Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2025

MA NÉM ĐÁ - Bình Nguyên Lộc

Cô Hén không may mắn chút nào. Ba ngày tết, chủ cô đi tắm biển, cho cô về quê ăn Tết như mọi năm. Nhưng hôm chiều hăm bảy, cô vừa "đổ bộ" thì tối hăm chín, nhà cậu của cô bị ma ném đá.

Mồ côi cha mẹ, và chịu không nổi mợ dâu, cô Hén trôi nổi lên Sài gòn, đi ở mướn. Bốn năm sau, nhớ xứ quá, và hận cũ đã nguôi, cô mò về làng. Thấy cháu chồng đã khá, đeo vàng đỏ tay, quần là áo lụa, người mợ dâu cũng nể nên quên cái tội nó đã cuốn gói ra đi, tiếp đãi nó như là một đứa cháu thân yêu. Vả mỗi lần về nó không quên mua quà Sài gòn về biếu cậu mợ bộn bàng, nào là cam Tàu, hồng khô, hàng ny-lông màu sắc sặc sỡ cho con của mợ, nên mợ phải xem nó là thượng khách vậy. Cô Hén khỏi làm gì động tới móng tay sơn đỏ của cô, ăn no rồi đi dạo xóm, tới bữa ăn lại về ních một bụng rồi lại đi nữa, đôi bữa không về vì cô ta rất được hoan nghênh ở mọi nơi, ai cũng cầm cô lại ăn cơm hết.

Đi xa về tha hồ nói khoác. Mà cô Hén không nói khoác họ cũng mê tít đi. Nội cái vụ đèn xanh, đèn đỏ, nội cái vụ vòi nước phun lên trời, nội cái vụ thang lầu rạp chiếu bóng mình đứng trên ấy, tự nhiên nó bò lên, mình khỏi phải leo bước nào cả, toàn là chuyện thật, thật đúng trăm phần dầu, nội những thứ huyền hoặc ấy cũng đủ làm cho người làng say sưa như nghe chuyện cổ tích, chuyện thần tiên.

Tối hăm chín, Hén ở nhà để phụ giúp với mợ Tư nấu bánh tét, chớ không lẽ năm cùng tháng tận rồi, nhà ai cũng bận rộn mà cứ ngồi lê mãi.

Hồi bảy giờ rưỡi, thình lình một tiếng đá rơi lên ngói kêu lên chát chúa. Mợ của Hén rủa: "Quân dịch vật, ban đêm mà cũng bắn giàn thun cho bể ngói của người ta hết".

Cậu của Hén cũng có mặt ở dưới nhà bếp, chỉ làm thinh thôi, nhưng châu mày suy nghĩ. Trẻ con bắn giàn thun bằng sỏi nhỏ cỡ bằng ngón tay cái. Sỏi ấy rơi xuống ngói rồi thì lăn đi, kêu rổn rổn, nghe như cả mái ngói đều bể hết, nhưng không sao cả. Trong trường hợp nầy, tiếng chạm rất ngắn, nghe thì đoán biết ngói bể nhưng chỉ bể một vài tấm thôi rồi cái vật rơi ấy nằm yên nơi chớ không lăn xuống dốc mái nhà, chứng tỏ rằng nó nặng lắm.

Không biết bao lâu sau - vì không ai chờ đợi một tiếng đá rớt thứ nhì nữa nên không ai phỏng độ thời gian - bỗng cái tiếng đá thứ nhì ấy lại kêu lên, chát chúa. Mợ của Hén đã thả xong mười lăm đòn bánh tét vào nồi. Lúc bấy giờ đang có mặt hai bà hàng xóm, tới đó để gởi bánh tét vào nồi nhà nầy, theo tục lệ ở thôn quê, người nghèo chỉ gói một, hai đòn, nấu tốn công, tốn củi nên đem gởi vào nồi của các gia đình khá giả. Mợ Tư vội bước ra cửa sau chưởi: "Mẹ tiên nhơn cha, dòng họ cha nó! Đẻ con hổng biết dạy thì đóng trang mà thờ, chớ sao lại để đêm hôm lại còn bắn giàn thun lên nhà người ta!" Mợ Tư chưởi thật to, vì mợ đoán thằng bé bắn giàn thun có thể ở xa, cách năm bảy nhà gì lận, chớ không chưởi đủ cho người khít rào nghe như những lần mợ mất gà.

"... tiên tằng cố tổ bà nội cha bây, ăn no rồi ở không phá làng phá xóm! Mai nầy bây rước ông bà bây về, tao còn chưởi nữa, tao chưởi cho ông bà bây ngồi không yên trên bàn thờ..."

- Thôi!

Cậu Tư nạt vợ rồi nói tiếp để giải thích:

- Không phải con nít bắn giàn thun đâu. Tiếng kêu của ngói bể, là tiếng đặc biệt của đá chọi vô nhà.

Cậu Tư nói như vậy và nghĩ rằng có kẻ chọi nhà cậu, vì lý do gì chưa biết. Nhưng cả nhà đều nghĩ ngay đến ma và ai cũng kinh sợ đến cực độ.

Hai bà gởi bánh tét, không nói không rằng gì, vụt chạy bay đi. Mợ Tư, Hén và bốn đứa con nhỏ của cậu mợ, không ai bảo ai, lật đật đóng các cửa lại rầm rầm, làm như ma sẽ bị cửa đóng vào nhà không được, như loài người vậy, rồi họ xúm xít nhau quanh bếp lửa nấu bánh tét là nơi sáng sủa nhứt nhà bếp. Cô Hén đã rời thôn xóm từ lâu, quen sống trong ánh sáng nên sợ hãi hơn hết, sợ còn hơn mấy đứa bé nhứt, con của cậu mợ cô. Cậu Tư làm thinh, đoạn mở cửa nhè nhẹ, rồi thoát ra ngoài. Mợ Tư gọi cậu một tiếng, không nghe cậu đáp, mợ càng sợ thêm, chạy vội đi đóng cửa, phó mặc cho ma quỉ nó ăn tươi nuốt sống cậu mặc cậu. Ai bảo cậu bướng!

Thình lình đá lại rơi trên ngói. Cả nhà ôm nhau rồi ngã lăn cù. Bấy giờ nghe tiếng xôn xao quanh nhà, khiến mấy đứa bé khủng khiếp khóc ré lên. Nhưng mợ Tư thì yên dạ. Đó là tiếng của người trong xóm, có lẽ do hai mụ gởi bánh tét báo động, họ tụ lại để xem cho rõ thật hư. Đá lại rơi trên ngói, lần nầy đến hai viên một lượt.

- Đó, nó đó!

- Chắc chắn là ma!

- Ừ, chú Tư hiền khô, ai mà oán thù chú!

- Giỏi chọi nữa thử coi!

Tức thì một cục đá rơi xuống ngói.

Bấy giờ cả làng đều có mặt, đèn đuốc sáng trưng. Đàn bà họ sợ ma lắm, nhưng cũng rất ham coi ma. Nhưng để cho chắc khỏi bị ma ăn thịt, họ đốt đuốc lên và đi coi ma đông từng đoàn năm bảy người.

Cậu Tư không thể rình được nữa vì cậu đứng nơi sân, ai cũng thấy cậu hết. Tức mình, cậu vô nhà lấy áo để đi mời ủy viên cảnh sát. Nhưng cậu vừa ra tới cửa ngõ thì gặp ủy viên cảnh sát cũng vừa tới nơi.

- Gì đó chú Tư?

- Có ai chọi đá.

Cậu Tư vừa nói vừa mở cổng và thiên hạ nối gót ủy viên cảnh sát, tràn vào sân. Mợ Tư đã mở cửa nhà trên, thắp đèn sáng lên, ông ủy viên cảnh sát chưa kịp ngồi thì một viên đá lại rơi xuống ngói và ngoài kia thiên hạ lại la rần rần.

- Nó chọi đã bao lâu rồi?

- Độ trên nửa tiếng đồng hồ, non một tiếng.

- Mấy cục hết thảy?

- Gần mười lăm cục.

- Chú có nghi cho ai không?

- Không!

Ông ủy viên cảnh sát bóp trán rồi vụt hỏi:

- Còn con Hén đâu? Nghe nói nó mới về phải không?

Mợ Tư đáp hớt:

- Dạ, nó mới về, đang ở ngoài sau. Dạ, ông cảnh sát, tôi nhớ ra rồi.

- Nhớ gì? Ông ủy viên cảnh sát mừng rỡ hỏi.

- Nó tuổi dần. Hồi nó còn nhỏ, thầy coi nó có số quến ma.

Ông ủy viên cảnh sát và cậu Tư bật cười, trong khi đó thì mợ Tư gọi Hén giựt giọng, giọng hằn học lắm. Ngày tư ngày Tết mà con nhỏ mắc dịch nầy về đây báo hại mợ ăn Tết không yên! Mợ hận nó lắm, quên mất mớ quà nó biếu, mớ quà đã giúp mợ tử tế với nó. Hén lấp ló nơi cửa buồng, ông ủy viên cảnh sát hét:

- Hén, ra đây tao biểu.

Hén ríu ríu vâng lời, mặt cắt không lấy được giọt máu.

- Dạ!

- Hai bữa rày có thằng nào chọc ghẹo mầy và mầy cự hay không?

- Dạ không!

- Nói thật tao nghe, hễ nói láo là tao bắt giam liền. Có hay không?

- Dạ, chắc chắn là không!

Cậu Tư có một người con gái thứ ba đã đi lấy chồng. Thằng con trưởng nam của cậu đã chết lúc sắp cưới vợ. Còn lại ở nhà chỉ có mấy đứa bé xấu như ma.

Ông ủy viên cảnh sát lại hỏi cậu Tư:

- Không ai oán thù vợ chồng chú chớ?

- Quả thật không, ông à.

- Có bao giờ có ai hỏi mua cái nhà nầy hay không?

- Dạ cũng không.

- Kỳ lạ, kỳ lạ !

Hai người đàn ông, không ai tin rằng có ma cả. Nhưng một cậu con trai xồng xộc chạy vào nhà, tay cầm viên đá. Hắn xin bà chủ nhà một miếng vôi ăn trầu. Đó là trò chơi cổ điển mà ai cũng biết cả nên không ai ngạc nhiên và hắn được thỏa mãn.

Hắn bôi vôi trên cục đá rồi trở ra sân, hắn quát lên thật to:

- Nè, ma có giỏi thì vụt trở vào sân cục đá bôi vôi này thử coi!

Nói đoạn hắn tung đá ra thật mạnh. Bao nhiêu người trong sân đều hoảng, chạy đi tìm chỗ núp, mái hiên, tàng cây, v.v... Ai quen thân với chủ nhà thì chạy vô nhà, lúc ấy đã đông nghẹt. Không đầy hai phút đồng hồ thì một hòn đá rơi đánh phịch trên sân đất. Thiên hạ lại đổ ra sân, đèn đuốc sáng trưng trở lại nơi đó. Và kinh dị thay! Người ta lượm được một cục đá bôi vôi mới, vôi còn ướt mèm. Ông ủy viên cảnh sát có học tới lớp nhứt hồi Pháp thuộc, có đọc báo, đọc sách, và từ đầu chí cuối câu chuyện, không bao giờ nghĩ đến ma, thế mà ông cũng bắt đầu nao núng. Bận nầy ma vụt đá vào vách bổ kho, chớ không ném lên mái nhà nữa. Tung đá chạm vào vách kêu ầm dễ sợ hơn nhiều lắm.

Ông ủy viên cảnh sát gục gặt đầu rồi lặng lẽ mỉm cười. Ông suy luận như thế này: muốn vụt đá vào vách, phải vụt ngang. Mà đá nặng, vụt ngang phải đứng gần. Kẻ ném đá thừa dịp thiên hạ vào hết bên trong sân, mới xáp lại gần hàng rào mà làm như vậy được. Trước hắn còn nhát nên đứng xa, và chỉ có thể tung lên cao cho đá rơi xuống ngói thôi.

Ông ta bước ra sân và hô lớn như công khai tuyên bố:

- Rõ ràng là ma! Như vậy vụ nầy không thuộc quyền hạn của tôi nữa. Thôi, tôi đi về đây!

Lời công bố của đại diện chính quyền địa phương nặng cân lắm, nên thiên hạ càng tin rằng đó là ma. Ma cứ tiếp tục vụt đá vào vách bổ kho rầm rầm, hết vách bên tả đến vách bên hữu. Mỗi lần một cục đá bay vào nhà là người hiếu kỳ bu lại giành nhau để đem về làm kỷ niệm, đợi vài hôm coi đá còn hay không, hay cũng là đá ma nữa ? Nếu ma ném đá thâu đêm thì bọn tò mò nầy cũng dám thức suốt một đêm lắm để coi chơi và bàn tán, mặc dầu họ đã mệt mỏi lắm rồi vì bấy giờ cũng gần sang canh hai, tức là trên mười giờ đêm. Từ lúc ông ủy viên cảnh sát ra đi tới giờ, đã non một tiếng đồng hồ và ma làm xôm tụ hơn nhiều, đá bay vào vách tới tấp khiến khách hiếu kỳ đông là thế mà người nào cũng giữ được một cục, không còn giành giựt nhau nữa.

Thình lình nghe ai la lớn ngoài hàng rào:

- Nó đây rồi. Mầy chạy đàng trời không khỏi tao.

Tức thì hàng chục tia đèn bin ngoài kia chỉa thẳng vào nơi phát lên tiếng la ấy. Người ta nhận ra đó là giọng của một anh dân vệ trong làng. Thiên hạ lại đổ xô nhau ra khỏi sân, giành nhau để đi qua cửa ngõ hẹp té. Cậu Tư nhảy rào đi tới nơi trước thiên hạ, vì cậu tức ấm ách, muốn biết mặt mũi "con ma" ấy ra sao và nhứt là muốn biết lý do đã xui khiến nó phá nhà cậu.

Dân vệ do ông ủy viên cảnh sát bí mật điều động và cho đi rình, đã tóm được thằng Ngọt với một cục đá trong tay. Đó là đá xanh trải đường, đường quê lâu đời, nước mưa chảy xiết, gặm mòn đất, để lòi ra hàng trăm, hàng ngàn cục, muốn bao nhiêu, có bấy nhiêu. Cả làng đều kinh ngạc: Thằng Ngọt vẫn được tiếng là một công dân tốt trong đám công dân tốt trong làng, nó siêng năng, giỏi giắn, con nhà tử tế và tương đối khá giả. Nhà nó với nhà cậu Tư lại rất thân nhau. Nó cũng sắp đi hỏi vợ và rất mê con Họn xinh đẹp mà nó sắp hỏi thì không thể bảo rằng nó "muốn" con Hén không được rồi làm xằng. Vả con Hén năm nay đã hăm ba tuổi, lớn hơn nó đến bốn tuổi lận?

Ông ủy viên cảnh sát truyền lịnh giải tán bọn hiếu kỳ, kể cả dân vệ nữa, vì ông muốn điều tra mật, chỉ cho cậu Tư theo ông về công sở thôi.

Thằng Ngọt không sợ hãi, không hối hận, tỉnh khô như thường, có vẻ lương tâm an ổn lắm. Vả ông ủy viên cảnh sát không có hành hung nó mà, trái lại, khi nãy còn ngăn dân vệ toan làm dữ với nó là khác.

Lời lẽ ôn tồn, ông hỏi:

- Cháu nè, muốn nhẹ tội, cháu nên khai thật, tất cả sự thật. Nếu thấy rõ thiện chí của cháu, bác có thế làm êm, tha luôn cháu nữa. Bằng như mà cháu còn dối trá thì bác giải tòa vụ nầy.

Ngọt do dự lâu lắm trong sự im lặng, đoạn trịch thượng hỏi lại:

- Thưa bác ủy viên cảnh sát, cháu không biết bác chú ý tới điều nầy hay không, là từ mấy năm nay, mỗi lần chị Hén về làng, là làng ta mất đi ít lắm là một cô gái?

Ông ủy viên cảnh sát và cậu Tư giựt nẩy mình. Quả đúng như vậy ! Tiếng gọi của thị thành réo rắt lắm, và gái quê, những cô gái nghèo khổ, cực nhọc, cô nào cũng có mộng ra thành cho sung sướng tấm thân. Hén là tượng trưng của xa hoa, của đời sống dễ dàng ở các châu thành lộng lẫy, hơn thế, nó lại quyến rũ gái làng ra đi. Và họ dám đi là nhờ có nó dìu dắt. Những thôn nữ bỏ làng ấy, đôi cô không bỏ hẳn, những cô còn cha mẹ, bà con trong thôn ổ, thỉnh thoảng lại về, nhưng không cô nào còn can đảm lấy những anh nông dân trong làng mà họ đã thấy là cùi đày, lam lũ quá.

- Thưa bác và chú, mấy hôm nay, chị Hén qua lại với con Họn rất thường và cháu cảm nghe như Họn đã đổi thái độ đối với cháu. Cháu phải tự vệ, cho dẫu rồi phải vào tù. Cháu quyết làm cho chị Hén sợ ma, ra đi ngay, trước khi kịp dụ dỗ con Họn, hoặc bị mợ Tư sợ cái tuổi quến ma của chị ấy mà tống cổ chỉ đi ngay. Chỉ có thế thôi.

- Nhưng còn cục đá bôi vôi? Cậu Tư hỏi.

- Thưa chú, đó là việc thách đố ma cổ điển, cháu biết họ sẽ thách như vậy, nên mang vôi theo sẵn trong mình. Họ quên coi hình thù cục đá ném ra, để mà so sánh với cục đá ném vô.

Cả hai người lớn đều nghĩ nhiều về sự hao hớt dân làng và nhìn cậu con trai nầy, thương xót không biết bao nhiêu. Lâu lắm, ông ủy viên cảnh sát hỏi chủ nhà:

- Chú tính sao? Bãi nại được không?

- Được, miễn cha mẹ nó bồi thường thiệt hại cho tôi. Hằng trăm tấm ngói bể chớ ít sao?

- Còn con Hén?

- Xin cho nó ăn Tết. Nhưng tôi sẽ cấm nó ra khỏi nhà.

 
(Trích từ tập truyện ngắn Cuống Rún Chưa Lìa) 

Thứ Tư, 19 tháng 2, 2025

LỄ CÚNG TRƯỜNG - Võ Hồng

 
Khi những cơn mưa gió cuối cùng của tháng mười đã qua đi, khi những ngày tháng nắng hanh đầu mùa của tháng mười một rắc vàng trên cảnh vật, lũ học sinh trường Ngân Sơn bắt đầu háo hức vì nghĩ đến Tết sắp đến. Thằng Sanh báo tin Tết trước nhất. Nhà má nó bán hàng xén nên nó sát với mùa tiết hơn mọi đứa khác. Một buổi sáng nó hớn hở hỏi lũ bạn:
 
- Đố tụi bay còn mấy ngày nữa tới Tết?

Nhiều đứa nhao lên:

- Còn một tháng mười hai ngày.

Sanh gật đầu:

- Giỏi.

Rồi nó nói tiếp, giọng hơi tự đắc:

- Sao tụi bay cũng biết hả? Ở nhà má tao mới đi Tuy Hòa mua hồng, nho, táo, chà là về bán Tết. Má tao cho mấy trái táo đem theo đây.

Nó vừa nói vừa thò tay vào túi lấy ra hai quả táo. quả táo vỏ đen nhánh, răn reo. Nó để vào giữa răng cắn một miếng lớn, sát ngay hột. Lũ bạn nhìn theo nửa trái táo còn lại trên tay nó. Dấu răng còn in rõ vào thịt táo nhuyễn. Thằng Chữ thằng Tộc ý chừng chưa hề biết quả táo là trái gì, cứ nhìn chòng chọc vào nửa trái táo còn lại. Năm sáu đứa bạn đứng bao quanh. Những vết nhăn làm nhíu đôi chân mày và những cái miệng mở trễ tràng. Vài đứa nhìn vào cái mồm nhai của thằng Sanh, có lẽ là để xem thử nhai một quả táo Tàu thì có khác với việc nhai một món ăn thông thường không, như nhai một củ sắn nước chẳng hạn. Thằng Chơn đi nhanh hơn, nhìn ngay chỗ yết hầu của thằng Sanh để đợi xem thằng này nuốt xuống.

Thằng Số và thằng Lời, quê mùa và thô lỗ hơn hết, nắm ngay bàn tay đang cầm nửa trái táo của thằng Sanh đưa lại gần mắt để xem cho thật kỹ.

Nuốt miếng táo xong, Sanh nói tiếp:

- Má tao nói Tết này má tao đi Tết thầy một cân nho.

Những vẻ mặt tò mò lúc nãy lần lần trở nên nghiêm nghị. Tết thầy là một mối băn khoăn, nhất là đối với những đứa nghèo. Thằng Tộc nhớ lại rằng năm ngoái cha nó quảy từ Đồng Tre xuống một buồng chuối mốc để tết thầy. Một buồng chuối thì nghĩa lý gì so với cân nho, nó nghĩ thế. Thằng Chơn nhớ đến con gà cồ nó ẵm đi theo cha đến tết thầy hôm 27 Tết. Nó không biết một cân nho giá đắt gấp mấy con gà cồ, nhưng nó đoán là đắt lắm vì từ thuở giờ nó chưa thấy trái nho ra thế nào. Có lẽ thằng Chữ xấu hổ hơn cả vì mẹ nó chỉ tết thầy có hai trái dưa leo và một củ khoai mài, mặc dù đó là hai trái dưa sởn sơ nhất mẹ nó đã để dành phần tết thầy từ nửa tháng trước, cấm ngặt không cho ai được hái. Vài đứa bạn im lặng đứng lảng ra. Có lẽ đó là những đứa mà cha mẹ đã quên tết thầy.

Tiếng thằng Sanh hỏi một đứa bạn:

- Mày tết thầy cái gì?

- Một giạ nếp.

- Còn mày?

- Chưa biết. Chắc bốn gói trà "chữ mực" như mọi năm.

- Còn mày...

Tiếng guốc lộp cộp ở bực thềm đi lên. Thầy giáo tới. Lũ trẻ chạy ùa ra sân sau, tán lạn như một bầy chim sẻ.

*

Khi tiếng trống bãi trường chậm rãi xổ, khi đã đi hết lần dốc xuống đường, bé Trung xóa bỏ trong óc những con số của bài tính đố vừa làm để vấn vương vì cái tin Tết nhất anh em đã trao đổi cho nhau lúc nãy, trước giờ vào lớp. Tết đến, đó là một cái thú, say sưa lạ lùng hơn mọi thú khác vì lâu lắm mới gặp lại được một lần. Năm nay Trung lên mười một tuổi. Soát lại trong óc, hình như nó chỉ có kỷ niệm của ba, bốn cái Tết là cùng. Trước đó, nó lớn như thế nào, nó đã ăn Tết như thế nào, nó không hề biết. Ôi! Ngày Tết! Ngày Tết bắt đầu từ phiên chợ hôm 21 tháng Chạp, phiên chợ họp ở gần nhà nó. Những gánh hàng đều nặng trĩu, làm còng lưng những người đàn ông vạm vỡ. Tiếng người đi chợ nói chuyện, vang vang trong khi đêm chưa hết, trời còn tối đen. Không biết lúc ấy là mấy giờ, nhưng chắc là còn khuya lắm vì tiếng gà lảnh lót gọi nhau, trả lời nhau, nhịp nhàng thứ tự từ xóm trên đến xóm dưới. Ngày Tết, đó là những mâm cỗ cúng ăn không hết, những cuộc đi thăm bà con ở xa, xa mãi sau những dãy núi xanh cao. Ngày Tết... Dòng tư tưởng của bé Trung đến đây đứt quãng vì tiếng chân lộp độp của bầy trâu đi đằng trước đi lại. Trung đứng nép sang bờ cây chim chim để nhường chỗ cho trâu đi. Ba con trâu lớn, mình phủ một lượt bùn ướt lóng lánh, vừa nặng nề bước vừa quơ qua quơ lại đôi sừng cong kềnh càng. Tiếng chân đập xuống mặt đường chẫm rãi đều đặn. Đuôi cũng chẫm rãi đều đặn đập hết sườn bên phải đến sang sườn bên trái, đuổi những đám ruồi muỗi bay vo vo. Trung đưa mắt nhìn xuống nền lá chim chim, thấy bôi bết những vết bùn khô trắng. Đó là những đoạn lầy. Thoang thoảng nghe bốc lên mùi khen khét đặc biệt của bùn trâu. Cả cái con đường làng, đều mang dấu vết của những bầy trâu qua lại hàng ngày. Sự chậm chạp nhẫn nại và kham khổ của bầy trâu thật đã mâu thuẫn hết sức với những ý nghĩ êm đềm về Tết nhất của Trung. Nhưng nó lại cũng đồng thời khơi động nỗi băn khoăn đã nằm nép trong óc Trung từ sáng: đó là việc đi tết thầy. Năm ngoái, cha Trung đi tết thầy một đồng bạc. Cha thằng Tài đi tết đến hai đồng. Trung xấu hổ sợ thầy khinh và lo lắng sợ thầy ghét. Nó về nhà than phiền với cha:

- Sao cha đi tết thầy có một đồng?

Cha nó trả lời chậm chạp theo thói quen:

- Một đồng chớ bấy nhiêu nữa?

- Một đồng ít quá.

- Mày còn muốn bao nhiêu? Một đồng là hai giạ lúa rồi.

- Nhưng cha thằng Tài đi tết tới hai đồng.

- Nhà nó bán hàng xén nhiều tiền, bì sao được? Thầy giáo đã ăn lương của nhà nước rồi chớ đâu phải giống như hồi xưa mà phải đi tết nhiều?

Thế là nó đuối lý mặc dù nó thấy là đi tết hai đồng phải hơn. Đặt vào địa vị cha nó, nó sẽ đi tết thầy hai đồng. Nhưng nó không dám nói mà chỉ len lén nhìn sang vẻ mặt cha đang đăm chiêu.

Nghĩ đến vẻ mặt đăm chiêu của cha, Trung lo trước rằng năm nay việc tết thầy sẽ còn làm cho nó đau khổ. Nó sẽ còn ngầm đem mình so sánh với thằng Tài và thấy mình thua thằng Tài một cách hết sức vô lý và bất công vì nó học giỏi hơn thằng Tài nhiều lắm. Những giờ Toán, giờ Luận, thầy giáo không ngớt lời khen nó, nhưng mỗi lần nghỉ Tết xong, sự học tập tiếp tục trở lại, nó cảm thấy như thầy giáo thờ ơ với nó trong khoảng hai tuần. Sự suy nghĩ này làm nó giận cha, ngầm oán trách cha nữa. Phải sau này, khi lớn lên nó mới biết tại sao cha nó lại thờ ơ trong việc đi tết thầy như thế. Số là hồi còn trẻ cha nó cũng được cho đi học như thầy giáo Hiền, thầy dạy nó bây giờ. Suốt cả phủ Tuy An chỉ có một trường phủ là dạy chữ Quốc ngữ mà chỉ dạy một lớp vì không đủ thầy. Ở khắp các xã các tổng, thầy đồ vẫn y như ngàn năm trước, cao giọng giảng đạo thánh hiền. Sau một năm học ở trường Phủ, lên lớp, cha nó ra học trường Tỉnh ở Sông Cầu. Sông Cầu là tỉnh lỵ, những thú tiêu khiển như hát bội, những đám đình đám lớn như làm chay được tổ chức thường xuyên và có qui mô hấp dẫn đã lôi cuốn cha nó khiến ông bỏ bê học hành. Nhiều lần khuyên răn vô hiệu quả, ông nội không cho học nữa bắt cha nó về làm nghề và cưới vợ. Có lẽ sự cưới vợ sớm đã an ủi cha nó, bù vào sự học hành dở dang. Nhưng đến chừng nó đến tuổi đi học mà thầy giáo nó lại nhằm vào người bạn học hồi xưa thì hình như cha nó không được vui. Dĩ vãng bị khuấy trộn, sự thất bại của tuổi thanh xuân được nhắc đến thường xuyên, công việc làm ăn lam lũ so với nghề thầy giáo thong thả và danh giá khiến cha nó không có thiện cảm với thầy giáo mấy. Sự coi thường những lễ tết thầy cho con, đó là một cách trả thù nhẹ nhàng và vô hại.

Tối hôm đó, dưới ngọn đèn dầu, bé Trung ngồi ê a học bài Cách Trí. Đôi mắt nhìn ra sân, chọc thủng vào bóng đen dày đặc bao trùm khu vườn chuối trước nhà, đôi chân đu đưa dưới gầm bàn, miệng nó lặp lại như một cái máy: "... Bộ máy tuần hoàn gồm có tim, phát huyết quản và hồi huyết quản... gồm có tim, phát huyết quản và hồi huyết quản... gồm có tim phát huyến quản gồm có tim phát huyết quản... " Tụng lảm nhảm một lát, sực nhớ lại nó không biết là mình đã nói gì. Câu thuộc lòng đứt đầu đứt đuôi. Nhìn xuống trang sách, những hàng chữ song song làm nó thấy mỏi mệt và sao hôm nay chữ in như có gai châm vào mắt khiến nó xót xa. Nó nhìn ra khung ánh sáng chiếu qua cửa nằm in xuống sân. Nó thấy lần lượt thằng Chơn ôm con gà trống thiến, mẹ thằng Chữ cặp dưa leo, thằng Sanh hãnh diện cầm cân nho. Nó quay sang nhìn cha nó đang nằm lơ mơ trên võng treo gần đó, hỏi bằng một giọng tỉnh táo:

- Tết này cha đi tết thầy...

Nó chợt dừng lại, không biết có nên nói tiếp không. Nghĩ tới sự bực mình của cha, nó bỗng mong cha nó đừng nghe câu hỏi vừa rồi thì hơn. Nhưng cha nó cựa mình cọt kẹt trên võng và quay hỏi to:

- Con hỏi gì? Đi tết thầy hả?

- Dạ.

Tiếng "con" dịu dàng thỉnh thoảng lắm cha nó mới dùng để xưng hô làm nó cảm động êm đềm. Cha nó lại hỏi:

- Năm ngoái đi tết thầy bao nhiêu?

- Cha đi tết một đồng.

- Ừ.

Sự im lặng nặng những mong đợi và hồi hộp. Chợt cha nó đằng hắng một tiếng lớn làm nó giật nẩy mình. Tiếp theo, ông ngập ngừng nói:

- Năm nay... con lên lớp Tư. Thôi đi tết cho thầy... hai đồng cũng được.

Lời tuyên bố bất ngờ làm nó mừng quýnh. Thế là nó khỏi phải sợ thầy và xấu hổ với bạn. Để sự mừng rỡ khỏi biểu lộ một cách phí phạm, nó cúi xuống học bài Cách trí bỏ dở, giọng đọc rõ ràng lảnh lót. Đêm ấy nó học khuya mà không thấy buồn ngủ. Từng hồi, từng hồi trí óc nó dừng lại giữa những chữ "phát huyết quản... hồi huyết quản" để mường tượng nghe tiếng reo đắc thắng "hai đồng bạc tết thầy"

*

Nỗi vui mừng trong lòng làm Trung nhìn cảnh vật xung quanh với đôi mắt nặng những trìu mến yêu thương. Cái gì cũng đẹp đối với nó hết. Thực tế thì cảnh quả là đẹp thật, cái đẹp rực rỡ sau những ngày Đông mưa gió u sầu. Trưa hôm nay đi học về ngồi đợi đò ở bãi cát Thiện đức, Trung say sưa đẫm mình trong nắng. Thật đẹp là những ngày nắng đầu mùa. Nắng vàng nhẹ, không khí trong suốt khiến cảnh vật sáng tưng bừng. Đứng ở bến đò Thiện đức có thể nhìn thấy rõ bầy bò lội qua bến đò Gạch cách đó hai cây số. Bờ tre ở Hội phú, rặng dương liễu ở Mằng lăng hiện lên thành một giải xanh ngăn ngắt và dãy núi cát ở mãi Vũng Lâm toàn một màu vàng rất nhạt, sáng óng ánh dưới ánh mặt trời. Không khí nhẹ và kích thích. Ở trong nhà nghe hơi lành lạnh nhưng ra đứng giữa nắng một lát thì cảm thấy cái thú ấm áp. Cái nắng e lệ đầu mùa cũng nhẹ như cái lạnh, khác xa với cái nắng gay của ngày hè. Nắng về, nước sông Cái chảy rọt hết khiến con sông chỉ rộng còn mươi thước. Hôm tháng Mười nước lụt, cũng đoạn sông này nước một màu vàng đục chảy cuồn cuộn phả bờ. Con đò phải ghìm đậu mãi giữa xóm. Những ngày cực nhọc ấy, đợi đò phải hàng buổi, đò chống phải hàng giờ. Thật khổ tâm cho Trung khi ngồi bên này bờ nghe tiếng trống trường đánh hồi giục giã. Khi mưa lụt bắt đầu, đập Tam giang chắn ngang sông Cái bị nhổ cừ ở đoạn giữa để cho nước thoát tránh đề đập khỏi vỡ. Do đó, khi nước rọt hết, khi nắng tháng Mười một khởi đầu cho mùa nắng Xuân Hè thì lòng sông hẹp lại hết sức, những bãi cát bên bờ rộng ra vô cùng. Và để chuẩn bị đắp lại đập chắn lại sông, giữ nước đưa về đồng cho kịp mùa cấy tháng Chạp, lệnh đốn độn ban ra. Trên sườn núi A Man nằm sau lưng thôn Quảng đức, đen nghịt những người làng lo chặt chà, đốn độn. Tiếng hò reo, tiếng hát ví, tiếng cười lanh lảnh. Nhiều đứa nhỏ bằng tuổi Trung, sau buổi học, cũng nhập bọn đốn độn. Lũ này đem tới trường những câu hát đố thô tục, những câu chửi sỗ sàng dưới hình thức câu hát, loại hát đặc biệt của lũ trẻ chăn bò, chúng nó học được ở những ngày đốn độn, đếm độn.

Như phụ họa với ý nghĩ của Trung, ở lưng sườn núi vang lên tiếng đứa nào hát:

(Lô lí lô) Tao liều (lô) một nắm (lô) ớt cay (lô)

Tổ cha thằng nhỏ đó (lô... Ô... )

ăn mày (là mày) nhà tao (lô... à... lô... )

Tức thì một giọng khách lật đật đáp liền:

Thầy bày, thầy dạy mày đây

Lấy cây gắp đất cho thầy mày ăn...

Trung nhìn lên hướng có tiếng hát. Một bầy bò lưng vàng chen trong cát bụi lá xanh rậm. Bên cạnh đó, hai ba dáng người mặc áo đen đang giơ rựa chặt vào bụi cây. Có người đang ràng dây bó độn. Nghe tiếng hát, nó chắc đó là tiếng của thằng Được con ông Câu Mua, chăn bò chuyên môn.

Đò cập bến. Khách đi đò lên xuống đông hơn ngày thường. Lão Nhảy, ông lão chống đò trông cũng vui cười mau mắn không còn u sầu như những ngày thường. Đành rằng nụ cười của ông chỉ tươi đến một mức rất tương đối, đành rằng những cử chỉ quơ sào, uốn mình, bắt tay chèo đều còn rất chậm chạp mực thước, nhưng như thế cũng đã là tiến bộ quá sức trông đợi của lũ học trò qua đò. Vì học trò là lũ khách quá giang bị ngược đãi hơn hết. Đi đò suốt cả năm mới trả cho một giạ lúa, gặp nhà nghèo thì số tiền còn ít hơn, thế mà thỉnh thoảng lão còn nghe có cha mẹ học trò nhắc đến một lệ nào đó hồi xưa, miễn phí cho học trò nhà nước đi đò khỏi phải trả tiền. Đi về một ngày bốn lượt, lên đò xuống đò thì hỗn hào, thường đò chưa cập bến đã nhảy thót xuống đẩy đò chạy ra xa phải mất công lão vừa quơ sào vừa chụp tay chèo để bác đò vào bờ, thế mà một giạ lúa cũng định gạt của lão. Lão vốn nghiện thuốc phiện mà nghề chống đò đâu có dư giả để đủ tiền hút nên lão thường hút xái và nuốt giẻ. Vào những buổi trưa đài thuốc, nằm nấp nắng dưới mui thuyền kê ở bãi cát, nghe tiếng kêu đò lòng thấp thỏm mong rằng đó là khách lạ quá giang, thế mà hé nón nhòm ra thấy lục cục mấy thằng học trò tiểu yêu đứa ngồi thu hình kẹp sách vở vào giữa đùi, đứa vừa cầm mẻ sành ném thia lia trên mặt sông miệng vừa kêu đò ơi ới thì nỗi chán chường của lão thật lên đến cực độ. Lão nằm im một hồi lâu để trả thù những tiếng réo đò nhưng cuối cùng lão cũng phải dậy. Lão bước chầm chậm lên cát, vén quần lội chầm chậm dưới nước rồi nặng nề bước lên đò. Lũ trẻ hớn hở nhìn con đò chòng chành dưới sức nặng của lão nhưng thất vọng liền khi thấy lão ngồi ỳ trên giường sõng. Đợi một lát chúng lại khởi sự réo, đứa trước đứa sau. Sự khác biệt về âm thanh trong mỗi tiếng réo không ngờ nghe lại vui tai nên chúng kêu lại một lượt, hai lượt rồi kêu loạn xạ rồi ôm bụng, cong lưng cười ngặt ngoẽo. Lão Nhảy giận lên vì mình bị làm đầu đề cho một trò chơi mới nhưng cũng phải đứng dậy đạp sào chèo đi vì sợ làng xóm người ta quở. Tiếng kêu đò bao giờ cũng gợi một sự hối hả, đôi khi còn pha màu rùng rợn. Đó là tiếng kêu đò của người nhà ai đi rước bà mụ, người chạy mời thầy thuốc cứu một con bịnh ngặt nhèo, tiếng kêu của lũ "Ma Gia" hiện hình lên trong những đêm lạnh lẽo theo lời người ở ven sông truyền khẩu. Lão Nhảy không muốn những sự rùng rợn ấy được thêu dệt quanh mình lão. Lão lầm lũi chèo qua sông.

Để tránh những lời rủa sả của lão, khi đò cập bến lũ nhỏ làm ra bộ hiền lành cung kính hết sức:

- Để con bỏ dây cho ông nghe?

- Để con bỏ cho.

Lão lại phải nạt lên:

- Ai biểu? Coi, lại nhảy giành đạp lủng mê sõng. Tao nện cây sào cho một cái, u óc. Đồ quỉ phá. Ngồi xuống hết.

Lũ nhỏ riu ríu ngồi thu hình trong lòng con đò. Tiện tay sào, lão đẩy con đò lướt tới rồi khi lườn sõng kề sát chân cọc, lão nhẹ đưa bàn chân đặt lên đầu cọc nhún mình đạp một cái. Con đò vụt tới nhẹ nhàng. Tiếp theo, mái chèo chém xuống nước, xoáy làm con đò lắc lư. Mũi đò ngoan ngoãn hướng sang bên kia sông. Lũ trẻ mừng quá, không ngờ lão lại tốt bụng không bắt chúng ngồi chờ như chúng nghĩ. Chúng nhìn lên vẻ mặt lão để tìm xem một nụ cười tha thứ nhưng chúng chỉ thấy vẻ u tối bình nhật.

Nhưng mấy hôm nay, trong không khí ấm áp nhuộm màu Tết nhứt, lão Nhảy vui vẻ ra mặt. Lão nhai trầu, xỉa răng thuốc để thỉnh thoảng nhổ một bãi nước trầu đỏ xuống mặt sông. Lão nói chuyện, pha trò nữa. Ở trên giường sõng nơi chân lão nhịp nhàng rướn tới kéo lui theo nhịp tay chèo, có nhiều gói bằng lá chuối xanh mướt. Nhỏ nhắn vuông vức này, chắc là gói thuốc. Có nước chảy ri rỉ kia, là gói đậu phụ. Gói thịt lòng heo to hơn và dễ biết hơn cả vì có một đoạn ruột heo sổ lòng thòng. Ý chừng đây là những món quà người khách qua sông biếu lão thay tiền. Cũng có thể là lão mua nhưng chắc chắn người bán đã vừa bán vừa biếu. Đi đến bến sông gặp một con đò sắp sửa rời bến, vừa bước lên đò là được ông lái quay mũi sang sông, đó là những điềm may mắn cho người bán hàng, nhất là trong những ngày tháng Một tháng chạp bán chạy lời nhiều. Nghĩ vậy nên không ai từ chối một sự dễ dãi với ông lái đò.

Bé Trung thấy lòng bâng khuâng thương cho ông lão Nhảy. Một gói quà ngon hơn là một lời an ủi. Bé liên tưởng ngay đến thầy giáo của bé. Trên cái khay đặt ở bàn thầy ngồi, rồi sẽ có những gói trà buộc chặt vào nhau, những phong bánh, những gói mứt và cả những tờ giấy bạc mới tinh.

*

Ngày hai mươi tháng Chạp, mỗi học sinh đi học mang theo một cái lồng đèn để treo ở lớp. Thầy không ra kiểu mẫu, không cho cỡ nhưng hầu hết đều làm lồng đèn trái ấu. Chỉ có anh Sô, anh Nhiễu nhà theo đạo Gia tô là làm đèn ngôi sao. Anh Truyền ở Gò Chung qua, tuy cũng theo đạo Gia tô nhưng cái lồng đèn trái ấu anh làm sơ sài đụng đến thì méo. Hai cái lồng đèn của anh Trảy, anh Hự là đẹp nhất. Ở mỗi góc có một chùm tua bằng giấy. Gió thổi lên, những cái tua bay rèn rẹt lăn tăn. Thầy cầm lên một cái lồng đèn trái ấu phất nhiều màu. Chẳng những mỗi góc đều có tua mà ở mỗi mặt đèn tác giả đều dán rất nhiều nhửng mảnh giấy tròn đủ cỡ. Cái lồng đèn trông thành ra bề bộn lẩm cẩm. Thầy hỏi:

- Cái lồng đèn của đứa nào đây bay?

Anh Ước đứng dậy:

- Thưa thầy của con.

- Sao mày dán từng chấm từng chấm cùng khắp trông như ghẻ vậy mày?

Cả lớp cười rộ lên. Không biết thầy nói "trông như ghẻ vậy" là vô tình hay hữu ý vì khắp mình anh Ước đầy những ghẻ. Cả ngay trên mặt cũng loạn xị những sẹo ghẻ đã lành còn vết thâm tím. Anh đứng cà lăm, lập bập cái miệng vài tiếng vô nghĩa rồi ngồi xuống.

Thầy cho chăng ba đường dây thép tréo nhau suốt từ góc này sang góc kia của lớp rồi sai móc những lồng đèn vào. Gió thổi đu đưa cả đèn cả tua trông vui như ngày hội. Những con chim sẻ chọn chỗ lót ổ ở đầu rui, thảo luận "chi chích" hàng tràng dài rồi đập cánh bay vù đến đậu ở một chỗ khác và bắt đầu chi chích trở lại. Mặc dù thầy giáo Hiền dữ đòn có tiếng nhưng vào những ngày này mà màu sắc, mà âm thanh, mà cử động cứ náo loạn cả lên ở trên đầu như thế kia thì bảo lũ nhỏ học hành chăm chú gì nổi. Đã thế, vào giấc ba giờ chiều, ngọn gió mát ở dưới đồng vùn vụt thổi lên, thổi bay luôn cái linh hồn nhẹ nhàng của lũ nhỏ đang dính vào lời giảng của thầy bằng một sợi tơ tưởng tượng nào rất mảnh. Nhưng mùa Xuân làm cho thầy hiền từ. Một bữa nào đó, thầy dừng lại giữa hai lời giảng rồi nói:

- Hăm sáu tháng Chạp cúng trường.

Học trò nhao nhao lên mừng y như cỗ bàn đã sắp dọn. Cái thước gạch phải đập lạch cạch xuống bàn mới đem lại sự im lặng. Thầy đằng hắng nói tiếp:

- Mỗi trò góp năm xu. Trò nào nhà giàu góp một cắc.

- Thưa thầy bữa nào cúng? - Thằng Tộc ngớ ngẩn hỏi.

Sáu bảy tiếng nói ồ lên một moạt:

- Ê! Thằng mớ ngủ. Thầy mới nói hăm sáu.

Cái thước gạch lại giơ lên nhưng chưa kịp gõ xuống mà lũ nhỏ đã lật đật im lặng rồi. Có tiếng lè nhè:

- Thưa thầy trò Lẹ giàu mà trò nói chỉ góp năm xu.

- Không được. Cha nó làm ông Cửu, nhà giàu.

- Thưa thầy như vậy thằng Dĩ cũng phải nạp một cắc. Nó là con bà Xã Tám Chí thạnh...

Những đứa con nhà giàu bị hành hạ liên tiếp mấy buổi học vì ở lớp thì bạn nhất định cho là giàu mà về nhà thì cha mẹ đều bảo là mình nghèo. Nhưng rồi cuối cùng số tiền tom góp cũng đủ. Thầy giao cho ông cai trường lo mua sắm. Ông Tròn quê mùa có biết mua sắm gì đâu? Ông chuyên môn chặt bụi ráy bó chổi để quét trường khỏi tốn tiền mua. Ở góc lớp ông trữ sẵn bảy, tám cây chổi. Ông giỏi gánh nước, leo đường dốc mà cứ chạy kìn kịt. Ông cũng có tài lễ phép. Hễ đứng nói chuyện với thầy thì một tay cung trước ngực, một tay gãi tai và mắt thì ngó xuống đất. Thường thường gãi tai là cử chỉ đối với ông Xã, cung tay là đối với ông Thừa, ông Lại và cúi nhìn xuống đất là khi bẩm quan. Ý chừng ông Tròn không biết xếp thầy ở nấc nào của cái thang chức tước ấy nên khôn ngoan, ông tổng hợp mỗi động tác một ít. Ông Tròn quan niệm cúng trường cũng như cúng các đẳng nhà ông nên món thực phẩm đầu tiên và chót hết mà ông có thể nghĩ đến là món chè nếp đậu ván. Chè thì phải đi với xôi cũng như có vợ có chồng. Xôi chè sắp trơn luột trên bàn thì ngó không được nên ở dãy trước phải một hàng dĩa cốm bột, bánh in. Đèn hương thì khỏi phải tính toán suy nghĩ vì dù hà tiện đến mấy cũng phải ra hàng xén của mụ Lành mua, - mụ này kêu vợ Ông Tròn bằng cô họ,- chứ không giống bụi ráy có thể lên núi mà chặt bao nhiêu cũng có. Khỏi tốn tiền mua hoa. Mấy cây điệp ở trước Ty hàng tha hồ cho ông bẻ.

Thế là đúng xế hôm hăm sáu tháng Chạp cúng trường, ông Tròn gánh một đầu nồi chè to tướng, còn đầu kia thì lổn ngổn chén dĩa, bánh cốm, hương hoa... Cái bàn thầy được khiêng ra để giữa lớp. Xôi được ông xới ra dĩa trước. Học sinh tự nguyện lãnh việc bưng sắp lên bàn rất đông. Tiếp theo, ông múc chè ra từng chén. Công việc này mau hơn đơm xôi vì xôi khó tém cho tròn mà hễ tay đụng vào đâu là xôi bám chặt theo đó. Những chén chè cứ sắp hàng, sắp hàng mãi, ban đầu còn rộng rãi thoải mái, sau phải xếp sít lại gần, sít thêm nữa, đến chật ních cả bàn. Cái bàn thầy ngày thường trang nghiêm, nay phải chở một đám xôi chè trông tầm thường như cái kệ của quán bà Cống. Nhưng khi ông Tròn đặt hai cây đèn thau hai bên, cái lư hương để ở giữa, cái bình hoa sát ở cạnh thì ông đã vô tình trả lại sự trang nghiêm toàn vẹn cho cái bàn thầy. Và khi thầy Hiền, chững chạc trong cái áo dài đen, đầu đội khăn xếp, chân mang giày trắng bước lại trước bàn châm nến và châm hương lầm rầm khấn vái thì tất cả anh chị em học sinh đều khép nép im lặng. Ánh nến lung linh, vòng khói hương bay quyện lên cao có một vẻ gì huyền bí. Những dĩa xôi, những chén chè như đã cởi bỏ cái lốt tầm thường của một món ăn mà khoác lên một vẻ thiêng liêng, xa lạ. Sau khi thầy cúi đầu vái xong ba vái thì đến lượt lũ học sinh lên làm lễ. Thầy sắp cho cứ năm đứa lên lễ một lần, đứng thành ngang hàng trước bàn. Hôm nay đứa nào cũng ăn bận gọn gàng sạch sẽ hơn ngày thường nhiều nhưng sang trọng hơn cả vẫn là Sanh. Bộ quần áo của nó bằng vải tàu bay trắng tinh và may máy nên đường may thẳng và nhỏ như nét kẽ. Khi thầy lùa đủ năm đứa để cùng đứng với thằng Sanh thì đứa nào cũng chực lảng xa. Thằng Ri bị bắt cóc đứng cạnh Sanh cứ lén nhìn xuống bộ quần áo vải tám vàng khè của mình. Thằng Sung bận áo cụt vải ú đen quần trắng giống y như cha nó khi đi tết chủ ruộng. Quê mùa mà bằng lòng vô tư nhất là anh Soi. Hình như anh mồ côi cha, nhà nghèo, ở mãi tận hóc núi Bà. Anh bận áo vải ta trắng may tay, đường may dày cộm, mũi chỉ thưa và không đều. Có nhiều đoạn chắc vì hết chỉ, mẹ anh may bằng sợi gai. Vạt trước cắt nhọn quá, dô ra như cái mái, để lòi một phần da bụng. Áo chỉ có một túi, rất lớn, rất cao dễ có thể chứa được hai tô lúa. Có năm hột nút mà mỗi hột mỗi loại. Hôm nay anh vẫn mặc cái quần cũ, cái quần nhuộm chàm đã xơ cả đáy. Anh bước tới vái và lẩm nhẩm khấn một cách thành kính y như anh quen với công việc này lắm. Bé Trung thì khờ hơn. Nó không biết khấn tên ông gì nhưng nó đoán là ngồi ăn chè trên bàn phải là mấy con ma ở cây cà te trước trường. Cây cà te lớn sum sê, lá xanh quanh năm và gốc to năm đứa ôm không xuể. Mới ngày đầu khai giảng mà lũ bạn ở Thiện đức đã thầm thì truyền lời đồn:

- Cây cà te đó ma nhiều lắm. Ông Gương đi mua kén ở Hòa đa về ngang qua đó nghe tiếng ma đưa võng ru con, sợ chạy gần chết.

- Khuya khuya có những tấm phướn đỏ bay về ngang qua cây cà te rồi ghé vào, biến mất.

- Tấm phướn là cái gì?

- Là tấm vải đỏ rất dài. "Bà" bay về nghỉ ở đó.

Lũ thằng Đời thằng Hỷ mang cơm theo để trưa ở lại trường, nghe nói sợ quá phải xuống xóm nghỉ trọ. Còn tất cả học trò thì đều sợ vì những sự thất kính vô tình của mình trong suốt năm học. Chẳng hạn, nó giỡn mà hét to lên làm kinh động giấc nghỉ của "Bà". Chẳng hạn khoái chí quá, nhặt đá lia vung, lia nhằm cả vào tàn cây cà te. Cũng có thể "Bà" đi ngự du ở đâu về, sẵn thấy lũ nhỏ ra đánh mạng đánh đáo ngoài sân trường, "Bà" bắn chơi một mũi tên. Nhưng có điều này đáng sợ hơn hết là sự tiểu bậy của chúng. Đang mê chơi thì gặp chỗ nào cũng có thể vén quần tiểu được. Đánh trống ra chơi, mừng quá nhảy xổ ra thì nhất định bạ hướng nào cũng có thể tiểu. Không nhiều thì ít, đứa nào cũng đã có vén quần tiểu về phía cây cà te. Tất cả lũ học trò thành kính vái trước bàn, phần lớn là để xin tha cái lỗi bất cẩn đó.

Lễ cúng xong, ông Tròn đem xôi chè ra sắp từng bàn. Quen với nghề làm cai trường, ông chia đều mỗi bàn năm chén. Khu chén chè đậy vào lỗ dành để gài gô đê mực. Lũ học trò ngồi lắp vào băng, đều đặn như những cái đinh bù long ráp vào máy. Cuộc ăn bắt dầu, thứ tự, trang nghiêm như khi chúng ngồi làm bài hạch tấn ích. Đến lúc chén chè hết, những ngón tay bắt dầu véo mấy dĩa xôi thì cuộc trò chuyện khởi sự và ồn ào ngay. Mươi phút sau, chén dĩa hết sạch và ông Tròn ra xổ trống.

Ngót ba mươi năm thấm thoát trôi qua, đến nay bé Trung đã bốn mươi tuổi đầu rồi. Bé Trung đã làm một người cha nghiêm nghị và trưa nay sở dĩ bé ngồi nhớ lại đoạn đời ngây thơ của mình ở ngôi trường Ngân sơn quê mùa xưa là vì đứa con của bé, thằng Nghĩa, vừa đưa cho bé bức thư xin tiền của nhà trường nơi nó học. Bé nhìn xuống tờ thư in ronéo còn nằm dưới tay mình.

Nha trang ngày 30 tháng Giêng năm 1961

Hiệu trưởng trường Tiểu học Tân Phước

Kính gởi phụ huynh trò Phan Đức Nghĩa

Nhân dịp Tết Tân Sửu, trường chúng tôi có tổ chức cây mùa Xuân cho các em học sinh của trường vào 16 giờ ngày 11 tháng 2 năm 1961 tức 26 tháng Chạp Âm Lịch. Chúng tôi rất hân hạnh được nhận những món quà hoặc tiền mặt của Ông, Bà để việc tổ chức cây mùa Xuân được kết quả.

Xin cảm tạ lòng chiếu cố của Ông, Bà.

Lê Bá Lộc     
 
(Trích từ tập truyện ngắn Bên Kia Đường, nxb Mặt Trời, 1968) 


Chủ Nhật, 16 tháng 2, 2025

NHỮNG BÀI LUẬN - Vũ Hữu Định


 

 

 

 

 

luận với chủ nợ

Trời đất có bốn mùa
Nắng mưa không thấu đáo
Ông trời còn nói láo
Huống hồ
Ta
 
luận với anh bạn già
 
Trời lúc nắng lúc mưa
Trăng khi lu khi tỏ
Biết vậy là biết rõ
 
Nước lúc đầy lúc vơi
Mây có tan có tụ
Tuổi thanh xuân sao không ham... hố
Đã sáu mươi ngồi tiếc nỗi gì
 
luận với người đời
 
Nghìn đời trái đất đang quay
Biển đông biển bắc đang đầy đang vơi
Cớ sao lại phải ngậm ngùi
Chẳng theo nguyên đạo đất trời mà vui
 
luận với đàn bà
 
Nói từ chuyện nắng qua mưa
Chuyện sông tới biển chuyện mùa cá rô
Can chi phải nói vòng vo
Cứ theo chánh đạo giao hòa tự nhiên
 
thấy gái, luận với mình
 
Sài gòn nắng bở hơi tai
ồn xe cộ với ồn người tranh nhau
thấy con gái lộ cuống bầu
mới hay ta vẫn còn cao chất người
 
luận về giang hồ
 
Lên rừng lòng cũng như rừng
Xuống đồng bằng thấy mùa xuân mới vàng
Thả thuyền ra biển mênh mang
Cõi riêng ta có vô vàn cuộc vui
 
                                                    Vũ Hữu Định
 
(Trích từ giai phẩm VĂN số Tân Niên, 1973

Thứ Năm, 13 tháng 2, 2025

NHẸ GÓT HÀI - Mường Mán


Áo tím rịm đôi tà, khăn quàng dài thướt tha trắng. Tím màu sim núi non và trắng lênh đênh mây trời. Đôi mắt dài theo đôi tay. Mắt ngước trông và tay đưa tới. Bắt đầu nỗi nhớ anh.
 
Mưa bỏ phố đi rồi, còn dăm ba vầng mây ở lại. Chiều rình rập bóng ai, dòng sông chừng đã nguội. Đó là lúc anh trở về. Trở về, chân không vọng tới mùa xuân, mùa thu sau lưng đà đuổi gấp. Anh vấp ngã. Nhẹ như lá rụng. Không, tựa mẩu tàn thuốc lá rụng, cuối ngày, cuối những ngón tay. Em. Đôi tay dang ra nhưng không dám đón bắt, em mỏng manh in khói.
 
Những chân chim tội nghiệp nhảy nhót hoài hoài trên hàng dây điện căng chia cắt trời thành phố, dây điện chẳng phải là dây đàn, chim gẩy hoài không thành âm điệu. Đố ai thấy được chim khóc?
 
Một hôm, anh thấy anh biến thành chim, nhảy nhót hoài trên ngàn dây nhớ. Nhớ chùng lòng, nhớ quay điếng. Đố em, anh có khóc không?
 
- Ai biết!
 
 Ngọc bước từ tốn in ngựa non đi nước kiệu. Áo tím rịm bay, khăn trắng múa. Buổi chiều êm đềm không cần tới âm nhạc, chỉ cần gió thật nhiều thổi cho lá xanh lá vàng cùng rơi xuống, lót đường anh và em đi. Gót hài nhẹ không sợ đau đường dài, chỉ ngại tiếng thời gian át lời thầm thì của nhau. Phải không?
 
- Đúng đó, anh.
 
Chiều nay anh có cảm tưởng nhân gian đầy ắp tiếng cười. Kẻ hấp hối trên giường bệnh cười, người ngoài chiến trường vừa nhận viên đạn vào ngực còn cười. Cười, cười, cười. Em chỉ cười, hai hàm răng trắng chính là tên em: Ngọc. Đừng thốt lời nào cả. Nên cười. Đồng ý?
 
- Dạ.
 
Hôm qua em đợi anh muốn chết phải không? Đợi đến chán ngấy, đến ghét. Như ghét những viên thuốc ngủ màu uống trong kỳ dịch cúm hai đợt vừa qua. Hôm nay anh đã lừng lững trở về. Hiên ngang mà về. Vui không?
 
- Vui lắm.
 
Ngọc ơi, không dưng anh muốn em tức khắc biến thành cục đường, để vừa đi anh vừa ngậm, em biến thành ca khúc, để vừa đi anh vừa hát, em biến thành điếu thuốc, để vừa đi anh vừa hút, thở khói mù mịt hết địa cầu.
 
- Mù luôn, không còn thấy em?
 
Nếu muốn giận một tí cho đời nó đẹp, em cứ bảo là anh không thấy em. Nhưng dễ thương hơn hết là lúc nào em cũng nghĩ dù ở sông non, phố núi, biển quạnh, chợ vui nào anh đều thấy em. Lúc khát, anh thấy em là ly chanh đá đường, có một hột ô mai làm duyên (chanh đường có ô mai mới ngon!) Lúc đói anh thấy em là ổ bánh mì, dĩa cơm sườn nóng hổi, hoặc bất cứ thứ gì có thể bỏ vào miệng nhai ngấu nghiến.
 
- Anh nói em nghe phát khiếp. Người gì mà ham ăn mê uống quá trời, hèn gì mẹ đợi tới năm Đinh Hợi mới cho anh lọt lòng. Hết sẩy anh nhỉ?
 
Ừ. Thỉnh thoảng em cũng nên hỗn láo tí ti cho hồng môi mọng má. Anh chúa ghét các cô bé con ai bảo gì cũng dạ, ai nói chi cũng vâng, tới khi lấy chồng, bị cắm sừng bối rối, không biết nơi nào gỡ. Ngay từ bây giờ, ngoài việc cầm lược gỡ tóc rối mỗi sớm mai, em nên tập cách gỡ sừng.
 
- Ngày xửa ngày xưa có một chàng khùng nói thế và bị một công chúa nghỉ chơi luôn, trước khi nghỉ dài hạn, nàng tặng chàng mười cái háy lẫn nguýt, chưa hết, còn biếu thêm một trận mưa lũ, giọt ngắn giọt dài, trách ai nói bậy.
 
Chàng khùng dễ thương đó không phải anh, cô công chúa đáng ghét nọ chẳng là em. Cả hai tan theo bụi cát ngày xưa cả rồi. Giờ chỉ còn những cái háy, nguýt, những trận mưa lũ tồn tại. Háy và nguýt, mưa thật tình hay mưa nũng nịu là kho tàng vô giá của mọi người nữ, nên giữ lấy, phát triển nhanh chóng thêm. Háy sao cho sắc hơn dao cau, nguýt sao cho hoa tàn nguyệt rụng, mưa sao cho ướt hết sớm đợi này tới chiều mong tê.
 
- Anh hàm hồ in một diễn giả có tài.
 
Mỗi người từ khi sinh ra đã là một diễn giả Ngọc ạ! Vừa lọt lòng hắn đã diễn thuyết rồi, dù chỉ bằng vài tiếng oe oe. Đến ấu thơ hắn diễn thuyết thật, lớn tí nữa điêu ngoa sơ sơ và trưởng thành, hắn diễn thuyết láo khoét kỹ. Láo ngon lành, nhưng lắm lúc cũng thành thật đến rơi lệ lộp độp tựa mưa trên những tàu lá chuối buồn. Tin không?
 
- Tin anh một nửa. Nửa kia em tới chùa xin xăm rồi hẳn tin.
 
Tuyệt diệu. Thế em có tới chùa xin xăm rồi mới tin anh thương em không? Chắc là không chứ! Ngọc. Hình như mình bắt đầu gây gổ nhau.
 
- Ai nói thế?
 
Mây trên trời bảo thế, cây lá hai bên đường nói vậy. Chúng nói hai đứa mình sắp gây gổ nhau.
 
- Giờ thì em tin anh là một diễn giả láo khoét đại tài. Em chẳng nghe mây trời, cây lá nói gì cả. Hôm nào có mở hội thi đua nói láo, anh nên ghi tên dự thi.
 
Thấy chưa? Em bắt đầu pha dấm pha chanh vào ngôn ngữ rồi. Đêm nay gấp gấp mua một ký đường phèn về ngậm cho ngọt giọng đi. Ngọt giọng như đêm giáng sinh tụi mình bỏ phố phường đông chen, đưa nhau ra biển. Đêm ấy em ngọt ngào hát trong tiếng gió ồ ạt gọi kêu. Đêm ấy chị Bội Hoàn như trở lại thời mười sáu tuổi, nhai kẹo luôn miệng, thằng Hồ lái xe như điên, vác cái thân bồ tượng đuổi bắt con còng nhỏ bằng cái nút ve chai lăn lông lốc, thằng Thuận chong đôi kính mù ngóng gió, tiếc thầm nước biển sao không tức khắc biến thành rượu, nhỏ Hồng Châu vờ lãng mạn đòi qua bên kia thế giới bằng cách lội bộ qua mặt biển sôi, nhỏ Uyên Thơm thầm lặng nhớ thằng bồ xuôi vạn lý và em, mắt trông vời lên dãy đèn căn cứ quân sự bên kia triền đồi, bảo những ngọn đèn nhấp nháy trong sương trông giống thiên đường nào đó. Và gió, gió thổi mãi, nhưng không thể làm lạnh được hai đứa mình. Đêm ấy trong quán cà phê Q,C. thằng Thuận bảo em ríu rít như chim, nhưng anh nghĩ em phơi phới, rực rỡ in những chiếc bong bóng bay lặng lờ trên nóc quán. Đêm ấy cái gì cũng ngon, em ngon, những chai sprite ngon ấy là một kỷ niệm ngọt. Phải không?
 
- Em muốn anh nhắc mãi nhắc hoài.
 
Anh muốn đốt gấp gáp tháng giêng, hai, ba, tư... để tức khắc mình dìu nhau về giữa tháng chạp, về giữa biển ngàn một đêm giáng sinh khác. Giờ chị Bội Hoàn, Thuận mù đã trở về Q.Nh, nhỏ Uyên Thơm buồn bã đâu đó trong trường kỹ thuật, thằng Hồ lui tới với lính tráng trong đồn bót, và nhỏ Hồng Châu hẳn đang ngồi ngáp vặt sau cửa lưới sắt ngân khố. Giáng sinh mùa sau, phải lôi theo dì Quế và hai ba cô bạn của dì: Hương, Ái, Lan ríu rít ồn vui, anh mệnh danh các cô ấy là "đài phát thanh", quá đúng.
 
- Còn nhiều kỷ niệm, kể nữa, anh. 

Một đêm u nồng khác, đi ngủ, bỏ mùng không kỹ, con chuột nhắt đâu từ nhà hàng xóm ngao du sang, nó mê cái gót chân em hồng, bèn cắn nhẹ một miếng, tinh sương gặp anh, em cuống quýt bảo mau mau đưa em đi bác sĩ kẻo dịch hạch tới nơi, anh cười cười: hồi xưa, năm mười sáu tuổi, em đoạt chức vô địch nhảy cao toàn tỉnh, sao con chuột nó cắn không chịu trổ tài nhảy tránh, em thật là khờ. Suốt ngày hôm đó, gặp bạn bè ngoài phố, em mách oang oang: hồi hôm tao bị chuột cắn! Phải chi bữa đó em loan tin: hôm qua tao thấy Hòa Bình, phải hay hơn không? Anh nản hết sức. Lại nữa, có đứa bảo bị chuột cắn nên chơi số đề, đánh số 15. Em tin, mua cái số đề, rủ anh hùn vốn, nơm nớp đợi tới thứ ba, trật lất. Đứa bảo chơi số đề mất tăm mất tích như con chuột nhắt cắn bậy kia, nhưng anh nhớ bữa đó anh thề gặp hắn anh sẽ cho "nốc ao", dù anh chưa bao giờ luyện một thứ võ công nào trong người. Em vẫn thường chê anh trói gà không chặt. Nhưng trói tim em thì chặt lắm chứ bộ!
 
- Em hết tin số đề rồi, anh cứ nhắc chọc mãi.
 
Chọc phá là điều mọi người trẻ tuổi ưa thích. Tuổi già ngồi cú rũ một chỗ, chọc phá được ai? Khi yêu thương nhau, tình yêu của kẻ này biến thành con dế mèn trốn lủi vào xó xỉnh tâm hồn kẻ kia, kêu khóc nỉ non chọc phá đêm ngày, khiến mất ăn bỏ ngủ.
 
- Con dế mèn của em giờ này đang làm gì trong xó xỉnh tâm hồn anh?
 
Đang ca hát. Tiếng hát vang lừng dội từ phía nam tìm tới phương bắc phổi, làm lũ hồng huyết cầu dấy loạn, rủ nhau từng cặp một khiêu vũ mê man. 

Còn em, con dế mèn của anh giờ này đang làm gì trong xó xỉnh tâm hồn em?
 
- Nó ngủ khì anh à. Ngáy vang dội rung rinh cả tim phổi em. Người ta thường ví tình yêu như thể bông hồng hoặc cái gì đó rất đẹp, anh lại đem ví tình yêu như thể con dế mèn. Thôi đi, dế mèn là chúa ưa phiêu lưu đấy anh ạ. Lỡ một tinh sương đẹp trời nào đó nó phiêu lưu, di cư sang tâm hồn kẻ khác, em biết đâu tìm?
 
 Dễ ợt. Em cứ việc đăng báo tìm tình yêu đi lạc. Ai thấy tăm dạng nó đâu xin liên lạc về địa chỉ... sẽ trọng thưởng theo luật giang hồ.
 
- Xí xọn. Nói bậy. Mưa bây giờ. 

Mải vui quên cả trời chiều. Hình như tụi mình đã bỏ phố hơi xa. Ngọc nghe thấy gì không? Nghe biển lên tiếng gọi không? Đừng nói gì nữa cả. Cứ nín thinh theo chiều mà đi, theo tiếng sóng gọi mời mà tới.
 
Chuyện kể của một vỏ ốc:
 
Chàng nắm tay nàng chạy dài bãi vắng. Gió thổi tạt tóc và mây bay về phương đông. Những sợi tóc nàng cất tiếng hát. Thầm thì lời yêu anh. Cát thì câm nín. Sóng thì lăn lóc. Chiều dần phai những dấu hài. Tim chàng rung chuông rộn rã gọi bầy chim biền về gọi đêm tối tới. Đêm tối yêu dấu ôm ấp chàng và nàng bằng đôi cánh nhung. Ở đó. Trên con đường bí mật nối giữa tâm hồn chàng và nàng đố ai thấy được hai con dế mèn rực rỡ xiêm y lồng lộng múa.
 
 
MƯỜNG MÁN      
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 90, tuần lễ từ 22-2 đến 1-3-1973)
 

Thứ Hai, 10 tháng 2, 2025

ÁO DẠ HỘI - Nguyễn thị Thụy Vũ


Nghi chải đi chải lại mái tóc dù đó là mái tóc cụt ở phía sau ót. Nàng cố kéo dài thời gian đứng trước tấm kiếng để ngắm đi ngắm lại khuôn mặt của mình, hôm nay. Sao khuôn mặt tôi có vẻ chín muồi như vầy? Tôi đã trưởng thành rồi chăng? Mười chín tuổi, nhưng từ lâu, tôi không nghĩ rằng mình đã thành nhơn chi mỹ. Sống trong gia đình, dưới gối mẹ, tôi vẫn tưởng tôi vừa mới bước vào ngưỡng cửa dậy thì. Coi kìa, cặp mắt của tôi hôm nay sao có vẻ buồn buồn? Cặp môi của tôi cũng có vẻ buồn nữa. Nhưng tôi có điều gì để mà buồn, mà lo đâu? Nghi mỉm cười. Khuôn mặt nàng bây giờ lại đổi khác. Té ra, mỗi khi mình làm ra tuồng trang nghiêm, khuôn mặt mình lại đổi ra buồn. Nghĩ tới đây, Nghi cười rộng miệng hơn. Khuôn mặt nàng có vẻ lẳng lẳng làm sao ấy, giống hệt các cô đào chiếu bóng trong các phim gián điệp. Cái type người như mình làm ra vẻ buồn, coi hơi chướng chướng. Mình không thể buồn làm dáng được. Vẻ hồn nhiên chắc chắn là thích hợp với mình hơn.
 
Nghi không muốn dồi phấn tô son. Nàng nghĩ rằng son phấn sẽ giết chết cái rạng rỡ của khuôn mặt mình. Nhưng đêm nay, nàng đi dự dạ hội, một bữa tiệc ăn mừng thi đậu lên năm thứ hai Đại Học Văn Khoa do Khang và lũ bạn của chàng tổ chức. Dưới ánh đèn, khuôn mặt không son phấn sẽ tái xanh. Nàng cầm cây son màu hường dợt thoa nhẹ lên môi, sau khi điểm chút phấn hồng sương  sương lên má. Điểm nổi bật trên khuôn mặt nàng là đôi mắt to, sáng ướt viền một làn nước thuốc đen thật mỏng. Nghi mặc chiếc áo bằng soie Pháp màu xanh rồi mở cửa buồng bước ra. Chị Dung cũng đã trang điểm, ăn mặc tươm tất. Chiếc maxi robe màu hồng cùng mái tóc đánh boucles anglaises làm cho chị thật gợi cảm.
 
- Trông như bà hoàng vậy - Nghi nghĩ thầm kèm theo cái bĩu môi.
 
Chị Dung kêu lên:
 
- Con Nghi mặc áo dài xanh giống mấy cô nàng chiêu đãi viên hàng không quá.
 
Rồi chị hát:
 
Em còn nhớ anh nói rằng
Khi nào em đến với anh
Xin đừng quên chiếc áo xanh 

Nghi thẹn thùa xoay qua chuyện khác:
 
- Sao chừng nầy anh Cường chưa lại vậy chị?
 
Chị Dung nói:
 
- Ảnh hiện đang dưới phòng khách, hầu chuyện với mẹ vợ.
 
Rồi chị chuyển qua giọng thân mật:
 
- Nghi à, tao không ngờ mầy cũng có mèo như ai. Thằng bồ của mầy coi được trai quá chớ, ăn nói cũng dễ thương chớ bộ.
 
Nghi nói:
 
- Từ đây xuống Saigon mà đi bằng xe La Dalat e không xứng với cái nhan sắc của chị.
 
Chị Dung nguýt Nghi một cái thật sắc rồi mắng:
 
- Mầy đừng có nói giọng đỏng đảnh đó. Thời buổi xăng nhớt hiếm hoi, cầu có xe La Dalat mà đi. Nếu không, thì mình cũng ngồi xe lô hoặc xe đò. Xe đò giá một trăm rưỡi, còn xe lô giá hai trăm một chỗ ngồi.
 
Cả hai bước xuống thang gác. Cường mặc quân phục ngồi hầu chuyện kinh kệ với má của Nghi. Cỡ trình độ hiểu biết của bà, thì chàng giở chuyện quả báo luân hồi cùng cảnh giới nước Cực Lạc ra mà tán với bà chớ cần gì đến Kinh Lăng Nghiêm nhức đầu nhức óc. Ai chớ Cường là chúa xạo, chuyện gì chàng cũng có thể thọc mõm vào tán lếu tán láo xuôi rót. Má Nghi sung sướng cười hỉ hả. Mắt chị Dung cũng sáng long lanh. Nghi nói:
 
- Anh Cường sẵn sàng chưa?
 
Cường gật đầu:
 
- Rất sẵn sàng. Tôi chờ hai chị em Dung muốn hụt hơi.
 
Dung õn ẽn khoe:
 
- Anh xem em mặc robe dạ hội có bảnh không?
 
Cường nói xuôi:
 
- Dung thì ăn mặc dẫu bà Jackie Onassis cũng phải khen nữa.
 
Má ân cần dặn:
 
- Chị em bây nhớ mai về sớm và mua cho má dâu ngọt và măng cụt cúng rằm nghen.
 
Trên xe Nghi ngồi ở băng sau, dựa lưng vào thành xe, thả tâm trí trong cơn lơ mơ êm ả. Khang có nhã ý mời anh Cường và chị Dung dự dạ hội vì anh Cường, qua miệng của chị Dung là một cây nhót, còn chị Dung đến Khang còn phải công nhận là chị đẹp mặn mòi, khêu gợi. Nhân dịp này, chị Dung cũng muốn kết thân với Khang vì trong thâm tâm, chị coi Khang như em rể của mình. Chị Dung không còn khinh thường Nghi là thứ hạng người cà ngơ cà ngất, ăn chưa no lo chưa tới. Chị đã nói với má rằng con Nghi quả có mắt tinh đời, lựa một thằng kép dễ thương đáo để. Bắt đầu khi hội kiến với Khang, chị mới chịu nhìn thấy cái độc đáo của Nghi. Chị nói rằng Nghi không đẹp, nhưng có duyên và thông minh. Dữ ác hôn! Nghi mới thấy chị không chơi đè, mai mỉa nàng. Thật ra, Nghi biết sở dĩ lúc này chị Dung nhìn đời bằng con mắt bao dung, thân ái đó là vì chị đang hạnh phúc, chị sắp bước lên xe hoa về nhà anh Cường trong tháng mười sắp tới.
 
Nghi hé miệng cười yên lặng. Anh Cường vừa lái xe vừa hát bản "Tình Ca" của Phạm Duy. Thỉnh thoảng, chị Dung chót chét phụ họa. Trời đất! Chị Dung mà cất giọng lên là chua gấp ba lần Yaourt. Trông chị hát thật xấu tệ. Chị chỉ đẹp lúc chị ngồi yên, chớp mắt mơ màng. Thế nhưng chị lại hay hát và có lần chị hỏi Nghi chị có nên đi học hát không?
 
Nắng đã lên cao. Xuống Saigon, Nghi phải đến địa điểm tổ chức dạ hội để phụ giúp Khang trang hoàng phòng khánh tiết. Nàng còn phải khuấy cho chàng hai bình kem lạnh để đãi khách nữa. Tóc tai nàng gọn ghẽ như vầy, nhưng cũng cần đến tiệm hấp và chải phun keo.
 
Từ hôm nghỉ hè tới nay, Nghi mới có dịp được bận rộn, nhưng đầy hứng thú như vậy. Nàng mở chiếc ví da, nhìn chăm chú khuôn mặt trang điểm của mình. Chưa đúng mức đâu. Đây là lượt trang điểm thí nghiệm. Tối nay, nàng cần phải trang điểm sắc sảo hơn nữa kia. Nàng có mang theo kem lót mặt, son tươi, phấn hồng cùng đủ đồ nghề làm tốt cùng hai chiếc áo dài, một cái bằng sura màu hồng in hình hoa huệ đen, một cái bằng mousseline màu đỏ tươi. Ánh đèn của dạ hội sẽ làm tăng những màu tươi thắm cùng những màu không nên mặc dưới ánh sáng ngoài trời. Má há chẳng nói với chị Dung rằng:
 
- Con gái chỉ có một thời mà thôi.
 
Dì Tư của Nghi hồi năm năm về trước lộng lẫy, kiêu sa thế kia mà nay bắt đầu phát phì, mình mẩy úc núc như trái xoài cát. Được rồi, đêm nay nàng sẽ ăn diện, sẽ làm dáng kiêu kỳ, sang cả như chị Dung, sẽ tạo cho Khang từ cái ngạc nhiên nầy đến cái ngạc nhiên khác. Nếu cần, nàng sẽ chọc cho chàng nổi ghen chơi.
 
*
 
Phòng khánh tiết hãy còn thưa người. Buổi tiệc tối dọn theo kiểu self service. Những thức ăn cùng la ve và nước ngọt chất trên hai dãy bàn dài phủ khăn ăn bằng loại vải không thấm nước màu huyết dụ. Chén dĩa ly tách, khăn ăn toàn bằng giấy. Ghế xếp chung quanh khoảng trống dành làm vũ sảnh.
 
Căn phòng khánh tiết được treo bông thắt tuội bằng những thứ giấy màu tươi. Âm nhạc dành cho buổi khiêu vũ ở những cuộn băng xếp trên máy stéreo. Tuy nhiên ở cuối phòng, đối diện với vũ sảnh là một sân khấu nhỏ, gắn máy vi âm và đặt một giàn nhạc gồm có đại hồ cầm, giàn trống và thanh la, não bạt.
 
Nghĩa, bạn thân của Khang nói với Nghi:
 
- Chị khuấy bình kem lạnh nầy rất hạp ý tôi. Kem nước cốt dừa được nhiều người chiếu cố hơn. Người Bắc kỳ không ăn được kem soài riêng.
 
Nghi sung sướng khoe tài nội trợ của mình:
 
- Tôi đã thêm bột vanille và hạnh nhân trong kem đó anh. Món kem nầy sẽ thơm béo như kem ở tiệm.
 
Tân, anh bạn khác chêm vào:
 
- Chị thì nhất. Thằng Khang sẽ hãnh diện lây vì chị.
 
Mọi người đưa mắt về Khang. Chàng đứng giữa mớ giấy đủ màu lụn vụn, cọ sơn, chổi, nùi giẻ chưa kịp thu dọn, miệng nhai ngau ngáu khúc bánh mì dồn thịt nguội. Khang ngồm ngoàm nói:
 
- Thằng nầy mãi tới bây giờ mới có bánh trám bao tử. Trời, đói sao mà đói kinh khủng.
 
Nghi âu yếm bảo:
 
- Anh đi tắm rửa và diện cho thật bảnh coi nào. Sắp tới giờ khai mạc dạ hội rồi đó.
 
Khang nuốt xong miếng bánh chót rồi thu dọn những thứ lụn vụn trước khi đi tắm. Nghi nghĩ thầm:
 
- Chàng ta lúc nào cũng có vẻ hồn nhiên, nhất là lúc ăn bánh, trông ngau ngáu như một đứa trẻ.
 
Nghi bước tới Nghĩa và Yến, người yêu của Nghĩa đang cầm tấm danh sách những người dự dạ hội. Nàng đảo mắt nhìn qua danh sách những khách phái nữ, hỏi Yến:
 
- Alice Lệ Dung là ai vậy Yến?
 
Yến cười rộng miệng, phô hàm răng trắng muốt và cái nướu hồng tươi:
 
- Coi, chị Dung của Nghi chớ ai?
 
Nghi tròn mắt, rồi sịu mặt:
 
- Chị Dung tên thật là Nguyễn thị Dung mà.
 
Yến cười khì:
 
- Nghi thật thà quá. Đến dạ hội, mình có quyền lấy biệt hiệu chớ. Yến cũng không thể xưng là Đỗ thị Yến trơn lu, trơn láng nên mạn phép lấy tên là Trang Ngọc Yến cho xôm vậy mà. Nhằm nhò chi, Nghi? Chừng ra khỏi dạ hội rồi thì mình sẽ là Đỗ thị Yến, ai mà giết mổ gì mình?
 
Nghi thun mũi "hừ" một cái:
 
- Còn cái tên Nghi cúng cơm của tôi thì ghép thêm chữ gì cho ra vẻ văn chương Tao Đàn một chút đây?
 
Không đợi Yến trả lời, Nghi lướt về phía cuối phòng, chỗ dành cho bục gỗ để trình diễn ca nhạc. Bày đặt kiểu cọ hoài. Tên Yến, tên Dung nào có xấu xí gì mà còn ghép thêm những tiếng khác. Ai chớ chị Dung khoái cái trò hoa hòe hoa sói đó lắm. Còn anh Cường cũng lập dị không kém. Cái tên Đinh văn Cường của ảnh rồi sẽ biến thành Hùng Cường hoặc Huy Cường cho có vẻ tài tử màn bạc cũng không biết chừng.
 
Lối sáu giờ ngoài, khách khứa tài hoa son trẻ bắt đầu tới lui rộn rịp. Khang đã diện veston bảnh bao và rất trẻ trung bước ra. Mái tóc hơi dài, hơi xoăn của chàng trông có vẻ nghệ sĩ thế nào ấy. Nghi cũng đã diện chiếc áo dài mousseline đỏ với mái tóc giả cuộn từng chùm boucles anglases như chị Dung. Khang nheo mắt nhìn nàng làm nàng nhột:
 
- Hôm nay em huy hoàng, lộng lẫy.
 
Nghi nói:
 
- Anh ca em vừa vừa thôi kẻo ông bà khuất mặt khuất mày quở mà em ấm đầu sổ mũi.
 
Yến mon men chạy lại:
 
- Nè Nghi, Yến đã chọn cho Nghi một tên mới. Nghi Xuân được không?
 
Nghi phì cười:
 
- Yến làm như tui là con của Phạm Công và Cúc Hoa không bằng. Nhưng tùy Yến. Nghi Xuân cũng được, mà Tấn Lực cũng chẳng ăn chung gì với mình.
 
Yến hối hả sửa lại tên Nghi trong tấm danh sách. Chị Dung và anh Cường khoác tay bước vào. Chị Dung vẫn trang điểm và ăn mặc như hồi sáng, nhưng Cường đã thay thế bộ quân phục bằng bộ smoking màu nâu đậm. Chàng chải đầu thật khéo, thoa một chút dầu bóng trên bộ ria mép, đen lánh. Trông chàng giống một tướng lãnh đã một thời gây cơn sốt sôi bỏng cho thời cuộc. Khang nói:
 
- Hôm nay, anh chị chịu khó tới chung vui với tụi nầy quả là hân hạnh lắm vậy.
 
Chị Dung đưa mắt nhìn qua Cường mỉm cười. Cường nói:
 
- Chú đừng khách sáo quá vậy. Chúng mình còn trẻ mà.
 
Chị Dung thân mật:
 
- Rồi đây chúng ta sẽ là người nhà với nhau. Phải không Nghi?
 
Nghi cười bẽn lẽn. Chưa bao giờ Nghi thấy chị Dung khả ái hơn lúc nầy. Một cô bạn của Nghi sà lại bên chị Dung, trầm trồ:
 
- Chị Dung mặc chiếc áo nầy giống các cô ca sĩ trong ban Ba Con Mèo hoặc các cô ca sĩ trong ban Ba Trái Táo.
 
Chị Dung mỉm cười:
 
- Em à, chị mặc áo đỏ, trông chị có giống trái chôm chôm không em?
 
Đang lúc đó thì anh chàng Tân mập la lớn:
 
- A kìa, cô hoa hậu Ái Lan đến kìa!
 
Yến biểu đồng tình, reo lên:
 
- Ái Lan sắc nước khuynh thành.
 
Nghĩa đang loay hoay với kèn saxo trên bục gỗ, nghe vậy, bèn đưa kèn lên miệng, chùn chân xuống, thổi eng éc phụ họa lời Yến. Ái Lan với chiếc áo dạ hội màu xanh da trời thêu kim tuyến bước vào. Chiếc áo bày một khoảng ngực vun chùn và trắng ngồn ngộn như màu bánh ít trần. Cô gái bước đi theo kiểu mình xà uốn khúc, cái mông bự ngoáy theo bước đi. Nghi bĩu môi mà không tự kiểm soát được. Lẹ như con sóc, Khang phóng lại cô gái, miệng mồm tía lia:
 
- Ái Lan! Trời ơi, Ái Lan! Lâu quá mới gặp em.
 
Ái Lan nhí nhảnh:
 
- Nghe anh thi đậu, em mừng lắm lắm.
 
Khang nhanh nhẩu giới thiệu Ái Lan với mọi người. Mặt chàng khinh khỉnh một cách khả ố, khả bỉ. Chàng được đứng gần Ái Lan làm như được đứng gần nữ hoàng Anh Quốc hoặc đứng gần nữ tài tử Kiều Chinh, Thẩm Thúy Hằng không bằng. Nghi nguýt chàng một cái rồi thu mình vào một góc tối, lòng tức bực muốn nghẹt thở.
 
Chị Dung rờ chiếc áo của Ái Lan trầm trồ:
 
- Ố là là! Thứ mousseline nầy trông đẹp tuyệt. Ái Lan may áo nầy ở đâu vậy Ái Lan? Trông thanh thoát và gợi cảm biết là ngần nào.
 
Ái Lan chúm môi, liếc liếc cười cười:
 
- Thưa chị, em may áo nầy ở tiệm Thiết Lập.
 
Ái Lan cười duyên với Khang, rồi nũng nịu nói:
 
- Chốc nữa, em với anh song ca bài "Love Story" nghen.
 
Khang gật đầu lia lịa:
 
- Rất sẵn lòng. À, mình phải hát thêm bài "Que sera, sera" nữa chớ. Như mọi khi mình đi dự mấy cái Réceptions trước đó đó...
 
Ái Lan cất giọng phơi phới:
 
- Chớ sao. Chỗ nào mà có anh là em mới chịu khó cơm ghe bè bạn tới chớ bộ.
 
Nghi thun mũi lại như ngưởi gặp một mùi hôi thúi gớm ghiếc. Quá quắt rồi! Khang coi nàng chẳng còn kí lô gì nữa, chẳng còn ra cái mùi mẽ gì, chẳng còn ra cái thớ chi chi rồi. Nỗi tức bực như làm nàng rơi vào cơn hôn mê ngắn. Chàng còn đang bận lăng líu, chót chét với Ái Lan kia kìa. Mồ tổ ơi, mình không nên khóc ở đây, nhứt là trong giờ phút này. Khóc là chứng tỏ mình đại bại từ ở bước đầu.
 
Khách đến càng lúc càng đông. Khang cùng Tân và Nghĩa lại lo tiếp rước, nói xã giao tíu ta tíu tít. Không ai để ý gì đến Nghi cả. Chị Dung và Cường lại ngồi gần máy stéréo cười nói thật tương đắc. Nghi nép mình vào khoảng đèn tối, mờ mờ ảo ảo như đèn chong trong chòi hoang. Không ai còn nhớ tới mình hiện diện ở dạ hội này.
 
Tân mập khai mạc buổi dạ hội bằng một tràng "đít cua" đơn giản, tếu tếu làm nét mặt mọi người tươi lên. Khang bước ra xin hợp ca với Cường và anh chàng Hải lùn một bản nhạc tình.
 
Khang nói:
 
- Thưa  quý bạn, chúng tôi là ban hợp ca "Ba...
 
Ái Lan ở phía dưới rống lên:
 
- Ba Con Khủng Long.
 
Yến hét như còi xe lửa:
 
- Ba Trái Sầu Riêng.
 
Một giọng chói lói cất lên:
 
- Ba Trái Chuối Dà.
 
Cường chớp lấy câu nói sau cùng:
 
- Vâng, ban Tam Ca "Ba Trái Chuối Dà" xin ra mắt quý bạn bản "Mộng Dưới Hoa" của Phạm Đình Chương.
 
Một loạt vỗ tay vang lên. Tiếng vĩ cầm lẫn đại hồ cầm trổi lên dìu dặt. Ba chàng trẻ tuổi bắt đầu cất giọng ấm áp, mềm mại để khoe tài. Không khí trong phòng khánh tiết ồn ào, sôi động nên loại nhạc êm dịu không gây chú ý lắm cho mọi người dầu Cương lẫn Hải lùn hát bè hai, bè ba kèm bên giọng chánh vững vàng của Khang. Bài hát dứt, tiếng vỗ tay lẹt đẹt, lấy lệ làm cho cả ba chàng ca sĩ tài tử tuột lẹ xuống bục ca, mặt hơi tẽn tò.
 
Tiếp tục chương trình, Yến leo lên sân khấu với bộ áo đen mướt, xẻ đùi cùng với hai cô gái cũng mặc chung một thứ áo với cô ả. Họ xưng là "Ba Con Cá Trê". Cả ba gào thét, uốn éo mình xà, lắc lư như lên đồng. Khác giả phía dưới bục ca cười nhăn nhở và tán thưởng nồng nhiệt khi bài hát chấm dứt. Yến tìm tới chị Dung hỏi bằng giọng thẽo thợt:
 
- Chị Dung xem con Trang Ngọc Yến nầy hát tới không?
 
Chị Dung chu miệng cá chim:
 
- Tuyệt ơi là tuyệt!
 
Ái Lan đỏng đảnh:
 
- Ái Lan thích loại nhạc tình cảm tân thời hơn.
 
Yến kín đáo háy dài Ái Lan rồi cùng hai cô bạn ngoe ngoảy vào buồng riêng để thay xiêm đổi áo. Trên bục ca, trong khi đó, ba cô khác mặc robe tím lợt bước lên tự xưng là "Ba Trái Dừa Xiêm" xin hát một bản ngoại quốc. Ở phía dưới, khán giả phản đối:
 
- Đâu có được, ba người phải có sáu trái dừa xiêm chớ.
 
- Không phải sáu trái dừa xiêm mà là sáu trái chanh.
 
Có kẻ rống lên hát theo tiết điệu bản Thiên Thai : Thiên Thai, chúng em xin dâng hai chàng trái dừa xiêm.
 
Không khí hỗn loạn khủng khiếp. Lối cợt nhả xô bồ xô bộn đến nước trâng tráo, hỗn xược. Nghi lén nhìn Khang. Chàng mải mê lo điều khiển chương trình lẫn giàn nhạc nên không thèm lý gì tới nàng nữa. Cái thứ đồ đểu không ra đểu, nghệ sĩ nghệ sùng không ra nghệ sĩ nghệ sùng. Cái thứ nửa mặn nửa chay, nửa nạc nửa mỡ, nửa nước nửa cái, thấy mà ứa gan!
 
Nghi lách qua nhóm đực rựa ngồi rải rác ở ngoài hiên của căn phòng dành làm phòng khánh tiết. Ở đó, họ đang bàn tán ầm ĩ về vụ chấm thi Tú Tài theo kiểu IBM, chuyện dầu lửa ở Việt Nam từ Hoa Hồng số 9, chuyện đòi quyền tự do báo chí v.v... Chán quá, chuyện thời cuộc đối với Nghi sao bằng cái chuyện tự ái nàng bị cào xé, rách rưới như chiếc áo người ăn mày như vầy. Nàng cần phải ra ngoài vườn, nếu không, não cân nàng sẽ đứt lìa. Nàng cần tìm bóng tối để khóc cho hả hơi, Ngày mai, nàng sẽ tuyệt giao với Khang. Uổng công nàng trang điểm đẹp đẽ trong buổi tối nầy. Uổng công nàng chọn lựa áo dạ hội.
 
Nghi lướt một vòng quanh phòng khánh tiết, thầm mong Khang sẽ để ý đến nàng chăng? Nhưng Khang mắc lo thì thầm to nhỏ với Ái Lan có vẻ tương đắc lắm. Miệng chàng hoạt động, hai cánh môi co giãn liên hồi. Ái Lan nghe nhiều hơn nói, thỉnh thoảng liếc cái nhìn đồng lõa về phía Khang.
 
Trên bục ca, ba cô gái gầy ốm, vai mỏng bước ra vùng rọi đèn sáng quắc tự xưng là "Ba Khô Mực". Ba cô nầy hát nhạc Dân Ca Ba Miền khá hay nên làm cho khán thính giả như được đổi thực đơn. Sau đó là màn song ca giữa Ái Lan và Khang. Cả hai được hoan nghinh quá xá qua bản "Love Story". Mọi người như xoắn lấy Ái Lan. Mình là một chiếc bóng mờ bên cạnh Ái Lan nếu ngay bây giờ mình lân la làm quen với cô ả. Nghi rút lui ra ngoài vườn trước khi Khang và chị Dung mở màn cuộc khiêu vũ và trong lúc Ái Lan hát một bản Tango trên bục ca.
 
Khu vườn sáng mờ dưới ánh trăng. Nghi tìm chiếc băng đá, tâm hồn chìm trong nỗi buồn chán nản. Ở đây là thế giới của kẻ bị bỏ rơi, bị đời gạt ra rìa. Ở trong phòng khánh tiết là chỗ người ta so tài ca hát, khoe nhan sắc, khoe bước khiêu vũ bay bướm. Trời ơi, phải dè hồi mới lớn lên, nàng đi học hát, học nhảy đẩm, ghi tên ở sân vận động Phan Đình Phùng để tập thể dục thẩm mỹ? Tài làm bánh mứt bây giờ không giúp được gì cho nàng cả.
 
Gió đêm mát rười rượi. Mùi hoa nguyệt quí lẫn mùi hoa cam, hoa bưởi lảng vảng trong sương đêm dần dà làm nàng dễ chịu hơn. Song cơn mệt mỏi tinh thần có thể vơi đi một phần nào nhưng nỗi buồn vẫn còn đè nặng trái tim nàng. Nàng thù Khang, thù hết thảy loài người...
 
Một giọng trầm trầm cất lên phía hành lang:
 
- Nghi ơi! Có em ở ngoài vườn không?
 
Rõ ràng là tiếng Khang, song Nghi nín thinh. Một bóng người mảnh dẻ bước thoăn thoắt về phía nàng. Nghi vẫn ngồi bất động. Khang tha thiết:
 
- Nghi, sao em ngồi đây?
 
Nghi cay đắng:
 
- Tôi mệt, ra ngoài nầy ngồi cho thoáng khí một chút.
 
- Anh tìm em nãy giờ.
 
Nghi cười gằn, không nói gì thêm. Khang ngồi xuống bên cạnh nàng, đặt tay lên vai nàng. Nàng gạt phắt tay chàng ra, rồi phủi vai mình làm như mình vừa mới bị phỏng lửa. Khang ngạc nhiên:
 
- Em làm cái gì vậy? Em giận anh chăng?
 
Nghi hằn học:
 
- Anh tìm tôi làm gì cho mắc công. Ở trỏng vui lắm mà. Con Ái Lan đẹp như minh tinh tài tử, hát hay còn hơn là Thái Thanh nữa. Tui ở ngoài nầy có trúng gió mà chết đi nữa, anh cũng chẳng cần biết.
 
Khang cười hề hề:
 
- Nghi của anh lại giận lẫy rồi, lại ghen bậy ghen bạ nữa. Xấu lắm nghe chưa? Mà em biết Ái Lan là gì của anh không chớ?
 
Nghi xí một tiếng ghét bỏ:
 
- Biết làm gì cho mắc công.
 
Khang ôm chặt lấy Nghi:
 
- Em cần phải biết rồi sẽ kết tội anh sau. Ái Lan là em chú bác của anh đó.
 
Nghi làm thinh, không biết nói sao. Khang hôn nàng đắm đuối rồi nói:
 
- Em có thấy em vô lý không? Nãy giờ anh mắc lo điều khiển chương trình, nhưng  bây giờ anh có thể giao mọi việc cho thằng Nghĩa được rồi.
 
Nghi gục lên vai Khang khóc tấm tức tấm tửi. Nàng nhẹ nhõm cả cõi lòng và trái tim nàng như một bông hoa mở rộng để đón lấy cái yên tĩnh thơ mộng của đêm tối. Khang vuốt tóc nàng, thì thào:
 
- Nghi à, hay là mình vào trong ấy đi. 

Nghi lau nước mắt rồi hỉ mũi rồn rột. Nàng bấu chặt lấy vai Khang, có cảm giác thẹn thùng khi nghĩ tới lúc vào phòng khánh tiết, dưới muôn ngàn cái nhìn tò mò của lũ bạn. Bỗng dưng nàng ngái cả người. Mình dị quá đi thôi. Thiệt là một con cà chớn, chưa chi đã ghen tuông khó coi với Ái Lan. Song nàng vẫn chưa hết khó chịu khi nghĩ cái áo hở ngực của Ái Lan cùng tài ca hát của cô ả. Dầu sao mình cũng chỉ là bóng mờ trước Ái Lan. Mình phải làm sao tìm cách vớt vát đôi chút hào quang trước mặt Khang. Mình sẽ đọc sách văn nghệ. Mình sẽ nghiên cứu các tác phẩm của Sartre, của Camus mà lũ bạn bè đã ca tụng. Mình sẽ làm thơ, viết văn để lột xác thành người đàn bà trí thức. Đàn bà mà ca hát thì thường quá. Đàn bà làm thơ, làm văn thử hỏi được bao nhiêu trong cái đất nước Giao Chỉ nhỏ bé nầy? Chỉ như vậy, mình sẽ không chìm lỉm khi giao du với Ái Lan. Nghĩ tới đây, Nghi mỉm một nụ cười trong bóng tối. Nhứt định là mình không thể nào để lép vế trước mặt Ái Lan, một cô gái xảnh xẹ, se sua mà trí óc cạn cợt như cái dĩa đựng bánh bèo. Nghĩ tới đây, niềm hăng hái như làm căng phồng trái tim nàng. Nàng thì thầm với Khang:
 
- Anh à, em có thể viết văn được không anh?
 
Khang cười hì hì:
 
- Em tôi lẩn thẩn quá. Ý gì mà em hỏi anh như vậy?
 
Chàng nói một câu bằng tiếng Pháp nháy theo tựa một cuốn phim:
 
- Sois belle et tais-toi.
 
Nghi ngắt chàng một cái thật đau. Chàng giục nàng vào phòng khánh tiết. Nghi do dự nói:
 
- Anh đưa em vào toilette một chút. Em cần phải trang điểm lại kẻo người ta bắt gặp khuôn mặt loang lổ nước mắt của em.
 
Nói xong câu đó, Nghi tự nghĩ: buổi tối nay, nếu chị Dung biết được ẩn tình của mình, chắc chị sẽ cho mình cà chớn như lúc chị chưa biết mình có một chàng kép sáng giá như Khang.
 
 
NGUYỄN THỊ THỤY VŨ      
 
(Trích từ giai phẩm VĂN Xuân Ất Mão, 1975)
 
 

Thứ Sáu, 7 tháng 2, 2025

VÀ VĨNH VIỄN PHAI XUÂN - Nguyễn thị Ngọc Minh

 

Một trong những lá thư của những người tôi không quen biết, một người đã nhận xét: "Với hai lối trình diễn khác nhau như thế, cô rõ là người mang hai bộ mặt".
 
Hai thôi sao? Ít vậy! Một người lớn khi biết tôi cũng là những bà già Huế, thiếu phụ Bắc, cô gái Nam-kỳ... thường phone tới quấy rầy, ông đã kêu lên khi khám phá ra: "Thay vì thực hiện một show ca nhạc, đề nghị cô lập ban kịch đi, con người muôn mặt kia ơi."
 
Một người lớn khác nghe tôi kể lại đã cười nhạt: "Ông ta nói cay cô đấy". Nói cay, nói đắng, nói ngọt, nói mặn, nói chua... những vị nọ tôi đều đã được nếm, thì có thể tự biện minh được chăng, rằng những chiếc mặt nạ tôi đeo đều có công dụng như những chiếc khiên để chống đỡ và phòng ngừa những mũi tên lời nói nọ bắn ghim vào chút tim trần trụi.
 
Con kỳ nhông đổi sắc theo màu lá để khỏi bị xé bằng nanh, nuốt hút vào bao tử của những con thú thèm thịt nó. Tôi cũng tập tành bắt chước giống cắc kè, kỳ đà nầy.
 
Nhưng lá cây chỉ quẩn quanh đôi màu lục nâu vàng đỏ tím, còn những bộ mặt khác nhau của người đời thiên hình vạn trạng, tôi đuối mệt trong cuộc chơi biến dạng ẩn thân này.
 
Để cuối cùng, phương cách tốt nhất để tự ủi an tìm được vẫn là im lặng nhắm mắt hồi tưởng ; hoặc đôi khi mắt vẫn mở trao tráo mà tai không thu được chút gì những người chung quanh chạo nhạo bàn cãi, và hồn phiêu về một cõi cũ cỏ tơ thơ dại phá phách hồn nhiên không hậu ý diễn trò.
 
Chẳng hạn như nhớ căn nhà ma quái ở miền Nam. Ma trong bụi chuối phần phật bên hè, ba mê hát bội bỏ mấy mẹ con ôm nhau run rẩy thức. Ma vắt vẻo ngồi trên trinh thè lưỡi cuốn lấy đứa nào cành nanh: "Không cho má-cha đi đánh tơ nít, không cho má-mẹ đi chợ mua muối à ơi". Ma dưới gầm giường kéo chân con nhỏ mê giày mới đòi mang cả vớ hoa, giầy bụi, nằm ngủ lăn quay trên tấm ra trắng xóa. Ma hù to giật tóc bé con ra ao rau muống sau nhà thút thít tủi thân vì cả nhà bâu quanh con chuột đỏ hỏn mới về giành hai vú má, giành cả chiếc nôi, giành luôn chai sữa thủy tinh khác đỏ của mình. Ma còn nhốt nhà tắm ai lười đi học đến nỗi má phải thuê một ông phi xe mặt mày đầy sẹo bế liệng vào lòng xe chở thẳng đến trường và ba rút dây nịt ra chực quất. Ấy thế mà trò chơi quỷ nhập tràng do anh Hai bày đầu vẫn được tán thưởng khi ba má vắng nhà cửa đóng tối om dầu tim muốn đứng im khi cây đèn pin trước ngực xoắn anh Bảy chớp tắt và khi chị Năm làm con linh miêu nhảy sang xác của mình.
 
Giả bộ như tôi không có hối lộ mấy khúc bánh mì làm bằng thân lục bình mổ ra nhét thịt khoai đỏ lòm là hoa điệp, hãy nói đi ma, tôi đã giấu nỗi sợ sệt của tôi sau chiếc mặt nạ nào hay chỉ là đôi tay nhỏ như mười con thằn lằn đứt đuôi lẩy bẩy run trên mắt khít sau khi ngọn đèn dầu được thổi phụp, cơn gió vút qua, gai ốc nẩy mọc.
 
Chẳng hạn nữa, nhớ con cá rớt từ ống tre xuống tóc khi tắm suối ở xứ Núi. Nhớ cô bạn hù rằng nếu mày ghi tên tao lên bỗng về tội nói chuyện tao sẽ thư ếm cho xem. Nhớ vườn cà phê đứa canh chừng đứa chui sang hái trộm của mấy bà sơ. Nhớ đồi chà là hoang cách một thung lũng đầy mả hoang sau trường tiểu học mới. Nhớ vị chát đắng bó miệng của trái non khiến chẳng thấy ngon lành khi ăn cơm cũng phải rán nuốt vì sợ má nghi. Nhớ con trâu đen suýt húc sừng vào người ở vườn ương An Mỹ vì lỡ nghịch dại kéo những sợi "râu-đuôi" lắn quắn. Nhớ cái lò sát sinh ở dốc xuống thung lũng trồng rau cải khi đi mua su hào, những hạt lệ óng ánh van vỉ của bọn bò vàng khi cẳng quỵ dưới những trái dái mít sau dãy cư xá của học sinh Sắc tộc, thằng Pu K' Lao dúi cho vài hột muối trắng đục lợn cợn đã bốc lén của ông cai. Ôi ông cai với thúng cơm nhẫy mỡ, cái áo thun đã đen xạm màu khói hóng, cầy cục với hai que tre nồi cơm to bằng thanh hàng rào, sẵn sàng phang lên đầu lũ học trò háu đói. Rồi những giờ học chỉ đợi tiếng trống thùng để ào ra giành chơi với bọn mẫu giáo những cầu tuột, xích đu hình gon gà, con thỏ...
 
Tôi nghĩ mãi chẳng ra chiếc mặt nạ nào tôi đã vẽ trong thời gian xông pha lừng lẫy với bọn thú cầm và mộc thảo ấy... 

Rồi chẳng hạn, nhớ đồi cát ngát, nhớ vòm dứa gai hoang nằm hát một mình rồi ngủ quên làm cả nhà quýnh quáng đi tìm cứ ngỡ con nhỏ bị ma xó nhét cát vào mồm hay kéo chân xuống đầm sen nước ngọt. A, bẩy đồi cát như bẩy chú lùn mà anh Uyên đã gọi là thần dân của tôi. Nhớ tôi không, bẩy ngọn đồi? Đồi Nhạc Tím, đồi Dứa Trăn, đồi Keo Mùa Đông, đồi Gió Đàn, đồi Keo Mùa Thu, đồi Cỏ Kim, đồi Kem Vàng... dấu chân chim cát tôi và anh Uyên đã chạy hụt hơi rình bắt. Khoanh kẹo đỏ hồng của bọn trẻ chăn trâu quẳng cho. Anh Uyên bảo tôi đứng ngang chiều gió để anh chụp ảnh. Tóc phủ mặt thơm nồng gió bể. Tôi phá anh bằng cách le lưỡi, méo mồm. Chị Sáu bảo phải gắn một cái Kiên Nhẫn Bội Tinh cho anh Uyên. Anh dỗ ngon dỗ ngọt tôi tập đàn tranh, tập ngồi nhu mì nghiêng nghiêng đeo móng sắt vào khảy tang tình những bài vỡ lòng chán ngắt như Đăng Đàn Cung, Long Hổ Hội, Thu Hồ, Xuân Phong Long Hổ... Thế em không biết sao, ngày xưa mọi cô công chúa triều Nguyễn đều phải tập những bài nầy. Nhưng em đâu có thèm làm công chúa. Làm công chúa bị cấm trèo cây, cấm leo lên nóc nhà thả diều, cấm đứng trên hải đăng liệng sỏi xuống người ta, cấm ngắt thân khoai mì làm đạn để bắn ná với con trai. Anh Uyên đưa hai tay lên trời. Nhưng chưa chịu thua, anh lại dụ dỗ con nhỏ chịu học đàn bằng cách phô trương tài nghệ.
 
Dưới ngón tay anh lá rung những sợi tơ bay mờ lẩy bẩy. Em cũng lẩy bẩy che mặt. Uyên là tên một thứ chim. Anh bay sang tận Belgique. Vài năm đầu còn liên lạc được. Những bức ảnh, tờ thư tôi xem đã nát. Thường là những tin vui, khoe họ mời anh mang đàn tranh lên truyền hình, khoe huy chương nhiếp ảnh mới đạt ; nhưng cuối thư bao giờ cũng là: "những hôm nhiều gió nghe thông reo mà nhớ sóng biển, nhớ nhà gỗ nâu... và tự hỏi chẳng biết chú-thỏ-lười đã xong bài Một Bàn Tay chưa hay thầy đi lại trả "nốt" cho thầy"... Những năm sau nầy chỉ còn biết tin anh qua những người may mắn được về. Biết được anh có chân trong một tờ báo chỉ có thể chuyền lén nhau đọc. Bây giờ, tin cuối đã rõ, có thể vĩnh viễn anh đóng vai Kinh Kha ở quê người, ngày về không có. Hôm nọ, bác trưởng nhóm ảnh nhờ tôi giúp anh Uyên một vài bức ảnh về hát bội trong luận án đệ trình khi ra trường. Bảy năm rồi còn gì. Chẳng biết, anh có nhận ra tôi cũng là người vẽ mặt bôi bết đỏ xanh trong ảnh đó.
 
Như thế, chim Uyên, làm sao thầy có thể nói cho học trò biết, chiếc mặt nạ nào học trò đã hay sẽ mang với một người sống đó nhưng chẳng sao gặp lại. (Thầy, chớ sao, nhất "nốt" vi sư - bán "nốt" vi sư mà)
 
Và đếm làm sao hết, những bạn cũ đã mất, đã xa, đã nhăn nhó bực bội: "Tụi tao ghét cái trò Na-Mi nhạt nhẽo của mày vì Na-Mi là của thiên hạ, tụi tao chỉ thích mày bởi lẽ mày là một Mi-Na cùng phá cách cùng rong chơi, cùng lê la xẻ chia vui khổ... riêng của tụi tao."
 
Rõ là trò ú tim chưa. Nhắm mắt. Xoay một vòng. Mở ra. Mất hết. Bẩy Tiền đi lính pháo binh ở Hàm Thuận. Phúc Cận đeo nhẫn của người đẹp Tây Đô nào đó. Tuyền An làm cô giáo ở Long Hương một ngày bốn lượt lội qua một giòng sông không đò không cầu. Lão Ngoan Đồng đang chuẩn bị đón đứa con thứ tư. Vĩnh Đoàn cravate nghiêm trang tròng vào cổ nghe đâu lập nghiệp ngoài Phan Rí Cửa. Hiếu Để, Mỹ Lệ đã bay khỏi Việt Nam. Thầy Hát chẳng biết có bớt được rượu không, ở vùng đất trích ấy...
 
Thôi hết những đêm trăng nhòa đồi cát đảo hoang chòng chành thuyền câu đón mặt trời mọc. Tìm đâu ra những thân tình cũ, những ruột gan dốc hết, những tiếng cười hào sảng rụng sao. Chốn này, tôi ngậm trong miệng một tiếng kèn âm âm trong lồng ngực tối. Bạn xưa, dịp nào nữa, nói cho nhau, Mi-Na đã diễn xuất trò gì giữa những tình thân như thế.
 
Bây giờ là chiều của tháng cuối năm, trên sông lạ, ở xứ xa. (Tôi, tôi có coi nơi nào đích thực là quê nhà để nhớ tưởng?), một làn nước gợn đủ xao động hồ tim, đủ nhắc nhở những vân cát bị phá tan bởi bốn bàn chân trần trụi của tôi và Di. Nhưng làm sao tôi còn cất được tiếng cười dòn dã của thuở săm soi ốc sò rong cát xếp thành triều đình, tưởng tượng ra những câu chuyện éo le kỳ bí. Tóc dài phơi phới sau lưng tôi thả. Đôi tay vươn cong chận bước trêu cợt của lũ còng gió. Di tàn bạo dẫm bẹp thân còng để tôi phịu má lẫy hờn cho dù cái dẫm đó cho tôi, vì tôi. Nhưng rồi mình lại làm lành với nhau, không thôi làm sao tối đến một đứa xách đèn bão, một đứa lắn quắn chụp còng cho vào bị, rồi kiếm một hốc đá bật lửa nướng còng nhai với muối tiêu chanh gói theo. Di nhận xét còng gần biển nhà mình cùng họ với cá tra nên béo bùi thơm ngọt chứ không nhạt thếch như Trinh Còng ở Đá Ông Địa để mình lại cãi nhau. Trẻ thơ mau giận mau hờn cũng như nhậy cãi lẫy, nhậy làm quen. Cho đến một ngày nhận ra mắt Di nhìn tôi khang khác để mắt tôi ngỡ ngàng theo. Tôi thoáng hiểu ra tuổi mình vừa lớn và một cụm rong lãng mạn đã vướng chân cậu bé. Nên từ đó tôi lãng xa Di. Để khỏi phải trông thấy trong tay em vỡ òa những hạt tròn của nhánh rong mơ lãng. Bởi cũng như anh Uyên, Di là tên của một thứ chim lạ mà ngày nào tôi đã tỏ ý mong Di thoát bay cao, đừng để chí lớn chìm vào trong những cái tầm thường của lũ còng thấp ẩn sâu dưới lòng đất, đừng để rong rêu quấn quít dấu chim phi.
 
Ở xa, ngày được tin Di chết trẻ, tôi ngồi và lặng lẽ cười khi nhìn và sờ lại hai sợi tóc ngắn dài của Di và tôi trên tờ giấy trắng. Di ơi, tờ giấy quá trắng, trắng rợn, và nước mắt thì làm gì có màu phải không Di.
 
Nếu Di biết với Di tôi quả đã có mang mặt nạ diễn trò ấy là lúc phải giả vờ lạnh lùng nghiến răng cắt đứt mọi quan hệ với Di. Nếu Di biết tôi bây giờ sống khỏe lắm, mãi mãi một mình, không tha thiết nổi điều chi, gắng gỏi theo đuổi những việc làm mình không ham thích, chỉ thở dễ dàng với bọn trẻ thơ như một kẻ già nua. Nếu Di biết ngay cả chú chó Mi-Na cùng tên cùng tuổi với tôi cũng đã bỏ tôi đi. Ừ! Nó chết rồi Di. Bịnh già! Tôi sao thế này. Nhắc đến cái chết hoài trong tiết tàn đông, bung nở trăm hoa. May là mạch sống dửng dưng vươn khỏe một cách tàn bạo của thiên nhiên  chung quanh đã khiến tôi rùng mình ghê sợ.
 
Bởi nếu Di biết tôi đang gắng hết sức mình để luôn được là một thứ Trinh-Còng lang thang đời nhạt thếch còn hơn là biến thể thành loại còng cùng họ với cá tra béo bùi thơm ngọt để giúp vài giây khoái khẩu của một ai.
 
Vì Di à, có một loại người vĩnh viễn ta chẳng còn lừa dối được nữa, mọi thứ đều vô ích, khi họ đã gần thật gần ta như Di (Di hóa thành cái bóng của tôi rồi mà!) hoặc xa quá xa như anh Uyên (anh nhất quyết thành Kinh Kha thật sao?)
 
Và bởi vì nữa, Di ơi, tôi vẫn còn giữ hai sợi tóc ngắn dài của hai ta mà màu đen ngậm ngùi cũ đã khô quắt ngả màu vàng úa héo trên nền giấy trắng rợn...
 
 
NGUYỄN THỊ NGỌC MINH      
 
(Trích Xuân Hồng Tuổi Ngọc, 1975)