Mấy tên lính gác tưởng thật
trao ngựa cho tên Ấn Độ. Tên Ấn Độ nhận được ngựa không hề để lộ vẻ vui mừng,
trang trọng đến trước công chúa cúi đầu chào và nói:
- Thưa công chúa! Tôi được
lệnh đức vua Ba Tư đến rước công chúa. Xin công chúa theo tôi về hoàng cung.
Công chúa không chút nghi
ngờ, trèo lên yên ngựa. Tên Ấn Độ mừng rỡ vội nhẩy phóc lên, ôm chặt lấy công
chúa rồi bấm nút khởi hành. Tức thì, con ngựa bay vụt lên không.
Giữa lúc ấy, hoàng tử về đến
hoàng cung. Sau giờ phút gặp gỡ cảm động, hoàng tử kể lại cuộc hành trình kỳ
thú.
Cuối cùng, hoàng tử thưa với
vua cha xin được phép thành hôn với công chúa Băng-Gan.
Vua Ba Tư ưng thuận liền.
Ngài bước khỏi ngai vỗ vai hoàng tử, nói:
- Ồ! Ta nỡ nào ngăn cản con
cưới một nàng công chúa khả ái như thế. Con hãy vào thay quần áo rồi cùng ta
đến nhà hát lớn đón nàng.
Hoàng tử mừng rỡ, nhưng chợt
nhớ đến tên Ấn Độ, vội tâu:
- Con xin đa tạ phụ vương.
Nhưng trước hết xin phụ vương ra lệnh xử tử hình tên Ấn Độ. Hắn là tên đại bợm
đã ăn cắp con ngựa của người Do Thái chứ không phải đổi con gái như lới hắn đã
nói:
Rồi chàng kể cho vua cha
nghe về lai lịch con ngựa và tên Ấn Độ đó.
Nghe chuyện xong, nhà vua
nói:
- Sao con không nói sớm? Khi
thấy con về cha mừng quá đã ra lệnh phóng thích tên Ấn Độ rồi. Không hiểu cai
ngục đã thả hắn ra chưa?
Rồi quay sang quan nội giám,
nhà vua vớt vát hy vọng:
- Ngươi hãy tới ngay ngục
thất, truyền bắt giữ tên Ấn Độ lại rồi đến nhà hát lớn mang con ngựa về đây.
Còn công chúa, để ta và hoàng tử ra đón sau.
Quan nội giám vội vàng đến
ngục thất, nhưng tên Ấn Độ đã được thả ra rồi. Ông ta vội vã phi ngựa đến nhà
hát lớn thì hay tin tên Ấn Độ đã lấy ngựa và đón công chúa đi mất.
Quan nội giám trở về hoàng
cung tâu lại mọi việc. Vua Ba Tư tức giận vô cùng, còn hoàng tử thì lặng người
đi không nói được lời nào.
Một lúc sau, nét đau khổ
trên mặt hoàng tử mới biến đi, nhường chỗ cho vẻ cương quyết. Chàng quì lạy vua
cha, tâu:
- Tâu phụ vương, xin phụ
vương cho phép con đi tìm công chúa Băng-Gan. Nàng là lẽ sống của đời con, xa
nàng con khổ sở vô cùng.
Nhà vua nhìn con thương mến
nói:
- Còn con, con là lẽ sống
của đời ta, xa con ta cũng rất buồn khổ! Nhưng nếu con ở nhà mà buồn rầu vì mất
nàng thì ta đang tâm sao đành. Vậy ta cho phép, con hãy sửa soạn lên đường tìm
nàng.
Hoàng tử tạ ơn vua cha rồi
giả dạng làm một đạo sĩ, vì chàng nghĩ, nếu để lộ hình tích thì khó lòng tìm
được người yêu. Xong xuôi, chàng cưỡi một con ngựa thật khỏe, lên đường.
Trong khi đó, trên không,
tên Ấn Độ ôm chặt công chúa Băng-Gan, cho ngựa bay nhanh như gió. Lòng hắn hân
hoan vì chiếm được nàng công chúa tuyệt sắc và lấy lại được con ngựa kỳ diệu.
Phần công chúa, nàng biết đã
bị lừa nhưng đành ngồi yên vì biết có kháng cự cũng chẳng ích gì, có khi còn
rơi xuống đất nguy đến tính mạng nữa.
Bay một hồi lâu thì đến lãnh
thổ Cát-Sơ-Mia. Tên Ấn Độ khát quá, cho ngựa đỗ xuống cạnh dòng suối trong một
khu rừng.
Hắn xuống ngựa, rồi với dáng
điệu lịch sự nhất, hắn nói:
- Thưa công nương, nếu sống
trong cung điện thì chắc không bao giờ công nương uống đến nước suối. Nhưng ở
nơi xa lạ, hoang vắng này thì nước suối này quí giá vô cùng. Nếu công nương
khát thì với bàn tay thô lậu này, tôi xin dâng thứ nước thiên nhiên quí báu này
để công nương giải khát.
Công chúa không khát nhưng
nảy ra một mưu kế. Nàng gật đầu nói:
- Được, ngươi đi lấy nước
đến đây cho ta.
Cách nói của công chúa không
có gì là thân thiện cả, nhưng nàng đã bằng lòng. Điều đó cũng đủ làm cho tên Ấn
Độ sung sướng vô cùng.
Hắn vội chạy đến bên bờ suối
lấy nước.
Chỉ chờ có thế, công chúa
nhảy xuống đất chạy trốn. Nhưng chân nàng dẫm lên đám lá khô gây thành tiếng
xào xạc khiến tên Ấn Độ quay lại. Thấy nàng chạy, hắn chẳng kịp uống nước, vội
vã đuổi theo.
Công việc đuổi bắt chẳng có
gì khó khăn vì bàn chân vương giả của công chúa làm sao chịu đựng nổi đá sỏi và
những rễ cây trong rừng. Nàng suýt ngã mấy lần vì vấp phải rễ và lối đi đầy
những gai, sỏi khiến nàng không chạy nhanh được. Trái lại, những chướng ngại
vật ấy có thấm tháp gì đối với bàn chân chai đá của tên Ấn Độ. Hắn chạy như bay
và bắt được công chúa dễ dàng.
Bị bắt lại, công chúa hét
lên kinh hãi.
Tiếng hét của nàng vang dội
cả khu rừng, đến tai đoàn người đang săn bắn gần đó.
Đó là đoàn vệ sĩ của vị lãnh
chúa xứ Cát-Sơ-Mia. Ông ta đang tổ chức cuộc săn bắn để giải trí.
Nghe tiếng hét, bọn vệ sĩ
phi ngựa lại. Thấy một người Ấn Độ đen đủi xấu xí đang lôi xềnh xệch một giai
nhân tuyệt sắc, chúng lấy làm lạ, quay ngựa lại báo cho lãnh chúa biết.
Chỉ trong chớp mắt, lãnh chúa
và bọn vệ sĩ đuổi kịp tên Ấn Độ và công chúa. Thấy sắc đẹp công chúa, ông ta
nghĩ ngay đến việc chiếm đoạt, bèn thét bọn vệ sĩ:
- Bọn ngươi hãy bắt tên Ấn
Độ man rợ kia, trói lại cho ta và cứu người con gái.
Tên Ấn Độ bị mấy người xông
lại trói nghiến, không chống cự gì được. Được cứu thoát, công chúa đến trước
ngựa lãnh chúa, quì xuống tạ ơn:
- Đa tạ ngài đã giải thoát
tôi khỏi tên Ấn Độ thô bạo đó. Ơn này tôi xin kết cỏ ngậm vành, ghi nhớ muôn đời.
Bằng một điệu bộ trai lơ,
lãnh chúa đỡ công chúa dậy, nói:
- Xin người đẹp chớ lụy mình
như thế. Rồi ra thiếu gì dịp nàng trả ơn ta.
Nói rồi, hắn cười hềnh hệch
thật đáng ghét. Chỉ tội nghiệp cho công chúa xứ Băng-Gan, tránh vỏ dưa lại gặp
vỏ dừa.
Lãnh chúa sai chém đầu tên
Ấn Độ ngay tại chỗ rồi dẫn công chúa và con ngựa về lâu đài.
Về đến nơi, lãnh chúa hỏi
qua lai lịch công chúa rồi sai sửa soạn riêng một biệt thự, phái bọn nữ tỳ, nô
lệ hầu hạ, canh chừng.
Sáng sớm hôm sau, công chúa
mới thức dậy, lãnh chúa đã ăn mặc sang trọng đến phòng công chúa, cười một cách
khả ố:
- Hỡi nàng công chúa xinh
đẹp, khả ái. Suốt đêm qua hình ảnh mỹ miều của nàng đã chiếm ngự tâm hồn ta,
khiến ta không sao ngủ được. Và ta đã nghĩ được một cách để nàng có dịp trả ơn
ta đã cứu nàng: Ta muốn cưới nàng, mong nàng không từ chối.
Rồi chỉ tủ quần áo, hắn nói:
- Quần áo trong đó không
thiếu gì và đều may bằng những thứ lụa là quí nhất, nàng hãy sửa soạn để cùng
ta làm lễ cưới.
Giọng hắn thật khó ưa và lời
lẽ thật trắng trợn, cưỡng ép.
Công chúa uất ức quá độ đến
ngất đi.
Một lúc sau tỉnh dậy, nàng
nghĩ thầm:
- Thoát khỏi tên Ấn Độ đã
mừng, không ngờ lại gặp đứa dâm bạo hơn, lần này thì ta khó lòng thoát thân.
Chi bằng ta giả điên để khỏi phải chung sống với lão lãnh chúa. Kéo dài thời
gian lâu bao nhiêu hay bấy nhiêu, rồi sẽ tìm đường trốn thoát.
Từ đó, công chúa khóc khóc
cười cười vô chừng, nói năng điên điên dại dại, đuổi đánh bọn nữ tỳ và đập phá
lung tung khiến không ai dám đến gần nữa.
Lãnh chúa thấy vậy bực mình
lắm, nhưng đánh đuổi nàng đi thì lại tiếc nên triệu các danh y đến chữa cho
nàng. Nhưng không ai đến gần được nàng mà khám bệnh vì mới đến cửa phòng đã bị
nàng xông đến đánh túi bụi.
Lãnh chúa bực tức quá sinh
ra bẳn tính, quát tháo ầm ĩ. Bầu không khí ngột ngạt bao trùm cung điện
Cát-Sơ-Mia.
Phần hoàng tử Ba Tư, trong
cuộc lưu lạc tìm kiếm người yêu đã đặt chân đến xứ Cát-Sơ-Mia trong thời kỳ
này. Chàng hết sức ngạc nhiên khi nghe dân chúng trong xứ bàn tán xôn xao về
tin một nàng công chúa xứ Băng-Gan bị lãnh chúa ép duyên nhưng bất ngờ bị điên
nên lễ cưới đành hoãn lại.
Hoàng tử đoán nàng công chúa
chính là người yêu của mình và sau khi thăm dò kỹ càng thì không còn nghi ngờ
gì nữa. Chàng bèn tức tốc phi ngựa đến thủ đô Cát-Sơ-Mia để cứu nàng.
Dưới lốt một vị đạo sĩ,
hoàng tử xin yết kiến lãnh chúa để chữa bệnh cho công chúa.
Lãnh chúa nghi ngờ hỏi:
- Ngươi liệu có chữa được
bệnh của nàng không?
Hoàng tử trả lời:
- Tôi đã học hỏi, nghiên cứu
rất nhiều và được nhiều danh y truyền dạy cách thức chữa bệnh điên. Xin ngài
tin nơi tôi.
Lãnh chúa hỏi:
- Trong trường hợp này ngươi
chữa bằng cách nào?
Hoàng tử đáp:
- Tôi đã hỏi nhiều người và
biết qua bệnh tình của công chúa. Theo tôi, chính con ngựa nàng cưỡi trước kia
là nguyên nhân căn bệnh. Vậy nay muốn chữa khỏi phải cho nàng ngồi lên lưng nó.
Tôi sẽ dùng một thứ dược thảo thần diệu xông cho nàng tất sẽ trở lại tình trạng
bình thường.
Lãnh chúa nghe qua bán tín
bán nghi nhưng cũng sai mang con ngựa đến đặt giữa sân chầu và mang công chúa
đến, rồi ngồi lên ngai coi vị đạo sĩ chữa bệnh.
Bọn nữ tỳ được lệnh đưa công
chúa đến nhưng nàng vùng vẫy giữ dội khiến chúng phải vất vả mới giữ được nàng.
Vào đến sân chầu, được bọn
nữ tỳ buông ra, nàng đã định lồng lên đập phá đồ đạc. Nhưng nàng bỗng ngạc
nhiên vì khuôn mặt, dáng dấp của người đạo sĩ. Khuôn mặt ấy, dáng dấp ấy có một
vẻ quen thuộc, thân yêu vô cùng. Và cuối cùng, nàng nhận ra đấy là hoàng tử Ba
Tư. Nàng thoáng đoán được sự việc nên để mặc cho bọn nữ tỳ dẫn đến bên con
ngựa.
Chúng đặt nàng lên yên.
Hoàng tử được thấy lại người
yêu thì lòng cũng rộn lên sung sướng. Nhưng chàng trấn tĩnh được lòng mình,
nghiêm trang bảo bọn nô lệ xếp một trăm lư hương chung quanh con ngựa. Bọn nô
lệ y lời làm xong, hoàng tử lấy một thứ cỏ thơm, nhúng nước rồi để vào mỗi
chiếc lư một nắm.
Cỏ ướt không cháy được tỏa
khói mù mịt khiến không ai trông thấy hoàng tử, công chúa và con ngựa giữa đám
lư đồng nữa.
Lợi dụng cơ hội ấy, hoàng tử
nhảy lên yên, ôm công chúa vào lòng rồi bấm nút khởi hành ở cổ con ngựa. Con
ngựa bay vụt lên không nhanh như lằn chớp.
Mọi người trong sân chầu đều
ngơ ngác trước sự việc xẩy ra bất ngờ, phi thường như thế, chỉ biết ngửa cổ
nhìn theo! Còn lãnh chúa thì tức giận vô cùng, hò hét, chửi rủa ầm ĩ:
- Quân khốn nạn! Mi dám
lường gạt ta và cướp đoạt vị hôn thê của ta! Ta giết mi.
Hoàng tử cười lớn, nói vọng
xuống:
- Hỡi tên lãnh chúa ngu ơi!
Muốn giết ta hãy bay theo mà giết. Còn công chúa thì ngươi quá lỗ mãng, không
đáng lấy nàng!
Nói xong, chàng nhìn công
chúa cười sung sướng. Công chúa cũng cười rồi nép vào ngực hoàng tử. Con ngựa
cũng như hân hoan trước sự tái ngộ của hai người, bay nhanh vùn vụt. Chẳng bao
lâu, hai người về tới kinh thành Ba Tư.
Hoàng tử và công chúa được
tiếp đón nồng nhiệt. Người sung sướng nhất có lẽ là vua Ba Tư, ngài ra tận cửa
thành đón tiếp. Gặp lại con, lại được người con dâu xinh đẹp, ngài thấy trong
lòng rộn lên một niềm vui khó tả.
Ngay hôm sau, hoàng đế Ba Tư
sai sứ thần sang kinh đô Băng-Gan yết kiến hoàng đế xứ này để xin cưới công
chúa cho hoàng tử ba Tư. Vua Băng-Gan vui vẻ
nhận lời ngay.
Hôn lễ được cử hành trọng
thể mấy hôm sau. Trong triều đình hai nước yến tiệc linh đình, phần dân chúng
cũng ăn uống vui chơi suốt tháng. Nhưng có một điều làm nhiều người tiếc không
ít là con ngựa bỗng dưng không bay nữa. Không ai biết nguyên do làm sao!
Mỹ Thanh Loan kể xong chuyện
“Con ngựa kỳ diệu” thì trời mới mờ mờ sáng, nàng tâu với vua Sa-Hy-A xin kể
tiếp chuyện “Nàng nô lệ xứ Duy-Đan”. Nhà vua ưng thuận. Nàng bắt đầu kể:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét