Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2025

ĐÀNH CAM VÀO KHÁM VỚI TÌNH... BÒ - Bình Nguyên Lộc

 

Nằm trên một cành đào lộn hột đâm ngang, thằng Nóp vừa nhìn mây trắng trôi qua tán lá đào thưa vừa thổi ống tiêu.
 
Nó không biết bài bản gì hết, nhưng sao nhiều người trong xóm thường khen rằng nó thổi hay. Chính nó, nó cũng nghe những tiếng tiêu của nó là hay.
 
Nó đang say nhạc thì bỗng thằng Ngọ ở đâu chạy tới dưới gốc đào, kêu với lên:
 
- Anh Nóp ơi, ông Cả biểu anh để tui đuổi cặp bò về.
 
Tiếng tiêu im bặt ngay và Nóp nhìn xuống hỏi:
 
- Thiệt hay giỡn?
 
- Ai nói chơi cà.
 
- Vậy để tao đuổi về coi ra sao. Mày nói láo thì chết à.
 
- Tui nhỏ, ở lại coi trâu gì được.
 
- Sầm sầm cái đầu rồi nhỏ gì mà nhỏ.
 
Vừa nói câu sau này Nóp vừa tuột xuống. Nhưng trâu và bò đã biến đâu mất hết rồi. Mới hồi nãy đây, chúng còn đang núp nắng dưới bụi tre, nhơi lại mớ cỏ hiếm hoi mùa nắng mà chúng đã cạp được từ sáng đến trưa ở bãi cỏ, cạnh vườn đào vô chủ và hoang phế này.
 
Nóp hú vài tiếng rồi lắng nghe thì xa xa, trong chồi cây có tiếng lục lạc gỗ kêu lọc cọc đáp lại lời kêu gọi của nó.
 
Thì ra trâu bò vào rừng ăn lá cây vì không tìm được cỏ nữa, với lại trốn nắng luôn thể. Nó chưởi thề inh ỏi rồi lủi vô rừng.
 
Khi nó trở ra với cặp bò thì Ngọ đã leo lên nằm thay thế cho nó nơi cành đào ngang ấy. Cây đào lộn hột cổ thụ này không còn sức để sanh trái nữa, nhưng cái nhánh ngang ấy giống một cánh tay bà lão mà thằng chăn bò, chăn trâu nào cũng thích nằm như để chờ nghe bà ta kể chuyện ngày xưa. chuyện bà Xang, người chủ điên của cái vườn bỏ hoang này.
 
Vỏ nhánh đào sù sì, bị lưng lũ chăn trâu cọ nhiều năm thành láng bóng, nằm khá êm lưng, và gió trưa hiu hiu thổi, khiến đứa nào nằm trên đó cũng lim dim đi vào một giấc ngủ tuy nặng, nhưng dễ chịu, sung sướng vô cùng.
 
- Bộ ở nhà, ông Cả tính đi kéo cái gì hả mậy? - Nóp hỏi Ngọ.
 
- Hổng biết. Thấy nhà có khách.
 
Nếu không có công việc thì trâu bò được núp nắng trong rừng chồi này tới tối, Nóp mới lùa về. Bữa nay chắc ông Cả cho đi kéo rơm phơi ngoài ruộng, bên kia suối. Rơm phơi ngoài ấy dạo này bị ăn cắp dữ lắm.
 
- Khứu cà. Dịch nà.
 
Thằng Nóp chưởi con bò Khứu y như là chưởi người ta. Con Khứu đang ăn hiếp con Mốc, cụng đầu vào con Mốc vốn không sừng.
 
Nóp lại vỗ vào hông bò mà nói:
 
- Tụi bây ăn từ sáng sớm tới giờ mà chưa liền lưng. Rồi ổng mắng tao rằng để tụi bây no kiểu "trong mo, ngoài đất sét", oan cho tao lắm nghe?
 
Nóp ám chỉ đến một truyện cổ tích cắt nghĩa do đâu mà trâu bò ngày xưa biết nói tiếng người, còn bây giờ thì không.
 
Rời gò và nửa tiếng đồng hồ sau, Nóp lùa bò tới xóm ở dải đất phì nhiêu gần khu ruộng thấp minh mông hằng trăm mẫu của nhiều địa chủ nho nhỏ trong làng.
 
*
 
Bò vào cổng sau và ông Cả với một người khách lạ nghe chó sủa đón mừng bò, chạy ra sân sau, đứng nhìn hai con vật bạn của Nóp. 

Bò thấy cỏ vườn tươi mát thì ham lắm, đứng lại rứt từng cọng, món ăn mà ngày thường chúng không được phép rớ tới bởi cỏ mọc xen với rau cải trồng trong vườn.
 
Riêng hôm nay ông Cả cứ để vậy. Người khách lạ ngắm nghía một hồi rồi bước lại, vỗ đầu bò và lắc đầu chê.
 
- Chưn cheo, cái ngữ này thì giựt gì nổi.
 
- Nó nằm cát đó ông à.
 
Câu sau đó là của thằng Nóp. Nó nói một cách ngây ngô để có chuyện mà nói, cho đỡ trơ trước người khách lạ, chú ý tới nó ít hơn là tới hai con bò, chứ nó không có mục đích gì hết.
 
Nhưng mắt nó bỗng gặp cái nhìn lườm lườm của ông Cả nên nó hoảng vía, ngó xuống đất. "Nằm cát" là một khuyết điểm lớn, chỉ cái tật của những con bò lười, liệu xe chở nặng quá là nằm vạ xuống cát, không chịu kéo. Nó đã vô tình khai tệ bò của ông Cả.
 
- Một con thì không sừng, sẽ lộn nài, tháo ống, còn một con thì nằm cát. Ông tính sao, ông chủ?
 
Ông Cả nổi xung thiên, xẵng giọng mà rằng:
 
- Ông biết coi bò thì cứ coi, bằng không thì thôi, cần gì nghe một đứa con nít nói bậy nói bạ. Bò đó, giá đó, ông mua thì mua, không mua thì thôi, ai ép ông đâu!
 
Thì ra ông Cả bán đôi bò và ông khách là một chú lái bò. Thằng Nóp rụng rời, điếng hồn trong giây lát, nhưng hy vọng trở lại vì thấy chú lái cứ lắc đầu mãi.
 
Nó cố ra hiệu với ông lái bằng mắt để cho ông biết rằng cặp bò này không làm trò trống gì được đâu, nhưng ông ta vẫn không thèm để ý đến nó.
 
Sống riêng biệt ngoài vườn, ngoài hè với trâu bò, từ hồi sáu tuổi đến nay là mười lăm. Nóp chỉ được tình thương của trâu bò, nhứt là bò. Trâu thì dơ không tưởng tượng được và ngu lắm, gần như không có tình cảm. Bò hiểu được tiếng người, biết thưởng thức lời lẽ và cử chỉ mơn trớn của nó.
 
Trong một cử chỉ bảo vệ, nó bước tới trước đầu bò, rồi nắm chặt dây mũi bò, dang hai chân ra để cố thủ như quyết không cho ai bắt bò, bạn của nó. Ông Cả đã ham rẻ mua đôi bò này từ lâu rồi, tuy con nào cũng có khuyết điểm, nhưng mà rốt cuộc công việc cũng xong, nhờ người và bò biết ý tứ nhau, Nóp rất thạo cách bắt chúng nó làm việc, mà chúng nó cũng thạo cách phá Nóp cho vui.
 
- Thôi thì ông bớt cho tui hai trăm đồng, tiền tổn phí giấy tờ này nọ - ông lái kèo nài.
 
- Một đồng xu tôi bớt cũng không được, nói thiệt với ông.
 
Ông Cả cương quyết giữ giá vì ông bán giá phải chăng và thấy lái có ý muốn mua lắm.
 
Nóp thầm van vái cho vụ mặc cả này không xong. Nhưng nó cứ xong, khiến thằng bé chăn bò nghe chư mất hồn.
 
Giây lát sau, chủ không bảo gì, mà Nóp vội đi khuấy nước muối với cám cho bò uống. Thùng nước mặn ấy có pha mấy mươi giọt lệ nóng của nó.
 
Nó đưa đôi bò đi khỏi hàng tre mở ở đầu xóm mới chịu trở gót. Trước khi chia tay với hai người bạn thân mến nhứt đời nó, nó hỏi chú lái đi về đâu?
 
- Tao về Bà Ký, xa lắm. Mà xế rồi, đi đâu có kịp. Tối nay tao ngủ đậu nhà ông Muôn ở xóm trên.
 
Nóp đứng nhìn cặp bò đạp bụi của con đường làng trải đá đỏ lâu đời, mãi cho đến khi người và vật khuất sau một bụi cây ở một khúc đường quanh nó mới lững thững xuống làng.
 
Đêm đó, lần đầu tiên trong đời nó, nó không sao nhắm mắt được. Ngày thường nó hay bị ông Cả mắng là ngủ như chết. mà thật quả có như vậy, hễ ngả lưng xuống là nó ngáy kho kho. Có lần nó ngủ giữ cổng chuồng trâu: ăn trộm khiêng nó đi nơi khác, để mở cổng mà nó không hay.
 
Lần đó bị mất trộm trâu, ông Cả đánh nó một trận đòn nhứt sanh nhứt tử, rồi cho nó ngủ chuồng bò: trâu mắc tiền hơn lại nhiều con hơn nên ông phải giao cho thằng bạn cày canh giữ ban đêm.
 
Đêm nay chuồng bò trống trơn. Mùi phân chuồng vẫn còn, nhưng mùi bò quen thuộc mà nó đã ghiền, không còn nữa.
 
Nóp tưởng tượng Mốc và Khứu sẽ cực lắm vì chủ mới không biết ý chúng. Chủ mới lại là tay lái bò, thì chưa quen tánh ý của bò, ông ta đã bán sang tay khác rồi.
 
Bò sẽ đi xa nó hơn nữa và càng khổ hơn vì chủ mới lại lạ, còn tình nghĩa gì với bò?
 
Nóp nhớ bò và tin chắc rằng bò cũng nhớ nó, nhớ chuồng, nhớ xóm, nhớ vườn đào hoang phế, nhớ rừng chồi với con suối nhỏ nước trong veo, mà trưa trưa, ăn no rồi, chúng xuống mé nước làm một bụng no nóc nước trong và mát.
 
Nóp rưng rưng nước mắt khi nghĩ rằng nó không bao giờ thấy mặt lại hai bạn thân mến của nó là Mốc và Khứu nữa.
 
Mốc và Khứu coi thì cứng đầu vậy mà dễ dạy lắm, vì nó đã săn sóc Mốc và Khứu hồi hai "đứa" còn là bê. Chủ cũ bán bê cho ông Cả và sang luôn Nóp vì ông ấy dư người chăn trâu, chăn bò.
 
Đằng chuồng trâu bên kia, mấy mõm trâu cứ thong thả nhơi lại mớ cỏ ban ngày kêu phầm phập trong đêm lặng như tiếng chân của chúng chìm dưới bùn được chúng rút lên. Có lẽ chúng đang nhìn sang chuồng bò và ngạc nhiên trước sự vắng bóng của hai con vật mà chúng thấy là kỳ cục và xấu xí hơn chúng.
 
Nóp tốc chiếc chiếu rách đắp trên người nó ra, ngồi dậy rồi lắng tai nghe ngóng. Nó rón rén bước xuống chõng tre đặt trước cổng chuồng, rồi lại rón rén ra đi. 

Mấy con chó nhà sủa lên một tiếng rồi đánh hơi được người nhà quen thuộc, lặng lẽ chạy theo Nóp nhưng nó đá vào một con, cho chúng biết rằng nó không cần chúng theo hộ tống.
 
Nóp lần theo nẻo mà chú dắt bò đi hồi chiều. Chó trong xóm sủa theo nó, nhưng cũng không sủa dai vì con nào, từ đầu làng đến cuối ấp, đều quen với nó hết thảy.
 
Khi tới xóm ông Muôn, Nóp bị chó sủa một vài tiếng nữa rồi cũng thôi. Nó leo rào vào sân nhà, không quên quăng cho chó một mớ khoai nướng nó mang theo.
 
Nó mò lại chuồng bò, chun vô giữa hai cây song ngang. Bò ông Muôn và bò chú lái gởi, nhốt chung bốn con một chuồng. Nóp quờ quạng thì vớ được cái đầu trọc của con Mốc không sừng.
 
Nó mừng đến run lên, ôm lấy cái đầu ấy vào ngực nó. Tay nó vuốt miếng da lòng thòng dưới cổ Mốc và thầm thì nói với Mốc rất nhiều. Mốc cũng nhận ra nó nên lắc lư nhè nhẹ cái đầu, ra vẻ sướng lắm.
 
Khứu cũng vừa đánh hơi được Nóp nên cà nanh, đưa mõm tới nhồi những bắp thịt lưng của Nóp, khiến nó phải buông đầu Mốc ra để mơn trớn con Khứu, và cả ba thầm lặng thương nhau trong bóng tối.
 
- Gà gáy rồi cà - có tiếng người dàn bà nói trong nhà.
 
- Mới gáy chập đầu, còn khuya lắm - tiếng đàn ông nhừa nhựa đáp lại. 

- Lạ! Tôi nghe gì ngoài chuồng bò?
 
- Có cái gì đâu, khéo nhiều chuyện. Chó hổng có sủa mà.
 
- Tôi nghi quá, đâu ông ra coi thử coi!
 
Câu nói sau rốt của bà Muôn khiến Nóp chột dạ. Nhưng không nỡ rời bò, nó đợi thật nguy rồi sẽ hay.
 
Hàng rào lào táo lâu đời của nhà này, bị đứt chưn, nhổ lên chôn xuống đã mấy mươi lần nên thấp lắm, nó thót một cái là lên tới nẹp tre kẹp giữa những trụ lào táo chôn đứng, và bước qua đầu rào để nhảy ra ngoài, không có gì dễ dàng hơn.
 
Nóp quên rằng khi người nông dân nghe động, nhứt là ngoài chuồng bò, họ lặng lẽ mở cửa để đi rình, chớ không thắp đèn đi rọi mà nó biết lúc thật nguy để mà dông.
 
 Vì thế mà khi ông Muôn hô lên một tiếng thì cả nhà đã vây quanh chuồng bò đâu từ hồi nào, và nó mà có cánh cũng không tháo bay thoát được.
 
Bấy giờ người ta mới đốt đuốc lên, và chó mới ráp nhau mà sủa. Hàng xóm cũng đốt đuốc chạy tới vì nghe ồn, biết có biến: họ hành động đúng như tình đoàn kết ở thôn quê.
 
Cả xóm vang dậy tiếng người, tiếng chó, và đèn đuốc sáng rỡ cả mấy mươi vườn cau của xóm này. 
 
Khi ông Muôn lôi tên trộm ra khỏi chuồng bò, thì thiên hạ kinh ngạc hết sức: đó là gã thiếu niên hiền hậu nhứt làng, thằng chăn trâu của ông cựu Hương Cả Ngọt. Nóp chỉ mười lăm, nhưng nó cao lớn gần bằng người trưởng thành. Nó lầm lầm lì lì, ai hỏi gì cũng không nói, và không sao mà đoán được những ý nghĩ gì đang diễn ra trong đầu óc nó.
 
Người ta đưa nó đi, nó trì lại. Hai ba người lớn phải áp lại dùng võ lực lôi xểnh nó, nó mới chịu bước.
 
Nhưng chốc chốc nó day lại nhìn chuồng bò, như tiếc mẻ trộm hụt này lắm.
 
Ông lái bò cười ha hả mà rằng:
 
- Tôi biết mà! Hồi xế, nó cứ theo hỏi ron hỏi ren tôi đi về đâu? Ai dè cái thằng hỉ mũi chưa sạch mà đã trổ mòi rồi!
 
Tuần báo Lẽ sống, 1950
 
(Trích từ tập truyện ngắn Thầm Lặng)
 

Thứ Bảy, 8 tháng 3, 2025

CHIẾC LỌ THỦY TINH VÀ CÔ BÉ - Vũ Linh Thiêng


Tôi lấy tờ giấy bóng màu hồng nhạt cẩn thận gói chiếc lọ nhỏ lại. Lát nữa sẽ phải nói với em thế nào đây, hở Mỵ? Nhưng hy vọng em sẽ không khám phá ra sự thật đau lòng này. Đừng trách anh nghe Mỵ. Biết làm sao được, khi em cứ khăng khăng đòi anh phải bắt nhốt cho em vài sợi mây nho nhỏ. Lần đó anh đã nói đùa nhưng em ngây thơ quá đỗi, hỡi cô bé dễ thương. Anh đã kể với em là anh ở trên một đồi cao, buổi tối anh bắt đầu đi ngủ khi những khóm lá thông mệt mỏi thở lao xao, buổi mai anh trở dậy cùng lúc những cụm mây màu tuyết bạc bay bay thật thấp ngang qua ngoài ô kính. Anh đứng dậy mở cánh cửa sổ, đưa tay vẫy chào. Vì chút nữa mây sẽ lên cao, mây sẽ bay xa và mây sẽ tàn tạ cô đơn ở một góc trời nào đó. Nhiều lúc mây như quyến luyến ngừng lại thật lâu ngoài khung cửa. Mây thì vẫn luôn im lặng, buồn buồn. Nhưng anh thì đã vui vẻ kể cho mây nghe về những mẩu chuyện anh biết, về một cô bé tên Mỵ có đuôi tóc nghịch ngợm như đuôi ngựa, có hai mắt to như hai bánh xe vận tải (anh nhớ em đã dẫy nẩy lên khi nghe anh so sánh như thế) và nhiều điều khác nữa mà anh vô tình đã quên mất. Em đã tin anh lắm, và em ước ao được nhìn thật gần, được ôm lấy trong tay những cụm mây trắng nõn. Nhưng em không thể toại nguyện được vì mây chỉ đến vào buổi sớm khi nắng chưa lên mà em nói giờ đó thì em còn say ngủ, trời lạnh quá làm sao em có thể dậy sớm được. Và em đã bắt anh hôm nào nhớ giữ trộm lại cho em vài sợi nhỏ. Hỡi cô bé, em ngây thơ quá đỗi. Làm sao anh có thể nắm giữ được mây. Có những cái đôi khi rất gần gũi nhưng một đời có lẽ anh sẽ không nắm lấy được. Chỉ để ngắm mà thôi. Và có lẽ ta cũng đừng nên nắm lấy, Mỵ ạ...
 
Tôi lên đỉnh đồi khi nắng bắt đầu chiều.. Gió đùa trong mái tóc bồng. Tôi chụm tay làm loa gọi lớn:
 
- Mỵ Nương ơi!
 
Không có tiếng trả lời, chỉ nghe tiếng "ơi" vọng dài hiu hắt ở bên kia đồi. Nhưng tôi tin rằng nàng đã đến và có thể đang núp trốn sau một bụi cây nào đó. Nàng thường vẫn đến đúng hẹn, không như tôi thường bào chữa đồng hồ anh hôm nay đói bụng nên chạy chậm. Đảo mắt nhìn một vòng quanh đồi, tôi lại gọi lớn:
 
- Mỵ Nương ơi, Mỵ Nương.
 
Quả nhiên dưới thung lũng có bóng một người con gái, áo trắng dài nổi hẳn trên nền cỏ xanh biếc, chiếc đuôi tóc ngúng nguẩy giận hờn:
 
- Mỵ, không phải Mỵ Nương.
 
Tôi chạy như bay xuống thung lũng:
 
- Xin lỗi cô bé, chờ có lâu không? 

Nàng nghiêm mặt, con mắt long lanh một chút nước:
 
- Em tên là Mỵ, đừng gọi em Mỵ Nương.
 
Tôi cãi:
 
- Mỵ Nương là Công Chúa, em cũng là Công Chúa. Công Chúa nhỏ của anh...
 
Nàng cúi mặt không nói. Biết nàng giận tôi trêu thêm: 

- Em là Mỵ Nương, để anh làm Sơn Tinh.
 
- Không thèm chơi với bọn tinh bọn ma đó.
 
- Thì thôi, anh làm Trọng Thủy vậy.
 
- Không thèm chơi với gã ăn cắp ấy.
 
- Trời ơi! Thế anh là cái quái gì? Chả lẽ lại là cái gã Trương Chi thất tình...
 
Đã thấy một chút vui ở khóe mắt nàng:
 
- Không chơi với anh nữa. Bắt người ta chờ dài cả cổ rồi còn trêu người ta nữa.
 
- Ê, đừng vu oan nghe chưa. Cổ dài là tại ăn quà vặt quá nhiều. Mà thôi, huề nhé.
 
Tôi chìa ngón tay trỏ ra chờ đợi. Nàng nhìn tôi rồi nói:
 
- Không ngoéo. 

Tôi cho tay vào túi lấy ra chiếc lọ thủy tinh bọc giấy màu hồng chìa ra trước mặt  nàng, gió chiều khua những tua giấy kêu lao xao:
 
- Không ngoéo tay thì không cho cái này.
 
- Cái gì đã?
 
- Cái mà có người cứ đòi hoài đó.
 
Mắt nàng sáng lên nhìn chăm vào tay tôi:
 
- Mây đó phải không?
 
- Thì ngoéo tay đi rồi biết ngay.
 
- Anh ỷ thế lớn rồi bắt nạt người ta hoài.
 
Nói thế nhưng nàng vẫn móc ngón trỏ của nàng vào tay tôi. Tôi vẫn giữ lấy tay nàng còn tay kia tôi trao cho nàng chiếc lọ. Nàng trố mắt nhìn những sợi mây sóng sánh bên trong:
 
- Mây thật hả anh?
 
Tôi không dám mạnh dạn quả quyết:
 
- Thôi cất đi, cô bé. Mà nhớ về nhà đừng có mở ra nó bay hết nghe không. Con gái là chúa hay tò mò. Cam đoan rồi cô sẽ làm bay hết cho xem.
 
Nàng mải chăm chú nhìn nên hình như không nghe tôi nói:
 
- Anh này, có phải mây gặp lạnh đông lại thành nước không?
 
Tôi ngạc nhiên không hiểu nàng muốn gì:
 
- Trời ơi, học lớp mấy rồi mà hỏi câu đó.
 
- Để em về bỏ vào tủ lạnh xem nó có đông lại thành nước hay không nhé. 

- Trời đất! Không được đâu.
 
- Gì mà không được? 

Tôi bối rối, giảng nghĩa quanh co:
 
- Ê, không được đâu. Em không thấy chỉ có mây đen gặp lạnh mới đông lại thành nước hay sao. Mây trong lọ là mây trắng. Mây non mà.
 
Trong đuôi mắt nàng hình như có một chút nghi ngờ:
 
- Vậy hở?
 
- Không tin anh hả? Thôi cất cái lọ đi. Ta nói chuyện khác hay hơn.
 
Buổi chiều đã về hun hút sâu dưới thung lũng cùng lúc gió trở lạnh hơn trên đỉnh đồi. Một vài con chim bay xiêu xiêu trên nền trời màu xám. Không biết đã bao nhiêu lần như thế, chúng tôi ngồi bên nhau.
 
- Em lạnh không?
 
Nàng đáp lại bằng một cử chỉ rùn vai. Tôi kéo nàng đứng dậy:
 
- Thôi ta về đi. Chiều lắm rồi.
 
Đã qua đi ba ngày tôi không nhận được tin tức gì của nàng. Chắc là không có việc gì xảy ra. Có lẽ nàng đã tin lời tôi không mở chiếc lọ ra xem. Tôi cảm thấy hơi yên tâm. Vì dù sao đó cũng là dấu hiệu nàng còn tin tưởng ở tôi.
 
Chiều nay đi học về tôi nhận được một tấm giấy nhỏ: Mời ông đến Ty Bưu Điện lãnh một bưu phiếu. Khi tôi đến lão nhân viên trao cho tôi một hộp giấy nhỏ. Quái lạ, ai gửi cho mình gói quà gì đây. Nét chữ bên ngoài trông quen quen nhưng lúc đó có lẽ vì hồi hộp nên tôi không nhớ là của ai. Khi mở hộp ra tôi chưng hửng. Chiếc lọ thủy tinh mà tôi đã cho Mỵ. Không còn gì ở trong, chỉ một tờ giấy học trò nho nhỏ. Mở ra tờ giấy có hàng chữ nghiêng nghiêng:
 
"Trả anh lọ mây. Mây gì mà hôi thuốc lá um. Anh lừa dối người ta quá. Thôi, không thèm chơi với anh nữa".
 
Tôi đứng đó dở khóc dở cười. Và tôi nghĩ dù sao thì ngày mai mình cũng phải tốn một xuất xi-nê và một chầu hủ tiếu để làm hòa.
 
 
VŨ LINH THIÊNG     
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 92, tuần lễ từ 8-3 đến 15-3-1973)
 

Thứ Hai, 3 tháng 3, 2025

GÀ VÀ BA TÔI - Võ Hồng

 

Ngày nào cũng vậy, khi tiếng còi 12 giờ vang lên là má tôi cất tiếng dặn con Lời, con nhỏ giúp việc:
 
- Lời ơi, coi chừng gà qué đó con ơi. Cậu sắp về rồi đó.
 
Tiếp theo lời dặn của má tôi là tiếng la ùi… ùi! Oái… oái! Thật to của con Lời và tiếng vỗ tay của nó. Có bữa nó chạy một vòng quanh nhà và tiếng la, tiếng vỗ tay, tiếng chân dậm sầm sập của nó có kèm theo tiếng gà la quang quác, tiếng vịt cạp cạp inh ỏi.
 
Chừng 15 phút sau, ba tôi về. Ông dắt xe đạp kê ở hiên sau rồi đi thanh sát một lượt từ nhà ngang đến nhà bếp, còn đôi mắt thì lục lọi xa hơn, ở mãi đầu giếng, góc rào. Trăm lần như một, câu nói đầu tiên của ông là câu hỏi con Lời:
 
- Mày có nhớ coi chừng gà không?
 
- Dạ thưa có - Con Lời đáp lại gọn gàng như một tiếng vang.
 
- Gà hàng xóm có tới phá không?
 
- Dạ thưa không.
 
Có lần tôi suýt bật cười to vì để làm chứng cho câu trả lời đầy thiện chí và bảo đảm của con Lời, có một cây ớt bị bươi gần trốc gốc, nằm uể oải nghiêng một bên hông và đầu tai mặt mũi bám đầy những cỏ rác do chân gà bới tung lên. Ba tôi tỏ dáng bằng lòng, tháo cái mũ nhựa trắng (chế tạo tại Đài Loan) ông đội tức thời giao cho em tôi cất rồi lại vục tay vào thau nước rửa mặt. Nước mát mẻ làm mặt ông tươi lại. Lúc bấy giờ ông mới bình tĩnh giảng cho con Lời nghe về sự lợi hại của việc trông chừng gà.
 
- Gà hàng xóm nó qua… à hà… vừa bươi trốc gốc gãy đọt… à hà… mấy cây của tao trồng… à hà… vừa giẫm dơ chỗ vại nước. Phải rao cho chủ gà người ta biết để người ta nhốt lại. Chớ sao? Ai lại nuôi gà mà… mà không chịu mua thóc cho nó ăn? (Chỗ này ông bận lên cao giọng để cho hàng xóm nghe nên quên mất tiếng à hà nhật dụng).
 
Má tôi ở nhà trên bước xuống “suỵt” một tiếng nhỏ:
 
- Thôi mà ông, nói làm chi chuyện nhỏ.
 
- Sao? Bà bảo sao?
 
Đôi mắt của ba tôi tròn xoe lại. Cái miệng hé mở, sắp tròn lại theo con mắt nhưng chưa kịp.
 
- Chỗ hàng xóm láng giềng với nhau… Nhường nhịn nhau.
 
Ba tôi đi sấn tới, tay mặt còn cầm cái khăn ướt, vung lên:
 
- Thì tôi có bảo bà sao đâu?
 
Trông bộ ba tôi sấn sổ mà không nín cười được. Dù cố gắng hết sức để tạo ra một uy thế hùng hậu, sức vóc của ba tôi cũng chỉ gói gọn ở trong bốn mươi lăm kí-lô là cùng. Tay nhỏ, chân ngắn, cơ thể ông là một sự khiêm tốn, một sự an phận. Giá sinh vào một loài chim hay loài thú thì ông sẽ được an ủi nhiều hơn. Khi nổi giận, khi chuẩn bị chiến đấu, con chim xù lông vũ, con thú xù lông mao và đối phương thấy nó tăng thêm tầm vóc, tăng thêm bề thế có thể sợ hãi mà bỏ chạy. Đằng này ba tôi sinh làm người mà là người văn minh nên những cái gì có liên quan đến sự chiến đấu đều bị mài xóa mai một đi hết. Móng chân móng tay đều cắt ngắn. Râu ria bị cạo hàng ngày. Rốt cuộc dường như chỉ có con Lời là còn chịu nghe lời ông thôi.
 
Má tôi an ủi:
 
- Thôi anh lên thay áo đi rồi ăn cơm. Đi làm cả buổi nhọc mệt, còn lo chi chuyện… nhỏ…
 
Chết! Bà định nói “chuyện nhỏ nhặt”. Ba tôi sẽ nổi điên lên vì bị đánh giá quá hạ như thế. Nhưng may, bà giữ lại chữ “nhặt” và nói chữa:
 
- … lo chi chuyện ở nhà. Lời ơi, tao cứ phải dặn mày luôn là coi chừng gà cho cậu.
 
Tiếng “cậu”, má tôi nói thật ngọt ngào. Ở từ môi một người đẹp như má tôi, tiếng “cậu” thật có giá trị. Ba tôi ngoan ngoãn đi lên phòng thay áo cũng phải.
 
Trong bữa ăn, má tôi nói chuyện êm đềm.
 
- Tối thứ Bảy cậu định đi xem Đại nhạc hội hay Yến Hương?
 
- Yến Hương là cái gì?
 
- Là tên gánh hát chớ gì.
 
- Gánh hát gì lại tên là Yến Hương
 
- Ủa? Tên người ta, người ta có quyền tự do đặt mà.
 
- Tự do cái gì lạ vậy? Gánh hát thì phải Kim Chung, Kim Chưởng, Thanh Minh, Thanh Thinh… chớ ai lại Yến Hương?
 
Má tôi biết là óc của ba tôi còn bị đầu độc bởi sự bất bình lúc nãy, nên bà gắp thịt bỏ vào bát ba tôi vừa mời:
 
- Cậu xơi món thịt bò thui nầy xem. Hàng này ngon nhất chợ đấy.
 
Ba tôi gắp thịt chấm vào tương, nhai chầm chậm nghiêm trang như để nghiệm xem lời khen của má tôi có đúng không. Ông im lặng ăn luôn một thôi ba, bốn miếng. Chắc là đang tìm một tĩnh tự nào thật thích đáng để tặng cho món thịt bò này. Chúng tôi nhẫn nại đợi. Chợt ông đằng hắng to như để vội đánh lui một mảnh tương đi lộn qua thanh quản rồi khề khà nói:
 
- Mấy con gà hàng xóm…
 
Tôi trố mắt lên nhìn em tôi. Em tôi đưa mắt nhìn sang má tôi.
 
- …mình không ném đá cho nó sợ thì nó hay dể ngươi lắm. Cũng như người vậy. Nhưng chẳng lẽ đường đường như tao mà lại đi cầm đá ném gà? Chúng mày, - đến đây ông quay nhìn chầm chập vào mặt anh em tôi, - chúng mày ném đá thì phải phép hơn tao. Bởi chúng mày nhỏ.
 
Tôi nói:
 
- Nhưng gà nhà mình cũng hay sang bươi móc bên vườn nhà láng giềng.
 
- Thì bay phải gọi về. Có ai thích để vườn mình bị bươi chải bởi gà hàng xóm đâu?
 
- Nhưng súc vật thì chúng nó biết gì? - Má tôi nói.
 
- Sao lại không biết? Không biết sao khi đang bươi móc mà thấy bóng tôi là con gà nào cũng vội vã bỏ chạy, mồm la quang quác?
 
- Đó không phải là do những cảm tình tốt chúng dành cho cậu.
 
- Biết rồi. Nhưng tốt hay xấu tôi không cần, miễn là chúng đừng làm tôi khó chịu.
 
Tôi thấy không khí giữa ba má tôi đã có phần căng thẳng. Tôi vội can thiệp:
 
- Sao ba lại không thích gà nhỉ? Tính ba hay yêu chim chóc lắm mà. Con còn nhớ câu chuyện ba kể rằng ngày xưa ba đã lỡ bắn chết một con chim đang tha mồi…
 
- Tao nói tha rác chớ đâu phải tha mồi.
 
- Vâng, thì tha rác. Ba nhắm bắn trúng nó…
 
- Mày kể sai rồi. Tao đâu có nhắm?
 
- Chớ sao?
 
- Tao bắn bậy mà trúng.
 
- A! Tài ghê - em tôi nói chen vào - Ba bắn bậy mà trúng, còn con, nhắm hàng giờ mà bắn vẫn sai. Mà nào phải bắn chim nhỏ đâu, nhắm bắn vịt mà vẫn sai đó.
 
“Vịt hay gà thì cũng như nhau” tôi nghĩ. Thằng này ngu quá, mình khó khăn lắm mới lái câu chuyện sang một ngõ khác thế mà nó lại kéo đâm sầm trở lại vào sân gà vịt. Đúng y như tôi dự đoán, ba tôi quay sang nó.
 
- Bắn vịt mà vẫn không trúng thì dở quá. Con vịt chậm chạp đờ đẫn hơn con gà nhiều.
 
Tôi lại phải ra tay can thiệp:
 
- Nhưng mà ba này, rồi ba ăn thịt con chim ấy hay ba đem chôn nó?
 
- Ba ăn thịt. Và đó mới chính là điều làm ba ân hận mãi.
 
- Ba kể lại câu chuyện cho con nghe đi.
 
Ba tôi ngần ngừ một lát. Dường như ông tỏ ý nghi ngờ thiện chí của tôi nên cuối cùng ông nói:
 
- Tụi bay nghe hàng trăm lần câu chuyện ấy rồi. Vả lại, con gà khác xa con chim lắm. Con chim hiền lành ngây thơ, chớ không như con gà thực tế và đôi khi thô lỗ.
 
- Con gà sao lại thô lỗ? - Em tôi hỏi.
 
- Chớ sao lại không? Đã lẻn vào ăn vụng trộm ở vại nước nhà người ta vậy mà con gà mẹ vẫn túc con đĩnh đạc đàng hoàng và con cồ vẫn mời mọc ve vãn xung quanh những con mái. Không biết tội của mình, trái lại còn phô trương…
 
Ba tôi còn đang tìm chữ để tiếp, thì má tôi nói:
 
- Tính con vật nó tự nhiên.
 
- Nhưng sao khi thoáng thấy bóng tôi thì nó lại ba chân bốn cẳng mà chạy? Như vậy thì sao gọi là tự nhiên được?
 
Thế là má tôi bí. Mỗi lần phải cãi lý với ba tôi là thế nào má tôi cũng vội vã chịu bí. Lần này bà liền trả thù bằng cách gắp một miếng thịt bò thật to, chấm đầy tương rồi bỏ vô chén bà, thay vì đặt vào chén ba tôi. Em tôi nói:
 
- Như vậy nghĩa là nếu con gà hàng xóm vừa lấm lét nhìn vừa mổ thức ăn thì ba sẽ bằng lòng?
 
- Có lẽ như vậy. Ít nhất nó cũng phải tỏ ra rằng nó biết lỗi.
 
- Nhưng ba vẫn thích con Lời ném một viên đá thật to vào con gà phải không?
 
Ba tôi cười liền, không dấu diếm:
 
- Chính lời mày hợp ý tao. Chỉ cần một viên đá là mọi việc êm thấm hết. Nhưng mà này, sao con Lời nó tiết kiệm những viên đá như vậy hè? Tại sao, tụi bay có biết không? Tao tưởng vào tuổi nó thì ném đá là một cái thích chớ. Tao nhớ hồi nhỏ tao mê ném đá lắm, đụng chỗ nào cũng ném được, ném vào chó vào gà nhà người ta, vào bụi cây, vào mặt sông, vào bờ ao, ném cả lên trời nữa.
 
- Tại ba là con trai còn Lời nó là con gái.
 
- Thế dễ thường hai đứa bay cũng là con gái hết? Con trai 10 tuổi, 12 tuổi không phải sinh ra để sợ ma, để đứa ở dẫn đi tiểu.
 
Chúng tôi rụt cổ lại, ngồi ăn không nói vừa lẻn đưa mắt nhìn nhau cười ngầm. Những con gà thật báo hại. Giá chúng nó chìa mặt ra đúng vào lúc này thì tôi và em tôi sẽ mỗi đứa năm bảy hòn sỏi, ném vung tới, chết thôi.
 
Trưa hôm sau vẫn theo lệ thường ba tôi ghếch xe đạp lên hiên và cuộc hội thoại thường kỳ bắt đầu:
 
- Lời ơi, mày có nhớ coi gà không?
 
- Dạ thưa có.
 
- Gà hàng xóm có tới phá không?
 
- Dạ thưa không.
 
Ba tôi bằng lòng, lẳng lặng đứng tháo cái mũ Đài Loan thì chợt có tiếng “kéc ke ke” ở sân sau đưa tới. Thôi nguy rồi. Đúng là con gà cồ nhà thằng Hai vừa chui khe rào qua lúc nãy. Ba tôi thoăn thoắt đi vòng ra sau. Ông bắt gặp con gà sớn sác đứng nhìn ông bỡ ngỡ như nhìn một người khách lạ. Trông bộ nó vừa nghiêm trang oai vệ vừa ngớ ngẩn buồn cười. Cái mào đỏ chóe cắt răng cưa phe phẩy qua lại dịu dàng mỗi khi con gà làm một cử động nhỏ. Mà nó thì cử động không ngừng. Toàn thân là gân, là bắp thịt nên nó không chịu đứng yên. Cặp giò cao hết bới đến rảy. Rồi cái cổ cúi bên này, vục bên kia, cặp mắt láo liên, cái mặt ngẩng qua nghếch lại. Bộ lông màu hung đỏ láng mướt đẹp rực rỡ nhưng lũ thằng Hai vặt hết lông đuôi thành ra đầu đuôi không cân xứng. Nó thiếu thốn, nó ngượng ngập, nó chênh vênh thế nào ấy. Y như một bài luận có cái nhập đề hào hoa (như cái mào của con gà vậy), có cái thân bài vững vàng nhưng thiếu mất phần kết luận. Và trông ngược trông xuôi tôi vẫn có cảm tưởng như đang nhìn một người mặc áo sơ-mi thắt ca-vạt, choàng vét-tông, đội mũ Mossant mà chưa kịp mặc quần.
 
Con gà thiếu thốn ấy đang nhìn ba tôi. Chừng như trên mặt ông có tỏa ra đằng đằng sát khí nên con gà vụt bỏ chạy. Ba tôi rượt theo. Nó chạy dọc theo ranh rào. Ba tôi ném một viên đá. Hụt! Con gà hoảng bay vụt trở lại. Ba tôi quay lui theo. Thêm một viên đá ném tới. Lại hụt! Con gà gia tăng vận tốc và vừa chạy vừa ném trả lại sau những tiếng cục tác giận dữ. Chạy đến gần cổng, tôi tưởng nó mừng mà thoát ra nào ngờ nó chạy trở lui. Thật ngu dại một cách đáng giận, tôi nghĩ. Có lẽ màu sáng của một khung đất trống làm nó nghi ngờ. Ba tôi lại ì ạch chạy theo. Ý chừng đã thấm mệt nên chân trái hơi khuỳnh ra. Vừa đuổi đến sân sau thì đầu ông bị ngáng vào dây phơi áo. Cái mũ Đài Loan rớt đánh “bộp” xuống nền xi măng. Ông đứng lại cầm nắn cái mũ vừa xuýt xoa tìm xem có bị vết nứt không. Ở góc rào, con gà cũng đứng lại chờ. Cái mào đỏ lắc lư uyển chuyển.
 
Má tôi ở nhà ngang bước ra, vỗ tay mấy cái và la “ùi ùi”. Con gà nhìn nhớn nhác rồi chui lọt vào khe rào, chạy mất. Bà bước lại cầm cái mũ trên tay ba tôi, xem xét một hồi rồi nói:
 
- May chưa bể. Thôi, cậu thay áo rồi ra rửa mặt.
 
Những ngày tiếp theo, gió Bấc thổi ngược, gà bị dịch nhà nào ở nhà nấy, không còn ham phiêu lưu nữa. Chúng đứng cú rũ, thỉnh thoảng ngã chúi xuống như anh chàng ngủ gục. Lông lá xù ra. Cứt trắng dính bê bết ở lông bụng. Có con đi đếm bước ở ven rào, cổ rụt vai nhô và cánh kéo lè phè trông như ông cụ mặc áo tơi lá. Thế là ba tôi đỡ vất vả trong công việc săn đuổi và con Lời cũng yên tâm khi phải trả lời “Dạ thưa có” và “Dạ thưa không”.
 
Sau đó không biết chừng bao lâu, một buổi trưa kia thay vì vào giường nghỉ sau bữa cơm, ba tôi lúi húi kiếm tìm món gì đó ở chái hiên sau. Má tôi nằm ở ghế bố thiu thiu ngủ, tờ báo hàng ngày trải bên cạnh. Hai anh em tôi nằm ở đi-văng học bài chiều. Buổi trưa nồng nực. Nắng vàng như mật ong.
 
Chợt có tiếng đá ném đánh “đụi” một cái nặng. Tiếp theo là tiếng gà la “quác”. Rồi một tiếng đá ném “đụi” tiếp nữa. Lại một tiếng “quác” to hơn. Sau đó là tiếng con Lời la lớn:
 
- Chết rồi, cậu ơi, cậu ném chết con gà của mình rồi.
 
- Con gà nào của mình? - Giọng ba tôi.
 
- Con gà của mình chớ của ai? Mợ mới mua hồi sáng. Mợ cột chân nó vào thanh củi để đứng ở bụi chuối.
 
Anh em tôi nghe có chuyện lạ vội bỏ sách nhảy ra.
 
Ba tôi trên tay còn cầm một cục gạch - à, ném bằng gạch cẩn thận chớ không phải bằng đá như tôi tưởng - và chắc đang chuẩn bị để ném bồi một phát nữa thì bị con Lời làm cụt hứng. Tôi chạy lại bụi chuối.
 
Con gà cồ tía nằm dãy đành đạch, cái mỏ ngáp ngáp. Chân nó bị cột bằng một sợi dây vào thanh củi khá lớn. Chắc vì nó đang đứng giữa một đám lá ngải cứu nên ba tôi không phân biệt được một con gà bị tù tội xiềng xích với một con gà tự do. Quả thật vậy, vì liền đó ba tôi giải thích:
 
- Tao đâu có thấy cái dây cột chân? Tưởng con gà của ai sang bươi phá. Tao vung tay đuổi, nó không thèm chạy còn nghếch cái mặt nhìn. Có gà ai mà lại tự thị như vậy chưa? Hỏi làm sao mà tao nhịn được?
 
Tôi lại rờ con gà. Nó đập cánh, quơ chân lia lịa để tránh tôi. Ức nó dính bết máu. Tôi nói:
 
- Ba ném tài ghê. Trúng ngay cái ức.
 
Em tôi họa theo liền:
 
- Không ngờ ba cũng là xạ thủ có hạng, anh nhỉ? Chưa học trường Võ bị Liên quân Đà Lạt mà đã…
 
- Cú đầu trúng ức, cú sau trúng bụng. Thế là hai bàn trắng không gỡ.
 
Má tôi lê dép xềnh xệch bước ra. Bà nói:
 
- Đem con gà lại đây cho má coi nào.
 
Tôi lật đật bê con gà trên hai tay. Cái cổ nó ngoẹo xuống. Em tôi vội vàng chạy lại bê luôn cái thanh củi đi theo sau. Sợi dây nối liền hai chúng tôi. Trong thâm tâm, chúng tôi cố ý bày vẻ linh đình như vậy để tạo một quang cảnh “bi hài” cốt chế diễu ba tôi. Nhà thiện xạ không may mắn bị chạm tự ái thật. Ông gắt:
 
- Tao biết tụi bay mà… Sướng lắm.
 
Chúng tôi lén đưa mắt cho nhau, rồi che miệng vào cánh tay cười khúc khích. Má tôi cất tiếng gọi to:
 
- Lời ơi! Thôi, bắc nước sôi đi con.
 
(Trích từ tập truyện Những Giọt Đắng)