trên sân lúa, giữa rẫy khoai. Xã hội hôm nay trí
thức hơn, văn minh hơn, trong cuộc sống cha một nghề, con một nghề, ai
lo phần nấy, rốt cuộc tình thương cha con trở nên lợt lạt. Tình quấn
quýt cha con chỉ thể hiện khi con còn nhỏ: quá bậc tiểu học, con bắt đầu
lớn, bắt đầu chọn bạn là bắt đầu xa cha. Từ đó cha chỉ đóng vai nguồn
cung cấp tiền cho con ăn học, may sắm, nguồn kinh nghiệm khôn dại đưa
lời chỉ bảo khuyên răn. Tất cả đều là lý trí lạnh lùng. Chớ mẹ thì
không. Nghĩ đến mẹ là một chuỗi hình ảnh êm ái hiện ra: mẹ mang nặng đẻ
đau, vạch vú cho bú, mẹ bồng ru ngủ, mẹ ôm hôn nựng, mẹ tập đứng tập đi.
Khỏi cần lý luận, khỏi nhìn đâu xa, cứ nghĩ đến mẹ là như thấy rõ hồi
nhỏ mình nằm như thế nào trong vòng tay mẹ, ỉa đái tự do trên mình mẹ và
me lo giặt, lo thay, quen thuộc với mùi khai, mùi thúi. Với cha thì
phải suy nghĩ mới thấy, bởi mọi sự thương yêu chỉ hiện rõ khi mình còn
nhỏ. Bây giờ nếu may mà biết được là nhờ ngẫu nhiên thấy một người cha
nào đó đang thương yêu săn sóc đứa con nhỏ của họ.
Tìm trong văn chương
thì thường chỉ gặp loại:
Công cha như núi Thái Sơn.
Núi này nhất định là
phải lớn lắm, và công cha cũng lớn như vậy. Không thấy ghi một nét cảm
động về người cha mà chỉ phác qua một hình ảnh uy nghi, nhưng xa cách,
gợi sự tôn sùng. Mọi người đều thuộc, đều đọc làu làu, nhưng mà thản
nhiên như đọc khẩu hiệu.
Người cha quen thuộc, cha của Mẫn Tử Khiên, thì
được vẽ là một người biết làm bổn phận: bổn phận cưới vợ kế khi vợ cả
chết và bổn phận đuổi kế thiếp vì Mẫn Tử Khiên bị ngược đãi. Mà cũng
ngẫu nhiên mới biết được con khổ khi thấy con mặc áo rách run rẩy đẩy xe
cho mình.
Người cha trong cuốn Luân Lý giáo khoa thư dễ thương hơn.
Truyện kể: Mẹ đi chợ mua về cho con trái cam. Con nghĩ đến cha làm lụng
nắng nôi, liền cầm trái cam chay ra đồng tặng cha. Cha nghĩ đến mẹ đầu
tắt mặt tối ở nhà, liền cầm trái cam đem về tặng mẹ. Trái cam đi một
vòng, dài và rộng hơn sợi dây tình cả con thương cha, rộng gấp ba lần vì
thêm tình mẹ thương con, tình chồng thương vợ.
Cổ văn thường nặng nghĩa
lớn, nhẹ tình riêng. Phạm Trọng Yểm, tể tướng đời Tống, sai con là
Thuần Nhân chở năm trăm thùng thóc về quê. Ðến Ðan Dương, Nhân gặp Thạch
Man Khanh là bạn cũ của cha đang khốn quẫn vì bị ba cái tang dồn dập.
Nhân đem tặng hết năm trăm thùng thóc. Lại nghe hai cô gái đến tuổi mà
đang ế chồng, liền tặng luôn cái thuyền. Về kể lại chuyện cho cha nghe.
Nghe tới chỗ hai cô gái của bạn ế chồng. Phạm liền ngắt lời hỏi:
- Sao
con không cho luôn cái thuyền?
Cuộc sống bắt cha hướng mắt ra ngoài
đời, nhìn đời, lăn lộn với đời. Mẹ thì nhìn vào trong nhà, nhìn vuông
sân chái bếp, con gà con chó, cây ổi, cây xoài và bầy con của mẹ. Cha
lặng lẽ đi làm kiếm tiền, con đâu biết bao nhiêu gian lao cực nhọc, lo
toan đối phó làm mệt mỏi gân cốt và trí óc cha. Về đến nhà tìm sự yên
nghỉ, nhiều khi mang cái bực bội, cái cáu gắt từ ngoài xã hội về theo.
Con phải len lén bỏ ra sau nhà, im lặng, càng xa càng tốt, gần như muốn
xóa bỏ cái hiện hữu của mình. Sự cách xa giữa cha con thường bắt đầu nhẹ
nhàng như vậy. Càng thêm xa cách bởi sao cạnh mẹ con thấy êm đềm. Ai
làm ra tiền không cần biết, chỉ muốn nhai viên kẹo, muốn cắn trái ổi là
chỉ cần thỏ thẻ với mẹ. Mua cây viết mới, sắm đôi dép mới... thảy thảy
mẹ đóng vai bà tiên. Tội thân cha, cạnh bà tiên hiền, cha thành Thiên
Lôi; bà tiên càng hiền, cha càng thành La Sát.
Không, cha không muốn
vậy. Cha thương con nhưng cuộc sống phân công mỗi người mỗi việc. Mẹ như
cọng mảnh, nhánh thấp cành gần để trái non xúm xít bâu quanh. Cha như
thân vững chắc, bám rễ thật chặt, hút nhựa nuôi lá, nuôi hoa, nuôi trái.
Thân chĩa từng cành lớn đâm ngang, thân vươn những nhánh cao phủ trên
đầu che mưa che nắng. Cha cân nhắc lời nói, chỉ nói khi cần, con lờn mẹ
thì cha cần phải nghiêm. Mẹ là tình cảm, cha là lý trí, mẹ lạt lòng, cha
phải giữ kỷ cương. Mẹ chín bỏ làm mười, cha phải cầm cân nảy mực. Ði
vào bước trưởng thành từ mười ba, mười bốn tuổi, con càng ngày càng ngại
cha, tránh cha rồi xa cha là vậy.
Nhưng đừng đơn giản bất công, quên
cái thời ta lên năm, lên mười, kẻo thành bội bạc. Hãy nhìn những đứa ba
tuổi làm nũng với cha. Bắt cha bế chạy nhong nhong. Bắt phải dắt ra cổng
đứng nhìn xe cộ. Bắt phải có cha nằm cạnh quạt cho mới ngủ. Lên tám,
lên chín thì hay chạy tới nơi cha làm việc để đón cha cùng về. Trên
đường đi phải nắm tay cha, thỉnh thoảng nhìn lên mặt cha, dẫu là khuôn
mặt tầm thường hay xấu xí.
Tuổi già chiếc bóng, mẹ dễ sống theo con,
dâu, rể. Lúc thúc sớm hôm, chăm chút tỉ mỉ, mẹ uốn mình theo nếp sống,
mềm mỏng ung dung như nước. Thường cha thì không, cha ít cam khuất phục
rể dâu. Chịu sống hắt hiu, thiếu thốn, cố tránh trước cái giả bộ nặng
tai của dâu, cái im lặng cố ý của rể. Mẹ biết ý nên khi nhắm mắt vĩnh
biệt, mẹ thường thổn thức dặn dò: "Anh ở lại nuôi con. Gắng kiếm một
người hiền lành giúp đỡ. Chớ đàn ông không chịu khổ được lâu."
Phải,
tuổi càng cao, khổ càng chồng chất, dâu rể không ăn hiếp thì có con
muỗi, con kiến ăn hiếp thay. Cứ cắn, cứ chích, nạn nhân nghe đau đâu đập
đấy, chớ mắt mờ đâu còn thấy rõ. Nhìn lên bầu trời đâu còn thấy chòm
Bắc Ðẩu mà mới ngày nào lững thững dắt con đi trong sân cha chỉ cho con
nhìn.
Con nay đang tuổi trung niên, bận theo quyền lực, vui với vợ con,
bè bạn, việc báo hiếu cho cha thường tỏ ra bủn xỉn. Nếu có ai trách hững
hờ chểnh mảng thì thiếu chi lý lẽ dẫn ra: "Ðược vậy còn đòi gì nữa?...
Trời ơi, thì giờ đâu!"
Phải thì giờ đâu? Người xưa hay nhắc phận con kíp
lo báo hiếu bởi "tử dục dưỡng nhi thân bất đãi" con muốn nuôi mà cha mẹ
không chờ.
Khi con ở tuổi trung niên thì cha vào giai đoạn già yếu. Bề
ngoài ngó dẫu phương cương nhưng nội tạng thường rệu rã. Dễ hiểu thôi
mà: một đồ vật dùng đã sáu chục năm rồi thì dẫu lạc quan đến đâu cũng
chỉ có thể tạm nói: "Cũng còn khá." Cha thỉnh thoảng cảm thấy hơi đau
nơi này, chợt nghe có cái nhéo nơi kia. Ðôi hồi bỗng mệt vô cớ. Nhưng
cha thường im lặng không nói. Những câu nói không còn cần thiết, êm ái
cho con nữa như khi con còn nhỏ. Bây giờ, những câu nói đều quấy rầy
con. Ðành âm thầm nghĩ đến câu Vạn vật vô thường.
Sách xưa dạy: "Hôn
định thần tỉnh," ta dịch: "Tối viếng sớm thăm," lạt lẽo nghèo nàn nếu
không có người giảng cụ thể rằng cha mẹ già thường cần đôi mắt và bàn
tay con, trước và sau giấc ngủ. Ðã nằm trong mùng thì lười đứng dậy để
khép bớt cánh cửa, để lấy cái mền, để tìm lọ dầu. Ngủ một đêm sáng dậy,
trong mình có gì thay đổi, đó là lúc con cần hỏi han mẹ cha mới dám giãi
bày.
Gần như mọi người con, cuối cùng đều âm thầm tự trách, lặng lẽ xót
xa. Cha biết trước tâm trạng đó, phòng xa ngày nào mình từ trần con mới
chợt ân hận muộn màng, nên trong mỗi bức thư gửi con, cha đều kết thúc
bằng sự bằng lòng, rằng con đã học hành thành đạt và cha mãn nguyện, cha
vui. Lòng vị tha, lòng hy sinh cho con kéo dài mãi sau khi nhắm mắt.
Báo hiếu đâu chỉ món quà, mà có thể đôi tháng gởi một bức thư. Nội dung
đâu đòi hỏi cao siêu, chỉ cần mươi dòng lược kể một chuyện đã nghe, một
điều vừa thấy. Thì cũng như bè bạn gặp nhau, chào nhau một câu rất nhảm
mà vẫn rất cần: "Ði đâu đó? Mạnh giỏi?" Sinh nhật cha, tặng một cành
hoa. Nếu ở thành phố xa, hai ba đứa con gởi về hai, ba bức điện chúc
mừng, tốn không bao nhiêu mà tạo được sự rộn ràng tới tấp. Niềm vui tinh
thần đâu thua bữa tiệc cao lương?
Ngày Vu Lan, nhiều chùa tổ chức lễ
hội Bông hồng cài áo. Hoa hồng tượng trưng cho mẹ. Ðể tỏ lòng thương
nghĩ đến cha, nhiều nơi buộc thêm dải nơ tượng trưng cho cha. Cha còn:
nơ xanh. Cha mất: nơ trắng. Lễ đường xếp thành bốn dãy, dãy cha me song
toàn: hoa hồng nơ xanh. Mẹ còn, cha mất: hoa hồng, nơ trắng. Mẹ mất, cha
còn: hoa trắng, nơ xanh. Mẹ cha đều mất: hoa trắng, nơ trắng. Người dự
lễ đứng theo hoàn cảnh của mình. Có lần, một em nhỏ tuổi chừng lên tám
đứng trong hàng hoa trắng nơ trắng. Em nhìn quanh, tủi thân khóc òa và
cả lễ đường cùng khóc òa theo.
Cha cũng như mẹ, rồi một ngày:
"Ðỉnh hoa
biểu từ khơi bóng hạc" (1)
nên mỗi người con đều phải vội
vàng. Trả hiếu không bao giờ đủ, không được coi là dư bởi tình cha
thương con là "cho" chớ không phải "cho vay" để có thể gọi là trả đủ.
_______________
(1) Cha mẹ mãn phần (Nhị thập tứ hiếu)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét