Thứ Bảy, 6 tháng 9, 2025

TRÊN BỘC TRONG... SẦU RIÊNG - Bình Nguyên Lộc

 
Ra tuồng trên Bộc, trong dâu
 Nguyễn Du              


Thấy chồng săm soi cây chĩa ba, bà Hương trưởng Nếp hỏi:

- Ông định đêm nay đi xăm ếch hả ?

Ông Nếp cười rồi đáp:

- Ờ, nhưng mà xăm "ếch bà" hay nói đúng hơn là xăm "ếch ông".

Thấy vợ ngơ ngác, ông Nếp hạ giọng xuống rồi cắt nghĩa:

- Bà không thấy chó sủa nhiều trong mấy đêm liền sao ? Ăn trộm nó biết tôi với bà ở trong, nên nó rình miết...

- Con Điệp của mình cũng tệ quá, ngủ như chết. Tôi chắc nó không hay biết gì nên không thấy nó nói gì hết.

- Sáng nay tôi ra vườn đếm lại thấy mất gần cả chục trái.

- Nên ông rình để đâm ăn trộm ! Ghê quá, rủi đâm trúng thì làm sao ?

Ông nếp cười ha hả:

- Bà nói kỳ cục. Đã quyết đâm, mà sợ đâm trúng thì đâm làm gì.

- Tôi ớn lắm khi tưởng tượng thằng ăn trộm nó kêu cái ẹo như con ếch kêu.

- Bà đừng lo. Chĩa ba nầy chỉ để hộ thân thôi. Tôi quất bằng hèo cũng đủ cho nó sụm rồi.

- Chỉ sụm thôi thì được. Ông đừng có báo hại mà tôi phải chiêm bao cả năm: tôi sợ ông đâm nó lắm !

Vườn sầu riêng của Hương trưởng Nếp to nhứt làng Bình-Nhâm. Sầu riêng nhà ông lại có tiếng là đều đặn, trái nào chắc trái nấy, chớ không phải đầu vườn thì sượng, cuối vườn thì mỏng cơm như ở các nhà khác.

Nên chi tới mùa là ăn trộm nó xấn rấn bên nhà ông thường hơn ở đâu cả.

Sầu riêng giá sỉ, mạt lắm cũng hai mươi đồng một kí. Mỗi đêm bị trộm độ chục trái, tức trộm trên hai mươi kí, có phải là vứt đi ngót bốn trăm không ?

Như vậy nhà nào cũng cất chòi ngoài vườn rồi người nhà thay phiên nhau mà thức ngoài ấy để gác sầu riêng.

Năm đêm liền, vợ chống ông Nếp không được thơ thới trong người, nên cô Điệp, con gái của ông bà phải canh liên tiếp.

Có lẽ vì mệt mỏi mà cô ngủ quên nên trộm nó mới làm già.

Mặc dầu chưa thật khỏe mạnh, ông Nết quyết thay phiên cho con đêm nay, vì ông rất nóng của, rất sốt ruột mỗi khi sáng lại, nhận thấy vườn bị trộm trong đêm rồi.

Tên trộm nầy là một thằng đáng giận. Của lấy, của ăn. Nó ăn tại gốc, bỏ vỏ bừa bãi ra đó như chửi vào mặt chủ vườn.

Ông mà túm được nó thì, trước khi đem nạp cho nhà chức trách, ông sẽ nện cho nó một trận cho bỏ ghét.

Trời mới chạng vạng mà trong vườn đã tối om như giữa canh khuya. Tàng măng cụt dày mịt đã gọi đêm về rất sớm trong đó.

Ông Nếp kêu con đang dọn dẹp dưới bếp:

- Điệp à, đem nóp lên đây cho ba.

Cô Điệp dạ một tiếng rồi lên nhà trên, nhưng tay không. Cô hỏi:

- Ba hỏi nóp làm chi, ba ?

- Đêm nay ba thế cho con, để con ngủ một bữa.

- Ý trời, ba không được mạnh, chịu mù sương với hơi ẩm sao được ?

- Thây kệ, ba coi bộ con đuối sức rồi, để ba thay một bữa.

- Mệt bao nhiêu con cũng ráng. Để cho ba trúng cảm, con sao đành.

- Thôi, đừng nói lôi thôi, đem nóp lên cho ba.

Cô Điệp mặt buồn hiu và lo lắng, ú ớ như muốn nói gì nữa. Nhưng biết tánh cha là người khó đổi ý, cô nhẫn nại đi xuống nhà sau mà lấy nóp lên.

Hương trưởng Nếp cụ bị một cục thuốc to và một cuộn giấy quyến, uống một tô trà Huế thật bự, rồi thong thả ra vườn.

Vườn ông Nếp nằm giữa đường, mặt tiền rộng sáu mươi thước và ăn sâu vô trong trên hai trăm thước.

Nhà ông cũng gần đường, nhưng chòi canh thì nằm co ro tận ngoài sau cùng.

Nhưng ông Nếp không ra chòi ấy liền. Ông đi rảo quanh các ranh vườn ông. Chòi canh vườn ông Thìn lấp ló giữa những thân cây trống gốc; đứng ở ranh đất nhà, ông Nếp thấy điếu thuốc người láng giềng chốc chốc lại lóe sáng lên trong bóng đêm. Ông kêu nói:

- Anh Sáu đó hả ?

- Ừ ! Tôi đây ! Hôm nay chú canh ?

- Ừ ! Mấy đêm rồi có gì lạ không ?

- Bên tôi thì không, nhưng bên chú thì chó sủa dữ lắm.

Rồi cả hai không nói với nhau gì nữa. Ông Nếp đi tuốt ra chòi.

Chòi rộng chỉ vừa hai người nằm, nóc cao tới đầu người đứng. Chỉ có bốn cây cột, dùng làm chân chõng luôn.

Ông Nếp leo lên chiếc chõng treo trên bốn cây cột đó, mò kiếm chiếc gối bằng tre, rồi ngả lưng xuống.

Ông đem nóp theo phòng hờ nhưng không dùng. Nằm trong nóp đã ấm lại không bị muỗi đốt. Dễ chịu như vậy, rủi ngủ quên đi sao ? Nên chi ông đành lòng thỉnh thoảng đập cái bạch vào da mình, không biết như vậy có giết được con muỗi nào không, nhưng cử động thì bớt lạnh lại bớt buồn ngủ.

Ông hút liên tiếp một hơi sáu điếu thuốc, điếu nầy mồi qua điếu khác, hầu lát nữa nhịn thèm. Phải, ông quyết giả đò ngủ quên để đập ăn trộm cho đã giận, nên định không động đây, không để đốm sáng nào cho trộm thấy hết.

Đêm quê vắng lặng sớm quá. Nhưng lại huyên náo âm thầm mà chỉ có kẻ rình trộm mới hay biết: côn trùng hòa tấu những bản nhạc buồn muôn đêm không thay đổi, và chó sủa kẻ gian chẳng biết mỏi mồm.

Ông Nếp nằm đó lắng tai nghe. Ở những khu vườn trong xa, chó đưa người từ đầu xóm đến cuối thôn. Gần hơn, giữa khu vườn, thỉnh thoảng nghe soạt một tiếng rồi tiếp theo đó một vật rơi nặng xuống đất ẩm kêu cái bịch. Đó là sầu riêng rụng. Ấy thế, sầu riêng không thể hái lúc già mà vú được như xoài. Nó chỉ chín trên cây thôi và len lén rụng về đêm. Ăn trộm khỏe ru, chỉ việc đem cà-ròn tới lượm mang đi.

Ông Nếp đếm thử theo tiếng động thì từ đầu hôm đến giờ rụng đi năm trái rồi.

Bỗng phía trước, chó nhà ông sủa vang lên. Nhưng nó chỉ sủa vài mươi tiếng thôi.

Kẻ qua đường đã đi khỏi đó rồi chăng ? Rất có thể là như vậy lắm. Nhưng ông Nếp lại nghĩ khác, vì ông đã quan sát kỹ lưỡng mấy đêm rồi. Đêm đầu chó sủa suốt hai tiếng đồng hồ, đêm sau nó sủa trong một tiếng thôi, rồi mấy đêm kế đó, thời gian báo động của nó càng đêm càng rút ngắn lại.

Phải chăng trộm đã đánh thuốc độc cho chó bằng thức ăn ? Ông nghi rằng thế. Nhưng sáng ra, ông không thấy chó chết hoặc bịnh hoạn gì hết.

Thành ra, mặc dầu ông vẫn không hiểu tại sao chó càng đêm càng biếng sủa, nhưng ông cứ tin rẳng gian phi vẫn có mặt cả trong lúc chó im thin thít.

Ông lồm cồm ngồi dậy, chõng tre kêu răng rắc khiến ông phải ngưng ngồi giữa lúc thân mình ông chưa đứng hẳn. Ông chống tay để dựng thẳng người lần lần lên.

Gì mà nghe như vật nặng rơi xuống mương, kêu lủm chủm. Ông Nếp mở bét mắt ra soi bóng tối mà vẫn không thấy gì hết. Nhưng ông tưởng tượng ăn trộm đang lần dò mò kiếm sầu riêng rụng. Ông vái thầm cho nó đi bậy vào gốc cây, rồi một trái sầu riêng nặng cỡ bốn kí-lô và lởm chởm chông gai cứng rơi xuống trên đầu nó cho nó chết tươi cho rồi.

Ông Nếp bước xuống đất, mò dưới chõng thì tay đụng phải cây hèo giấu dưới đó. Ông định lấy chĩa ba nhưng nhớ lại rằng bà Hương trưởng rất sợ án mạng, nên ông tạm dùng hèo vậy.

Ông Nếp đưa mặt tới mà dòm, làm như hễ chồm tới một chút là gần tên ăn trộm hơn một chút và vì vậy dễ thấy nó hơn. Nhưng bóng đêm tùng đảng vẫn dày đặc một cách đáng tức.

Thình lình ông nghe nhánh khô dướì đất như bị ai đạp lên, kêu rốp một cái. Tiếng động kêu lên ở phía trái ông. Ông Nếp nín thở lắng nghe. Tên trộm hình như cũng đang nghe ngóng nên phía đó lại im phăng phắc.

Nhưng kìa, tiếng động lại nổi lên, một tràng tiếng rôm rốp nầy kế tiếp một tràng khác sau một thời khắc ngắn. Rõ ràng là tên trộm đang bước.

Ông Nếp bước trịch qua một chút thì...

Đàng xa, bên vườn Ba Nâu, có một khoảng đất trống. Đêm nhiều sao rọi chút ít ánh sáng xuống đó và vệt sáng mờ ấy làm nền, giúp cho ông thấy dáng một người đang dè dặt bước.

Nó lần đi tới chỗ ông đứng, như vậy, ông chỉ có thể đâm nó bằng chĩa ba mà thôi. Ông Nếp rón rén bước để tránh đường đi của kẻ gian và để sang qua bên hông của nó.

Bấy giờ, nó chỉ còn cách chỗ ông đứng độ ba gốc sầu riêng nữa mà thôi. Ông đưa ngang cây hèo, co gối để hạ mình xuống thấp rồi dồn hết thần lực vào hèo, ông quất ngang tới.

Hèo đi có gió, rồi chạm phải gì kêu một cái cộp.

Tiếp theo đó là tiếng kêu: "Trời ơi !" nho nhỏ và tiếng người té nghe một cái thụi.

Ông Nếp biết rõ là ăn trộm bị thương chỗ nào, vì ông đã hạ cây hèo ngang ống quyển nó. Tiếng cộp là tiếng gõ va vào xương ống quyển của hắn.

Tuy vậy ông cũng rút cây đèn ló ở lưng quần ra để rọi cho rõ thêm và để biết vài chi tiết khác.

Tên trộm rên hừ hừ, nằm nghiêng dựa bờ một cái mương, và lạ kỳ hết sức, con chó nhà cũng đang ở đó và đang theo hửi nó.

"Chó nãy giờ ở đâu mà không nghe sủa, và bây giờ cũng chẳng lên tiếng như vầy ?"

Hai câu hỏi trên, ông Nếp vừa thấy rằng đáp không được, thì ông bị nhiều câu hỏi khác dồn tới trong đầu ông.

Hà, ăn trộm mà lại mặc âu phục đàng hoàng: sơ-mi cao-bồi bỏ ngoài, quần trô màu cứt ngựa, giày da, đế cao-su sống.

Ông Hương trưởng bước tới rọi đèn vào mặt nó thì nhận ra đó là một gã thanh niên độ hăm lăm tuổi, mũi cao, da trắng, đẹp trai lắm.

Ông Nếp ngờ ngợ một lát vì nét mặt đặc biệt của tên trộm. Bỗng ông nghĩ ra điều nầy: đó là nét mặt riêng biệt của người Tàu, nói rõ hơn, của người Triều-Châu.

Chỉ biết được có bấy nhiêu đó thôi, còn tại làm sao mà người con trai tướng sang, y phục mắc tiền nầy lại đi ăn trộm thì ông nghĩ không ra.

Ông khom xuống hỏi nho nhỏ, vì ông nghi có chuyện lạ, không muốn làm náo động xóm làng:

- Mầy tên gì, và ở đâu ?

Tên trộm cứ rên, lâu lắm mới nói được:

- Đau chết tôi bác ơi !

- Ai bác, cháu, với mầy là đồ quân trộm cắp. Tao hỏi mầy tên gì và ở đâu ? Nói mau đặng tao đưa ra nhà việc. Cho mầy biết một phen đặng mầy tởn tới già.

Giữa những tiếng rên, tên trộm nói :

- Bác ơi, cháu là Xường Hia, ở Lái-Thiêu.

- Ừ, mầy là cắc chú, Tiều, phải không, tao xem mặt là biết liền. Mầy là con cái nhà ai, chệch lò gốm hay chệch lò đậu ?

- Hừ... hừ... hừ, cháu là con của chú Duỳn.

- Của ai ? chú Duỳn, chú Duỳn chứa cờ bạc đó à ?

- Dạ phải.

- Trời ơi, bộ tía mầy sạt nghiệp rồi sao mà mầy đi ăn trộm ? Cha con mầy ác lắm, nên bị tổ trác đêm nay cũng phải.

- Ý ôi trời ơi... đau chết đi thôi... Hừ... hừ, bác ơi, cháu không phải ăn trộm bác à !

- Chớ mầy đi đâu nửa đêm nửa hôm trong vườn người ta ?

- Thưa bác, khó nói lắm. Xin bác thương giùm mà tha cho cháu. Thật tình cháu không phải ăn trộm.

- Không ăn trộm nòi, thì ăn trộm nảy. Thôi được. Mầy gãy cẳng rồi hả ? Nằm đó tao đi kêu Hương quản đây.

- Cháu lạy bác, bác ơi ! Đừng kêu tội nghiệp.

- Thì mầy khai thật đi, tao nghe coi.

- Cháu khai ra, sợ bác còn giận thêm.

Ông Nếp sanh nghi, tắt đèn rồi nói :

- Cứ khai thử xem làm sao, bằng không, tao đi kêu làng liền bây giờ.

- Hừ... hừ... hừ bác ơi, xin bác thương cháu... số là... hừ... cháu có hẹn với cô hai...

- Cô hai nào ? - Ông Nếp hỏi mà trống ngực ông đánh thình thình.

- Dạ cô hai Điệp, con của bác.

Ạch... ông Nếp đá vào lưng nó một cái rồi quát:

- Nói bậy !

Nhưng ông run lập cập. Đứa con gái mà ông ngỡ chín chắn lắm, đoan trang lắm, lại rước trai ban đêm. Hèn chi mà sáng sáng không nghe nó nói gì về vụ chó sủa về khuya hết, và hèn chi mà con chó nhà sủa càng đêm càng thưa. Phải mà, nó giới thiệu nhơn tình nó với con chó rồi, con nầy đâu có sủa nữa.

Con chó thật là đồ phản chủ. Hèn chi hồi nãy nó chạy lại liếm và hửi chú tửng gãy giò nầy.

Ông Nếp lặp lại:

- Mầy nói bậy, mầy chết bây giờ.

- Dạ quả thật như vậy. Không tin bác kêu cô hai mà hỏi thử coi.

Ông Nếp ngồi phệt xuống đất. Làm sao mà không tin được ? Ông chỉ khổ là không biết làm sao đây. Tha cho nó thì cũng tức lắm. Nhưng dầu có cắn răng mà tha, nó cũng chẳng lết đi đuợc: cả hai ống quyển nó đều gãy.

Kêu Hương quản chăng ? Hẹn với gái chưa chắc nó sẽ bị tội gì mà ông còn mang xấu với làng nước nữa là khác. Ra làng, nó khai tạch hoạch ra thì thiên hạ sẽ hay hết rồi đồn rùm lên.

Thủ tiêu nó để phi tang ? Thằng dịch nầy phá con gái ông, đối với ông, thật nó đáng chết. Nhưng giết nó thì dễ mà làm cho mất xác nó, khó vô cùng.

- Bác ơi, cháu lên đây bằng xe máy, xe còn để ngoài đầu vườn ngoài của bác. Ai mà đi ăn trộm bằng xe máy đó bác !

Khổ ơi ! Ông Nếp nghe đến điều sau đó thì càng rầu thêm nữa. Đó là một cục nợ thứ nhì, tang chứng cho cục nợ thứ nhứt nầy.

Mà thế nào cũng phải tính cho xong nội đêm nay. Bây giờ đã mười giờ khuya rồi. Vài giờ nữa là người ta sẽ thức sớm lượm sầu riêng, là bạn hàng sẽ qua lại dập dìu.

Ông ngồi đó hằng giờ, bóp nát trí mà không nghĩ ra mưu mẹo gì cả. Lắm lúc ông tức giận sôi gan cái chú tửng đã làm khổ ông. Ông muốn đập vài hèo cho nó hui nhị tì cho rồi, nhưng ông dằn được mà mỗi lần nén cơn giận là ông run lên.

Bỗng tìm ra được một kế, ông đứng phắt dậy.

*

Cô Điệp thao thức mãi không chớp mắt được. Cô van vái thầm người khuất mặt xui cho Xường-Hia đêm nay không lên. Đành rằng ông già sẽ rình liên tiếp đến bắt được trộm mới nghe. Nhưng mai nầy cô đi chợ, cho Xường-Hia hay là êm chuyện.

Mỗi lần chó sủa là cô giựt mình đánh thót một cái. Cô tưởng tượng tình nhân đang đạp xe máy nơi một xó rào rồi dò dẫm ra sau chòi.

Xường-Hia chắc đang lọt mương. Là dân chợ, y lội vườn rất dỡ, nhứt là về đêm.

Con gái Hương trưởng Nếp hồi hộp mà hình dung ngườì yêu đang bước gần tới chòi. Cha cô núp sẵn dưới gốc một cây măng cụt.

Rồi... trời ơi, ghê quá... cô Điệp không dám tưởng tượng thêm nữa. Tuy nhiên rồi cô cũng phải nghĩ tới. Hình ảnh rình trộm của cha cô cứ theo ám cô mãi, xua hoài nó không đi.

"Đó rồi ông già ổng nhảy ra, đâm mạnh chĩa ba vào bụng tên dạ khách. Chĩa ba lụi vào thịt nghe cái sựt. Xường-Hia la trời nhào xuống, ruột gan lòi ra lòng thòng lểnh thểnh."

Cô Điệp rùng mình. Cô lại nghĩ tiếp, theo một giả thuyết khác. "Đó rồi ông già ổng nhảy ra. Nhưng Xường-Hia có võ nghề. Ừ, chú Duỳn nổi danh là tay giang hồ mã thượng, lại không truyền võ cho con à ? Y tránh kịp rồi giựt chĩa ba mà đâm lại ông già."

Cô Điệp nước mắt ràn rụa khi nghĩ rằng cha cô có thể mang hại vì cô.

Lắm lúc cô muốn mở cửa chạy ra chòi quì lạy thú tội với cha, để tránh tai họa xảy đến. Nhưng cô không dám, nên đành nằm đó mà xót xa.

Cái lần chó nhà cô sủa, tim cô như muốn phá ngực cô mà nhảy ra. Cô nín thở muốn hụt hơi, nhưng đợi mãi mà không nghe động tịnh.

Cô đoán đủ điều, nhưng đều thấy là sai. Nếu Hia bị thương, thì ông Nếp đã đi kêu làng. Nếu Hia chạy thoát, cha cô đã rọi đèn sáng cả vườn và tri hô lên rồi.

Cô đợi gần hai tiếng đồng hồ mà không nghe thấy gì lạ nên định bụng đêm nay Hia không có lên. Rồi mỏn quá, cô ngủ quên luôn.

Sáng hôm đó, cô Điệp dậy thật sớm, chạy ra vườn xem có gì lạ hay không.

Ông Nếp đã vào nhà sớm hơn nữa để uống nước trà hừng đông thường lệ mà cô Điệp đã nấu và châm sẵn.

Trời mới mờ mờ đất, chưa phân biệt được gì. Tuy nhiên Điệp vẫn cố quan sát quanh chòi, coi có dấu vết chiến đấu nào sót lại không.

Không, cây cỏ vẫn y nguyên, không có lấy một nhánh tươi nhỏ nào gãy hết, hoặc một chòm cỏ nào trốc gốc cả.

Nhưng kìa, gì mà trăng trắng như chiếc khăn tay ? Điệp bước sấn lại chỗ đó, cúi xuống dòm thì thày quả đó là chiếc khăn mu-soa. Nàng cầm lên thì hỡi ơi, rõ ràng là khăn của người yêu! Chữ Tống, họ của Hia, thêu nơi góc khăn theo lối cổ triện, hiện ra mờ mờ trong ánh sáng mới hừng.

Điệp ngồi xuống dòm sát dưới cỏ thì bỗng khủng khiếp vô cùng: một bãi máu to bằng bàn tay, đã khô lâu rồi, đang bám vào đất bồi đen-đen ươn-ướt nơi bờ mương.

Điệp bối rối vô cùng. Thế nầy là anh ấy đã bị thương. Tuy chạy thoát được nơi đây nhưng không rõ có về đến nhà và có sống được hay không.

Đứa con gái trên Bộc, trong sầu riêng nầy héo xụ trở vào nhà, loay hoay làm rớt một cái thau kêu cái rổn, đánh bể một cái tộ và làm ngã chồng vỉ tráng bánh tráng kêu cái rầm.

Ông Nếp nhìn con hầm hầm, khiến Điệp lấm la, lấm lét không dám ngó lên.

Trong nhà không khí khác lạ lắm. Bà Nếp thì buồn hiu và chẳng nói với Điệp lời nào như mọi bữa.

Đây là một nỗi lo mới cho Điệp. Chắc chắn ba má cô đã biết hoặc đã nghi cái gì rồi. Liệu cô khỏi đòn bọng hay chăng ?

Cô Điệp hối hả làm công việc cho mau xong để đi xẹt lại đằng hàng xóm, coi có nghe tin tức gì về một người con trai người ta bắt gặp nằm giữa đường lòi ruột hay không.

Nhưng tuyệt nhiên không nghe ai nói đến tai nạn gì lạ xảy ra cả. Và suốt ngày đó, Điệp bứt rứt vô cùng, trông cho mau hết ngày, vì hôm sau là ngày đi chợ, nàng sẽ có dịp xuống dướì nghe ngóng.

Ngày kế đó, Điệp tới bữa đi mua thức ăn để dự trữ hai ha hôm trong tuần. Cái gì nàng muốn biết là được biết ngay. Thiếm Phòn ở sạp chạp phô tại chợ Lái-Thiêu vốn rõ cuộc tình duyên thầm lén của cặp Hia Điệp vì thiếm là thùng thơ miệng của hai đàng, cho Điệp hay rằng Hia đã mất tích một ngày và hai đêm rồi.

Hia ra đi tối hôm kia, hồi tám giờ, đi bằng xe đạp. Người nhà chỉ biết có thế, và cả chợ không ai gặp y đêm đó cả, nên chẳng biết y đi về hướng nào.

Điều chắc chắn là y không có lấy tiền bạc của ông già y. Thế tức là không phải y trốn nhà. Cũng không lẽ bị ai giết để giựt tiền.

Nghe xong, mặt Điệp tái lét. Thiếm Phòn ngỡ nàng lo sợ cho tánh mạng của người yêu, nên cũng chẳng ngạc nhiên.

Điệp mua hối hả vật nầy thức nọ, quên năm bảy món và không thèm đếm tiền họ thối lần nào cả, rồi thót lên thổ mộ về nhà.

"Thôi thế là chết rồi, nàng nghĩ. Chắc chắn là ông già ổng đã thủ tiêu anh ấy rồi. Bị thương có máu, nhưng nạn nhơn thì không ai tìm ra, thì có phải là y đã bị chôn vùi đâu đó rồi chăng ?

Ðiệp như đứa mất hồn, làm đâu quên đó, đập món nầy, đánh rơi món khác.

Khi ăn cơm trưa xong, nàng lại chạy ra vườn, tìm quanh quất coi có gặp chỗ đất nào bị đào và mới lấp lại không.

Ông Nếp rình từ cử chỉ nhỏ của con. Ông giận sôi gan, và khi Điệp trở vào ông hét:

- Tao đã chôn nó rồi, đố mầy kiếm mộ nó được !

Nói xong ông chụp đầu con, kéo xển Điệp vô trong rồi rút roi đuôi cá đuối mà quất thôi như mưa sa gió táp. Vừa quất ông vừa nói :

- Nè, tao có con, tao gả cho An nam[1], chớ nào tao có thèm gả cho chệch đâu. Mà lại là chệch hút máu người ta nữa. Thứ cái quân gạt người lấy của đó, lạy tao, tao cũng chẳng thèm ngó.

Nói xong ông lại quất lia lịa.

Sợ hàng xóm hay được mang xấu, cô Điệp chỉ kêu trời nho nhỏ mà chịu, cắn răng hít hà và van lơn cha nới tay cho.

Khi đã mỏi tay, ông vừa quất roi cuối cùng vừa nói :

- Chết đi cho rảnh rồi tao chôn chung với nó một lỗ.

Cô Điệp rêm cả mình mẩy, lùi vào xó bếp mà khóc thút thít. Bà Hương trưởng cứ ngồi đó mà gọt củ cải không thèm nói tới con một lời.

Nhưng cái đau nơi thân thể nào có thấm vào đâu đối với cái đau nơi lòng.

"Thế là không còn anh Hia yêu dấu nữa, anh Hia đẹp trai, và nói tiếng Việt còn sành hơn các cậu trai quê khác ! Nhưng ông già chôn anh ấy ở đâu cà, mà mình tìm mãi không ra ? Còn chiếc xe máy của ảnh lưu lạc về đâu ? Mỗi đêm ảnh đều đạp xe máy lên đây kia mà ?

Điệp bỏ ăn suốt bốn hôm, rồi sau đó, chỉ liếm láp qua loa thôi. Nàng gầy đi trông thấy. Mới có mấy ngày mà má nàng hóp vô, nước da ngả màu huỳnh đàn, tóc thì rối nùi không buồn chải gỡ gì hết.

Chiều chiều cô hay đi ra bờ rạch ở ranh vườn hướng Tây. Cô hồ nghi ông Hương trưởng vứt xác Hia xuống đó, nhưng đầu rạch, cuối rạch, không thấy và không nghe nói có xác ai nổi lên.

Đêm đêm, cô van vái vong hồn Hia về báo mộng coi anh ấy bị chôn ở đâu, để biết mà săn sóc mả mồ. Nhưng hồn Hia chắc còn vương vấn đâu đó, nên chưa về được.

Điệp thường đọc tiểu thuyết trinh thám. Trong đó vụ sát nhơn nào, rốt cuộc cũng bị trừng phạt. Thám tử họ tài lắm: chỉ có một chéo khăn, một mẩu thuốc lá, một dấu chơn làm chứng mà họ cũng tìm ra được thủ phạm, hoặc tìm ra được nơi vùi xác nạn nhơn.

Điệp rất sợ ngày kia, một thám tử đại tài nào sẽ khám phá được cái mồ bí mật mà chính nàng tìm mãi không ra.

Hỡi ôi, đã mất người yêu, rồi lại mất cha già, vì thế nào ông Hương trưởng cũng sẽ bị bắt, bị tù đày hay xử tử cũng nên.

Những lúc nghĩ tới vụ đổ bể tùm lum ra đó, Điệp lại khóc òa.

Ông Hương trưởng thì lạ lắm. Ông không đi đâu nữa cà, trái với tật dạo xóm của ông mọi lần.

Tối lại, đêm nào ông cũng bắt Điệp canh vườn chớ không phải thay phiên như trước. Có lẽ ông nghĩ : "À, như mầy hư rồi, cũng chẳng giữ làm chi, vả lại càng nên bắt mầy chịu lạnh cho đáng kiếp.

Bốn ngày sau, tới ngày đi chợ. Điệp lại dò la tin bạn, nhưng thiếm Phòn vẫn không biết gì thêm về Hia. Chú Duỳn đã đi cớ bót. Có nhựt trình đăng tin nầy nữa và họ cũng đã nêu ra nhiều giả thuyết đọc nghe hay như tiểu thuyết trinh thám.

Chú Duỳn lại có treo giải thưởng: aì mà tìm được con chú, hễ tìm sống thì đền ơn năm muôn, chỉ xác thì một muôn, còn ai mà biết dấu vết gì mách cho, cũng được hưởng năm ngàn.

Người Tàu rất thích ăn sầu riêng. Họ lại khoe của bằng số tiền ăn sầu riêng mỗi năm. Năm rồi, chú Duỳn khoe đã ăn hai muôn bạc sầu riêng thì biết chú giàu đến bực nào. Nên khi đứa con trai một của chú mất, tốn bao nhiêu để tìm ra nó, chú cũng chẳng tiếc.

Đó là những tin tức ăn trợt, không giúp Điệp biết thêm gì hơn về vụ mất tích của người yêu.

Lụi đụi mà nửa tháng đã qua. Vết roi cá đuối đã lành, nhưng vết thương bên trong chưa khép, Bà Hương trưởng bớt ghẻ lạnh với con, còn ông Hưong thì càng bữa càng quạu quọ hơn.

Một buổi trưa kia, thấy ông Hương nằm thiếp đi trên bộ ván giữa nhà, Điệp mới đám ló lên nhà trên, lại bàn thờ lấy bộ truyện Thuyết Đường đọc cho đỡ buồn.

Cô vừa thò tay lên bàn tổ tiên thì bỗng văng vẳng nghe tiếng rên hừ hừ nho nhỏ. Cô dừng tay lại, nín hơi để nghe ngóng. Ảo tưởng chăng ? Tiếng rên nhỏ quá, mơ hồ quá, như ở đâu dưới âm phủ vọng tên, hoặc như tiếng oan hồn thoảng qua trong gió.

Cô đợi vài phút thì bỗng nghe lại tiếng đó. Cô rán lắng tai thì có cảm giác rằng tiếng ấy ở bên chái nhà phía tả.

Nhẹ và lẹ như con mèo, Điệp bước lại chái, kê sát tai vào vách nhưng đợi hơn mười phút mà không nghe gì nữa hết.

Ông Nếp cựa mình khiến cô con gái hoảng sợ rút êm xuống nhà bếp.

Nhà ông Nếp kiến trúc theo lối nhà có của ngày xưa ở thôn quê: ba căn hai chái, nhưng hai chái lại đóng vách ba bên bốn bề thành hai cái buồng thật kín. Ngồi giữa nhà, người khách cứ ngỡ nhà chỉ có ba căn vì chái bị ngăn ra bằng vách bổ kho kiên cố. Hai cái chái ấy dùng làm lẫm lúa rất tiện nhiều bề. Trộm có đào huyệt có khoét vách thì gặp lúa ngay, không thế nào vào nhà được.

Mùa sầu riêng trùng với giữa mùa lúa, nên chái bên tả đã trống trơn, vì lúa đã bán hết phân nửa.

Những lúc lẫm lúa trống, Điệp cũng không đến đó làm gì, lại còn cố tránh nó vì thuở bé cô rất sợ cái xó nhà tối thui có vẻ đầy ma quỉ ấy.

Tối hôm ấy Điệp cố ngủ sớm để có thể dậy vào giữa khuya. Quả thật, khi cô mở mắt, nhìn sao trên trời thì biết bấy giờ cũng đã hơn hai giờ đêm rồi.

Thuộc nẻo trong vườn, cô đi thoăn thoắt ra nhà, đứng phía sau nghe ngóng giây lâu xem ông Hương trưởng thức hay ngủ. Ông nầy đang ngáy pho pho ở buồng sau đó.

Yên lòng, Điệp bọc qua phía tả, lần lại sát vách, rồi kề tai vào. Giây lâu cô như muốn ngộp hơi: tiếng rên lại nổi lên ! Đây là nhà thờ xưa đã mấy đời. Không biết bao nhiêu người đã chết trong đó rồi, thì có thể có ma lắm. Nhưng ma chỉ hiện cho người ta thấy, chớ ít khi nghe nói ma rên.

Đánh bạo, Điệp gõ nhẹ vào vách và hỏi nhỏ: Ai đó ? Không nghe đáp mà tiếng rên cũng dứt.

- Cộp, cộp, cộp, ai đó ? - Cô lặp lại.

Tiếng rên lại vang lên và tiếp theo đó như ai lấy ngón tay gõ vào thanh ghế bố cũng kêu lên cộp cộp nhưng nhỏ quá vì thanh ghế bố không dội tiếng được như vách.

Điệp cứ hỏi ai đó mãi mà không nghe đáp. Mỏi quá và sợ động, cô rút lui về chòi và thao thức đến gà gáy.

Nửa tháng nay làng trên có dịch thổ tả. Nhà nước tổ chức chích thuốc ngừa tại các làng chung quanh. Vì dịch mạnh nên sự bắt buộc tiêm thuốc rất gắt. Người ta đi từ nhà bảo phải ra công sở chích thuốc.

Điệp đã tiêm rồi, ông bà Hương trưởng không thể lánh mặt được nên cũng phải ra.

Ở nhà một mình, Điệp tìm được chìa khóa của kho lúa (ống khóa khi mua có hai chìa, mà ông Nếp chỉ giữ một thôi, còn một móc trên cây đinh dưới bếp rồi quên luôn). Nàng bậm môi mở đại lẫm lúa ra mặc dầu rất sợ không biết cái gì trong đó.

Thừa cơ cửa mở, ánh sáng a vào, đuổi bóng tối chạy rút vào phía bên trong. Mùi bụi bậm chọc Điệp nhảy mũi liên tiếp hai ba cái. Nàng không thấy gì cả, vì đang ở ngoài sáng mờ nhìn vào đó, mắt còn lòa.

Nhưng ngó kỹ thì thấy bên trong có dạng người nằm trên sạp. Người nầy nghe tiếng mở cửa, ngước lên dòm.

Cả hai chợt nhận ra nhau và Điệp kêu:

- Anh Hia !

Hia làm thinh, khoát tay, ý muốn bảo Điệp đừng có lên tiếng.

Con gái ông Nếp chạy a lại chỗ chú tửng nằm, ngồi xuống ôm bạn rồi khóc òa. Giây lâu nàng tấm tức tấm tưởi hỏi:

- Tại làm sao mà ổng nhốt anh như vậy ?

- Thả anh thì anh đi không được. Còn giao anh cho cảnh sát làng thì ổng sợ đổ bể. Ổng định nuôi anh lành rồi thả đi.

- Mà anh bị thương ở đâu ?

- Bị ổng quất gãy giò.

- Trời ơi, em cứ ngỡ anh chết, em lo sợ và rầu chín ruột.

- Em có cái gì ngọt ngọt cho anh ăn được không ? À mà sao em dám vào đây ?

- Đừng hỏi lôi thôi, ổng về thì khốn, em lấy chuối anh ăn.

Khi Điệp trở vô, Hia ngốn một hơi hết bốn trái chuối chà. Điệp lấy vỏ chuối bỏ vào túi áo nàng cho mất dấu rồi nói :

- Bây giờ anh nên đi rồi em sẽ liệu phận em.

- Đi không được, xương chưa lành. Mà em đừng lo, sớm tối gì anh cũng ra khỏi nơi đây. Chỉ cực khổ một lúc thôi.

Điệp lại khóc rấm rức một hồi. Khi sực nhớ rằng cha mẹ gần về, nàng vội từ giã bạn rồi ra đi, khóa cửa lại cẩn thận.

Ông Nếp về tới nhà thì thấy Điệp đang xắt chuối cho heo ăn nên không nghi ngờ gì cả. Ông cũng định "cho heo ăn" nhưng nhớ ra rằng hồi nãy đã quên giấu cơm. Ông dùng thầm với ông ba tiếng "cho heo ăn" đó vì ông tức chú tửng Xường Hia lắm.

Đêm ấy, sau vài giờ ngồi ngoài vườn lạnh để tính kế, ông nhớ ra lẫm lúa bỏ không và quyết nhốt Hia vào đó, đợi cho liền xương.

Ông dịu giọng bảo rằng :

- Thôi tao nuôi bịnh mầy một lúc, rồi lành thì tao cho về. Bây giờ thả mầy, mầy đi không nổi, mà giao cho cảnh sát cũng tội nghiệp mầy. Nhưng mầy phải nhớ điều kiện sau đây: là mầy phải cắn răng cam chịu, rên la thì tao giết liền.

Xường Hia hiểu ngay thâm ý của ông Nếp. Nhưng cũng đành phải vưng dạ chớ biết sao.

Ông Hương trưởng cõng chú tửng trên lưng. Đi được vài bước, nghe nặng quá, ông nổi dóa lên, muốn quăng nó xuống cho rồi.

Chợt nhớ ra một điều, ông quăng y xuống đất thật và bỏ y ở đó mà đi mất.

Nửa giờ sau, ông trở về với bốn tấm tre cứng. Ông Nếp đã thấy nhiều trường hợp cứu thương, nên ông biết bó cẳng gãy.

Ông kẹp mỗi ống quyển của Xường-Hia vào giữa hai tấm tre đó rồi lấy dây chuối khô mà cột lại bên ngoài, bó băng nhiều tuôn dây như người ta ràng bánh tét.

Chú tửng cắn răng hít hà mà kêu trời liền miệng. Công việc nầy mà đợi vào nhà mới làm thì Điệp nó hay đi còn gì. Nên chi ông Nếp mò trong bóng tối mà ràng rịt hai cẳng gãy của chú tửng.

Ông không biết kéo làm sao cho hai khúc xương gãy ngay đường lại, hầu chỗ xương gãy ăn khớp, nhưng ông không bận tâm lắm về vụ đó.

Ông nghĩ bất quá là nó mang tật, chớ cũng chẳng sao. Ngày sau, nó mà đi cà dẹo thì càng đỡ khổ cho con gái đẹp trong xóm trong làng.

Xong đâu đấy, và đợi cho Xường-Hia bớt đau, bớt rên, ông mới cõng y lên lần nữa mà vào nhà.

Bắt đầu từ đêm ấy, ông khổ không tả được.

Mỗi bữa ăn, ông phải ép vài chén cơm cho nó dẽ dặt rồi giấu trong túi với lại một miếng cá khô.

Ăn cơm xong, ông lừa dịp Điệp chạy đâu đó, để đem cơm nước vào dưng cho tên tù.

Bị mất công, người gác ngục bất đắc dĩ tức mình lắm, khổ nhứt là việc tiểu tiện và đại tiện của Hia.

Ông có cho hắn một cái hũ. Nhưng hắn không ngồi dậy được thành hắn đi bậy ra đó, dơ dáy hôi thúi chịu không nổi.

Sợ mùi hôi thúi bay ra ngoài lộ việc, ông Nếp lại phải mỗi ngày mấy bận, lén vào đó giúp y tiểu tiện, đại tiện. Thật là con cưng không bằng.

Lắm lúc bưng cái hũ đi đổ, ông nổi dóa muốn tưới lên đầu nó cho nó đáng kiếp. Giận quá mà! Hồi thuở cha ông bịnh già, đến lúc cụ ngặc mình ông còn chưa nuôi dưỡng chu đáo đến như thế.

Mỗi ngày Hia chỉ ăn có hai bữa cơm khô, và uống vài lần nước. Nhưng sự thiếu thốn ấy không lỗi tại ông Nếp. Ông không làm sao hơn được.

Ông chỉ ác có mỗi một việc sau đây: là ông nấu vỏ măng cụt, bắt Xường Hia uống. Nước vỏ măng cục có dược tánh làm cho táo bón. Như vậy, ông bớt được nhiều lần đi đổ hũ. Ông không sợ mất công lắm, nhưng vô ra nhiều lần quá, rủi Điệp nó bắt gặp thì hỏng việc.

*

Từ ngày Điệp khám phá ra cái ngục kín ấy thì Hia dễ chịu được đôi phần.

Đêm nào người yêu của chú tửng cũng đem vào khám bánh, chuối, măng cụt, thơm, nước trà, v. v...

Dễ chịu hơn nữa là nàng đem tin tức bên ngoài vào khiến Hia khỏi thấy mình sống cách biệt với thế gian.

Ông Nếp thì yên lòng nên đêm nào cũng ngủ say trong nhà. Đôi bạn nhờ thế mà rù rì được từ nửa đêm đến gần sáng, Điệp bỏ phế việc canh vườn và ăn trộm thật sự mặc sức mà lượm sầu riêng.

Đêm ấy là đêm thứ ba mươi từ khi Hia bị gãy giò.

Điệp mới rón rén bước vào lẫm lúa thì ai rờ trúng nàng. Nàng hoảng hốt muốn la lên thì Xường-Hia cười hì hì và suỵt một tiếng bảo im.

- Anh đã đi được rồi ! Chút ít thôi, còn run dữ lắm nhưng không nghe đau nhức gì trong ống chơn hết, chắc là lành rồi.

- Vậy thì anh nên xa chỗ nầy...

- Vô ích em ơi, lại còn có hại nữa là khác !

- Sao lạ vậy ?

- Thì em tính ! Đã tu chín kiếp rồi, còn một kiếp dại gì ngã mặn. Chịu cực khổ suốt tháng, mấy ngày nữa thì lành, đi ra đường hoàng, trốn làm gì cho khó thấy mặt nhau về sau.

Vả lại anh mà trốn, thì chỉ nhờ em thôi. Như vậy rồi em cũng phải trốn nữa mới yên được. Rắc rối lắm mà nào có đáng gì.

Vì vậy, anh quyết ở lại cho trọn đạo rể con.

Nói xong Hia cười dài, cười một cách ghê rợn khiến Điệp phải rùng mình.

Nàng rờ chơn bạn thì nghe, qua hai ống quần, bốn thanh tre vẫn còn cồm cộm.

- Lành rồi chắc gỡ tre ra được chớ ?

- Đợi cho chắc ý mới dám gỡ. Ngứa ngáy ở trỏng khó chịu muốn chết đi. Nhưng anh cũng phải ráng.

- Sao họ nói phải bó ngải mới lành ?

- Ở nhà thương người ta bó bằng thạch-cao, chớ không có ngải nghệ gì hết. Hình như là tự nhiên để lâu thì nó lành chớ không cần thuốc. Ờ đây tre thay thế cho thạch cao, thì cũng tạm được.

*

Trưa hôm sau, Điệp đi chợ, ông Nếp vào lẫm lúa thấy Hia vịn vách mà lần đi, ông nói :

- Mầy đi được rồi, thì khuya nay tao đưa mầy ra đường, mầy đón xe sớm mà về. Còn xe máy của mầy tao cất phía trong kia kìa, thì đến chừng thiệt mạnh, mầy trở lên, giả đò đi mua trái cây, tao sẽ trả cho.

Xường-Hia lễ phép nói:

- Thưa bác, cháu mang ơn bác nuôi dưỡng bấy lâu thật không biết lấy chi đền đáp. Nên chi cháu quyết định ở lại đây luôn.

Ông Nếp kinh ngạc một giây, rồi nổi giận đùng đùng. Ông muốn tống cho chú tửng một đạp cho y gãy giò một lần nữa.

Nhưng ông dằn được, quày quã bước ra và đóng cửa lại một cái rầm.

*

Nằm sải lai trên ván giữa, ông Nếp gác tay lên trán mà thở ra vào, khổ tâm muốn chết được.

Bà Hương trưởng thì cứ thủ phận thái mắm sau bếp. Từ thuở giờ, bà không quyền dự vào việc lớn của ông, nên cứ lo nồi cơm trách cá với con.

Vụ nầy bà Nếp đã biết nhưng không ngờ nó rắc rối như vậy về sau.

Bà xỉa qua xỉa lại cục thuốc, suy nghĩ giây lâu rồi nói :

- Thôi, chắc nó nằm vạ đặng buộc mình gả con Điệp cho nó, chớ không gì lạ.

Gả thì ông quyết không gả rồi. Nhưng tình sự như vầy, ông cũng phải hứa bướng với nó đi. Nó mà ra khỏi nhà nầy rồi thì không còn gì đáng lo nữa hết.

- Khổ quá, có con gái như chứa súng lậu trong nhà, lời tục nói không sai.

Hai ông bà bàn qua lại mà không hay Điệp đã đi chợ về. Nàng rình nghe rõ đầu đuôi và buồn cười lắm.

- Chết ông già rồi, nàng nói thầm. Phen nầy mà không gả thì nó nằm vạ đến Tết cũng không chịu vế. Tốn cơm cho ổng biết chừng !

Điệp mừng lắm và khen phục người yêu biết cách lợi dụng tình thế.

Tối lại ông Hương trưởng lại vào lẫm. Lần nầy ông cầm theo một gói bánh và xách theo một bình trà. Lại thắp đèn sáng lên.

Chủ khách lễ phép với nhau, coi có vẻ lắm.

- Cháu à - ông Nếp ngọt giọng nói - cháu ăn bánh uống nước, rồi bác nói chuyện cháu nghe.

Hia xin phép rồi tấn công bánh liền. Y ăn được nửa bữa, ông Nếp vô đề :

- Cháu nè, bề gì con của bác nó cũng đã hư với cháu rồi. Nên bác nghĩ, không gả cho ai mà hơn gả cho cháu. Vậy mai cháu về thưa lại với ba cháu, cậy mai lên hỏi là bác gả liền.

Xường-Hia hạ tách trà xuống, cười hóm hỉnh rồi nói :

- Bác thương như vậy, cháu đội ơn bác vô cùng. Nhưng cháu quyết ở đây. Bác nghĩ thử coi, hẹn với con bác mà tội đáng bao nhiêu. Bác lại nỡ nhốt cháu hơn tháng trời, cực khổ không thể tả. Bác biết, ngang nhiên mà nhốt người như vậy, sáu tháng tù là ít...

Ông Nếp tái xanh mặt đi. Ừ thằng nầy nó muốn gì mà lại nói kỳ cục vậy. Muốn làm rể lại dám hăm dọa ông nhạc à ? Nhưng cũng làm tỉnh, ông nói :

- Thì chuyện đã lỡ rồi, dầu sao cháu cũng sẽ là rể con trong nhà, buồn làm gì...

- Liệu bác sẽ nhớ lời hay không ?

- Bác người lớn lẽ nào đi nuốt lời.

- Hay là bác bảo đảm bằng cái gì ?

- Cháu muốn cái gì ?

- Mùa nầy bác bán sầu riêng, măng cụt được ít lắm là bốn chục ngàn. Xin bác đưa cháu số tiền ấy để làm tin, bằng không, cháu sẽ nằm vạ hoặc ra đi rồi đồn rùm vụ nầy lên, coi ai xấu cho biết.

- Trời!

Ông Nếp chỉ biết kêu trời lên một tiếng thôi. Thật là quá lắm rồi, không thể tưởng tượng được.

Lần nầy ông không giận được nữa, chỉ sợ thôi. Ông nhỏ nhẹ kiếu từ tên tù, hứa sẽ trả lời rồi rút êm ra.

Lẽ cố nhiên bà Hương lại được dự vào đại sự nầy.

- Thì ra nó nằm vạ để tống tiền mình ! Bây giờ bà tính sao ! Tôi nghĩ chỉ giết nó mới yên được bà ơi !

- Ý, thôi đi ông ơi, ông nói làm chi cái đó, ghê quá.

Ông Nếp cũng ghê lắm. Ông không phải là một tay sát nhơn. Chỉ vì bí quá nên nghĩ quẩn mà thôi.

Hai vợ chồng im lặng giây lâu, rồi ông đấm vào ngực một cái mà nói :

- Tức chết đi thôi. Tôi phải giết nó mới được. Mặc kệ, rồi sau sẽ hay. Tối mai, tôi đem đồ ăn tẩm thuốc độc vào cho nó.

*

Bảy giờ tối. Điệp đã ra chòi. Ông Nếp hồi hộp bưng tô cháo gà vào khám. Ông liều lần chót, vì đồng tiền là núm ruột của ông.

Ông vừa thọc chìa khóa vào ống, bỗng giựt mình nghe tiếng người trong bóng tối :

- Thôi ba, để con liệu cho.

Ông Nếp tức giận tràn hông, cầm tô cháo ném vào hướng mà ông nghe tiếng con.

Bị cháo nóng đổ lên người, Điệp hít hà nhưng vẫn nói :

- Ba bình tĩnh lại, con vô để cứu ba đây. Con nghe biết hết mọi việc rồi.

Đoạn nàng bấm đèn lên, bước lại mở khóa. Ông Nếp đứng chết cứng ngoài hàng hiên và nghe tiếng con trong lẫm. Điệp dõng dạc kêu :

- Xường Hia, lại đây !

Nghe tiếng bước lần, đoạn lại nghe:

- Nè, tao nói cho mầy biết. Mầy đầu cơ vừa vừa thì người ta còn bóp bụng chịu. Mầy làm quá, phải nổ.

Bây giờ thì mầy ra ngay mà về Lái-Thiêu. Mầy cứ đi tố cáo tao đi, không ai sợ đâu. Ừ, tao ra tòa sẽ khai là mầy ghẹo tao không được mà tối vẫn mò lên, tao ngỡ ăn trộm, đập mầy. Tao sợ tội, lén cha mẹ giấu mầy trong nhà mà nuôi cho lành. Ừ tội gì ?

Tội nhốt người à ? Tao sẽ được hưởng trường hợp giảm khinh, tao đập mầy để tự vệ, tao giấu mầy cũng để bảo vệ cái danh tiết tao. Tội gì ? Hừ, tao hỏi mầy ?

Hả, mầy đầu cơ tới cái danh tiết của con gái người ta nữa à ? Trời ơi, tao ngỡ mầy chỉ học đòi đầu cơ hàng hóa thôi chớ. Đi ra cho mau.

--------------------------------
1Câu chuyện xảy ra trước khi nước nhà thâu hồi độc lập và viết ra với lại đăng báo sau đó ba năm, nhưng tác giả vẫn ghi đúng lối nói của người dân thuở ấy.

(Trích từ tập truyện ngắn Tâm Trạng Hồng)
 

Thứ Tư, 3 tháng 9, 2025

ÁO EM CÀI HOA TRẮNG - Võ Hồng

Tôi được đi học chậm hơn mọi đứa trẻ khác. Sáu tuổi mà vẫn chưa ôm sách tới trường. Nguyên do vì má tôi đau bệnh dai dẳng, má không muốn tôi sống xa cách, dù mỗi ngày chỉ bốn năm giờ đồng hồ. Khi má tôi phát bệnh thì bác sĩ đã cho ba tôi biết là má tôi sẽ không sống lâu thêm được quá hai năm. Má không được nghe điều đó nhưng tự xét sức khoẻ của mình, má biết là con đường đi của má không còn dài lắm. Mặc kệ những lời trấn an liên tiếp của ba tôi, má giữ một thái độ cam chịu và chờ đợi.

Thấy tôi cứ lêu bêu quấn quít cạnh mẹ, ba tôi có lần gắt:

- Em phải để cho con nó học chớ. Bằng tuổi nó người ta đã vào lớp tư rồi. Trẻ con lên bốn tuổi, người ta đã cho vào ấu trĩ viên để chúng vừa chơi vừa học.

- Học sớm hay muộn gì rồi cũng sẽ đến đích một lượt. Đứa bốn tuổi học một năm bằng đứa năm tuổi học sáu tháng. Đứa năm tuổi học sáu tháng bằng đứa sáu tuổi học ba tháng.

- Anh biết rõ điều đó. Nhưng nó đã sáu tuổi rồi mà chưa đi học được tháng nào.

- Thôi, để em dạy con.

Má tôi gom những miếng bìa cứng, cắt thành từng mảnh vuông to bằng bàn tay. Má vẽ lên đó những cái vòng tròn, những cái hình mà má gọi là lưỡi câu, cái gáo, con cá. Má chỉ cái vòng tròn và bắt tôi gọi bằng O, cái lưỡi câu bằng i, cái gáo bằng q, con cá bằng e. Lưỡi câu là cái tôi không hề biết nên tôi hỏi lại:

- Lưỡi câu là cái gì vậy má?

Má tôi ngạc nhiên bởi câu hỏi. Má nhìn tôi giây lâu rồi đưa bàn tay mềm mại vỗ lên đầu tôi. Má nói:

- Ờ! Con chưa biết cái lưỡi câu. Đó là một cái kim nhọn bẻ cong lại, nơi đầu người ta móc một con mồi vào.

- Con mồi là con gì, má?

- Là con trùn, con dế hoặc nhiều khi là miếng bánh, miếng cơm, những món mà con cá nó thích ăn.

- Móc con mồi vô cái kim chi vậy?

- Để đem thả xuống nước. Con cá thấy mồi, mừng quá, lật đật bơi lại táp. Miệng cá dính vào cái kim, người ta giật lên, cá không chạy trốn được, người ta bắt nó.

Tôi chỉ nhìn xuống hình vẽ con cá trên một mảnh bìa cứng (chữ e của má tôi đó) hỏi lại má tôi:

- Người ta bắt con cá này phải không má?

Má tôi mỉm cười, gật đầu. Tôi lại hỏi:

- Má có đi bắt những con cá bằng cái kim uốn cong như vậy không?

- Có. Hồi nhỏ má có đi bắt như vậy. Người ta gọi là đi câu.

- Sao má không cho con đi bắt?

- Khi nào rảnh, vào ngày chủ nhật hay ngày lễ, ba con sẽ dẫn con đi câu một lần.

Tôi lắc đầu:

- Không, con muốn má dẫn con đi. Con không muốn ba dẫn.

- Má bệnh, má đâu có đi được?

- Thì hôm nào má mạnh má dẫn con đi.

Má tôi "ừ" và lặng lẽ nhìn tôi. Một lát, thấy từ nơi khoé mắt của má có hai giọt nước mắt chầm chậm ứa ra, lăn dài chạy xuống cằm. Tôi không hiểu tại sao điều tôi yêu cầu có thể làm má tôi buồn như vậy. Sau này lớn lên, ngồi nhớ lại tôi mới hiểu. Một người đã đoán biết được ngày chết gần kề của mình mà phải hứa với con một điều mình biết chắc không thể nào thực hiện được! Không những không thực hiện được việc dẫn con đi câu cá, cả đến việc được ngồi cạnh con trước những tấm bìa cứng này cũng không còn kéo dài được bao lâu nữa.

Tôi học không được bao nhiêu chữ. Bởi ngồi với tôi chừng một lát thì má phải nằm nghỉ. Tôi sung sướng nằm theo, cạnh má, tay cầm xấp "bài học" xếp xếp như người ta đánh bài. Tôi nói với má:

- Nằm học khoẻ hơn, má há?

- Ừ.

- Sao ở trường học họ không cho học trò nằm ngửa mà học?

- Nằm ngửa ra, tụi nó ngủ quên hết.

Tôi gật đầu, ờ ờ.

Dù khi tôi ngồi cạnh hay nằm cạnh, má cũng hay lấy bàn tay rờ đầu tôi, vuốt ve lên má, lên cằm, lên tai tôi. Dường như để xác định rằng tôi có hiện diện đó thực, tôi, vật quí báu nhất do má tạo ra và má sắp bỏ lại trên cõi trần này.

Ba tôi bắt gặp mấy lần lối học "nằm ngửa" này của tôi. Ông kiểm soát lại xem có chữ nào còn sót lại trong khối óc ưa nằm ngửa đó không và rõ ràng là một tư thế như vậy làm cho mọi chữ nghĩa đều trôi tuột đâu hết. Ông nghiêm sắc mặt bảo tôi:

- Ngồi dậy mà học.

Tôi líu ríu ngồi dậy.

- Lại nơi bàn mà học.

Tôi líu ríu đi lại bàn.

- Sắp lên bảy tuổi rồi mà học chưa hết hăm bốn chữ cái. Bằng tuổi mày, người ta đều học lớp tư.

Má không phân biệt cho tôi chữ nào đực, chữ nào cái.

Tôi đoán chữ i, chữ t gầy gò là đực, chữ o, chữ a mập mạp là chữ cái.

Thường thì tôi nghe lời ba tôi lại bàn ngồi ngay ngắn, nhìn xuống mặt chữ và lẩm nhẩm gọi tên nó. Má tôi im lặng để nhường tiếng nói cho ba tôi.

Một hôm tôi ngoan ngoãn nghe lời ba líu ríu lại bàn thì má tôi cất tiếng:

- Thôi, cho con đi chơi.

Tôi không biết nên nghe lời ai. Nghe lời má thì tôi sướng quá rồi, nhưng ba tôi còn đứng đó. Mà ba tôi thì không nghiêm khắc nhưng ông biết bắt người ta vâng lời. Tôi biểu lộ sự lưỡng lự bằng cách vẫn đi bước tới nhưng bước chậm lại.

Má tôi giục:

- Con chạy ra ngoài chơi đi con.

Tiếng ba tôi:

- Thôi, cho con đi chơi.

Tôi nghe lời ba, đi rẽ ra phía hành lang. Vừa bước ra khỏi phòng thì nghe tiếng nói của má tôi:

- Anh đừng làm cho con sợ.

- Anh không muốn vậy, nhưng phàm uốn tre thì phải uốn khi nó còn là măng. Anh tập cho con biết nghe lời phải.

- Phải uốn dịu dàng!... Em biết là em quấy khi giam giữ con ở cạnh mình mà không chịu rời nó ra cho nó đi học. Nhưng anh ơi, em đâu có còn sống được nhiều ngày tháng? Bác sĩ nói với anh là bệnh em sẽ chữa khỏi. Anh đừng tin. Em biết sức khoẻ của em mà. Vì vậy mà em muốn sống quây quần bên cạnh con những ngày chót của đời em.

Tiếng má tôi khóc nấc lên làm tôi bàng hoàng. Tôi đi trở ngược lại và qua khung cửa mở, tôi thấy ba tôi cầm tay má tôi. Má tôi lấy khăn lau nước mắt:

- Con nó nhút nhát vì từ nhỏ đến giờ nó chỉ sống cạnh em. Gần như không tiếp xúc với những trẻ con khác. Vậy anh đừng làm cho con sợ. Anh phải thương con bằng tình thương của anh và thay em mà thương con bằng tình thương của người mẹ. Bổn phận thứ hai nặng hơn bổn phận thứ nhất.

Má tôi ngậm một chéo khăn mù-soa như để ngăn chận tiếng nấc.

Những tấm bìa cứng tỏ ra bất tiện mỗi khi tôi muốn nhìn lại gương mặt của một chữ. Cứ lật lên, bỏ xuống, loay hoay kiếm hoài. Đôi khi miếng bìa mang chữ cái tôi muốn kiếm lại không nằm trong "bộ bài" đó mà nằm lạc ở một nơi nào khác. Ngày nào cũng có dịp để lục tứ tung mền gối với mục đích tìm chữ. Rất tốn thì giờ. Bởi vì kiếm chữ thì không ra mà lại gặp toàn những thứ mình không định kiếm. Chẳng hạn hòn bi. Rõ ràng là hôm kia tôi ngồi bắn bi một mình ở ngoài mái hiên, thế mà buổi chiều ra mái hiên để tìm bắn tiếp thì một hòn biến đâu mất. Chạy kiếm sáng con mắt, chẳng chỗ nào có. Má tôi đưa hai đồng sai chị bếp ra hiệu sách mua cho tôi hòn bi khác. Bây giờ khi tìm chữ mà học thì lại thấy hòn bi đó nằm dưới tấm "ra". Chẳng hạn tìm thấy cái móc tai. Hôm qua ba tôi ngứa tai, tìm cái móc tai nhưng không thấy, ông la vang cả nhà. Bây giờ không tìm thì nó lại nằm tô hô ra đó. Nhưng tôi không chịu nhặt đem đi cất ngay để trưa về đưa cho ba đâu. Tôi phải dùng nó để móc tai tôi cái đã. Công việc đó làm tôi say mê và khi tôi chịu rời nó ra thì bên phòng ăn đã nghe tiếng muỗng nĩa rổn rảng.

Má tôi nhận thấy sự bất tiện của phương pháp học bài trên bìa cứng nên một hôm đưa tiền cho chị bếp sai ra hiệu sách mua cho tôi một cuốn vần.

A! Có cuốn sách mới chính hiệu là học trò đây! Tôi giành lấy quyển sách. Nhìn xem cái bìa thấy có vẽ hình hai đứa con nít đang lật mở cuốn sách. Tôi nói:

- Học cuốn sách phải cần có hai đứa không má? Con học có một mình thì học sao được?

- Má sẽ cùng học với con.

- Nhưng má đâu phải là con nít? Đứa con gái này lớn hơn thằng kia một chút. Chắc là chị của thằng kia. Đáng lẽ má đẻ cho con một đứa chị gái như vậy.

Má gật gật đầu:

- Ừ. Đáng lẽ má đẻ cho con một đứa chị như vậy. Nhưng mà thôi, đưa sách đây má lật dạy cho con. Đây, cái lưỡi câu đây. Lưỡi câu là chữ gì?

Tôi lật đật nói liền như sợ có ai tranh nói trước:

- Chữ i.

- Giỏi lắm. Chữ i dùng để viết đi học, đánh bi. Con coi hình vẽ thằng nhỏ đi học. Vài hôm nữa con cũng ôm cặp và xách ve mực đi học như nó vậy. Còn thằng này thì ngồi đánh bi. Hai đứa nhỏ này đang chạy thi.

Tôi vội lật qua trang sau để xem có món gì lạ trong đó. Tôi la to lên:

- A! Con cá! Con cá đang bơi.

- Tên con cá là gì con biết không?

Tôi lắc đầu:

- Không.

- Cá thu. Con cá thu có chữ u.

Chữ o thì thật dễ nhận ra. Má tôi chỉ hình vẽ một chùm trái cây rồi hỏi:

- O chùm... chùm gì?

Tôi nói liền:

- Chùm ruột.

Má bật cười:

- Chùm nho chớ sao lại chùm ruột?

Tôi cười ồ theo. Tôi quen kêu chùm ruột chớ ít nói chùm nho. Trên lối đi ngoài vườn có đến ba, bốn cây chùm ruột. Mùa hè, trái lòng thòng từng chùm.

Má chỉ hình con ve sầu (dạy chữ e) rồi hỏi tôi con gì.

Tôi nhìn xuống hình, nhíu mày suy nghĩ một lát rồi nói:

- Con dán.

Má lại cười. Rõ ràng là sự học vẫn làm cho mẹ con tôi vui vẻ.

Có một trang vẽ làm cho má ủ dột nét mặt. Đó là trang dạy chữ ê vẽ hình một con dê mẹ cho dê con bú và con bò mẹ cho bò con bú. Con dê mẹ có bầu sữa thật lớn và đứng lom khom. Nó có một chùm râu nơi cằm nên không ra dáng một bà mẹ. Con bò cái trông dễ thương hơn. Nó quay lại nhìn con bú. Đôi con mắt trìu mến hiền từ, như mắt má tôi vẫn nhìn tôi khi tôi ngồi trong lòng má.

Học đến chữ q "con nhỏ quét nhà " thì bịnh của má tôi phát nặng trở lại. Bác sĩ cấm không cho tôi được vào phòng má. Ba tôi âu lo, mỗi ngày gương mặt mỗi héo dần đi. Trong phòng má bước ra, ba đi thẫn thờ hoặc bước vội vã, và dường như ba không còn thấy sự hiện diện của tôi nữa, của chị bếp, của chị Năm giúp việc, của căn nhà, của mọi vật xung quanh. Có lẽ chỉ còn thấy sự hiện diện của cái cửa để bước ra, của cái bàn để đi tránh. Tôi buồn bã cô đơn, đem cuốn sách vần ra nhìn mặt chữ, nhìn hình vẽ. Lật xuôi lật ngược, đọc ngược đọc xuôi, nhưng cứ đến trang "con bé quét nhà" là dừng lại. Trang bên cạnh có vẽ con khỉ trèo cây. Chẳng biết chữ gì đó, đọc như thế nào và sự tích làm sao. Chắc phải hay lắm, thú vị lắm bởi một con khỉ thì không thể chán như hai trái đu đủ hay như cái lư đồng. Nhưng ai đọc cho tôi? Ai giải thích cho tôi? Thật ra thì ba tôi có thể chỉ cách đọc, chị bếp có thể chỉ cách đọc, nhưng tôi không muốn ai chen vào sự học của tôi để thay thế má tôi hết. Tôi chỉ tin ở má tôi thôi. Tôi chỉ an tâm thoải mái bên cạnh má tôi thôi. Đôi lúc ba tôi đi ngang cạnh tôi, đứng dừng lại, nhìn tôi ngồi trước trang sách. Tôi phải đọc vội những chữ u chữ e và đưa tay lật liền về những trang đầu sách. Khi vội quá không kịp lật ra trang trước thì tôi đưa bàn tay lại che cái hình con khỉ. Đáng lẽ ba tôi để ý tìm hiểu vì sao nhưng dáng ba mệt nhọc bơ phờ nên ba đứng dừng lại một chút rồi bỏ đi luôn. Tôi không muốn ba tôi nhìn đúng vào trang con khỉ trèo cây. Tôi sợ ba hỏi chữ gì rồi bày cho đọc luôn. Không! Tôi Để dành chữ đó cho má tôi. Tôi muốn nhìn đôi môi xinh xắn của má tôi đọc, ngón tay trắng thon của má tôi chỉ và tai tôi nghe giọng nói dịu dàng của má tôi phát âm tiếng đó. Tôi muốn má tôi kể cho tôi nghe về chuyện con khỉ đó như má kể chuyện con ve đi vay gạo của con kiến trong bài học chữ e, con tò vò nuôi con nhện trong bài học chữ t, đời sống của chúa sơn lâm, con sư tử giữa rừng Châu Phi trong bài học chữ s. Nhưng than ôi! Điều ao ước đòi hỏi của tôi không thể thực hiện đươc. Má tôi từ trần trong kỳ bệnh tái phát đó, má vĩnh viễn lìa bỏ tôi. Cuốn vần quốc ngữ chứng kiến sự ra đi đành đoạn của má. Nhìn trang bên này thì má tôi còn, nhìn trang bên kia thì má tôi mất. Con đường chỉ đóng ngăn cách hai trang như là con đường phân ranh giữa sự còn và sự mất, sự Sống và sự Chết của má tôi.

Má mất được hai tháng thì ba tôi dẫn tôi xuống trường Tiểu học Lai Đức xin cho tôi học lớp Năm. Cô giáo bắt dùng một cuốn sách vần khác không có vẽ hình con khỉ. Càng hay. Hình con khỉ nên chỉ để dành riêng cho má tôi và tôi thôi. Tôi không muốn ai dính dự vào đó hết. Hãy để cho nó giữ vẹn sự bí mật đối với tôi cũng như sự bí mật bao quanh má tôi từ khi má mất. Tôi không biết bây giờ má tôi ở đâu. Hài cốt thì chắc chắn là nằm ở nghĩa trang thành phố, dưới ngôi mộ đắp vun lên, xây đá, quét vôi trắng và phía trước có tấm bia ghi rõ tên má. Hàng chót của tấm bia ghi tên tôi, đứa con trai độc nhất của má mà người khắc bia ghi là: Trưởng nam phụng tự. Cái thân xác của má còn đó nhưng linh hồn thì phiêu lãng ở cõi nào? Tôi không tin là cái linh hồn đó bị tiêu diệt đi được.

Từ ngày má mất, ba tôi dịu dàng với tôi nhiều hơn trước, mặc dù sự học của tôi không theo kịp nổi những đứa cùng tuổi. Ba tháng học của một thằng sáu tuổi kết quả bằng một năm học của một đứa lên bốn tuổi, điều má tôi nói có thể đúng, nhưng những đứa sáu tuổi lại không chịu ngừng học để đợi tôi, để cho tôi theo kịp. Chúng nó cứ học như điên và tôi phải vừa học theo vừa trả nợ liên miên. Trả nợ hồi lên bốn, trả nợ hồi lên năm, trả nợ hơn nửa năm lên sáu. Ba tôi khuyên:

- Con cứ yên tâm mà học. Chẳng cần phải vội chi. Lớp Năm, lớp Tư con thua chúng bạn nhưng lên lớp Ba, lớp Nhì con sẽ bằng, lên lớp Nhất con sẽ hơn. Con đường học vấn còn dài lắm.

Tôi nói thầm:

- Con cám ơn Ba, nhưng con sẽ cố gắng học để mau cho bằng chúng bạn. Con chỉ thua chúng bạn ở lớp Năm, bằng chúng bạn ở lớp Tư và lên lớp Ba con sẽ hơn. Con phải làm vui lòng má con, làm sao cho má khỏi phải hối hận là bởi má mà con đi học chậm trễ thua sút con người ta.

Tôi đã giữ lời hứa, dù đó là lời hứa âm thầm. Tôi đã can đảm ngồi lại bàn học lâu hơn những đứa bạn tôi, bị thúc đẩy bởi lòng yêu thương má tôi tha thiết không nguôi. Lâu lâu, tôi lén mở cuốn sách vần cũ, cuốn vần đầu tiên của chúng tôi. Hai đứa nhỏ vẫn cứ chạy thi hoài, chạy suốt đêm suốt ngày không biết mệt. Thằng nhỏ vẫn ngồi bắn bi, bắn bi mà y như cầm hòn bi dứ vào miệng con cá phi đang lừ mắt nhìn. Trang sau có thằng nằm ngủ miệng há ra để vớt những chữ o trên tay, và dưới tấm hình người ta biên là ngáy o o.

A! Cái chùm nho mà ngày xưa tôi kêu là chùm ruột! Từ ngày má mất, chị Năm và chị bếp tị nạnh nhau lười biếng tưới cây. Cây chùm ruột cạnh giếng thì còn tươi tốt trái bâu đầy cành, còn mấy cây chùm ruột đứng ở góc rào thì thiếu nước nên bị đói trông thấy. Lá mỏng đi và hay xếp quặp lại. Rầy bám đen thân cây như có ai rảy bột than lên đó.

Tôi lật thêm vài trang. Con dê mẹ còn đứng khom lưng, con bò mẹ vẫn quay mặt âu yếm nhìn con dê đang say sưa bú. Tôi nhớ đến nét mặt buồn của má tôi lần đầu tiên khi má lật trang này. Má ơi, hôm nay thì con biết tại sao má buồn như vậy. Má muốn đem má so với con bò mẹ đó. Con bò mẹ còn nhiều ngày tháng để âu yếm nhìn con nó, còn má thì sắp sửa phải vĩnh viễn xa con. Con nhớ buổi sáng đó má nhìn lâu bức hình rồi má thở dài. Má quay mặt đi nơi khác. Con hỏi má:

- Con bò con nó bú hết sữa thì lấy đâu để người ta làm sữa bò, hở má?

Con đợi lâu không thấy má trả lời. Khi má quay lại thì con thấy mắt má đỏ và ươn ướt. Con còn dại không hiểu là má đang khóc. Con hỏi:

- Sao mắt má đỏ vậy má?

Má nói:

- Có hột bụi nó rớt vô mắt má.

Má ơi, hôm nay coi lại hình con bò mà con nhớ má quá chừng. Con muốn được ngồi cạnh má và được má nhìn bằng đôi mắt âu yếm như đôi mắt của con bò cái nhìn con nó vậy.

Nghĩ tới đây, nước mắt tôi lặng lẽ trào ra. Tôi không muốn khóc mà! Tôi chỉ muốn nhớ tới má tôi thôi, nhớ đôi môi xinh xắn, ngón tay trắng thon và giọng nói dịu dàng. Tôi lật thêm vài trang. Đến trang con bé quét nhà và con khỉ trèo cây thì cơ hồ mắt tôi không còn nhìn rõ hình vẽ nữa. Màng nước mắt đã dày và những hình vẽ chập chờn rung rinh.

Mỗi lần mở cuốn vần ra coi, tôi sợ ba tôi bắt gặp. Tôi thường đợi lúc nào ba đi vắng. Tôi không muốn bị ba phê bình là đa cảm uỷ mị. Hồi má còn và thấy tôi lớn đầu mà còn quấn quít bên mẹ, ba tôi tỏ ý lo rằng sau này lớn lên tôi thiếu mạnh dạn can đảm. Chính vì lẽ đó mà mặc dù rất chìu chuộng má tôi, có nhiều lần ba tôi phải la lối gay gắt.

Quyển sách vần, tôi cất kỹ trong tủ sách của tôi. Hễ lật coi xong là len lén đem cất dưới đáy tủ. Thế nhưng có hôm vì bạn tới chơi bất ngờ hay có việc gì đó hốt nhiên xảy đến, tôi lật đật quên dẹp nó. Và rồi tôi cũng quên bẵng nó nữa. Tuổi nhỏ có trí nhớ rất dai nhưng dễ lơ đễnh lộn xộn. Khi mở cặp học bài, bỗng thấy cuốn vần nằm trong đó. Lần đầu tiên, tôi kêu chị bếp:

- Chị có bỏ quyển vần cũ trong cặp của em phải không?

Chị lắc đầu:

- Không.

Tôi nói:

- Vậy thì chắc chị Năm.

Tôi kêu chị Năm và lặp lại câu hỏi. Chị Năm dài dòng hơn:

- Từ sáng đến giờ chị đâu có vô phòng em mà bỏ? Ai bỏ đó chớ, chị bỏ thì chị nhận liền.

Chắc chị Năm nghi chị bếp bỏ. Và chắc chị chưa nghe rõ câu hỏi, chưa biết bỏ cái gì, bỏ vô đâu và bỏ như vậy thì có hại gì. Chắc chị đang nghĩ "kẻ đó" đã làm một điều lỗi, và chị muốn đổ riệt cho chị bếp. Tôi không muốn hỏi dài dòng thêm. Một cái chạng cây ổi nơi đó tôi ngồi núp dưới bóng lá để nghe con chim kêu chích chích đối với tôi thích thú hơn những chuyện đôi co.

Một lần sau lại cũng bỏ quên quyển vần và cũng lại tìm thấy trong cặp. Lần này tôi bận làm toán đố, không kịp điều tra.

Một buổi sáng nọ tôi đang mê ngủ thì chợt giật mình thức dậy. Nhìn ra cửa sổ thấy ánh sáng ban mai còn mờ mờ. Bên phòng ba tôi có tiếng lục đục. Ba có thói quen dậy sớm. Một lát sau có tiếng cửa mở nhẹ, rồi tiếng dép của ba đi về nhà sau. Chợt tôi nghe tiếng ba tôi hỏi:

- Đứa nào đem bỏ quyển vần Quốc Ngữ của em vô đây?

Tôi lo quá khi nghe ba tôi nhắc đến quyển vần Quốc Ngữ. Đúng rồi, chiều qua tôi lật ra coi rồi bỏ quên không dẹp. Chắc chị bếp tánh hay làm ẩu, lấy đặt vào một nơi nào mà ba tôi không bằng lòng. Đặt lên đầu tủ lạnh, trên mặt tủ búp - phê chẳng hạn. Tính ba tôi sạch sẽ mà quyển vần thì lem luốc rách rưới.

Tiếng chị bếp:

- Dạ thưa ông, cháu đó.

- Quyển sách của em mà, sao đem quăng vô đây?

- Dạ cháu thấy cuốn sách rách bìa, bỏ rớt dưới sàn gạch phòng ăn. Cháu tưởng em nó bỏ. Cháu lượm quăng vô giỏ để hồi nào nhen lửa. Cuốn sách vần cũ mà, thưa ông.

- Ừ, cuốn vần cũ chớ sao?

- Em học lên tới lớp Nhất rồi, còn dùng cuốn vần đó chi nữa.

Một khoảng im lặng hơi dài. Tôi nghĩ rằng ba tôi bỏ đi chỗ khác không trả lời chị bếp. Nhưng không. Vẫn nghe tiếng ông nói ở chỗ cũ:

- Em nó giữ để lâu lâu nó mở ra coi. Kỷ niệm của má nó đó mà. Lần sau hễ thấy em nó bỏ lạc chỗ nào thì nhớ lượm lên đem bỏ vô cặp cho em.

- Dạ.

Tiếng dép ba tôi đi lên nhà trên. Tay nắm cửa phòng tôi quay nhè nhẹ và cửa phòng mở nhè nhẹ. Tôi vội vàng nhắm mắt giả vờ ngủ. Ba tôi lại gần giường đúng nhìn tôi giây lâu rồi nhẹ mở cái cặp của tôi đặt quyển vần vào trong. Ông đóng cặp lại rồi rón rén bước ra khỏi phòng. Cánh cửa nhẹ nhàng đóng lại sau lưng.

Tôi cảm động muốn kêu lên: "Má ơi! Ba không nghiêm khắc với con như má hằng lo sợ hồi má còn sống. Ba uốn nắn con nhẹ lắm, nhẹ hơn uốn cây măng non. Ba quý trọng những giờ phút quấn quít cạnh nhau của mẹ con ta, hồi xưa và cả bây giờ và mãi mãi sau này nữa, má có biết không?" Tôi rất yên tâm bởi không bị cản trở trong việc thỉnh thoảng ngồi nhớ má tôi, nhớ những ngày cũ êm đềm cạnh má, sự hồi tưởng bâng khuâng mà khi lớn lên tôi coi như những cuộc hành hương lặng lẽ về Quá Khứ có má hiện diện, về Đất Thánh của tâm hồn tôi.

 
Võ Hồng                           
(Nhân mùa Bông Hồng Cài Áo - Vu Lan 1969)
 

Chủ Nhật, 31 tháng 8, 2025

KHI ĐI NGANG QUA TRƯỜNG CHÍNH TÂM - Trần văn nghĩa


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
  
 
 
 
buổi sáng trời hồng như môi bé
vừa đậu bên lòng tôi dễ thương
những bước chân đầu ngày đi học
cũng đủ cho đời ngây ngất hương
 
trường bé có tường cao cổng kín
có hàng điệp nở thắm vàng bông
lớp bé ở lầu hai cao quá
chẳng đủ tôi vừa đôi mắt trông
 
đầu ngày áo trắng vui như bướm
rộn rã quanh đây những tiếng cười
tôi đã mất rồi thời niên thiếu
cực lòng mà nhắc đến, chao ơi...
 
buổi sáng trời xanh như màu lá
ngậm ứa sương buồn đường huyền trân
thích trở lại ngồi bên quán nước
ngượng ngùng thả mắt chạy quanh sân
 
có bao nhiêu cửa trường bé học
là có bao hồn tôi quẩn quanh
ước nhìn mái tóc nghiêng vai nhỏ
chờ miệng cười ôi thoáng rất tình
 
buổi sáng trời trong như mắt bé
dịu dàng từng cái nguýt hổ ngươi
gió cũng lao đao vì tóc bé
chim cũng rất tình, huống chi tôi
 
buổi sáng rung chuông lòng gọi nhớ
màu má bé hồng hoa móng tay
nắng về trải dưới chân guốc nhịp
gieo xuống đời tôi những đọa đày 
 
                              TRẦN VĂN NGHĨA

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 145, phát hành ngày 5-10-1974)
 
 

Thứ Năm, 28 tháng 8, 2025

TIỂU KHÊ, ĐỪNG BAO GIỜ CÓ THẬT - Trọng Thi


Kể từ khi đổi về đây, mỗi buổi tối tôi vẫn lui tới quán cà phê này. Quán có vài điều đặc biệt. Tọa lạc tại một góc phố có nhiều hàng cây tỏa mát, yên tịnh. Không hát nhạc ồn ào nhức óc, chỉ hát nhạc dịu nhẹ, êm đềm. Bàn ghế đơn giản bằng tre rừng, cây núi có vài cái còn nguyên vỏ sù sì rất văn nghệ lại như mang được cả cái thân thiết tình tự quê hương vào quán. và nhất là chủ quán đã dùng đường phèn (thổ sản) thay thế đường cát thông thường nên, ngoài cái vị đậm đà của cà phê khách còn được hưởng hương vị thanh tao ngọt ngào của đường phèn. Do đó, quán đã dẫn dụ một số đông khuôn mặt trẻ của thành phố nhỏ bé này. Quán không tên. Không tên không phải vì không tên, không nhãn hiệu. Không tên, tự nó, đã là một cái tên.
 
Và chính nơi này tôi "biết" nàng, bị dụ vào một mối tình kỳ quái như khung cảnh của chuyện liêu trai.
 
Một buổi tối, như thường lệ, tôi đến đây uống cà phê. Trong dòng nhạc dịu êm, trong ánh sáng nhạt mờ tôi thích thú thả hồn lãng đãng cùng khói thuốc chờ từng giọt cà phê đặc sánh nhỏ chậm xuống ly. Và rất vô tình tay tôi chạm một mẩu giấy xếp nhỏ theo kẽ bàn. Tò mò mở ra xem, tôi thấy một dòng chữ ngắn, nét mềm mại:
 
"Ông lính ơi, ông lính làm thơ viết văn hay lắm phải không? Cho em làm quen với đi". Vỏn vẹn chỉ có thế. Không ký tên gì cả. Dòng chữ ngắn ngủi đó đã gây cho tôi một niềm thắc mắc nhưng thoáng qua. Rồi tôi quên như những chuyện nhỏ nhoi xảy ra trong đời.
 
Hôm sau tôi bắt gặp một mảnh giấy khác: "Ông lính ơi, sao ông lính không trả lời. Ông lính ỷ làm văn thi sĩ rồi khinh không thèm làm quen em ư? Ông lính ác quá". Lần này khiến tôi chú ý và thắc mắc rất nhiều. Phải chăng cô bé (tôi đoán là cô bé) nào đây muốn quen tôi. Điều này khó chắc chắc nhưng tự ái cao ngất xúi dại (?) rằng tôi nghĩ đúng. Vả nữa tôi không bao giờ muốn mang tiếng ác và làm mất lòng một cô gái nào cả. Tuy nhiên tôi vẫn ngài ngại làm sao ấy. Tôi sợ mình hố to và chẳng may trở thành chìa khóa mở cửa kho cười cho một cô gái hoặc một gã con trai nào đó đùa dai. Thú thật, thỉnh thoảng tôi cũng tập tành làm thơ viết văn nhưng tôi nào phải là văn thi sĩ gì đâu. Vậy mà cuối cùng vin vào sự trùng hợp mơ hồ đó (tôi ôm đồm quá chăng?) tôi đã dè dặt viết vài câu vào mảnh giấy rồi trả về chỗ cũ. Đại khái tôi hỏi có phải nàng viết cho tôi không (dĩ nhiên tôi có tả sơ sài vài nét đặc biệt của tôi). Nếu phải, tôi rất hân hạnh được quen nàng. Đồng thời tôi cũng xác nhận tôi không phải là văn thi sĩ gì cả. Với tôi, văn thi sĩ, chao ôi, là một danh từ vĩ đại và thiêng liêng quá. Đó là một thiên chức cao quý nên tôi chưa dám cầm nhầm vơ vào.
 
Nàng viết: "Ông lính ơi, ông khiêm nhường quá. Em đã đọc văn thơ của ông rồi. Ông đừng giấu em".
 
Tôi trả lời: "Cô bé tài quá. Nhưng cô bé đã đọc ở đâu thế?"
 
Cô bé: "Bí mật không thể bật mí".
 
Mỗi lúc làm tôi thêm ngạc nhiên. Tôi kiểm điểm: Bạn bè tôi không đứa nào có em gái cả. Hỏi bọn nó cũng bảo không biết nên tôi đành lặng lẽ sống cùng niềm thắc mắc ngày thêm tăng. Có một lần tôi hỏi tên cô bé thì được trả lời:
 
"Ông chú trọng tiểu tiết quá. Như vậy ta chưa đủ thân thiết sao?"
 
Khiến tôi phải tự làm luật sư biện hộ:
 
"Tiểu tiết đôi khi rất cần. Như sông lớn, nơi gặp gỡ của ngàn suối nhỏ, rạch con. Như rừng xanh, nơi tập họp của muôn cây. Tiểu tiết, đang là một vai trò quan trọng. Vả lại, tôi vốn thực tế quen rồi. hai với hai phải là bốn. Không nên tưởng tượng thành ba hoặc năm. Đau đầu lắm".
 
Cô bé làm tôi bằng lòng phần nào. Phần nào thôi chỉ vì nàng tiết lộ rất mù mờ:
 
"Em là một dòng suối nhỏ. Khi vui, đùa cùng dốc cùng đèo. Khi buồn, lặng lờ cùng thung lũng. Ông hãy đoán tên em đi. Em đố". 
 
A, nàng chơi trò lãng mạn. Nàng đố vui để... chọc tôi khiến tôi phải mất mấy đêm suy nghĩ, nát óc. Chữ nghĩa từ lâu lãng quên, đâu đó, trong các ô ngăn của trí tuệ bị tôi lôi ra hết để đoán tên nàng. Một dòng suối nhất định phải là Khê. Và nhỏ là tí xíu, là ít, là tiểu. Khê Tiểu. Tiểu Khê. A đúng rồi. Tiểu Khê, nghe cũng hay ho lắm đấy chứ. Và tôi đã được nàng cho uống mật ong ngọt ngào:
 
"Ông giỏi quá. Đặt tên hay quá. Em phục ông ghê. Tiểu Khê! Từ nay ông hãy gọi em bằng tên đó. Em rất thích".
 
Chẳng biết tên nàng có đúng như thế không nhưng nàng đã nhận hãy để nàng vui. Khi đàn bà con gái muốn là trời muốn mà. Thế là tên gọi đó đã đóng đô trong tâm tưởng tôi suốt thời gian liên lạc và mãi mãi sau này. Cũng chính nó (tên gọi đó) tôi đã âu yếm khẽ gọi rất thiết tha lúc thương nàng quá đỗi.
 
Như thế đó, chúng tôi quen nhau. Quen nhau bằng những mẩu giấy nhét trong kẽ bàn. Quen nhưng nào tôi đã biết nàng, bởi nàng đâu bao giờ lộ diện. Nàng xấu. Nàng đẹp. Nàng gầy. Nàng mập. Hay nàng gì gì đi nữa tôi không sao biết được. Có chăng trong tâm tưởng tôi, lúc mơ mộng, đã vẽ vời hình bóng nàng rất yêu kiều, lộng lẫy và cũng rất mộng mị. Hình ảnh đó cứ theo độ biến thiên tình cảm của vui, của buồn thay đổi liên miên. Có khi tôi thêm vào khuôn mặt tưởng tượng đó một nốt ruồi duyên. Có khi tôi lại điểm cho nàng một chiếc răng khểnh rất dễ thương. Và tóc nàng thì nào là bombé, nào là demi-garçon, nào là kiểu các minh tinh tài tử thời danh trong và ngoài nước, tôi cứ gán loạn cào cào lên. Giai đoạn này giả thử tôi cộng tác với một Thẩm mỹ viện hay một tiệm uốn tóc nào có lẽ các cô các bà sẽ rất hâm mộ đầu óc nhiều sáng kiến của tôi.
 
Nhưng đừng tưởng bao giờ tôi cũng vẽ vời nàng đẹp cả đâu. Nhiều lúc muốn chấm dứt trò chơi lẩm cẩm này, nghĩa là gặp nhau, diện đối diện, mà nàng cứ từ chối tôi đâm nổi cáu và hình ảnh nàng lúc bấy giờ là ma, là yêu tinh. Thậm chí tôi còn bắt nàng rỗ huê rỗ chằng cho bõ ghét. Cuối cùng tôi gửi tối hậu thư:
 
"Hãy chấm dứt trò chơi này tức khắc. Trò chơi không công bằng. Khi cô bé biết tôi khá rõ thì tôi lại mù tịt về cô bé. Tôi không muốn đầu óc tôi, ngày nào đó, nổ tung vì tưởng tượng quá nhiều. Quyết định: Phải gặp nhau".
 
Nàng yếu ớt: "Có nên không. Sợ khi gặp sẽ thất vọng".
 
Tôi: "Rất nên. Sẽ không thất vọng". 
 
Nàng hẹn: "Tối mai. Quán này".
 
Nàng hẹn tôi như thế đó, nhưng nàng đâu có đến. Nàng cho tôi đi tàu suốt ngon lành. Tôi bực mình và tự ái lắm. Tôi tẩy chay trò chơi. Nhưng tôi đã thao thức và thấy đêm dài hơn bao giờ. Như thế, có phải là tôi đã yêu? Thì ra tôi cũng lãng mạn ghê lắm đâu thua nàng. Tơ đã vương tim tôi rất lặng lẽ từ bao giờ tôi nào hay.
 
Bất ngờ một buổi sáng tôi nhận được một cú điện thoại. Khi người bạn thân báo có một cô bé nào muốn gặp tôi ở đầu dây, tôi đã rất lịch sự:
 
- Alô, tôi đang được hân hạnh hầu chuyện với ai đây ạ? 
 
Phía đầu dây bên kia có tiếng cười khúc khích:
 
- Ông lính ơi, sao ông "trân trọng" quá vậy.
 
- Nhưng tôi chưa biết ai.
 
- Ông thử đoán xem.
 
- Chịu. Tôi vốn kém môn này. Vả lại, tôi có quen cô nào ở thành phố này đâu?
 
- Ai bắt ông tự khai nhỉ?
 
- Tôi chỉ nói thật.
 
- Nhưng tôi biết ông quen một người.
 
- Hay nhỉ! Chuyện tôi, tôi không biết. Còn cô lại biết.
 
- Vậy mới tài.
 
- Cô là ma chăng?
 
- Ừ, ma.
 
Tự nhiên tôi bắt đầu thích thú cùng câu chuyện:
 
- Này ma ơi ma là ai thế?
 
- Là hồn vật vờ, lãng đãng. Sống giữa cõi âm và cõi dương.
 
- Ma gọi tôi có việc gì?
 
- Ma mắc nợ ông. Ma muốn xin lỗi.
 
- Lạ nhỉ, tôi nhớ chưa hề là chủ nợ của hồn ma nào cả.
 
Im lặng một chút, giọng nói thoáng chút hờn dỗi, trách móc:
 
- Đến bây giờ ông lính vẫn chưa biết ma là ai sao?
 
Đã lờ mờ đoán ra nhưng chưa tin tưởng lắm nên tôi ỡm ờ:
 
- Thì ma là hồn vất vưởng như cô bé đã giải thích lúc nãy.
 
- Ông đừng giả vờ nữa. cho ma xin lỗi chuyện ma thất hẹn hôm trước.
 
- Bắt người ta mỏi mắt trông chờ rồi còn xin lỗi. Dễ dàng quá nhỉ. Lần sau cứ vậy mà làm nhé.
 
- Ông mát mẻ quá. Em xin lỗi rồi mà. Hôm đó em bệnh bất ngờ.
 
Giọng nói nũng nịu dễ thương quá. Tự ái tôi được vuốt ve nên tôi vui vẻ xí xóa dễ dàng.
 
Từ đó mối liên lạc, bỗng dưng, bước sang một giai đoạn khác. Giai đoạn này dĩ nhiên gây cho tôi nhiều thích thú, vì ít ra, giọng nói nhí nhảnh của nàng đã phả vào hồn tôi niềm tươi mát, bâng khuâng nhưng đồng thời, trò chơi tưởng tượng mỗi lúc một gia tăng - Dựa theo giọng nói đó (êm ái và nhí nhảnh) tôi đã, lâu ngày, kiện toàn thêm hình ảnh bấy lâu nay tôi tạo dựng. Đó là một Tiểu Khê đài các xinh tươi. Một Tiểu Khê thanh thoát tao nhã. Một Tiểu Khê mắt ngọc da ngà. và rất khổ, càng lúc tôi càng mỗi quay quắt với cái hệ lụy tôi tự chuốc cho mình. Tuy nhiên niềm thương mến trong tôi thật khó phân tích, khó định nghĩa. Không phải tình yêu thường tình, nó cao hơn bởi tính chất nhẹ nhàng tinh khiết và cũng dồi dào hơn với mối thắc mắc luôn phải khám phá, trông chờ. Có lẽ tại bầu không khí nàng tạo ra, bàng bạc, như chuyện liêu trai chăng? Tình tôi dành cho nàng, vì thế, say đắm mà vẫn nhẹ nhàng, nồng nàn mà vẫn thánh thiện. Tôi tương tư nàng rất lặng lẽ, đơn phương, bằng hình ảnh nàng do tôi tạo nên.
 
Cuối cùng tôi lại đòi gặp nàng. Tôi muốn phổi kiểm giữa sự thật và mộng tưởng. Nàng đồng ý chúng tôi sẽ gặp nhau trong buổi hội chợ từ thiện do các trường tổ chức. Để nhận diện nàng sẽ choàng lên cổ một chiếc khăn trắng và sẽ là cô bé đầu tiên mời tôi ủng hộ cho gian hàng lớp nàng. Điều kiện của nàng là không được nói chuyện lâu. Phải giả vờ xa lạ để mấy nhỏ bạn khỏi biết. Rồi nàng hỏi tôi chịu không? Tuy không mấy hài lòng nhưng tôi cũng mỉm cười gật đầu quên rằng mình đang nói chuyện với nàng bằng điện thoại.
 
- Ông lính ơi, ông lính bé cái lầm rồi.
 
- Cô bé nói gì tôi chẳng hiểu.
 
- Nghĩa là ông lính vẫn chưa biết em.
 
- Vậy cô bé hồi sáng...
 
- Là một nhỏ bạn.
 
- Đừng đùa chứ.
 
- Ông không tin?
 
- Không.
 
- Ông lầm cũng phải. Thật ra ban sáng lúc ông đến nhỏ bạn thấy em choàng chiếc khăn trắng ngồ ngộ bèn "mượn tạm". Con bé còn nhí nhảnh cười rất tươi mời ông mua một vài món hàng. Em tức chết đi được nhưng đành ngậm tăm.
 
Thì ra là vậy. Chả trách giọng nói của cô bé ban sáng tôi nghe hơi khác. tôi đã ngờ ngợ nhưng chỉ thoáng qua, rồi thôi, bởi tôi nghĩ âm thanh trong điện thoại rất có thể lầm lẫn. Tôi định nói cái cảm nghĩ của mình sau cuộc gặp gỡ nhưng trong một giây phút ngắn ngủi ý niệm xoay chuyển tôi lại thấy không nên nói ra để xem nó như một riêng tư giấu kín. Bởi cái cảm nghĩ đó là một niềm thất vọng đã làm nhạt mờ cái đinh ninh mộng tưởng bấy lâu nay. Tôi đã dại dột muốn tìm kiếm một vẻ đẹp toàn bích, một mộng tưởng hồng sáng ngoài đời. Tôi đã vẽ vời Tiểu Khê quá hoàn hảo khiến khi đụng mặt tôi phải ngỡ ngàng. Giữa mộng và thực đã là một khoảng cách xa vời và khoảng cách đó nếu vờ quên đi ta sẽ ngỡ không mấy quan trọng. Đằng này, tôi đã vỡ mộng đắng cay bởi tôi quá hồ đồ kéo mộng sát vào thực. Không phải cô gái ban sáng xấu xí, trái lại nữa là khác. Nghĩa là cô ta khá xinh. Ví dụ, trong trường hợp bình thường gặp cô, rất có thể tôi mở rộng các ngăn tim cho máu hồng xôn xao phóng vào cuộc phiêu lưu kỳ thú.
 
Nên khi biết chưa phải là Tiểu Khê thật, ban sáng, tôi đâm ra mừng như đang được cấy vào tâm tư một nguồn hy vọng mới. Không phải tôi hy vọng một Tiểu Khê như niềm mơ ước nhưng là cái hy vọng biết rằng hình ảnh tôi tạo dựng bấy lâu sẽ sống dậy trong tôi.
 
Hình như sau đó tôi loáng thoáng nghe cô bé hứa hẹn những gặp gỡ sắp tới nhưng lòng tôi, bỗng dưng, nguội lạnh quá đỗi. Vì quá thực tế, nên tôi trở thành kẻ mộng mơ nhất đời. Và tôi muốn Tiểu Khê đừng bao giờ có thật cả. Tiểu Khê! Em hãy là nguồn suối mát chảy hoài hủy trong hồn tôi. Tiểu Khê! Em hãy là mộng mị để, muôn đời, thắp sáng hồn tôi.
 
 
TRỌNG THI       
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 142, phát hành ngày 20-8-1974)
 

Thứ Hai, 25 tháng 8, 2025

CON BỌ TẦM THƯỜNG - Mường Mán


Buổi sáng phủ nhẹ lớp nắng mỏng lên hàng chè tàu. Dấu vết trận mưa đêm qua là vũng nước còn lì lợm đọng lại giữa sân, in đứng mảnh trời xanh leo lẻo. Mưa đi qua giấc ngủ rón rén như tên ăn trộm, lúc gần sáng chợt thức, Thu nghiêng lòng nghe ngóng, chưa kịp rút hai chân ra khỏi giấc mơ, mưa đã biến mất.
 
Thục. Em hồi hộp quá chừng. Liệu anh có biến mất không? Phút nào chưa gặp mặt anh, phút ấy trái tim còn đầy những nhịp hồi hộp, lòng chơi vơi nỗi thấp thỏm không yên. Đi chưa hết chiều ngang, em vội xoay lưng bước theo chiều dọc. Chỗ ngồi chưa nóng em đã đứng lên. Quay quắt quặt quày chẳng khác chi con lật đật. Thế mà trước khi đến thành phố này, em cứ nhủ thầm hãy cắn răng đừng báo tin, đừng nhắn gửi, để tình cờ gặp em mới hấp dẫn ly kỳ.
 
Đêm qua em mơ thấy cảnh tượng thật kinh khủng : Em đến tìm anh. Vừa gõ cửa vào nhà liền gặp ngay một người đàn bà cực kỳ xinh đẹp, tay cầm lưỡi búa tầm sét, miệng đọc thần chú rượt em chạy dài sút cả guốc, rách cả áo. Anh vẫn đứng hút thuốc trông theo cười hì hì! Anh. Liệu có bà la sát nào đang canh cửa nhà anh không? Giấc mơ nhớ lại còn muốn toát mồ hôi hột.
 
- Thu ơi. Cà phê sắp nguội.
 
Tiếng chị Nguyệt dòn tan, chuyển nguồn nội lực thâm hậu vang âm khắp mấy căn phòng. Nắng sáng hơn ngoài hàng chè tàu. Đám cây lá trước hiên reo ca khoe sắc xanh mạnh. Thu hít đầy một lượng khí trong veo vào chật hai buồng phổi, nheo mắt vuốt cái nhìn mỏng tựa lá lúa âu yếm nhan sắc mình trong gương, mang theo nụ cười ra khỏi phòng, ngồi vào bàn ăn bên chị Nguyệt.
 
- Đêm qua mưa lớn dữ phải không?
 
- Ừ, vừa đủ lạnh lòng gái chưa chồng.
 
Thu nguýt:
 
- Còn lâu mới lạnh.
 
Chị Nguyệt cười dịu dàng, đẩy tách cà phê sữa tới. Thu nhúng muỗng quậy đều, uống từng ngụm nhỏ. Cà phê nhiều sữa em uống thấy đắng chát cả lưỡi. Thục. Gặp anh rồi, chắc cà phê sữa ngọt hơn.
 
Nụ đủng đỉnh từ nhà bếp đi lên, bưng cái mâm bạc đựng 3 dĩa trứng gà ốp-la nóng hổi, hũ đường, hai ổ bánh mì to giữa bàn.
 
- Mặt dì Thu sáng nay dài hơn hôm qua một tấc má ơi!
 
Chị Nguyệt lườm:
 
- Nói bậy.
 
Thu đập bàn tay đánh bốp vào cái mông chắc nịch tuổi mười bảy của Nụ:
 
- Mới tí tuổi đã quá quắt.
 
Nụ ngồi xuống, múc hai muỗng đường bỏ vào đĩa trứng trộn đều, bẻ từng miếng bánh mì chấm trứng ăn ngon lành.
 
- Nè dì út. Cháu vừa học được hai câu ca dao thật hay.
 
Chị Nguyệt nạt nhẹ:
 
- Con quỉ, mới sáng bảnh mắt cái miệng đã tía lia.
 
Nụ nheo mắt ngó Thu, đong đưa chiếc lưỡi:
 
- Gái thương trai bâng khuâng như bướm. Trai thương gái đườm đượm như dầu.
 
Cả ba người cùng cười thành tiếng. Nụ chêm:
 
- Ngó dì Thu có bâng khuâng như bướm không má?
 
Thu thoáng đỏ mặt, dí ngón tay trỏ gãi trán Nụ:
 
- Lớn tí nữa mi ăn đứt má mi về đường tình duyên.
 
Chị Nguyệt nhìn phần trứng không sứt mẻ của Thu, hất cằm:
 
- Không ăn à?
 
- Em không đói. 
 
Vừa đáp, Thu vừa đứng lên thoăn thoắt bước ra phòng khách, lục lấy tờ giấy và cây bút nguyên tử, hí hoáy viết:
 
Anh Thục. Về hôm qua. Anh tới nhà số 125/3/7 đường Âm Hồn gặp em gấp. Em sắp tắt thở. Cái xương chó gặm của anh : Thu.
 
Tờ giấy gấp tư kẹp giữa hai ngón tay, Thu gọi lớn:
 
- Dũng ơi Dũng!
 
Từ phòng ăn, Nụ la vào: 
 
- Anh Dũng còn ngủ trương xác trên gác, thưa dì út.
 
Thu lên thang, rảo bước qua đoạn hành lang ngợp nắng gió, đến đứng trước cánh cửa khép hờ của một căn phòng, mở cửa, thò đầu vào, rồi vội rút đầu ra đỏ mặt la khẽ, thằng quỉ sứ, ngủ trần như nhộng không chịu khóa chặt cửa. Thu đấm cửa:
 
- Dũng! Dũng!
 
Gã con trai ú ớ càu nhàu:
 
- Cháy nhà hở dì út?
 
Thu giận dỗi:
 
- Dậy lẹ lên, xuống nhà dì nhờ cái này.
 
Thu xuống thang, nóng nảy hấp tấp tựa gà mái sắp sửa nhảy ổ, vào phòng, ngồi phịch xuống giường, ôm chiếc gối đong đưa qua lại. Thục. Giờ này anh đã dậy, súc miệng đánh răng chưa? Sao anh ngu thế? Sao không chạy ù một mạch tới gặp em để tim hết hồi hộp cho rồi? Thu phì cười. Rõ mình lẩn thẩn. Thục có biết mình lù lù dẫn xác về đây đâu. Nụ, áo trắng muốt, cặp sách kè kè bên tay bước tới đứng tựa cửa phòng ngó vào:
 
- Thưa dì Thu cháu đi học.
 
Thu trừng mắt:
 
- Liệu hồn mà bâng khuâng như bướm đó.
 
Nụ chẩu môi cười dài, quay lưng đi thẳng:
 
- Dì mới là bướm chứ bộ.
 
Thục. Em thèm có được một phần ba sự hồn nhiên của con Nụ. Có phải em đang bâng khuâng như bướm không? Gặp em anh sẽ thở ngắn ngạc nhiên, hay thở dài mừng rỡ? Em tưởng tượng em sẽ khóc òa. Anh sẽ cười nhe cả hai hàm răng ám vàng khói thuốc lá đó chứ?
 
Dũng nện gót giày cồm cộp, đến đứng nghiêm đối diện Thu: 
 
- Thưa dì út, cháu chờ lệnh.
 
Thu nhìn tấm ngực trần trắng toát của gã trai mới lớn, vờ nạt:
 
- Mi chưa mặc áo đã dám tới trình diện ta hả?
 
Dũng rùn vai, làm bộ sợ sệt:
 
- Xin miễn chấp, miễn chấp.
 
Thu đưa miếng giấy gấp tư cho thằng nhỏ:
 
- Phóng xe tới số 99/9 đường Huyền Trân Công Chúa đưa gấp cho ông Thục.
 
Dũng tinh quái nghiêng đầu ngắm Thu:
 
- Và phụ đề thêm dì Thu của cháu sắp trút hơi thở cuối cùng vì mong người.
 
Thu đứng phắt dậy, một tay chống nạnh, một tay chỉ ra cửa:
 
- Biến!
 
Dũng bước giật lùi, ôm bụng cười rũ. Lát sau, tiếng xe gắn máy nổ dòn ngoài đường.
 
Thu lui tới gờm gờm như sư tử sắp sửa giương móng vuốt vờn chụp khoảng không. Nắng lên cao hơn. Vũng nước đọng giữa sân nổi lềnh bềnh thêm vài tờ lá chết. Buổi sáng êm ả thả xuống lòng Thu từng giọt chờ đợi nhuyễn.
 
Người con gái dừng lại trước tấm gương hình bầu dục gắn trên tường. Nói thầm với bóng mình : Anh Thục nè. Em đã học thuộc lòng từng nét đẹp và không đẹp trên khuôn mặt anh - qua những cái ảnh chụp đứng ngồi, nghiêng thẳng của anh đó - Nhưng chiều qua đi dạo một vòng phố với chị Nguyệt, mọi nét quen thuộc của anh trong trí nhớ bỗng méo mó mù lòa hết thảy. Nhìn gã con trai đàn ông nào em cũng nơm nớp nghi đó là anh, dù đã cẩn thận mang theo mấy chiếc ảnh để trong ví, lâu lâu đem dòm, so sánh. Ít nhất chiều qua em cũng đã quay tia nhìn trực xạ hơi lâu vào cỡ vài chục khuôn mặt. Và, đêm rồi cứ ôm gối lăn qua trở lại, tự hỏi chẳng biết những người ngoài phố đó có ai là anh không? Phải chi anh có vết sẹo dài vắt ngang trán, một nốt ruồi to ngay chót mũi, hoặc cằm xoáy sâu hoắm như tài tử Kirk Douglas em đã nhận ra anh dễ dàng. Anh chỉ có mắt mũi miệng và râu giống thiên hạ phần đông, em mù mắt nhức đầu cũng phải.
 
Chắc anh không hề ngờ, em đang ở sát nách anh, gần cùng trong một khí hậu, một thành phố. Hồi hộp lạ lùng. Đáng kiếp em, em thích chơi trò ú tim. Cái điện tín có vài chục đồng, tiếc chi không chịu đánh trước lúc đi. Tới chỗ anh ở, ghé vào nhanh hơn giờ tiếc chi không ghé (?) Em cứng đầu hơn cái cối đá mẹ thường dùng giã tiêu. Em muốn anh tới tìm em. Bởi xưa kia cụ Nguyễn Du lỡ cho Kim Trọng vạch tường hoa sang kiếm Thúy Kiều. Chứ Thúy Kiều đâu có suồng sã qua kiếm chàng Kim. Con trai phải tìm tới con gái. Con gái dẫn xác tới con trai, còn thơ mộng nỗi gì phải không? Dù sao, bây giờ em cũng đang hồi hộp.
 
Thu quay mắt ngó với ra ngõ. Con đường vắng hoe. Chiếc va ly nằm dưới gầm giường được lôi ra, mở toang. Người con gái ôm chiếc hộp to choán hết nửa thể tích va ly quẳng lên giường. Hộp bật nắp : đầy nhóc những lá thư xếp gọn. Những lá thư lần lượt được mang ra xếp dài trên mặt nệm. Thu cúi xuống "chẩm chày may rủi" mở một tờ thư ra đọc:
 
Thu thân thương. Đây là lần thứ mười một anh nghiêm trang nhắc lại: Anh là thằng không ra gì cả. Sự nghiệp, đời sống nếu cô sắc lại (như người ta sắc thuốc bắc) rót không đầy cái lỗ hổng một con số không, đựng đầy cái vỏ nghêu ngoài biển cả, múc không tràn cái muỗng chan canh. Đừng thèm làm cái xương sườn cụt của anh, làm khúc xương chó gặm còn hơn...
 
Thục. Anh tự hạ mình xuống thấp hơn giun dế dưới đất đen, em càng thấy anh cao vượt như tháp chuông nhà thờ. Em yêu anh điên xương dại thịt. Em bằng lòng làm khúc xương chó gặm, với điều kiện con chó đó là anh.
 
Tờ thư buông xuống. Thu nhặt lên một tờ khác, đọc ngay khúc giữa:
 
Đêm chủ nhật rỗng túi, nằm bẹp dí trên giường in con rệp đói, thằng Phúc gà mái bỗng đến tìm. Hắn đưa bộ mặt dài ngoằng ỉu xìu bánh mì nguội than, vừa bị bồ đá. Phải làm chi để tống khứ nỗi buồn thất tình ra khỏi ruột già? 
 
Anh chúa ghét những đứa phụ bạc, dù không ưa lắm những đứa đặt cái gọi là chung thủy lên ngai thờ. Phúc gà mái phút chốc biến thành Phúc gà trống khi nghe anh đề nghị chơi trò "rửa tội cho kẻ phụ tình".
 
Đúng là thằng gà mái. Anh thất vọng hết sức, để mặc xác bọn nó, lĩnh về nhà đắp chăn cười rúc rích. Ở nơi buồn rỉ buồn ri này, ít có trò vui. Lâu lâu bày vài trò khỉ cho đời đừng chóng già. Cám ơn Phúc gà mái...
 
Anh nghịch phá còn hơn quỉ dưới địa ngục đào ngũ lên nhân gian ám người. Thục. Anh kể những chuyện vớ vẩn ấy với em làm chi? Chúa ơi! Con không thể tưởng tượng được nổi chỉ vài tháng sau lại nhận thư Thục - con heo hư đốn của con - báo tin rằng, chàng Phúc gà mái đường hoàng làm lễ thành hôn với người nữ đã được anh ta rửa tội theo cái lối ma mãnh nọ. Thục. Những điều anh viết cho em có thực cả không? Chị Nguyệt bảo, mấy thằng cha nhà văn nói mười chỉ nên tin một. Lòng nhà văn thay đổi giống màu da kỳ nhông, tắc kè. Em tạm tin chị Nguyệt nửa phần, phần còn lại gặp anh rồi hẳn hay. Anh vạch lưng cho em thấy tất cả mọi vết sẹo. Những tật xấu nết hư anh trang trọng kê dọc dài qua hai trăm tờ thư là bằng chứng rành rành đó. Em nghĩ anh đã rất thật tình.
 
Thỉnh thoảng em vẫn nghe một vài người nói xấu anh thậm tệ. Nhưng không ai nói hay bằng anh nói xấu anh. Tính xấu em ghét nhất là, anh ưa đem em vào tác phẩm cho đóng vai kẻ phụ tình. Chẳng có vai nào khác khá hơn sao?
 
Thu bồi hồi ngó mông ra ngõ. Con đường vắng hoe. Người con gái mở tiếp tờ thư khác:
 
Anh ở xa em tới 1079 cây số. Hai thành phố có hai bộ mặt khác nhau, đối chọi nhau tựa mặt trời và mặt trăng, như hoa thật và hoa ny-lông. Cứ ở yên hai nơi mà mơ nhớ. Đừng dại rút gọn khoảng cách lại thành một điểm gặp gỡ. Anh và em chắc chắn sẽ biến mất tại điểm gặp đó. Biết vì sao không? Bởi lý do hết sức thông thường, rất động vật học : Con đom đóm bay lượn trong vườn đêm óng ánh rực rỡ, nhưng khi chụp nó bỏ vào lòng bàn tay, nó chỉ là con bọ hung xấu xí gấp vạn lần con chuồn chuồn. Hãy đứng nguyên tại chỗ ngắm đom đóm bay, đừng dại đuổi bắt đom đóm em nhé. Đừng bắt anh hiện nguyên hình con bọ xấu xí. Có khi tới gần, em thấy anh còn tệ hơn con bọ, anh là con dê, hoặc con gì đó, mười hai con giáp không giống con nào...
 
Làm sao em hiểu nổi anh đây? Tói giờ phút này, giữa hai ta chỉ có một chồng thư dày cộm, vài ba chiếc ảnh và những con tem chết. Thục. Anh viết văn nhẹ nhàng bao nhiêu, viết thư thô lỗ, côn đồ, ba que xỏ lá bấy nhiêu. Thế mà em vẫn yêu anh chết mệt. Khi viết cái thư thứ nhất nhờ tòa báo (tờ tạp chí có bài anh đăng lai rai) nhờ chuyển, em bâng khuâng chờ đợi được đọc những giòng chữ ấm áp của một nhà văn. Ngoài mong đợi - ngay thư đầu - anh đã có giọng điệu nhát gừng, bửa củi, chẳng êm ái chút nào. Nghĩ cũng lạ kỳ. Em đâm hoài nghi em mất thôi. Sao em lại thương anh da diết được nhỉ?
 
Thục. Đừng biến mất nhé. Nhất định em bắt anh hiện bằng xương bằng thịt. Giờ em không còn là một người đọc tò mò muốn biết về một người viết, mà là một người tình khát khao được thấy một người tình. Cổ em khô, miệng em đắng quá chừng. Khát kinh khủng anh Thục ạ.
 
Lần nữa, người con gái nghiêng đầu dòm qua cửa sổ. Con đường (tiếp tục) vắng hoe. Chưa có dấu hiệu nào báo rằng người nàng chờ đợi sẽ tới. Thời gian bỗng run nhẹ một thoáng hoang vu. Những ngón tay lẻ loi giở thêm một tờ thư mỏng: 
 
Học cho chăm. Tập nấu ăn cho giỏi. Mỗi ngày chỉ nên nhớ anh vài chục phút đồng hồ. Còn một đời dài để nhớ thương nhau. Trong khi em chỉ có một thời để học chữ và học nấu ăn. Chỉ nên mơ thấy anh những đêm tối trời, trăng sao đi vắng. Chỉ nên nhớ anh những lúc cắt móng tay móng chân, hoặc rửa chén bát...
 
Trời ơi. Thục. Anh gàn hết chỗ nói. Anh đặt cả luật lệ giờ giấc bắt em theo, làm như em hư và ươn ế lắm, hăm bốn giờ một ngày chỉ biết ngây người nhớ với nhung. Nhiều lúc em chẳng mơ nhớ anh tí ti nào cả, em còn mắng thầm thương cái cột đèn còn đỡ thót tim hơn thương ông Thục. Tình chúng ta hoài dẫm chân tại chỗ. Sao anh không cho tình cất bước thao diễn dếm một hai ba bốn, diễn hành tới chiến thắng cho rồi. Cứ lửng lơ bất phân thắng bại kiểu này em sốt ruột mỗi ngày ít nhất là tới sáu bảy lần. Em chán mớ giấy lộn này quá rồi. Em chỉ mong có anh, thấy miệng anh nói hơn là cứ mãi đọc những chữ anh viết. Đọc ròng rã hai năm rồi chứ ít sao.
 
Mớ thư dồn đống lại. Thu đứng lên lui tới trong căn phòng. Căn phòng có ô cửa sổ mở nhìn mông lung ra con đường vắng hoe. Đầu em cứng hơn cái cối đá mẹ thường dùng giã tiêu. Đầu anh còn cứng hơn. Thục. Anh nhất định trốn em sao? Dũng phóng xe tới nhà anh. Nhà đóng cửa. Hắn chỉ còn có nước ném tối hậu thư của em qua cửa sổ, và thơ thới hân hoan quay về đòi công em bao một chầu xi nê. Sáng hôm sau, một tên nhóc tì bán báo dạo đến trao tận tay em "một bức thư tình". Thư rằng:
 
Thu thân thương. Mừng nghe tin Thu về. Anh đang bận vài việc thuộc loại trời ơi đất hỡi. Có lẽ chiều thứ hai anh sẽ tới gặp Thu. Đừng buồn. Đừng nhăn mặt. Nhé.
 
Vượt 1079 cây số về để nhận "một bức thư tình" kiểu đó. Thục. Em giận anh căm gan. Em muốn xé phay anh ra như xé gà luộc.
 
Ngày chủ nhật đã qua. Chiều thứ hai nối đuôi vèo qua luôn. Anh không muốn gặp em. Không muốn hiện nguyên hình là con bọ tầm thường. Không đùa, anh đã nói thật. Căn phòng ở số 99/9 đường Huyền Trân Công Chúa vẫn đóng, với mảnh giấy đáng ghét dính cứng trên cánh cửa gỗ : Thục vắng nhà.
 
Em qua lại đường Huyền Trân Công Chúa không biết bao nhiêu lần, ngó vào căn phòng cửa đóng không biết bao nhiêu bận, để rồi trở về hồn rỗng, xác không. Căn phòng thuê anh đã tả cho em thấy, chỗ nào là cái bàn viết, chỗ nào kê hỏa lò đun nước pha cà phê chế trà... Em hình dung sau cánh cửa im lìm ấy chỗ anh nằm ngồi đi đứng, thấy cả những ngày hết tiền, anh nằm bẹp dí in con rệp đói, những khuya khoắt ăn nhậu với đám bạn bè quỉ sứ, trở về nôn thốc tháo ngay trên bậc cửa. Và biết đâu sau cánh cửa ma ám đó lại không có một người đàn bà xinh đẹp tay cầm lăm lăm lưỡi búa tầm sét như em đã thấy trong giấc mơ.
 
Thục. Anh có tưởng tượng ra hình ảnh một đứa con gái ngẩn ngơ trong lòng phố tìm người mình thương, mà chằng thấy người thương đâu cả không? 
 
Chiều treo từng mảng nắng vàng rộm đong đưa trên ngọn cao. Con đường trầm mát bóng cây men dọc bờ sông, chảy xuôi giữa đôi bờ cỏ mọc. Thu đi một mình, gió thổi tung tóc và áo người con gái. Thục. Em đang đi trong lớp sương phù ảo của cuộc tình. Độc diễn vai người nữ ăn nhỏ nhẹ nửa trái sim, uống in ít lưng bát nước đi tìm người thương. Anh là bóng ma chìm dưới giếng khơi. Em đứng trước ngọn núi cao ca nam ai : Núi cao chi lắm núi ơi. Núi che mặt trời không thấy người thương.
 
Chị Nguyệt săn đón:
 
- Sao ? Đã gặp thằng cha nhà văn chưa? Hai người dẫn nhau đi chơi những đâu?
 
Nụ cười, khoe lúm đồng tiền mười bảy tuổi:
 
- Hai người yêu nhau tới hai năm mới gặp nhau, chắc nói nhiều chuyện. Dì út cho cháu vác cassette theo làm phóng sự thu thanh đi. Mai mốt lễ đám cưới mở ra cho hai họ trai gái nghe chắc đượm mùi thi vị.
 
Dũng nhún vai:
 
- Lâu lâu dì út mới về, dì út bỏ quên tụi cháu, ham đi chơi với người ngoài đường hơn ham ăn cơm ở nhà. Cháu cực lực phản đối dì út lẫn ông Thục.
 
Thấy chưa? Mọi người đâu biết mấy hôm nay em đi tàng tàng một mình, tha hồ tưởng tượng.
 
Vào quán nước. Ngó bốn phía xôn xao cặp kè trai gái, ríu rít chuyện trò. Em lạc loài giống con gà con bị nhốt chung lồng cùng bầy vịt.
 
Vào chợ. Lăng quăng ngang dọc, thấy nỗi buồn mình phơi lộ liễu trên những đôi mắt cá ươn, những rổ thịt nguội, những bó hồng nhung héo.
 
Lên xe buýt. Ngược phố đông xuôi phố tây, chẳng nghe người quen nào gọi tên mình, em trầm lặng hít khói xăng và bụi.
 
Thiên hạ yêu nhau người ta bước song đôi. Em yêu anh, em bước lẻ một mình. Đi giữa lòng thành phố quê anh, ngỡ như lạc giữa lòng quê ai khác. 
 
Ngày mai em lại trở về thành phố bên kia 1079 cây số, và tiếp tục những lá thư? Không, chẳng bao giờ nữa.
 
1079 cây số chuyến đi : Náo nức bồn chồn. Lòng thênh thang mở hội. Chim trong hồn ríu rít tung trăm chuỗi nhạc vui. Trí tưởng huy hoàng hình ảnh anh ngự trên ngai cao, dang vòng tay lớn đón em, đêm và ngày khép một đường cong kín, em ngạt thở vì hương vị hạnh phúc dâng lên ngập mũi. Anh từng bảo muốn ăn tươi nuốt sống em. Giờ em về, anh bằm em thành chả, gói em thành nem nhậu đi... Tội nghiệp những lời đậm đà đã không được thốt. Vịnh viễn nghen.
 
1079 cây số chuyến về : Lòng sẽ nặng nghìn cân đá cục. Hạnh phúc hụt ngấm mật đắng môi cay lưỡi. Tuổi già thêm vài cái nhăn mặt nhíu mày. Thôi, cố dỗ mình nín. Đừng cất tiếng van la. Đã sáng mắt ra chưa? Thiên hạ có cần mi đâu. Mi là cơm nguội bánh bao thiu, thế mà cứ tưởng mình vàng ngọc. Thu. Cái tên vừa kêu lên đã thấy lá vàng rụng kín mấy khu rừng. Vui chi được. Hãy về tiếp tục bước xiêu vẹo qua thời con gái. Như thế rồi cũng qua một thời yêu mê. Thục. Hình như tất cả hồng huyết cầu dưới da em đang nhất loạt vùng lên phản đối anh. Lưỡi em dần cứng lại, cho đến ngày nào đó không còn gọi đúng tên anh được nữa. Cái tên Thục rồi cũng trốn mất biệt trong ký ức như anh đang mất. Như chúng ta cứ xoay trở mãi, không ra khỏi bát quái trận đồ do hoang vu dàn bẫy. hãy tiếp tục bước và vấp ngã. Thu. Hãy tiếp tục trốn mất tăm. Thục. Cho tới lúc nến lung linh đầu áo quan.
 
1079 cây số đi. 1079 cây số về. Em cho anh 1258 cây số hôn mê. Chừng ấy đã đủ trải kín lưng cuộc tình chưa? Đủ đắp ấm khoảng ngày tháng mơ nhớ nhau rồi chứ? Đừng cười cách khoái trá thế Thục. Em thèm ngoạm anh một miếng quá.
 
Thắp ngọn nến giữa vực lòng tha ma mộ địa. Em đứng nghiêm chào vĩnh quyết tình anh. Em sẽ bắt chước con bé Twinky (16 tuổi yêu một "thằng cha" nhà văn 38 tuổi) trên màn bạc, tìm đến mỏm đá nào đó ù ù gió ngàn khơi, vũ lộng xiêm y xoay 3 vòng miệng hô ly dị, ly dị! Twinky làm đám cưới rồi mới ly dị. Mình chưa cưới nhau đã ly dị. Đáng buồn 5 phút hay sầu dài cả đời.
 
Anh vô trách nhiệm hơn 1002 lần thằng chồng con Twinky. Hắn ta đã anh dũng san bằng hết mọi gian nan trên con đường tình, chống báng cả tập đoàn nhà vợ, bồng Twinky đặt lên đài vinh quang chiến thắng. Dù sau đó đài vinh quang sụp đổ, hai đứa cũng toại ý, mát lòng.
 
Thục. Ngày phán xét cuối cùng, chắc chắn Chúa sẽ dành cho anh một bản án nặng. Trên ghế nguyên cáo, em sẽ lớn tiếng tố anh. Tiếng em sẽ vang hơn sấm dội:
 
- Lạy Chúa, y không chịu cắn trái cấm, dù trái cấm đã đưa sát đôi môi tham lam của y. Y không chịu lập lại tội tổ tông cách bình thường như hằng tỉ người khác. Y không làm tròn thiên chức một người đàn ông, biến ái tình thành chiếc bóng xa vời, trong khi ái tình rất cụ thể, tựa nước và lửa, phơi phới trên xương và thịt của con đây. Y cho con cảm tưởng mình thật thừa thãi trước một kẻ khác giống. Chính điều này làm con muốn khóc, nhưng không chảy nước mắt được mà chỉ cười gằn. Con vừa yêu vừa thù y. Vừa muốn quì hôn cắn ngón chân út của y. Vừa muốn ấn mạnh con dao xuyên ngực y. Lạy Chúa, con bơ vơ quá đỗi.
 
Thục. Em không đùa đâu. Em đang nghiến răng trèo trẹo và cười gằn. Rất nhiều đàn ông con trai em gặp trên đường chiều nay. Trong đám đông đó ai là anh? Phải chi anh có vết sẹo dài vắt ngang trán, một nốt ruồi to ngay chót mũi, hoặc cằm xoáy sâu hoắm như tài tử Kirk Douglas, em đã nhận ra anh dễ dàng.
 
Thu bước khoan thai, mắt ngước nhìn những chùm lá non. Ngày mai, lúc máy bay ngang qua biển, liệu tôi có đủ can đảm thả chiếc hộp đựng gần hai trăm cái thư của người con trai tên Thục đã viết cho tôi trong hai năm qua không?
 
Giữa giòng xuôi ngược chiều hôm, thỉnh thoảng, Thu dừng lại hỏi một người đàn ông nào đó đi ngược đường:
 
- Thưa ông, phải ông tên Thục không?
 
Trên chuyến bay trở về, người con gái tên Thu ghi vào cuốn sổ nhật ký của nàng: Đêm qua tôi đã tìm thấy một người đàn ông tên Thục. Tôi đã cho anh ta nhiều kỷ niệm. Rất hồn nhiên. Chỉ hơi tiếc một điều người đó chẳng phải là chàng.
 
 
MƯỜNG MÁN      
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 141, phát hành ngày 5-8-1974)