Nằm trên một cành đào lộn hột đâm ngang, thằng Nóp vừa nhìn mây trắng trôi qua tán lá đào thưa vừa thổi ống tiêu.
Nó không biết bài bản gì hết, nhưng sao nhiều người trong xóm thường khen rằng nó thổi hay. Chính nó, nó cũng nghe những tiếng tiêu của nó là hay.
Nó đang say nhạc thì bỗng thằng Ngọ ở đâu chạy tới dưới gốc đào, kêu với lên:
- Anh Nóp ơi, ông Cả biểu anh để tui đuổi cặp bò về.
Tiếng tiêu im bặt ngay và Nóp nhìn xuống hỏi:
- Thiệt hay giỡn?
- Ai nói chơi cà.
- Vậy để tao đuổi về coi ra sao. Mày nói láo thì chết à.
- Tui nhỏ, ở lại coi trâu gì được.
- Sầm sầm cái đầu rồi nhỏ gì mà nhỏ.
Vừa nói câu sau này Nóp vừa tuột xuống. Nhưng trâu và bò đã biến đâu mất hết rồi. Mới hồi nãy đây, chúng còn đang núp nắng dưới bụi tre, nhơi lại mớ cỏ hiếm hoi mùa nắng mà chúng đã cạp được từ sáng đến trưa ở bãi cỏ, cạnh vườn đào vô chủ và hoang phế này.
Nóp hú vài tiếng rồi lắng nghe thì xa xa, trong chồi cây có tiếng lục lạc gỗ kêu lọc cọc đáp lại lời kêu gọi của nó.
Thì ra trâu bò vào rừng ăn lá cây vì không tìm được cỏ nữa, với lại trốn nắng luôn thể. Nó chưởi thề inh ỏi rồi lủi vô rừng.
Khi nó trở ra với cặp bò thì Ngọ đã leo lên nằm thay thế cho nó nơi cành đào ngang ấy. Cây đào lộn hột cổ thụ này không còn sức để sanh trái nữa, nhưng cái nhánh ngang ấy giống một cánh tay bà lão mà thằng chăn bò, chăn trâu nào cũng thích nằm như để chờ nghe bà ta kể chuyện ngày xưa. chuyện bà Xang, người chủ điên của cái vườn bỏ hoang này.
Vỏ nhánh đào sù sì, bị lưng lũ chăn trâu cọ nhiều năm thành láng bóng, nằm khá êm lưng, và gió trưa hiu hiu thổi, khiến đứa nào nằm trên đó cũng lim dim đi vào một giấc ngủ tuy nặng, nhưng dễ chịu, sung sướng vô cùng.
- Bộ ở nhà, ông Cả tính đi kéo cái gì hả mậy? - Nóp hỏi Ngọ.
- Hổng biết. Thấy nhà có khách.
Nếu không có công việc thì trâu bò được núp nắng trong rừng chồi này tới tối, Nóp mới lùa về. Bữa nay chắc ông Cả cho đi kéo rơm phơi ngoài ruộng, bên kia suối. Rơm phơi ngoài ấy dạo này bị ăn cắp dữ lắm.
- Khứu cà. Dịch nà.
Thằng Nóp chưởi con bò Khứu y như là chưởi người ta. Con Khứu đang ăn hiếp con Mốc, cụng đầu vào con Mốc vốn không sừng.
Nóp lại vỗ vào hông bò mà nói:
- Tụi bây ăn từ sáng sớm tới giờ mà chưa liền lưng. Rồi ổng mắng tao rằng để tụi bây no kiểu "trong mo, ngoài đất sét", oan cho tao lắm nghe?
Nóp ám chỉ đến một truyện cổ tích cắt nghĩa do đâu mà trâu bò ngày xưa biết nói tiếng người, còn bây giờ thì không.
Rời gò và nửa tiếng đồng hồ sau, Nóp lùa bò tới xóm ở dải đất phì nhiêu gần khu ruộng thấp minh mông hằng trăm mẫu của nhiều địa chủ nho nhỏ trong làng.
*
Bò vào cổng sau và ông Cả với một người khách lạ nghe chó sủa đón mừng bò, chạy ra sân sau, đứng nhìn hai con vật bạn của Nóp.
Bò thấy cỏ vườn tươi mát thì ham lắm, đứng lại rứt từng cọng, món ăn mà ngày thường chúng không được phép rớ tới bởi cỏ mọc xen với rau cải trồng trong vườn.
Riêng hôm nay ông Cả cứ để vậy. Người khách lạ ngắm nghía một hồi rồi bước lại, vỗ đầu bò và lắc đầu chê.
- Chưn cheo, cái ngữ này thì giựt gì nổi.
- Nó nằm cát đó ông à.
Câu sau đó là của thằng Nóp. Nó nói một cách ngây ngô để có chuyện mà nói, cho đỡ trơ trước người khách lạ, chú ý tới nó ít hơn là tới hai con bò, chứ nó không có mục đích gì hết.
Nhưng mắt nó bỗng gặp cái nhìn lườm lườm của ông Cả nên nó hoảng vía, ngó xuống đất. "Nằm cát" là một khuyết điểm lớn, chỉ cái tật của những con bò lười, liệu xe chở nặng quá là nằm vạ xuống cát, không chịu kéo. Nó đã vô tình khai tệ bò của ông Cả.
- Một con thì không sừng, sẽ lộn nài, tháo ống, còn một con thì nằm cát. Ông tính sao, ông chủ?
Ông Cả nổi xung thiên, xẵng giọng mà rằng:
- Ông biết coi bò thì cứ coi, bằng không thì thôi, cần gì nghe một đứa con nít nói bậy nói bạ. Bò đó, giá đó, ông mua thì mua, không mua thì thôi, ai ép ông đâu!
Thì ra ông Cả bán đôi bò và ông khách là một chú lái bò. Thằng Nóp rụng rời, điếng hồn trong giây lát, nhưng hy vọng trở lại vì thấy chú lái cứ lắc đầu mãi.
Nó cố ra hiệu với ông lái bằng mắt để cho ông biết rằng cặp bò này không làm trò trống gì được đâu, nhưng ông ta vẫn không thèm để ý đến nó.
Sống riêng biệt ngoài vườn, ngoài hè với trâu bò, từ hồi sáu tuổi đến nay là mười lăm. Nóp chỉ được tình thương của trâu bò, nhứt là bò. Trâu thì dơ không tưởng tượng được và ngu lắm, gần như không có tình cảm. Bò hiểu được tiếng người, biết thưởng thức lời lẽ và cử chỉ mơn trớn của nó.
Trong một cử chỉ bảo vệ, nó bước tới trước đầu bò, rồi nắm chặt dây mũi bò, dang hai chân ra để cố thủ như quyết không cho ai bắt bò, bạn của nó. Ông Cả đã ham rẻ mua đôi bò này từ lâu rồi, tuy con nào cũng có khuyết điểm, nhưng mà rốt cuộc công việc cũng xong, nhờ người và bò biết ý tứ nhau, Nóp rất thạo cách bắt chúng nó làm việc, mà chúng nó cũng thạo cách phá Nóp cho vui.
- Thôi thì ông bớt cho tui hai trăm đồng, tiền tổn phí giấy tờ này nọ - ông lái kèo nài.
- Một đồng xu tôi bớt cũng không được, nói thiệt với ông.
Ông Cả cương quyết giữ giá vì ông bán giá phải chăng và thấy lái có ý muốn mua lắm.
Nóp thầm van vái cho vụ mặc cả này không xong. Nhưng nó cứ xong, khiến thằng bé chăn bò nghe chư mất hồn.
Giây lát sau, chủ không bảo gì, mà Nóp vội đi khuấy nước muối với cám cho bò uống. Thùng nước mặn ấy có pha mấy mươi giọt lệ nóng của nó.
Nó đưa đôi bò đi khỏi hàng tre mở ở đầu xóm mới chịu trở gót. Trước khi chia tay với hai người bạn thân mến nhứt đời nó, nó hỏi chú lái đi về đâu?
- Tao về Bà Ký, xa lắm. Mà xế rồi, đi đâu có kịp. Tối nay tao ngủ đậu nhà ông Muôn ở xóm trên.
Nóp đứng nhìn cặp bò đạp bụi của con đường làng trải đá đỏ lâu đời, mãi cho đến khi người và vật khuất sau một bụi cây ở một khúc đường quanh nó mới lững thững xuống làng.
Đêm đó, lần đầu tiên trong đời nó, nó không sao nhắm mắt được. Ngày thường nó hay bị ông Cả mắng là ngủ như chết. mà thật quả có như vậy, hễ ngả lưng xuống là nó ngáy kho kho. Có lần nó ngủ giữ cổng chuồng trâu: ăn trộm khiêng nó đi nơi khác, để mở cổng mà nó không hay.
Lần đó bị mất trộm trâu, ông Cả đánh nó một trận đòn nhứt sanh nhứt tử, rồi cho nó ngủ chuồng bò: trâu mắc tiền hơn lại nhiều con hơn nên ông phải giao cho thằng bạn cày canh giữ ban đêm.
Đêm nay chuồng bò trống trơn. Mùi phân chuồng vẫn còn, nhưng mùi bò quen thuộc mà nó đã ghiền, không còn nữa.
Nóp tưởng tượng Mốc và Khứu sẽ cực lắm vì chủ mới không biết ý chúng. Chủ mới lại là tay lái bò, thì chưa quen tánh ý của bò, ông ta đã bán sang tay khác rồi.
Bò sẽ đi xa nó hơn nữa và càng khổ hơn vì chủ mới lại lạ, còn tình nghĩa gì với bò?
Nóp nhớ bò và tin chắc rằng bò cũng nhớ nó, nhớ chuồng, nhớ xóm, nhớ vườn đào hoang phế, nhớ rừng chồi với con suối nhỏ nước trong veo, mà trưa trưa, ăn no rồi, chúng xuống mé nước làm một bụng no nóc nước trong và mát.
Nóp rưng rưng nước mắt khi nghĩ rằng nó không bao giờ thấy mặt lại hai bạn thân mến của nó là Mốc và Khứu nữa.
Mốc và Khứu coi thì cứng đầu vậy mà dễ dạy lắm, vì nó đã săn sóc Mốc và Khứu hồi hai "đứa" còn là bê. Chủ cũ bán bê cho ông Cả và sang luôn Nóp vì ông ấy dư người chăn trâu, chăn bò.
Đằng chuồng trâu bên kia, mấy mõm trâu cứ thong thả nhơi lại mớ cỏ ban ngày kêu phầm phập trong đêm lặng như tiếng chân của chúng chìm dưới bùn được chúng rút lên. Có lẽ chúng đang nhìn sang chuồng bò và ngạc nhiên trước sự vắng bóng của hai con vật mà chúng thấy là kỳ cục và xấu xí hơn chúng.
Nóp tốc chiếc chiếu rách đắp trên người nó ra, ngồi dậy rồi lắng tai nghe ngóng. Nó rón rén bước xuống chõng tre đặt trước cổng chuồng, rồi lại rón rén ra đi.
Mấy con chó nhà sủa lên một tiếng rồi đánh hơi được người nhà quen thuộc, lặng lẽ chạy theo Nóp nhưng nó đá vào một con, cho chúng biết rằng nó không cần chúng theo hộ tống.
Nóp lần theo nẻo mà chú dắt bò đi hồi chiều. Chó trong xóm sủa theo nó, nhưng cũng không sủa dai vì con nào, từ đầu làng đến cuối ấp, đều quen với nó hết thảy.
Khi tới xóm ông Muôn, Nóp bị chó sủa một vài tiếng nữa rồi cũng thôi. Nó leo rào vào sân nhà, không quên quăng cho chó một mớ khoai nướng nó mang theo.
Nó mò lại chuồng bò, chun vô giữa hai cây song ngang. Bò ông Muôn và bò chú lái gởi, nhốt chung bốn con một chuồng. Nóp quờ quạng thì vớ được cái đầu trọc của con Mốc không sừng.
Nó mừng đến run lên, ôm lấy cái đầu ấy vào ngực nó. Tay nó vuốt miếng da lòng thòng dưới cổ Mốc và thầm thì nói với Mốc rất nhiều. Mốc cũng nhận ra nó nên lắc lư nhè nhẹ cái đầu, ra vẻ sướng lắm.
Khứu cũng vừa đánh hơi được Nóp nên cà nanh, đưa mõm tới nhồi những bắp thịt lưng của Nóp, khiến nó phải buông đầu Mốc ra để mơn trớn con Khứu, và cả ba thầm lặng thương nhau trong bóng tối.
- Gà gáy rồi cà - có tiếng người dàn bà nói trong nhà.
- Mới gáy chập đầu, còn khuya lắm - tiếng đàn ông nhừa nhựa đáp lại.
- Lạ! Tôi nghe gì ngoài chuồng bò?
- Có cái gì đâu, khéo nhiều chuyện. Chó hổng có sủa mà.
- Tôi nghi quá, đâu ông ra coi thử coi!
Câu nói sau rốt của bà Muôn khiến Nóp chột dạ. Nhưng không nỡ rời bò, nó đợi thật nguy rồi sẽ hay.
Hàng rào lào táo lâu đời của nhà này, bị đứt chưn, nhổ lên chôn xuống đã mấy mươi lần nên thấp lắm, nó thót một cái là lên tới nẹp tre kẹp giữa những trụ lào táo chôn đứng, và bước qua đầu rào để nhảy ra ngoài, không có gì dễ dàng hơn.
Nóp quên rằng khi người nông dân nghe động, nhứt là ngoài chuồng bò, họ lặng lẽ mở cửa để đi rình, chớ không thắp đèn đi rọi mà nó biết lúc thật nguy để mà dông.
Vì thế mà khi ông Muôn hô lên một tiếng thì cả nhà đã vây quanh chuồng bò đâu từ hồi nào, và nó mà có cánh cũng không tháo bay thoát được.
Bấy giờ người ta mới đốt đuốc lên, và chó mới ráp nhau mà sủa. Hàng xóm cũng đốt đuốc chạy tới vì nghe ồn, biết có biến: họ hành động đúng như tình đoàn kết ở thôn quê.
Cả xóm vang dậy tiếng người, tiếng chó, và đèn đuốc sáng rỡ cả mấy mươi vườn cau của xóm này.
Khi ông Muôn lôi tên trộm ra khỏi chuồng bò, thì thiên hạ kinh ngạc hết sức: đó là gã thiếu niên hiền hậu nhứt làng, thằng chăn trâu của ông cựu Hương Cả Ngọt. Nóp chỉ mười lăm, nhưng nó cao lớn gần bằng người trưởng thành. Nó lầm lầm lì lì, ai hỏi gì cũng không nói, và không sao mà đoán được những ý nghĩ gì đang diễn ra trong đầu óc nó.
Người ta đưa nó đi, nó trì lại. Hai ba người lớn phải áp lại dùng võ lực lôi xểnh nó, nó mới chịu bước.
Nhưng chốc chốc nó day lại nhìn chuồng bò, như tiếc mẻ trộm hụt này lắm.
Ông lái bò cười ha hả mà rằng:
- Tôi biết mà! Hồi xế, nó cứ theo hỏi ron hỏi ren tôi đi về đâu? Ai dè cái thằng hỉ mũi chưa sạch mà đã trổ mòi rồi!
Tuần báo Lẽ sống, 1950
(Trích từ tập truyện ngắn Thầm Lặng)