Thứ Năm, 26 tháng 6, 2025

THI ƠI LÀ THI - Chi


Kính thưa quí vị, đến giờ phút này thì chắc chả còn ai có thể là không biết cái "món ấy". Và tôi cũng đang lo lắng, soạn sửa, hăm hở, háo hức chờ đợi cái ngày 26 ấy.
 
Trường tôi thì lại vốn là cả nam lẫn nữ sinh cơ, nên đã quyết định cho các lớp 12 thi thử để thu thập kinh... hoàng. Quí vị ạ, cả tỉnh tôi chỉ có mỗi một lớp 12C là tụi tôi thôi đấy. 12C năm ni, của cái trường này thật là đặc biệt bởi tụi tôi có một tấm lòng thương người rất ư là bao la, lại thêm cái tinh thần "đại đoàn kết dân tộc" do chính chính phủ đề xướng cho nên cuộc thi được diễn ra ở lớp tôi "trong vòng thân mật" cho dẫu rằng thì là các thầy đã hết sức lưu huyết, í lưu ý rằng:
 
- Các em cố gắng làm bài một mình để biết sức mình...
 
- Đừng có coi nhau vì đây chỉ là kỳ thi thử, có nhỏ điểm cũng không sao, phải biết mình thiếu sót môn nào, thì giờ còn lại sẽ dò kỹ môn đó...
 
Và chúng tôi bắt đầu thi, y như thi thật vậy, cũng hai buổi, cũng theo thứ tự các môn...
 
Ngày đầu tiên, hai giáo sư sinh ngữ chính gác hai giờ đầu, đến hai giờ sau thì là ông giáo sư Triết. Vì đến 8 giờ mới bắt đầu thi, chúng tôi bắt đầu phát thanh bừa bãi.
 
- Thầy cho khó quá thầy.
 
- Ở bộ cho dễ hơn nhiều.
 
- Ở tivi cũng dễ hơn.
 
- Thầy, chưa học Siêu hình mà thầy.
 
Và thầy tôi thì rất ung dung, điềm tĩnh chẳng nói chẳng rằng. Tụi tôi bắt đầu quay sang hỏi nhau, thậm chí đến cãi nhau tưng bừng:
 
- Ê câu 36.
 
- Cái này là a nè mày. 
 
- Sao được, c chứ, đâu phải xã hội, duy nghiệm mà.
 
- Nè, "bà ấy giận cành hông, bà ấy giận sùi bọt mép" (trời!) là cái gì mày?
 
- Tâm Sinh lý chứ gì, ngu!
 
- Cái gì đến từ Thượng Đế, Hòa?
 
- Đam mê, tao bảo đảm đó.
 
- Trời ơi, ê câu này sao mày?
 
 - Ai biết. Thôi mình chia ra, ai hên trúng, tao a cho.
 
- Còn câu e mày?
 
- Kệ bỏ!
 
Ồn ào tăng theo cấp số nhân, thầy tôi hết còn bình thản được nữa, lên tiếng, trước còn ngọt ngào, sau giận quá, ông nói:
 
- Cái này là thi thử, đâu có... ăn nhậu gì mà phải coi nhau.
 
Tức thì cả lớp nhao nhao lên (bởi khi nãy có thầy giám học, giám thị nên tụi tôi mới im lặng đó):
 
 - Đâu có coi thầy, em hỏi mờ.
 
- Dạ dẫu biết thế nhưng sao lòng vẫn muốn coi.
 
- Trời, thử nhưng mà đậu cũng khoái vậy thầy.
 
- Chớ hổng lẽ để giấy trắng sao thầy, rồi sao thầy chấm được, tội nghiệp nó.
 
- Có còn hơn không mà thầy. 
 
Thấy không tài nào nói nổi, ông im lặng đọc sách tiếp. Và còn một điều thê thảm nữa là nhà in quá tệ, nội cái sửa lại cũng đã mất 15 phút ngày đầu tiên, hầu hết những cây toán đều sai vì cái máy không có học "tập hợp", chẳng cần biết giao, hội là cái chi, thuộc về hay mọi gì cả. Lại thêm ông phụ tá giám học là giáo sư Pháp văn, khi ông điều chỉnh lại trên bảng, chữ Việt thì không sao, đến Toán thì lại càng không phải "nghề của chàng", chỉ viết lại từng chữ là đủ thấy mệt.
 
- Cái này đọc sao mấy em?
 
- Dạ "giao" thầy.
 
- Còn cái này?
 
- Dạ "thuộc về" thầy.
 
- Câu e cũng vậy..., í quên, còn cái gạch này nữa, có giống cái kia không mấy em, khác chứ? 
 
- Dạ cái đó là "không thuộc về"...
 
- Thầy cũng không rành mấy cái này nữa, khổ quá, thôi rán đi mấy em, còn có mấy câu sai nữa thôi...
 
Đến ngày thứ hai. vì lớp có cả Anh lẫn Pháp văn nên bài thi khác nhau, 2 giờ đầu cũng là ông thầy Triết gác, môn sử địa khai mạc là tụi tôi đã cãi nhau ỏm tỏi:
 
- Trời ơi, mấy câu này sao mậy?
 
- Ai biết, bỏ đó đi.
 
- Còn câu 12.
 
- Tao làm c.
 
- Ê! Ngu, a đó.
 
- Giỡn hoài chớ. Còn mày, Hằng?
 
- Tao làm b.
 
- Trời ơi, mấy ngài này là ai đây?
 
- Tổng thống Pháp đó mày.
 
- Ai hổng biết. kệ ổng chứ, ăn nhằm gì mình mà cũng hỏi, bởi dzậy tao ghét ai nói chuyện người ngoài ghê...
 
Với xấp bài Pháp văn, tôi lướt qua rồi để đó, làm Anh văn, con nhỏ bạn thân tôi sinh ngữ chính là Anh, tới Pháp thì nó bí bèn la hoảng lên:
 
- Ê, đứa nào làm bài hổng được làm giùm tao coi.
 
- Giỡn hoài mày, tao đang làm, ê Tuyết, Anh văn chưa?
 
- Rồi, còn mày?
 
- Xong grammaire rồi, ê cái conversation này "thú... vật" quá mày .
 
- Trời ơi, vậy con Đào có làm vocabulaire chưa?
 
- Nó đang làm sử địa của nó.
 
- Ê kêu nó mau mau lên chớ.
 
- Mày làm Anh văn rồi làm cho tao coi, tao làm được có 9 câu hà, điệu này chắc "đậu cành mềm" quá.
 
- Ê, Tân! 105.
 
- 105 a hả?
 
- Ê, đọc giùm 15, 16, 17, 18 đi.
 
- Trời đất, b, e, c, e.
 
- Chúa ơi cứu em, trời ơi, tao bỏ từ câu 29 tới... hết! 
 
- Hay hé!
 
- Rồi chưa, đọc Pháp văn cho tao đi, 41.
 
- Sao hổng coi, đồ quỉ, 41 bỏ, 42 a, b, e, d, e, b.
 
- Ê, bê hay đê, đọc chậm đó.
 
Vì giáo sư gác 2 giờ sau cũng quá hiền, thế là qua hai ngày thi thảnh thơi.
 
Đến lúc biết kết quả, lại cũng nhằm giờ ông Triết, trước hết ông nói:
 
- Riêng bài Triết thì rất đáng khích lệ...
 
Tụi tôi khoái chí:
 
- Dạ, tụi em vẫn giỏi.
 
- Dạ, dù khó cũng rán làm...
 
Nhưng than ôi:
 
- Rất đáng khích lệ học thêm nữa vì người cao nhất chỉ đúng 34 câu!
 
- Trời, thầy làm tụi em quê quá thầy!
 
- Tại thầy cho khó quá mờ.
 
- Thầy cho tụi em chả hiểu gì.
 
Và tiếng thì thào:
 
- Phải bữa đó có mấy ông kia mình la lên là chưa học tới bài này sao thầy cho thầy, để ổng quê chơi.
 
- Ừa, ổng làm bộ cho hết chương trình để người ta tưởng ổng dạy hết rồi.
 
Kết quả là chỉ có vài người trên trung bình có thể hi vọng mong manh đậu thôi, cả lớp méo như kẹo.
 
Đến lúc ông thầy sửa bài Pháp văn, tụi tôi lại rên:
 
- Bài khó quá thầy.
 
- Tôi thì tôi thấy, nếu Pháp văn khó sao nghe nói các em môn nào cũng tệ? 
 
Thế là quê cứng người, khớp cái buồn luôn.
 
Coi nhau như thế mà còn không đậu nổi, khi vô phòng thi thì làm răng mà coi. Ôi trắc nghiệm, ta đau khổ chào mi...
 
 
CHI      
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 138, tuần lễ từ 28-6 đến 5-7-1974)
 

Thứ Hai, 23 tháng 6, 2025

NIỀM TIN CHƯA MẤT - Võ Hồng

Thằng con tôi ở trần và dang nắng cả ngày. Hỏi lý do vì sao, nó không chịu nói. Tôi phải ôn tồn giảng cho nó nghe rằng dang nắng lắm nhiều khi cũng nguy hiểm: có thể bị nhức đầu, bị cảm nắng sinh bệnh.


- Con đừng nên làm phiền Ba. Ba đi làm vắng cả ngày thế mà lỡ con bệnh thì ai săn sóc cho con? Những lần con đau con có nhớ rằng Ba phải thức suốt đêm bên giường con không?

Thấy tôi thật tình lo lắng, nó nói:

- Nhưng mà... lũ học trò cứ gọi con là heo luộc.

- "Heo luộc" là cái gì?

Tôi ngơ ngác hỏi.

- Tụi nó nói da con trắng như heo luộc.

Không thể nín được, tôi bật cười to một tràng dài. À ra con heo luộc phải dang nắng để thành con heo quay đây mà! Thời đại đổi thay, ngày xưa người ta yêu màu da trắng trẻo còn ngày nay người ta chuộng màu da rám nắng. Quả tình có nghe con tôi nói tôi mới để ý thấy rằng độ này da dẻ nó có rám đen đi phần nào. Ngày còn má nó, da nó trắng như con gái. Tôi nhớ đến những buổi trưa mười giờ, bãi biển đầy những cô gái nằm phơi nắng. Họ đội mũ lác rộng vành và đeo kính râm. Những chàng trai da nâu hãnh diện đi đi lại lại. Quan niệm đẹp có thay đổi nhiều thật nhưng tôi không ngờ nó lại ăn sâu cả vào lớp trẻ con mới mười tuổi. Hồi tôi còn nhỏ đi học thầy giáo yêu nhất những học trò mặt mũi trắng trẻo đã đành, cả đến chúng tôi cũng chỉ thích chơi với những đứa bạn mặt mày trắng trẻo. Những đứa đen đủi nhiều khi bị chế giễu một cách tàn nhẫn.

Tôi nhìn kỹ lại con tôi hơn. Nó chỉ đánh một cái quần đùi màu đỏ, - mãi đến bây giờ tôi mới tự hỏi tại sao chị ở lại cứ bắt nó mặc quần đùi đỏ, mua chi mà một lần đến ba, bốn cái quần đùi đỏ, - còn thì mình trần cả ngày. Tôi tưởng tượng đến một lúc nào mình nó sẽ đen như một con heo quay. Và tự nhiên tôi nghĩ đến một hình ảnh, không phải trong tương lai mà chính ngay trong quá khứ tôi đã sống. Tôi nhớ đến anh Tộc, người bạn học của tôi hồi còn lớp Tư. Lúc bấy giờ chúng tôi vào khoảng mười, mười một tuổi. Mình Tộc gầy đét, hai chân như hai cái que. Đã thế lại chuyên môn mặc quần đùi khiến chúng tôi mỗi lần gặp anh là phải để ý ngay đến cặp chân que tăm. Không biết anh ta khéo xếp thế nào mà cái quần đùi nào anh mặc cũng cũ, cũng sờn đít hoặc rách đít. Tôi chưa hề thấy anh mặc một cái quần đùi mới. Không mới mà có cũ, thế có lạ không? Anh không bao giờ mặc áo. Đi từ đầu làng đến cuối làng mà cũng để mình trần. Đánh bi đánh đáo cả ngày, hết bắt dế đến câu cá, lúc nào anh cũng phơi mình dưới nắng khiến da cứ tím sậm lại. Người lại gầy, xương sống chạy một hàng dài gồ lên, còn xương sườn thì đếm đủ mười hai đôi. Hai núm vú thâm dán sát vào da như đầu của hai chiếc đinh bảy phân ai đã đóng vào ngực. Ngực lép và bụng lép nhưng cái rún lại béo bở. Rún của ai cũng thõm vào, hoặc tròn như lỗ đáo, hoặc méo xệch như cái miệng cười mỉm, chỉ riêng rún của Tộc thì lồi ra một đoạn dài gần hai phân, trông như cái núm vung. Rờ tay vào thấy mềm mềm những thịt. Lúc bấy giờ ở xóm tôi có một gánh hát bội đến trình diễn thường xuyên, chúng tôi cứ đợi đến chín giờ khuya rạp thả giàn là ùa vào coi khỏi mất tiền. Rạp hát lấy tên rạp là Thạnh Xương. Thấy Tộc mình chỉ toàn những da và xương, một người bạn có nhiều sáng kiến bỗng đặt tên cho Tộc là thằng Thạnh Xương. Tộc không phản đối mà nhận cái biệt hiệu mới một cách vui vẻ. Do đó mỗi khi đùa nghịch chúng tôi có thể gọi tên Tộc hay tên Thạnh Xương cũng được.

- Ê Tộc, thách mày lặn một hơi cho qua bờ sông bên kia đó.

- Thạnh Xương, Thạnh Xương, leo lên cây bàng gỡ dùm con diều cho tao một tí mày.

Tộc không chịu thua một cuộc thách đố nào, không từ chối một sự nhờ vả nào. Kết quả của những cuộc mạo hiểm là mình Tộc mang đầy những vết sẹo. Anh em ai cũng mến Tộc vì Tộc chấp nhận mọi sự đùa nghịch của anh em. Tộc không bao giờ cáu vặt. Hoặc là thách đánh nhau hoặc là tha thứ không thèm chấp, thế thôi. Không thèm trả thù ngầm, không thèm nói láo.

Tộc ham chơi đáo đến nỗi có hôm mê mải ăn thua mà đứa nào giấu áo không biết. Đến lúc trống đánh, chạy đi tìm áo, hỏi ai cũng bảo không biết, lạy ai cũng không chịu chỉ giùm khiến Tộc òa ra khóc. Tộc sợ thầy lắm. Nhưng mà cái tật ở trần cởi áo vắt vai, Tộc vẫn không thể bỏ. Đến sân trường thì bỏ sách vở xuống cỏ, đặt áo đè lên trên rồi thì chơi mải chơi mê không còn biết trời đất gì nữa. Mãi đến khi trống đánh vào lớp mới lật đật bỏ trò chơi mà vội vã mặc áo vào. Có lần vừa cãi vã ăn thua vừa hẹn hò tái đấu, anh cài hột nút này sang khuy áo kia mà không biết. Khi sắp hàng vào lớp, ai nấy đã ngồi an vị rồi thì thầy Nghĩa, thầy giáo chúng tôi, đi soát qua lớp một lượt. Thầy chỉ tay sang Tộc, gọi:

- Tộc, lên bảng.

Tộc vụt đứng dậy, nhanh quá, như một cái gân bị giật. Có lẽ người anh chỉ có gân và xương nên sự phản ứng mới lẹ như thế. Anh thoăn thoắt bước lên bảng, vô tư như khi đi nhặt một hòn bi. Đứng cụng nhằm bảng đen mới dừng lại. Rồi im lặng, một ngón tay bôi lên bảng vẽ hình con cua con quạ gì đó. Thầy Nghĩa quát:

- Quay mặt trở lại!

Anh vâng lời quay mặt trở lại và cả lớp cười rộ lên vì hai cái vạt áo gài khuy so le. Anh ngơ ngác không biết vì sao các bạn cười mình, thầy hỏi:

- Hồi trưa mày làm gì?

Tộc trả lời ngay, không phải suy nghĩ:

- Dạ thưa thầy hồi trưa con ăn cơm xong thì mẹ con sai con gánh nước mắm qua nhà bà Chức Ba. Kỳ nước mắm trước bị thiếu nắng, dang không kỹ nên mới để nửa tháng mà đã trở, thúi quá...

Lũ học trò cười rộ lên, to hơn trước, thế mà Tộc vẫn điềm nhiên nói tiếp. Nhưng tiếng ồn ào lớn quá, chắc cả lớp không nghe được gì, duy chỉ có những đứa ngồi bàn đầu như tôi là nghe rõ tiếng Tộc chậm rãi tiếp:

- ... Bà Chức Ba bắt đền nói mẹ con mà không đổi nước mắm khác cho bà ta thì bà ta...

Đến đây thầy Nghĩa đập mạnh thước gạch vào mặt bàn một tràng dài và cả người nói lẫn người cười đều im lặng, Thầy giận dữ nói:

- Ý tao muốn hỏi mày hồi trưa mày làm gì mà đi học mặc áo xốc xếch như vậy. Chớ mày gánh nước mắm cho bà Chức Ba hay bà Chức Tư gì thì tao đâu cần biết, nước mắm của mẹ mày thúi hay thơm cũng thây kệ mày.

Tộc cúi xuống nhìn vạt áo của mình và lặng lẽ cởi nút ra rồi gài lại, vẻ thản nhiên như không có việc gì xảy ra. Thầy nói:

- Thôi cho đi xuống.

Tộc "dạ" một tiếng, lủi thủi đi xuống nhưng khi đến dãy bàn thứ tư không quên nháy mắt sang một đứa bạn bên cạnh. Chúng tôi ai cũng biết thầy Nghĩa không có cảm tình với Tộc, nhưng Tộc, hình như anh lại không để ý đến điều đó. Tính thầy Nghĩa cẩn thận, ưa sắp đặt trang hoàng cho lớp đẹp đẽ. Những khẩu hiệu "Tiên học lễ hậu học văn, Trọng thầy mới được làm thầy, Chăm chỉ sạch sẽ...", được thầy cắt bằng giấy màu treo cân đối. Những hình vớ vẩn xanh đỏ lòe loẹt như hình Phúc Lộc Thọ, Sư tử hí cầu thầy cắt ở nhãn pháo hay nhãn hương, những tấm bưu thiếp hình chợ hình phố, thậm chí có những ảnh ả xẩm thầy cũng lồng giấy bóng treo khắp tường, chi chít, rộn ràng bên cạnh những tấm địa đồ, bản đồ nghiêm trang, đứng đắn. Thầy coi chừng tóc tai và quần áo của học sinh luôn. Không phải với mục đích bảo vệ sức khỏe, chắc thế, mà chỉ vì sợ đốc học hay thanh tra bất chợt tới. Sách vở bút mực thì khỏi phải nói. Mỗi lần sắp có thanh tra tới khám trường thì chúng tôi thật là khổ sở với thầy. Thầy tập đứng dậy, tập ngồi xuống, thầy bắt bao lại sách vở, bắt cắt tóc, bắt cắt móng tay, bắt mặc bộ quần áo nào đẹp nhất. Sợ lũ chúng tôi quên đi những lễ nghi tối thiểu, thầy bắt chép và học thuộc lòng một bài nhan đề "Lời khuyên học trò". Bắt đầu như thế này:

Trống trường vừa đánh mau mau,

Sắp hàng ngay ngắn trước sau đàng hoàng.

Đừng nói chuyện chớ làm ồn

Học trò như vậy mẹ cha vui mừng.

Sau này tôi mới biết rằng đó là một bài thơ dở, sai âm luật. Chắc do thầy sáng tác. Vì lâu lâu thầy lại cho phép thêm một đoạn ám chỉ khuyết điểm nào đó mà thầy vừa khám phá ra. Ví dụ hôm thầy đè cổ thằng Hùng đánh ba roi vì tội hái trộm dưa leo bị bà Tang lên mét giữa lớp thì chiều đó thầy bắt chép thêm một đoạn "Lời khuyên học trò" (tiếp theo):

Dưa cà là của người ta

Mình đừng khuấy phá hái mà không nên.

Bắt được đã phải chịu đòn

Lại làm xấu hổ tổ tiên ông bà.

Tôi không biết bao giờ bản trường ca này mới chấm hết. Chỉ biết mỗi lần thầy dạy dư giờ hay những chiều mùa đông chưa tan học mà trời tối quá không thấy mặt chữ thì thầy bắt cả lớp ê a đọc bài "Lời khuyên..." như những tín đồ tụng niệm giáo điều. Tất nhiên là với một thầy giáo cẩn thận dường ấy và nhất là sợ thanh tra tới mức ấy thì Tộc không phải là một cái hoa đẹp đáng để cho lớp và cho thầy hãnh diện. Tóc thì dễ thường đến hai tháng mới cạo một lần, - cạo chớ không phải cúp, - thành ra tóc mọc lấn xuống trán, tóc mai chỉa nhọn xuống nửa má. Cái mặt trở nên quắt lại bằng bàn tay. Áo quần thì như trên đã nói. Thành ra thầy có nhiều thành kiến đối với Tộc, những thành kiến khiến có lần Tộc bị mắng oan. Một hôm giữa lúc sắp hàng, thầy khám sạch sẽ. Thầy kéo hẳn Tộc ra khỏi hàng, chỉ vào cặp chân đen:

- Mày ở dơ thế kia?

Tộc thưa liền:

- Thưa thầy con mới tắm ạ.

- Mới tắm cái gì? - Thầy sừng sộ nói - Cái cổ đầy những đất thế này.

Thầy vừa nói vừa lùa ngón tay kỳ cọ nơi cổ của Tộc. Nhưng quả không có một lằn đất nào dính nơi tay thầy cả. Thầy hơi ngượng, đứng im nhìn kỹ Tộc từ đầu đến chân. Rồi thầy chỉ xuống hai cái mụt Tộc mang ở cổ chân:

- Ở dơ - ghẻ chốc thế kia mà nó còn cãi tao nữa.

Tộc vẫn trả lời tỉnh bơ:

- Dạ, thưa thầy không phải ghẻ ạ. Đây là vết đỉa cắn. Hôm chủ nhật con đi mót lúa đám ruộng ông Thuận bị đỉa bâu cắn. Con rịt thuốc mãi mà chưa lành. Mẹ con nói đỉa mén nó cắn là độc lắm.

Thầy không trả lời, nhún vai một cái rồi ra lệnh cho vào lớp. Ở trong lớp có ai làm quấy, ví dụ làm đổ mực xuống nền xi măng, bôi tay dơ lên vách, ném đá bể ngói... mà thầy chưa tìm ra thủ phạm là y như thầy nghi cho Tộc. Chúng tôi cứ tưởng Tộc thù thầy, nhưng tuyệt nhiên không. Đi cùng chúng tôi đến nhà thầy nộp bài, Tộc hay đảo mắt nhìn khắp đó đây rồi liên tiếp đề nghị:

- Thưa thầy cây cau ở ngang chái bếp của thầy đã có buồng đầy rồi đó. Để con leo bẻ cho thầy. Hai hôm nữa thì già mất.

Thầy hỏi:

- Mày leo gì được?

Thì Tộc vồn vã ngay:

- Ồ! Con leo giỏi lắm. Để con leo thầy coi. Con leo không cần "nài" mà.

Thế là từng thót một, Tộc thoăn thoắt leo lên bám ở trên đọt cau, nhanh nhẹn bẻ cả một buồng rồi tuột xuống. Lần khác đến thăm thầy, sau khi cả bọn chia tay nhau vục gáo vào vò nước lã uống lấy uống để, Tộc bỗng nhăn mặt nói:

- Nước hôi bùn quá!

Chúng tôi đưa mắt lừ Tộc, có ý bảo: "Chết! Sao mày ăn nói hỗn vậy? Nước nhà thầy mà mày chê hôi".

Nhưng Tộc thản nhiên nói bô bô:

- Muốn hết hôi thì phải đảo. Ở dưới đáy giếng thiếu gì bùn non rồi những dây gàu đứt, đồng xu, mẻ sành, cắc bạc.

Thế rồi bỏ chúng tôi, Tộc chạy lên nhà trên thảo luận gì với thầy không biết. Lúc ra về, Tộc nói:

- Chủ nhật tới, tao lại đào giếng giùm cho thầy.

Tộc sống tự nhiên quá, thấy việc thì làm không câu nệ, nghĩ gì nói nấy không giấu giếm. Hình như anh không có mặc cảm. Nhà nghèo, mặt mũi không đẹp, áo quần xốc xếch, nhưng tôi chưa bao giờ thấy anh ngượng ngập rụt rè. Tôi có cảm tưởng tâm hồn anh hiền lành như một cây xanh, cây ổi cây bàng nào đó đang sức lớn. Đâm chồi, ra lá, nứt hoa... Cây cứ bình tĩnh làm nhiệm vụ của mình, không cần nhìn xem những phản ứng của các cây đứng xung quanh nó. Không thấy cây xấu hổ vì những lá héo, giấu giếm những cành gãy, mà cũng không thấy nó hãnh diện vì chồi xanh non mướt hay hoa nở đầy cành. Tộc cũng giống như vậy. Nhưng tội nghiệp cho Tộc là Tộc không hoàn toàn được là một cái cây. Cái cây không phải học bài và làm bài. Còn Tộc thì phải khổ sở rất nhiều mỗi khi phải mó vào sách vở. Tộc học rất dốt, không mấy khi thuộc bài. Tính thầy Nghĩa lại thích lái cho học sinh không thuộc bài nói bậy mà Tộc thì nói bậy một cách tín cẩn. Đủ biết anh chẳng hề ngó qua bài một lần. Mỗi khi thầy nhắc sai và anh dò dẫm nói theo là cả lớp im phăng phắc để đợi nghe những sự bất ngờ lý thú. Chẳng hạn bà Trưng thù ông Thi Sách đã giết chồng bà là Tô Định..., hoặc nước Việt Nam đông giáp vịnh Thái Lan, tây giáp bể Nam Hải v.v... Đến giờ đọc tiếng Pháp thì thật là không thể nín cười được. Anh không phân biệt được chữ nào đọc là "ơ" chữ nào đọc "e", chữ z, w, ch anh đọc cứ lộn phèo cả lên rồi thêm dấu huyền dấu nặng, rồi ậm ừ, rồi cà lăm nữa. Một người pha trò khéo cũng không thể làm cho lớp học náo hoạt hơn anh. Tật cà lăm sau này gần thành một cố tật của anh. Tôi cho rằng đó là do những giờ học Pháp văn mà ra. Mới đầu năm khi còn học bài một bài hai thì anh cà lăm ít, đến chừng sang bài hăm bảy, hăm tám thì anh cà lăm nặng hơn, cuối cùng thì anh chỉ "cà" chứ không nói nữa. Mà mỗi lần "cà" như vậy thì trông anh khổ lắm. Mắt cứ nhắm tít đi còn cái lưỡi và hai hàm răng thì run bấn lên. Thầy giáo chịu thua phải cho anh về chỗ.

Lẽ cố nhiên là học hành như vậy anh không đỗ nổi bằng sơ học yếu lược. Và cuối niên khóa anh phải nghỉ học. Khi chúng tôi, vài đứa, mang sách đi học ở trường huyện, chúng tôi thỉnh thoảng gặp anh ở bến đò đầu làng. Vẫn gầy, vẫn đen, tưởng chừng nếu xòe một cây diêm châm vào là anh bốc cháy thành ngọn lửa ngay. Gặp chúng tôi, anh toe toét cười:

- Đố tụi mày "la ma-rơ" là cái gì? (1 )

Rồi không đợi chúng tôi trả lời, anh nói luôn:

- Tao ngồi buồn mở cuốn sách Langue Francaise đọc lại mà hóa ra giỏi tụi mày ơi. Té ra bây giờ tao mới biết chữ Tây là gì. Nè, tao đọc cho tụi mày nghe, nghe không: la lame, la lac, papa a vu kilo, à Hanoi il y a un pont... 1

Anh đọc hàng tràng dài, đọc sai âm sai giọng nhiều lắm nhưng trông chừng hỉ hả và không còn ngọng khổ ngọng sở như ngày xưa nữa.

Tôi hỏi:

- Bây giờ mày ở nhà làm gì?

- Tao đi củi.

- Có còn đánh đáo nữa không?

- Tao đánh ách-xì, bài cào, không thèm đánh đáo nữa. À, bữa nào tao cho mày một cái ná cao su. Tao đi củi kiếm được nhiều cái chạng "ngon" lắm.

Sau đó, tôi càng ngày càng ít gặp Tộc dần. Có một độ nào tôi nghe Tộc mê con gái ông xã Chín nhưng bị cô này chê. Tộc thất tình bỏ ăn bỏ uống và đâm ra lừng khừng như người sắp điên. Người ta tưởng Tộc có thể nhào xuống Bầu Di hay cầu Ông Chừ để tự tử vì vụ thất tình này nặng lắm. Người nhà phải canh gác dòm chừng Tộc luôn. Nhưng bỗng một hôm Tộc mất tích. Cả nhà đổ xô đi tìm. Mẹ Tộc khóc mếu máo. Tự tử thật chăng? Nhưng tự tử sao lại mang hết quần áo, nịt, mũ và cái bi-đông nước theo làm gì? Tuy vậy mẹ Tộc vẫn khóc mếu máo đi tìm. Chợt nghe tin ở xóm Long Hòa con Lành, con ông Câu Hò, cũng mất tích đúng vào đêm đó. Ông Câu không khóc mếu máo mà chỉ chửi. Ông nốc rươu vào thật nhiều, - nhà ông nấu rượu lậu nên tha hồ cho ông nốc, - khiến mặt đỏ tía như một con gà đá rồi oang oang kể tội con gái ra mà chửi. Ông bảo con ông mê ngu mê dại một thằng chỉ có cái rựa và đôi dép cao su. Ông bảo cái nhà thằng đó không bằng cái chuồng heo nhà ông. Ông bảo con mẹ nó không đáng xách giày xách dép cho ông. (Say rượu rồi nói khoác vậy thôi chớ thực tế ông không bao giờ mang giày mang dép, chỉ thỉnh thoảng lắm mới mang guốc). Người ta đồn rằng hai đứa, Tộc và con Lành, rủ nhau bỏ đi hoang nhưng người ta không biết hai đứa đi đâu. Nhà Tộc nghèo không có phương tiện đi tìm xa còn nhà ông Câu đông con nên bỏ đi một đứa cũng không thiếu. Đi đâu thì đi, hết muốn đi thì về, chẳng ai thèm tìm. Tôi không phải là bà con của hai người nên tôi càng có lý do để không biết rõ hành tung của hai người sau đó.

Lẽ ra thì sự quan hệ giữa tôi và Tộc chỉ có thế, chỉ dừng lại ở mức đó mà thôi. Nếu không vì một thằng con thích ở trần và dang nắng thì tôi đã quên hẳn người bạn ngày xưa của tôi rồi. Cuộc sống bon chen bận rộn đâu có cho phép tôi năng nhìn về dĩ vãng để tìm gặp lại những dáng người quen? Vả lại, mỗi khi có dịp hồi ức tôi cũng ít khi chịu khó vẹt đám người đông đảo lẫn lộn ngày xưa để tìm cho ra đúng cái dáng gầy gò đen đủi của anh. Thế mà, ngược với ý muốn của tôi, sự việc đến đây vẫn chưa chịu chấm dứt. Trong khi tôi ngồi mơ màng nhớ đến anh, đến giai đoạn cuối cùng của cuộc đời anh mà tôi biết, giai đoạn bỏ nhà ra đi với đủ cả dây nịt và bi-đông nước, có thể với con gái ông Câu Hò vì đó chỉ mới là dư luận, ức đoán, thì có bất ngờ không, - ở một nơi xa xôi kia anh cũng nghĩ đến tôi. Một bức thư không mong đợi đem đến cho tôi sự khám phá êm đềm này. Số là cách đây chừng nửa tháng tôi nhận được một bức thư. Nhìn nét chữ lạ viết ở phong bì, nhìn con dấu nhà bưu điện Ban Mê Thuột, tôi rất hồi hộp. Tôi không thích những bức thư của người lạ vì nó hay làm cho tôi bồi hồi lo lắng. Ở Ban Mê Thuột tôi không chắc có người quen nào. Hay có ai gửi lầm chăng? Nhưng nhìn lại địa chỉ người nhận thư thì quả là tên tôi. Tôi lật đật xé toẹt phong bì, không kịp lấy kéo cắt. Nội dung bức thư như sau:

Ban Mê Thuột, ngày... tháng...

Thưa anh, tôi là Trần Văn Tộc. Anh có còn nhớ Trần Văn Tộc không, Tộc "Thạnh Xương" của các anh đó mà. Riêng tôi vẫn còn nhớ anh rõ lắm, anh học trò trắng trẻo mà tôi thường gọi đùa là "con chuột rụt rè". Anh còn nhớ không, anh tức mình gọi lại tôi là "con mèo khiêu khích" nhưng thay vì con mèo mun (vì tôi đen) anh lại gọi ác là con "Bạch Tuyết". Nhưng con mèo không vồ con chuột mà yêu con chuột lắm. Đến bây giờ xa cách vài mươi năm rồi mà vẫn nhớ đến con chuột đây.

Tôi có đọc mấy truyện của anh viết về những ngày thơ ấu của chúng ta khi còn học ở trường Ngân Sơn. Tôi cảm động nhớ lại những ngày xưa, nhớ lại ông Cai Tròn, nhớ lại thầy Nghĩa mà trong truyện anh đổi tên lại là thầy Hiền. Thầy Nghĩa đã chết rồi, chắc anh đã biết. Bây giờ ngồi nhớ lại thầy, tôi thấy tôi thương thầy hết sức. Đành rằng tôi học hành chẳng đỗ đạt được gì, nhưng đó toàn là lỗi của tôi. Tôi học dốt mà lại lười quá. Giá vào tay một thầy giáo khác thì tôi đã bị đuổi học lâu rồi. Thế mà thầy vẫn chịu đựng, vẫn chấp nhận tôi, vẫn cố dạy cho tôi biết rằng la mare là cái ao, le kilo là quả cân... những kiến thức đó, ra đời tôi không dùng được gì, nhưng chúng cho tôi một cảm tưởng êm đềm là ngày thơ ấu của tôi không đến nỗi bị bạc đãi. Lớn lên khi được biết rằng những người học trò tệ lậu như tôi dễ làm cho thầy giáo bị ghi điểm xấu, bị chậm tăng lương, chậm thăng ngạch trật, tôi thấy áy náy trong lòng vì tôi cho rằng sở dĩ thầy phải già đời ngồi dạy ở một xó nhà quê này, biết đâu chẳng phải vì tôi. Năm 1959 tôi và nhà tôi cùng mấy cháu có về quê thăm. Lúc bấy giờ tôi mới được biết rằng ngôi trường cũ của chúng ta ở đầu núi đã bị phá hoại vào những năm kháng chiến. Cây cà-te cao to, trụ sở của lũ ma quỉ mà ngày nhỏ các anh sợ, đã bị chặt mất rồi. Tất cả chỗ ấy bây giờ còn là khoảng không. Hình ảnh của chúng chỉ còn lại trong tâm hồn của chúng ta thôi.

Anh bây giờ đã được mấy cháu rồi? Tôi thì được năm cháu. Ba cháu lớn học ở Lycée Yersin. Vợ tôi cũng thường ở Đà Lạt hơn ở Ban Mê Thuột, chúng tôi có tậu được một vi-la ở cité Saint Benoit. Tôi bây giờ nhờ trời làm ăn cũng khá dư đủ. Có được hai nhà máy cưa và một rạp hát. Anh có biết tôi đặt tên cho rạp hát của tôi là rạp gì không? Chắc anh không đoán được đâu. Tôi đặt là rạp Thạnh Xương. Để nhớ lại những kỷ niệm ngày xưa.

Thôi, giấy ngắn tình dài, chúc anh và quý quyến sức khỏe. Nghỉ hè rảnh rỗi mời anh lên Ban Mê Thuột chơi nghe? Tụi mình gặp nhau mới nói hết chuyện.

Nhớ ghi địa chỉ là:

Ông Trần Minh Thạnh

4I, đường Ama Trang Long

Ban-mê-thuột.

Đọc xong thư Tộc, - bây giờ là Trần Minh Thạnh, - tôi vui vẻ như chính tôi đã làm giàu, đã làm chủ hai nhà máy cưa và một rạp hát Thạnh Xương. Tộc không nói rõ về người vợ Tộc, tưởng như ai cũng đã biết rồi, nhưng tôi đinh ninh rằng đó là cô Lành con ông Câu Hò. Tôi tưởng tượng thấy một chiếc ô-tô sang trọng chở Tộc và cô Lành đỗ xịch trước cái quán của bà mẹ Tộc ở đầu làng. Bao nhiêu người hàng xóm bâu lại xem, trầm trồ bàn tán. Những đứa trẻ con ở trần và đen đủi như Tộc ngày xưa đứng vây quanh chỉ trỏ, sờ mó. Chiếc xe ấy lại đỗ xịch trước nhà ông Câu Hò. Ông Câu Hò hẳn là thôi không chửi nữa. Nghĩ đến ông Câu tôi chợt cười thành tiếng. Tôi nhớ đến những đôi giày đôi dép tưởng tượng của ông ngày xưa khi ông cất tiếng chửi "thằng" Tộc đi hoang đã dụ dỗ con Lành ngu dại của ông. Niềm vui khi đọc thư Tộc tôi giữ cho đến suốt ngày. Tôi cảm thấy bớt đơn chiếc và cuộc đời dễ sống hơn. Tộc đại diện cho một loại nhân cách miễn nhiễm, không tà khí. Lúc nào cũng nghĩ tốt cho người, không ác ý, không đối phó, không bị lôi cuốn, và sẵn sàng làm điều tốt cho người, không mưu tính, không mặc cả. Tôi tin chắc sự làm giàu của Tộc rất trong sạch. Lòng thương yêu thầy mà Tộc nói trong thư chắc chắn là thành thật chớ không phải là một lời sáo, một công thức xã giao. Những mẫu sinh hoạt vụn vặt của Tộc khi còn đi học chắc chắn là không chịu sự chi phối của một thành kiến nào. Tâm hồn Tộc như cái phòng rộng trống trơn, không có xó kẹt, không có bóng tối. Tộc làm những điều mình nói và có thể nói cả những điều mình làm. Có thể nói cả những điều mình nghĩ nữa. Trong một xã hội nhiễm độc mà dối trá đã thành điển-lệ, mà thù hằn đã thành khí giới phổ thông, quả tình nhân cách của Tộc vươn lên như một chồi cây mạnh giúp tôi tin cậy ở cuộc đời.
 
 (Trích từ tập truyện Lá Vẫn Xanh)      
--------------------------------
1lưỡi dao, cái hồ, cha đã thấy quả cân một ký, ở Hà nội có một cái cầu.
    

Thứ Sáu, 20 tháng 6, 2025

TA BỖNG DƯNG QUÊN - Tôn Nữ Thu Dung


Cũng như mọi lần, tên nhỏ đứng đón ta trước cổng trường rồi đi theo lải nhải đến tận khúc cuối của con đường Huỳnh Thúc Kháng. Ta cóc thèm trả lời vì sợ hao nước miếng, ta cóc cần trả lời vì còn để hơi sức về nhà ru bé Nai Tơ. Đôi lúc ta nghe hắn với một nửa nụ cười. Đôi lúc ta nghe hắn với một nửa lỗ tai và một nửa con mắt, như hôm nay.
 
"Chào cô bé".
 
Ta muốn dậm chân một cái. Cô bé? Ta muốn cười khì một cái. Nhưng dậm chân rầm rầm và cười khì khi ngoài đường hổng phải là sở trường của ta mà là của nhỏ Dung, em ta cơ, nên ta im lặng.
 
"Ba mươi hai lần đón cô bé, tám lần hụt còn lại hai mươi bốn lần". 
 
Nữa, tên nhỏ giỏi tính toán. Cái điệu này chắc là dân ban B. Tam B, nhị B, nhất B? Ta cũng cóc cần để ý. Gì thì gì chứ giỏi lắm cũng học bằng nhỏ Dung là cùng. Mà học bằng nhỏ Dung thì nhất định phải kêu ta bằng chị, chị hai nữa là đàng khác. Thấy không, bạn nhỏ Dung, ông Tiên, ông Đạt, ông Nghĩa... lớn như vậy mà vẫn kêu ta bằng chị ngọt xớt thì cái tên con nít mặt búng ra sữa này dám kêu ta bằng cô bé thì còn ra cái thống chế gì nữa hở ông trời?
 
"Đáng lẽ tôi ngậm miệng như mọi lần".
 
Ừ nhỉ, sao chú nhỏ không ngậm miệng cho tiện việc sổ sách?
 
"Nhưng..."
 
Nhưng! Cái chữ không có trong tự điển của ta nhưng ai cũng quen miệng nói, kể cả ta.
 
"Mai là ngày bãi trường và vĩnh viễn tôi không còn được trở lại ngôi trường này nữa..."
 
Tại sao? Why? Pourquoi? Nghĩ vậy nhưng ta không nói. Lời nói là vàng nhưng im lặng đôi khi lại là kim cương.
 
"Tôi tự giới thiệu dù không ai thèm hỏi. Tôi là Lê Khắc Luật, học 12B4 Bá Ninh"
 
Thấy chưa, ta muốn reo lên vì ta đã đoán trúng. Cái mặt "toan tính" vậy không phải dân ban B thì ta đi bằng hai tay. Uổng thay, reo to giữa đường giữa sá không phải nghề của nàng nên ta đành ngậm miệng.
 
"Và nếu thi đậu tôi sẽ vào học Sàigòn, thi rớt tôi sẽ đi lính. Đàng nào cũng phải rời bỏ Nha Trang".
 
Ừ, bỏ Nha trang là cái chắc. Ta bỗng thấy tội nghiệp nhỏ Dung. Bỏ Nha trang vẫn là ước mơ của nhỏ. Cuối tháng sáu con nhỏ cũng thi và tràn trề hy vọng. Nhưng mơ ước được bay đi những vùng trời thênh thang Paris, London, Belgique hay gần gũi hơn Sàigòn, Đà Lạt, Huế chẳng khi nào thành tựu (hay sẽ thành ở một ngày nào xa xăm lắm?) Ta hiểu nhỏ, đồng thời ta cũng hiểu được hoàn cảnh gia đình nữa.
 
"Tôi muốn có một kỷ niệm..."
 
Một kỷ niệm" Bộ chú nhỏ chưa từng có một kỷ niệm nào cả sao kìa? Ta muốn cười ghê, nhưng trót... mặt lạnh như tiền nên ta đành... hàm tiếu.
 
"Một kỷ niệm đẹp để khi rời Nha trang còn một chút gì để nhớ".
 
Bài hát em Pleiku má đỏ môi hồng chạy về trong trí ta. Pleiku dễ thương lắm. Ấu thời của ta êm đềm trôi qua nơi đó nên ai nhắc đến là ta có cảm tình liền. Ta lẩm nhẩm hát trong miệng. Ta hát cũng được lắm chứ bộ, nhỏ Dung cứ xúi ta hát Hương Xưa, Hoài Cảm, Lá Đổ Muôn Chiều, Serénade, với cả trăm bài chi chi đó mà nhỏ thích, và ta thì đâu có ngại ngần gì... Ta hát thầm  thôi, em Pleiku má đỏ môi hồng và tóc em ướt và mắt em ướt và má em ướt, cả một chục chữ ướt, ướt và ướt nối tiếp nhau rồi mới tới "nên em dễ thương". Dễ thương! Chứ sao, còn hơn dễ thương mấy trăm lần lận : con dốc xuống phố, hàng cây trên đường Trịnh Minh Thế, rừng Phong Lan, ngôi trường Minh Đức rất thân rất yêu và ông thầy Bằng mập mập ưa cho ta kẹo nữa. Ta nhớ mãi và nhớ mãi.
 
"Chẳng hạn như là biết được tên và lớp học của cô bé".
 
Chà, nếu biết ta học lớp mấy thì chú nhỏ dội cơ ngay tức khắc, sức mấy mà dám nói tào lao như bây giờ, ta học Sư phạm Pháp văn và năm nay ra trường. Cái dáng ta nhóc nhóc bé con vậy chứ ta hai mươi tuổi rồi, ghê lắm đó! Chú nhỏ mười tám tuổi là cùng, phải không? Thua ta hai tuổi cũng may mắn cho chú nhỏ vì nếu thua năm tuổi chú nhỏ bị là học trò của ta rồi ; ta vẫn qua Bá Ninh thực tập lia lịa, chú nhỏ mải đứng ngẩn trông vời áo tiểu thư thì làm sao mà nhìn cho ra tà áo cô giáo của ta!
 
Sư phạm, ta chúa ghét cái nghiệp này. Ghét từ cái ngày ghi danh ta chỉ muốn thi rớt, muốn thiên hạ loại cái đơn xin ghi danh vào sọt rác để ta thư thái hân hoan chui vào một cái nghiệp hợp năng khiếu hơn. Nhưng có lẽ năm đầu tiên nên bài thi dễ. Có lẽ mấy ông nhận đơn muốn đào tạo một cô giáo bản lĩnh cao cường để đương đầu với nền giáo dục mới (ta ngẫm nghĩ mãi không hiểu nó có đau đớn như khi trượt patin lao đầu từ trên xuống không nhỉ?) nên bỏ qua cái tờ đơn xấc, nghịch và mất dạy của ta (ở chỗ lý do thi vào ngành sư phạm ta nhắm mắt ghi : rớt tất cả các phân khoa giá trị ở Sài Gòn, về đây cũng đành nhắm mắt đưa chân, thử xem con tạo xoay vần đến đâu!)
 
Nhớ có lần đi thực tập bên Võ Tánh, tụi con nít ăn cái gì mà mau lớn quá sức. Ta hơi khớp nên bèn biểu diễn một màn lạnh như tiền, tụi nhỏ hơi gờm gờm nên kháo nhau cô giáo nhỏ con mà hách hách. Khó ăn hiếp! Đứng trên bục nhìn xuống, mấy đứa nhỏ châu đầu vào nhau cười hích hích cười hà hà cười hí hí. Ta không nhịn được bèn quay lên bảng cười hì hì, thế có nản không cơ chứ? Rõ ràng ta chưa có chút gì gọi là tác phong mô phạm. Nhiều lúc học trò hỗn hào hay lì lợm ta muốn... ăn tươi nuốt sống chúng ngay tức khắc chứ không thèm nhớ gì đến bài giáo dục cộng đồng mà ông thầy đã khổ nhọc để nhồi cho ta. Ta nhức đầu muốn điên lên được vì ba cái điều lẩm cẩm lỉnh kỉnh đó.
 
Chú nhỏ thấy ta suy nghĩ có vẻ lâu lắc nên cười cười, chú nhỏ cười coi ngộ lắm, có đồng xu nhỏ bên má trái đàng hoàng nhưng vẫn thua bé Nai Tơ xa lơ xa lắc.
 
"Điều ấy dễ mà, cô bé nhỉ?"
 
Điều ấy? Ta trợn mắt. Điều ấy là điều gì? Trí óc ta chạy lung bung lang bang một hồi rồi mới tỉnh lại. À, cái tên ấy mà. Nhưng tên ai bây giờ nhỉ? Tên ta, cái tên thân yêu nhưng nhiều khi ta ghét thậm tệ, đã rất thân quen của những năm thơ dại hay là tên của đấng phu quân ta? Tôn Nữ Thu Nga hay Trần Tuấn. A, hay ta nói tên công chúa nhỏ. Trần Tuấn Hoài Khanh, cái tên ngộ nghĩnh lắm chứ có phải thường đâu. Ta hơi thắc mắc một chút, vì ta đâu còn là cô bé. Cô bé Tôn Nữ Thu Nga đã chết theo một ý nghĩa thơ mộng lẫn âu sầu buồn thảm nào đó rồi, bây giơ ta là bà Trần Tuấn, dễ sợ lắm! Ta vẫn nghe hụt hẫng một chút khi có ai gọi ta như thế. Hụt hẫng như không hề nuối tiếc vì ta đã chọn lựa và suy nghĩ khá lâu trước đó (có lẽ là trước cả Coup de foudre mà anh chàng uýnh trúng tim ta. Nhỏ Thu Dung không bao giờ tin có một thứ tình yêu... trời đánh như thế, nhưng rồi nhỏ sẽ biết, sau này).
 
Ta chắc lưỡi một cái, đổi chiếc cặp từ tay phải qua tay trái cho đỡ mỏi, chân vẫn bước đều. Nhỏ em quái đản mải vui chuyện ở đâu đó quên cả giờ đến đón ta, muốn cốc cho 5, 7 cái. Ta nghĩ thế, chắc ta sẽ là một cô giáo hung dữ trong tương lai.
 
Ô, con nhỏ kia rồi. Từ khúc cua ở Đinh Tiên Hoàng ta đã thấy chiếc kính cận lớn loang loáng ánh nắng chiều ; chiếc xe mini phóng như bay, con nhỏ cứ đòi vào Sàigòn dự thi đua xe đạp.
 
"Về sớm quá vậy chị Nga?"
 
Dễ giận chưa, đã đến trễ mà còn làm tàng, ta muốn đá mi quá ; nhưng đấm đá không phải là tác phong của một nhà mô phạm nên ta chỉ nguýt một cái thôi. Chợt nhìn thấy tên nhỏ tần ngần bên cạnh, nhỏ ngạc nhiên (nhỏ này, sao mà ai nó cũng quen cũng biết.)
 
"Luật biết chị Thu Nga rồi chứ hở?"
 
Tên nhỏ sửng sốt, lắp bắp:
 
"Ủa chị Nga đây hở? Chị học sư phạm cơ mà".
 
"Ừ, thì sư phạm chứ sao! Vì chưa có phòng nên ké bên trường Tây chút xíu".
 
Tên nhỏ quê cơ, đứng cứng ngắc như Từ Hải.
 
"Luật tưởng... tưởng..."
 
Nhỏ Dung cười, quay xe đi:
 
"Thôi về nghe, chúc thi đậu".
 
Ta ngồi sau quàng tay ôm hông nhỏ:
 
"Chị về nghe, khi nào Luật đến nhà chơi với... cháu, cháu xinh lắm".
 
Ta không nhìn lại, nhưng tưởng tượng nét mặt chú nhỏ, giấu mặt sau lưng Dung, ta cười bằng thích, và cười ngoài đường đâu có phải là tác phong nhà giáo, nhưng ta bỗng quên mất mình là cô giáo, ta cứ cười tỉnh khô. Và Chúa ạ, hãy tha lỗi cho con một lần và chỉ một lần thôi.
 
 
TÔN NỮ THU DUNG      
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 137, tuần lễ từ 21-6 đến 28-6-1974)
 
 
 

Thứ Ba, 17 tháng 6, 2025

MÙA HÈ CỦA BÉ - Nhã Ca


Theo anh Phong, để báo hiệu mùa hè, ở miền Trung, phượng nở đầy đường và ve kêu rộn rã. Khúc nhạc ve thì sầu thảm lắm, buồn ơi là buồn. Có thế, người ta mới gọi là ve sầu. Ở Sàigòn, khác hẳn. Để báo hiệu mùa hè, những chú dế ở đâu không biết, xuất hiện như giặc tới. Ngoài đường, dế kêu inh ỏi suốt đêm. Trong nhà, cũng có những chú dế nhờ nội tuyến, lọt vào, trổ tài ca hát ầm ỹ, làm nhức óc không chịu nổi.
 
Kẻ nội tuyến ở đây là thằng Bím. Chẳng là, anh chàng có những mùa chơi. Mùa đánh bi. Lúc nào trong túi anh chàng cũng đầy nhóc những hòn bi đủ màu, trong suốt. Bi rơi đầy nhà. Bi bừa bãi đến gây tai nạn. Rồi tới mùa chơi diều. Ông Bím thấy tụi trẻ con làm diều, khoái lắm. Lúc đầu, ông chờ có con diều nào lạc, rơi mắc ở cành cây, ông khèo xuống. Dao kéo chi trong nhà cũng mẻ hết. Ông làm con diều nào trông cũng thảm lắm cơ, và ông lấy ống chỉ của mẹ ra cột. Ông chạy diều không bao giờ bay lên cao, mà chỉ là là mặt đất. Ông chán những con diều bướng bỉnh rồi. Và bây giờ, kinh khủng nhất là mùa dế.
 
Bắt tội Bố, trưa nào nắng chang chang, phải lái xe đến tận Chợ cũ tìm mua dế cho Bím. Ông trở về, với những hộp, những lon. Bím hí ha hí hửng. Vừa vô tới nhà đã toáng cả lên:
 
- Tóc. Ai làm ơn cho xin sợi tóc đi.
 
Nói là xin xỏ, nhưng vừa trông thấy Bé, nó đã chạy ào tới vít đầu Bé xuống. Bé chưa hiểu gì thì bứt, bứt, đầu Bé đau nhói, mấy sợi tóc bị đứt bung. Đau quá, Bé nổi cục, tóm lấy thằng Bím, cốc vô đầu nó mấy cái. Đau phải biết, cho lần khác phải nhớ. Nhưng thằng Bím coi như chẳng thấm vào đâu. Nó đem mấy cái lon, cái hộp, chạy lui chạy tới, rồi chúi ở một góc nhà. Con Tí xoắn lấy:
 
- Đâu, đâu, cho chị coi với.
 
Thằng Bím đưa tay che lại:
 
- Hổng được nghen. Lớ xớ nó đi mất. Để nó cho em.
 
Rồi nó ba hoa:
 
- Xời ơi. Trên Chợ cũ nhế nhiều ơi là nhiều. Nhế cơm, nhế lửa, nhế cánh đen, nhế cánh xanh.
 
- Nhế nhế cái gì. Dế nghe chưa.
 
- Thì nhế. Nhế.
 
Con Tí bật cười. Lân cũng đứng coi, nhưng làm ra vẻ ta đây người lớn rồi, không thèm chơi dế nữa. Làm ra vẻ vậy, nhưng ai không biết là anh chàng thích mê đi. Cả Bé đây này, thấy mấy con dế cũng thích quá trời. Và Bé ngồi xuống bên cạnh chàng Bím:
 
- Cho chị coi với.
 
- Coi thôi nghe.
 
- Ừ.
 
Thằng Bím mở hộp ra, Bé chỉ thấy mấy con dế lấp ló, rồi nó đậy nắp hộp lại. Rồi nó đứng dậy.
 
- Đừng có ai đụng vô nghe. Cấm nghe. Để em đi lấy cỏ cho nó ăn. Ủa mấy sợi tóc đâu rồi. Mới đây...
 
Nó cúi tìm, nó xô con Tí, xô Bé, xô Lân. Nó bò giữa nhà. Nó thấy cái quạt trần quay, nó đổ tội cho cái quạt:
 
- Khỉ. Quạt mất hết rồi. Bay mất tóc rồi. Chị Tí, đền em đi.
 
- Tao vặn quạt bao giờ.
 
- Không biết. Chị Bé đền em đi.
 
- Tao đập chết giờ.
 
- Không cần, lấy tóc mẹ.
 
Bầy dế của thằng Bím chỉ tới chiều là thảm thiết lắm rồi. Con gẫy cánh, con đứt râu, con thì bò không nổi vì chỉ còn độc nhất một cái chân, và tới tối, chỉ có chú dế độc cước, là con thoi thóp thở. Lúc mười một giờ, lúc cả nhà đang coi Ti vi, gần tới đoạn chót một vở tuồng thì thằng Bím hét lên dãy đành đạch:
 
- Tao không cho mày chết. Nhế. Nhế. Mày có sống lại không? Hu Hu. Tao hổng cho mày chết. Hông, hông à nhe...
 
Đầu tiên, mẹ tưởng con dế cắn mổ gì thằng Bím. Lát, mới biết là con độc cước đã mệt đừ, hấp hối. Thằng Bím còn cột sợi tóc ngang mình con dế, và cố quay. Nó vừa quay vừa khóc:
 
- Bố ơi. Nó hổng chịu xòe cánh nữa. Nó lì. Nó nhất định chết. Con nhế, con nhế... hu hu...
 
Anh Phong dỗ dành:
 
- Nó chết rồi, còn xòe cánh gì nữa. 
 
Và anh bảo Bím thả con dế xuống, anh bế Bím lên:
 
- Được rồi. Để mai anh mua con khác cho. Thiếu gì. Anh bày cho Bím cách làm cho nó nổi hung đá nhau. Nuôi dế khó lắm, phải biết cách nó mới sống được.
 
Thằng Bím chùi nước mắt:
 
- Mai. Mai anh nhớ nghe. Anh nhớ mua nhé.
 
- Xong rồi. cho anh chơi dế với nghe.
 
- Chỉ cho anh Phong chơi thôi.
 
Bé vừa buồn cười vừa thấy tiếc. Ước chi Bé cũng có mùa chơi dế như thế. Bây giờ thì đã muộn. Thấy anh Phong cưng chiều thằng Bím, Bé ham ơi là ham. Ngay sáng hôm sau, anh Phong có giờ nghỉ, anh vội đưa thằng Bím đi mua dế.
 
... Từ lúc anh Phong tham dự trò chơi này thì Bé cũng được thằng Bím gật đầu cho vô đảng.
 
Sở dĩ như vậy là vì Bé có đầu tóc tốt. Anh Phong nói tóc Bé dài lắm, lại mướt, dùng để cột dế là nhất. Lân thấy phe này đông quá, cũng muốn kết thân. Mười một giờ đêm, Lân còn tha thẩn ngoài cột điện để chụp dế. Lân bắt dế rất tài, chỉ có hai đêm, Lân đã có mười mấy hộp đựng dế, con nào cũng bự không. Lân gạ:
 
- Bé thích chơi dế không?
 
- Thích chứ.
 
- Lân có nhiều dế lắm, Lân cho Bé nghe.
 
Bé vui vẻ nhận. Nhưng khi đem dế của Lân cho nó đá với dế của thằng Bím, anh Phong và Bé đã có dịp cười ngất. Anh Phong vừa phát minh ra một phương pháp kình cho dế nổi đóa mà vẫn tiết kiệm được tóc cho Bé. Anh lấy một khúc tre nhỏ, dài gấp hai và to gấp ba cây tăm. Anh sai Bé đi lấy đèn cầy, anh hơ đèn cầy chảy, cắt những sợi tóc cho ngắn đi, xếp lại lấy sáp ướp bắt dính những sợi tóc vào cây tăm tre. Xong anh có cái chổi tóc nho nhỏ. Cái chổi này đem quét quét vào râu, vào đầu, miệng của dế, các chú dế nhột, nổi đóa đá nhau ngay. Phương pháp này nhàn hơn, giữ sức khỏe cho dế hơn là cột tóc mà quay tít mù. Anh Phong đặt hai chú dế vào một cái hộp lớn:
 
- Coi dế của Bé với của Bím, con nào thắng nghe.
 
 
NHÃ CA        
(bé yêu, trích)    
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 133, tuần lễ từ 24-5 đến 31-5-1974)
 
 
 

Thứ Bảy, 14 tháng 6, 2025

NHIỆM MẦU - Nguyễn Đình Hiếu

 
  
 
 
 
 
 
 
 
 
Sáng rất sớm ra vườn hái rau
nấu bát canh cho con sớm u sầu
mẹ vội bỏ hai cha con ở lại
nên sáng nào chỉ có bát canh rau
 
Cũng dậy sớm để vo lon gạo đồng
đặt lên bếp nối cơm nhỏ mùa đông
hai cha con cùng ăn trong đùm bọc
chan dùm con muỗng canh nhạt đàn ông
 
Rồi vội vã cha gói hai nắm cơm
phải hôn con để con khỏi dỗi hờn
con lén luồn trong cặp cha trái bắp
cùng chút vừng để trưa ăn ngon hơn
 
Trưa ở sở cha ăn miếng cơm vừng
nhớ đứa con mười một, rất dễ thương
sớm mất mẹ nên cha con đơn lẻ
ở nhà tranh, con cũng nhớ trăm đường
 
Chiều đầu xóm, con luôn đứng đợi cha
cha chở con trên xe đạp về nhà
hai cha con ôm nhau trong nồng ấm
vuốt tóc con, cha vô cùng xót xa
 
Rồi tháng ngày cũng vẫn bát canh rau
con mười sáu, cha cũng đã bạc đầu
vì thương yêu vô bờ như núi thái
tình cha con sẽ mãi mãi nhiệm mầu
 
NGUYỄN ĐÌNH HIẾU
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 16, tuần lễ từ 9-9 đến 15-9-1971)
 
 

Thứ Sáu, 13 tháng 6, 2025

MỘT BÔNG HOA THƯƠNG YÊU CHO BỐ - Như Nguyện


Nắng thật nhẹ, từng con nắng nghiêng nghiêng giăng ngang cửa sổ nhà em. Nắng thật hiền hòa, êm đềm. Bao giờ cũng thế, ngồi nhìn những hàng lá xanh mướt làm hàng rào, nhìn những sợi nắng cuối cùng giăng giăng em thấy bình yên vô cùng, những muộn phiền của em đã trốn đi tự lúc nào. Và thế, mỗi buổi chiều em vẫn ngồi đây, dù chẳng làm gì, cứ mãi nhìn ra khung cửa sổ để U già bảo: "Con bé rỗi việc nhé, ngồi làm gì thế hở con?". Em mỉm cười không trả lời, kỳ thật em có rỗi việc đâu, ngồi nhìn nắng, nhìn buổi chiều sắp mất đi thay vào đó bóng tối dịu dàng như một thói quen của em. Một hôm nào đó lang thang với Thảo, cô bạn nhỏ của em, trên con đồi cỏ, bỏ quên khung cửa sổ bên chiếc bàn học em thấy tiếc nuối vu vơ và nỗi buồn nhè nhẹ cứ làm em bâng khuâng mãi. Nếu tối đó bài vở ở trường nhiều thì em cũng đành chịu, chữ nghĩa chẳng làm thế nào để chui tọt vào chiếc đầu nhỏ bé của em. U già vẫn mắng em vì tật đó hoài. U còn dọa nếu em không nghe thì U sẽ dời bàn học em vào phòng trong, có chiếc cửa sổ trông ra nhà bếp, hết mơ mộng. Em muốn nghe lời U, đóng cửa để học nhưng cũng chẳng được đâu. Ngoài kia thật êm đềm, thật huyền diệu sẽ làm cho em nghĩ về mẹ đấy. Thế là một lúc sau u già đi ra em lại mở tung cửa sổ để một thoáng vu vơ, thật mơ hồ em thấy mẹ ngồi đong đưa trên những sợi nắng giăng ngang cửa sổ, đôi mắt sầu u long lanh hai giọt nước mắt. Mẹ bảo em phải ngoan với ba, với u già, tối ngủ không được nhớ mẹ khóc ướt gối và nhất là không được mơ mộng như thế nữa - mơ mộng nhiều sẽ khổ - và cũng không được lang thang đến hồ X. với nhỏ Thảo, ngồi nhìn mặt nước buồn rồi khóc. Mẹ lại trêu em "không sợ người ta bắt mất ư?" Em rùng mình mỉm cười, chắc mẹ nói dối em đấy thôi, em cố tin như thế. Nhưng em yêu mặt hồ phẳng lặng xanh rêu lắm mẹ ạ, yêu cả cái khung cảnh êm đềm vắng lặng nữa cơ... Nhưng ơ kìa! Mẹ cười với em rồi mất hút theo hơi nắng. Đôi mắt em ngỡ ngàng rồi chợt nhớ và hai giọt nước mắt rơi, rất đỗi âm thầm.
 
Thật đẹp, màu xanh nhàn nhạt dịu dàng pha lẫn màu trắng của mây trên bầu trời. Giá bây giờ là buổi sáng hôm qua, hôm kia để bước chân nhỏ của em tung tăng lên đồi, ngồi im, mỉm cười và ngất đi trong cái dịu dàng êm đềm của buổi sáng. Nhưng em vẫn ngồi đây, hàng trăm ngàn ý nghĩ đang quắt quay trong em tạo nên một cảm giác ngây ngây buồn bã. Hẳn bố phải buồn lắm khi biết những ý nghĩ của em và hẳn u già sẽ phải rơi những giọt nước mắt khi nhìn con chim bé nhỏ thoát khỏi vòng tay che chở. Em phân vân vô cùng, biết rằng khi xa căn nhà nhỏ bé, xa căn phòng đầy ắp kỷ niệm, xa giọng nói ngọt ngào của u già và xa đôi mắt nồng nàn thương yêu của bố con chim nhỏ sẽ khổ rất nhiều. Những thương yêu của bố, của u già chẳng làm sao đền bù vào khoảng trống lạnh của dì. Ơi đôi mắt của dì, thờ ơ lạnh lùng làm sao nhức nhối xót xa. Lạnh lùng chẳng nuôi sống được em thì em đành phải chia xa những gì hiện hữu.
 
Buổi tối, khi dì lên phố chưa về em đã nói ý nghĩ ấy với bố, em muốn được xa ngôi nhà ít lâu. Bố mở lớn mắt ngạc nhiên rồi ngồi im buồn. Em biết, bố đang bối rối và khổ nhiều. Khoảng im lặng ngột ngạt vây phủ hai bố con. Em cũng ngồi im rất lâu và hơi rùng mình khi chạm phải ánh mắt đăm chiêu của bố. Em có cảm tưởng như vừa phạm lỗi gì. Phải chăng là lỗi đã làm cho vầng trán bố nhiều nếp nhăn và đôi mắt trũng sâu hơn. Bố bỗng nhìn em hiền từ: "Con vẫn thích ở đây cơ mà?" Thì vâng, cái không khí gây lạnh của buổi sáng, đồi thông hiền hòa, con dốc quen thuộc, bãi vắng bên bờ hồ, con vẫn yêu đấy chứ, yêu như từ một thuở hoang sơ xa vời. Bố lại im lặng, thứ im lặng làm em sợ hãi. Bố nói đi, nói với con gái lần nữa để ngày mai khi xa rồi giọng nói ấm cúng, thương yêu của bố vẫn hoài nhắc nhở bên con. Bố ngồi ngửa đầu ra chiếc ghế thở dài hỏi: "Dì làm khổ con?" Em cắn chặt môi cố nói không rồi những giọt nước mắt lăn xuống nhẹ nhàng để ướt má và đôi bàn tay em. Có nỗi xót xa nào chất ngất như hôm nay? Muôn ngàn gai nhọn đang châm vào da thịt em. Em có dối lòng không nhỉ? Bảo dì làm khổ em thì không đúng. Nhưng sao em vẫn thấy dì và em như hai tinh cầu cách biệt, mặc cho em cố gắng hòa hợp, cố gắng thân thiện với dì để tìm lại chút hương xưa đã mất. Bố bảo em về phòng. Lúc sau, bố vào phòng em trong lúc em đang gục đầu xuống trang vở nhòe nhoẹt nước mắt. Bố dỗ dành em và nói bố rất ân hận đã tìm dì về đây, bố ngỡ là có dì em sẽ đỡ buồn vì nhớ mẹ, nhưng sự thật... Em đọc được trong mắt bố muôn ngàn nỗi xót thương vô bờ và những u uẩn vương vương. Em lại khóc và muốn ôm chầm lấy bố, vùi đầu vào lòng bố khóc như con mèo nhỏ, bỏ cái ý nghĩ ban chiều đi, nhưng lại thấy như phải cứng rắn ngày mai. Ngày mốt em có còn đủ can đảm để nói với bố lần nữa không? Bố bảo không muốn em đi xa chút nào, không muốn nhìn con chim bé nhỏ chơi vơi trong cuộc sống xô bồ của Sàigòn nhưng em đã muốn vậy thì thôi, bố đành chịu, bố còn nói với em nhiều nữa. Lúc sau bố giúp em thu dọn một vài thứ cần dùng cho chuyến đi ngày mai. Em thấy hai giọt nước mắt long lanh ở đuôi mắt bố. Em muốn kêu bố thật to và nghĩ rằng bố vẫn thương em rất nhiều, như những ngày xưa êm ái. Bố hiền từ và bao dung vô cùng. Bố ngồi nói chuyện với em mãi đến khuya, lúc về phòng bố hôn em, chúc em ngủ ngon và nói nho nhỏ "tội nghiệp con tôi", giọng bố chùng xuống như tắc nghẹn bởi thương yêu đang ngất đầy trong bố.
 
Em leo lên giường cố dỗ giấc ngủ nhưng chả giấc ngủ bình yên nào chịu đến với em, em cứ trằn trọc mãi. Ngoài kia, hẳn bố cũng đang thao thức, em thấy ngọn đèn phòng khách tỏa sáng và tiếng chân bố đi lại trong nhà. Thỉnh thoảng lại có tiếng thở dài nữa. Chao ơi! Câu chuyện của em ban chiều lại làm bố bối rối và khổ sở thế ư? Em thấy thương bố ghê là, bố cao cả và độ lượng quá! Muôn đời bố vẫn là ngọn núi Thái Sơn hiền từ, bảo bọc em. Muôn đời bố vẫn là những thương yêu mật ngọt. Và rất êm đềm giấc ngủ đã đến với em với môi cười ngát hương yêu.
 
Em thức dậy, bên ngoài khung kính vẫn mờ sương, những hạt sương trong suốt, long lanh trên cành mới dễ thương làm sao. Chẳng có chú chim nào đến đây nhảy nhót, ríu rít gọi nhau mỗi sáng để em lười biếng nằm im cho những âm thanh êm ái dịu dàng len vào ngăn tim bé nhỏ. Một ngọn gió lướt qua làm em rùng mình, em khoác thêm chiếc áo len, thả những bước chân sáo ra vườn. 
 
Em gặp bố ở cuối vườn, khi rẽ sang phía trái. Bố mỉm cười, em kêu bố nho nhỏ rồi ôm cổ bố nũng nịu "Bố! Con chẳng đi Sàigòn nữa đâu" 
 
 
NHƯ NGUYỆN     
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 16, tuần lễ từ 9-9 đến 16-9-1971) 
 

Thứ Ba, 10 tháng 6, 2025

MƯA XA - P. Phượng


Mùa mưa, những cơn mưa ào ạt đổ xuống thành phố. Mưa kéo dài từ ngày này sang ngày khác. Cơ hồ chưa bao giờ được mưa, như những giọt nước mắt của cô bé hay hờn. Từ sáng, bầu trời xám chì, gió quất mạnh từng cơn. Cánh cửa sổ phòng tôi đập rầm rập từng trận gió. Qua hàng song sắt cong cong tôi thấy các cành lá xanh mướt quằn quại đập vào nhau. Lá xanh nõn vì tắm gội qua hàng ngàn giọt nước, lao chao thật thảm. Và nước đọng trên lá rơi xuống đường. Đọc báo nghe nói có bão ở một nơi nào đó, rơi rớt lại trên các mái nhà thành phố. Bão ở một nơi nào đó? Tôi tưởng tượng nhiều luồng gió lớn, hung bạo thổi qua các nơi trên trái đất này. Gió đằm đắm qua đại dương sóng xanh nước lớn. Gió bão thổi ngã tất cả cây cối trên đường chúng đi. Và thành phố tôi đang sống với mưa hoài không dứt, từ ngày qua đến ngày nay, sang đến ngày mai.
 
Sáng nay trời lại mưa. Hình như mưa từ sớm lắm thì phải. Mưa qua cửa sổ quên đóng lúc tối tạt vào phòng ướt đẫm cả mặt làm tôi tỉnh hẳn. Qua lớp vải trắng mờ, bên ngoài khung cửa tối đen. Thỉnh thoảng sáng lên rồi tắt ngay. Qua ánh sáng lẫn chớp đó, những chiếc lá, những cành khô mục, những giọt mưa lấp lánh có một vẻ gì kỳ quái. Cây lá đập vào nhau, đen đúa, các hình ảnh kỳ dị. Tôi nhoài người lên đóng cánh cửa, rất đỗi vội vàng. Mưa to hơn rõ ràng tiếng nước chảy trên máng xối bên hông nhà. Tôi vuốt nước ướt đẫm trên mặt, chợt bàng hoàng một nỗi gì khó tả. Nỗi buồn? Nếu là nỗi buồn tôi cũng chẳng biết mình buồn gì. Gọi là nỗi vui càng không đúng. Chỉ biết đó là cảm giác bâng khuâng, ngậm ngùi trước một vời xa. Một chuyến đi. Một chia lìa không rõ là có vĩnh viễn không? Tôi bàng hoàng nhớ cơn mưa nhỏ vừa đủ ướt đất. Cơn mưa đến bất chợt đã giữ chúng tôi dưới một bóng cây. Hai đứa nhìn nhau, nước từ những chiếc lá đổ ròng ròng xuống mặt mũi tay chân. Hai bàn tay nhỏ nắm lấy nhau, trong màn mưa và hầu như lúc đó gió bão đến cũng không làm chúng tôi lạnh. Anh ạ, những bóng cây mát xanh trên đường đến trường, quán nước hay hát Ngày xưa Hoàng thị chắc giờ đóng cửa im lìm, và hàng cây rũ buồn vì mưa hay vì đợi học trò đi học lại? Tưởng tượng cánh cửa tre quán nước đóng kín, lũ bàn ghế bụi ngập, sân trường chơ vơ bóng cây bã đậu chắc vắng vẻ lắm anh nhỉ? Và em có linh cảm chẳng bao giờ chúng ta trở lại một lần nào khác, phải không anh?
 
Cơn mưa kéo dài đến sáng. Tôi ngủ tiếp một giấc ngắn, chập chờn mê hoảng sau lần thức giấc đột ngột. Trùm chăn kín đến đầu, như cố hưởng một chút hạnh phúc, một nỗi vui sướng lười biếng. Tiếng mưa rơi đều từng nhịp, từng nhịp đến nhàm chán. Lúc đầu tiếng mưa rơi từng tiếng ngắn, thanh tạo nên một sự hồi hộp, khắc khoải chờ đợi. Và lo sợ vô cớ khi mưa nhanh, chen chúc nhau, hay đột ngột ngừng bặt. Rồi trái tim cũng trở lại bình thường, buồn bã ; như một dồn ép đến tận cùng, đến chân tường rồi phỉa òa vỡ, lan tràn ra. Sau nhạt dần đến độ nhàm chán. Tôi lắng nghe những tiếng động chung quanh. Những tiếng động thân thuộc lần cuối còn nghe. Tiếng lục đục của mẹ dưới nhà, lũ em ăn sáng nói cười vang. Nhạc từ chiếc cassette nhỏ trong phòng ông anh nhả ra một khúc nhạc buồn. Chà, buổi sáng nghe nhạc này buồn đến tự tử đấy, anh Toàn ơi. Chắc anh đang thất tình cô nào chứ gì? Ý nghĩn đó làm tôi bật cười khan. Tiếng cười ngắn, run run và khi những âm thanh khô đó ngừng, tôi biết mình tự dối lòng bằng tiếng cười gượng gạo. Mình còn buồn hơn anh ấy nữa mà, phải không hỡi trái tim nhỏ lắm chuyện?
 
Cứ thế từng giọt, hàng trăm giọt, hàng ngàn giọt tiếp tục nhỏ xuống suốt buổi sáng. Mưa làm chùn chân đi, làm lỡ những hẹn hò. Mưa chỉ được việc khi hai người gặp nhau, đứng dưới mái hiên hay bóng cây trong màn mưa mịt mùng. Không biết anh có đến được trong buổi sáng cuối này, trong thứ thời tiết kỳ quái này không? Anh ạ, em mong anh đến nhiều lắm. Với mái tóc ướt đẫm nước mưa. Đến để chúng ta nói chuyện một tí dưới giàn hoa giấy, nói vu vơ vài chuyện chẳng đầu không đuôi và chỉ để nhìn thấy nhau còn đủ mắt môi tay chân yêu dấu! Anh không đến, chắc trái tim nhỏ khắc khoải hơn cả từng giọt mưa nhỏ xuống tim đau. Hành lý sẽ nặng, chứa đầy nỗi buồn đó anh.
 
Tôi loay hoay suống cả buổi sáng trong phòng với cái va ly. Không thể nào thu xếp hết cả kỷ niệm thời mới lớn vào một chuyến đi được. Còn đó, những hẹn hò đưa đón, những cánh thư vụng dại như học trò trong tập vở. Tôi muốn mang đi tất cả những vật gì dính líu thân thiết với tôi. Từ quyển vở, cuốn sách trung gian đến đôi guốc áo quần học trò. Đến cả căn phòng, chiếc giườn tôi đã nằm nhìn ra cửa nghĩ bâng quơ đến người. Và chiếc gương thân thiết, đã nhìn tôi từ lúc còn bé đến tuổi biết soi gương chải tóc hàng giờ. Căn nhà quen thuộc từng cây cột, từng miếng gạch vỡ, vườn rau sau nhà. Sau khi rời bỏ ngôi nhà, lìa thành phố cũng như bỏ quãng đời cũ, những mộng mơ con gái, bước vào một đoạn đời khác, khó khăn hơn. Nhưng tôi vẫn phải bước đến, nó đang chờ đón cũng như rình rập tôi. Mười tám tuổi rồi còn gì bé bỏng nữa, phải không cha mẹ, phải không anh yêu dấu? Và như thế là không còn ăn bám gia đình, cả một cuộc sống tự lập ngả nón chào mời. Một trang vở mới toanh sẽ mở ra ; sửa soạn mở ra chiều nay và tôi chính thức bước vào đời mới vào ngày mai.
 
Va-ly đang soạn và vé cũng đã sẵn, một nơi khác trong thành phố lạ đang chờ đón tôi, con chim mới ra ràng. Bạn bè, bà con thân quyến đã chào kính xong cả, có nghĩa là chuyến đi này có thật, có thật đấy. Tôi nhắc đi lập lại với chính mình. Chỉ có anh, chúng ta chưa nói gì về chuyến đi sắp đến của em. Chắc anh cũng biết rồi nhỉ? Dù không một lời hẹn, một câu hứa mơ hồ đem lại chờ mong, em vẫn chờ, đợi anh đến từng giờ phút buổi sáng hôm nay.
 
Cuối cùng tôi cũng soạn xong va-ly. Tôi không mang theo gì cả, những chứng nhân của mười tám năm ở ngôi nhà thành phố yêu dấu, ngôi trường kỷ niệm. Mà mang theo đầy đủ trong tim, trong óc. Thì thôi vậy, Sẽ không có gì gợi nhớ mười tám năm đã qua. Coi như vĩnh biệt một phần đời đã qua nhiều niềm vui và cũng lắm nỗi buồn. Đào mộ chôn cô học trò mỗi sáng đi trên con đường hàng cây cao đến trường. Những ánh mắt lạ của đám con trai, những bước chân lẽo đẽo theo sau, vài bức thư xanh mướt trong học bàn. Coi như một phần đời rất đẹp của mình đã khép kín, mù mịt lối về. Dù có nuối tiếc, có buồn bã cách mấy, nó vẫn bình thản khép lại và chắn lối mơ mộng. Thôi thì hãy vui vẻ chào đón một phần đời, của riêng ta mà cuộc đời, mà Thượng Đế ban phát. Cho dù có đau buồn ra sao nữa, ta vẫn phải chịu, vì đó là đời riêng của ta.
 
Tôi dồn tất cả đồ vật trong phòng vào tủ lớn, từ gương lược, bình hoa, khăn bàn, vài bức tranh trên tường. Phòng chỉ còn giường, tủ, bàn trơ trọi, chỉ mới thay đổi chút ít mà tôi thấy như xa lạ lắm. Tôi khóa tủ lại, chuồi chìa khóa dưới gối. Thôi vĩnh biệt, vĩnh biệt tất cả. Tôi chôn cuộc đời học trò của tôi đây. Những niềm vui, những ngậm ngùi, những buồn bã, những xao xuyến mới lớn, cả những gì đẹp nhất một đời người mà tôi không gặp lại. Tôi đã khóa kín, đã sắp quay lưng với chúng. Mười tám năm yêu dấu. Tôi lại đóng cửa sổ. Những giọt mưa từ sáng đến giờ vẫn chưa ngơi nghỉ, làm ướt cả tay áo tôi. Tôi bỗng bật khóc khi từ cửa sổ nhìn vào căn phòng vắng tanh, như tia nhìn của anh ngoài đường một mai khi bụi phủ lên lũ bàn ghế, lên cánh cửa sổ thân quen. Tôi khóc ngon lành, tự nhiên như những hạt mưa rơi đều ngoài kia. Em vẫn còn bé lắm, phải không anh?
 
Sau cùng tôi mang va-ly khỏi phòng, khóa cửa lại. Tôi treo chìa khóa bên trên, như thế căn phòng bỏ không từ bây giờ. Trời vẫn còn mưa, tôi thấy một chút nắng hanh vàng yếu ớt trong mưa. Tia nắng lạc loài không chế ngự nổi cơn mưa, như một nụ cười gượng trên gương mặt đầm đìa nước mắt.
 
Có tiếng mẹ gọi ăn cơm. Tôi xuống nhà với một nỗi bồn chồn đâu đâu.
 
*
 
Không sao ngăn được nỗi buồn nghẹn ứ trong đầu, chỉ chực chờ dồn lên một biểu lộ rõ rệt.
 
- Thưa mẹ con đi.
 
Mẹ tôi nhìn lên, gật nhẹ rồi cắm cúi xuống công việc. Tôi vội vàng bước nhanh vì có cảm tưởng ngàn giọt nước từ mắt sẵn sàng chảy xuống. Và chảy không ngớt làm tiêu tan hết tất cả can đảm. Lớn rồi, mười tám tuổi rồi còn bé gì nữa, tôi không ngớt lập đi lập lại ý nghĩ này trong đầu.
 
Cơn mưa từ sáng đến giờ vẫn còn ray rức. Từng hạt nhẹ mỏng manh lướt thướt qua các ngọn cây xanh. Tôi đứng lặng trên hiên nhà, va-ly trên taychắc nó sẽ nặng chĩu nỗi buồn anh ạ. Tôi ngóng trông tiếng xe ngừng lại trước cổng, bóng áo mưa xám hiện loáng thoáng ngoài giàn hoa đỏ. Chỉ cần một bóng người, có lẽ mưa sẽ tạnh ngay, nắng rọi hân hoan trên từng viên sỏi sân nhà đấy, anh. Tôi thèm nghe lại, cũng như thèm nghe hoài hoài giọng nói ấm như một nốt nhạc trầm. Nói lên những lời hứa hẹn, những câu dặn dò làm yên tâm ra đi. Hay chỉ nhìn nhau cũng đủ lắm rồi. Chúng ta vẫn nguyên vẹn lành lặn, toàn vẹn yêu thương. Để anh nhìn bé con ngày nào lớn hẳn, thay đổi lạ lắm, bởi vì em đã ru đời mà anh... Chúng ta đều lớn cả rồi phải không anh?
 
Ngóng trông mãi một cách vô vọng. Có lẽ tôi đi một mình vậy, không biết anh sẽ ra sao khi không có mặt tôi ở thành phố này. Anh sẽ buồn? Sẽ đi lang thang? Hay vẫn bình thường? Và vẫn vui vẻ? Nào tôi biết. Anh làm gì khi biết tôi đã đi?
 
Một tiếng gõ ngắn, nhẹ và êm nhả từ đồng hồ treo tường. Hoảng hốt, tôi xách va-ly đi thật nhanh ra cổng. Cánh cổng khép lại sau lưng. Những cánh hoa giấy đỏ thắm rơi xuống, ướt đẫm những nước. Nước từ các cánh hoa rơi ướt một vai áo tôi. Mưa nhẹ hẳn nhưng vẫn chưa chịu tạnh.
 
Tôi lại đứng khá lâu dưới gốc cây sao, chưa muốn đi. Bao nhiêu xe lam, xích lô đạp chạy qua và mất hút ở cuối đường. Chưa chiếc nào ngừng lại đón đi. Nhìn những chiếc hoa sao rơi quay tròn đến hay. Chúng gợi lại con đường chùa K. tôi hay đi. Tôi lắc đầu cố không nhớ, không nhớ đến chuyện gì cả.
 
Con bạn đạp xe ngang, thấy tôi đứng hắn ngừng lại hỏi tôi đi à. Tôi gật đầu. Đang đợi xe à. Ừ. Đang đợi xe. Con bạn cười cười. Trông mi đứng dưới mưa có vẻ viễn du ghê lắm, không có vẻ gì đợi xe cả. Chờ hay buồn gì thế? Tôi cười nói mưa hoài từ sáng chẳng muốn đi đâu cả. Đợi xe gần chết. Lúc đó một chiếc xích lô đạp chậm qua, tôi thản nhiên nhìn trước cặp mắt ngạc nhiên của nhỏ bạn. Mi lạ lắm đó Phượng. Nói xong nó đạp xe đi.
 
Bao nhiêu chiếc xe trống đã chạy qua con đường này, tôi vẫn đứng nhìn. Đợi ai? Chờ ai? Tôi tự hỏi rồi tôi lắc đầu buồn bã. Nào có chờ đợi ai đâu. Nào có lời hẹn nào đâu.
 
Suốt cả đời chúng ta lỡ hẹn nhau hoài phải không anh? Những hẹn hò không nói ra lời. Dù vô tình hay cố ý. Mọi trưa anh hay đi ngang con đường này và em vẫn nhìn thấy từ các song cửa. Nón nhung xanh, áo trắng, chiếc xe em quen nghe tiếng nổ khác thường, qua con đường thân quen nhà em. Thế là chúng ta đã lỡ hẹn. Em khóc rồi đó anh, những giọt nước mắt gắn bó đời nhau. Chúng ta lỡ hẹn đời nhau rồi đó. Em không vui lòng, chẳng yên tâm ra đi rồi. Em vẫn thắc mắc không hiểu anh ra sao khi em rời bỏ thành phố này. Nào tôi có chờ đợi ai đâu, trong tư thế như chờ đợi đó. Một chiếc xích lô chạy đến. Tôi ngước nhìn từ cuối đường mong một bóng dáng quen thuộc. Trong màn mưa, không thấy gì cả. Tôi vẫy tay. Chiếc xích lô ngừng lại và tôi bước lên. Thôi thế là chúng mình đã lỡ hẹn đời nhau mất rồi. Bởi vì trước đó tôi nghĩ là nếu hôm nay không thấy anh, thì coi như định mệnh đả an bài chúng mình xa nhau mất bóng sau này. Đã lạc mất đời riêng nhau rồi anh ạ.
 
Tôi có cảm tưởng va-ly nặng chĩu trong tay, với đầy đủ nỗi buồn.
 
 
P. PHƯỢNG     
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 106, tuần lễ từ 14 đến 21-6-1973)
 

Thứ Bảy, 7 tháng 6, 2025

HẠ KHÚC - Tôn Nữ Thu Dung

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
  
 
 
 
bé có thấy mùa xuân bay trên tóc
phượng thắm rồi cho ướt mắt nhớ nhung
ve đang gọi trên những tàn lá thấp
anh về nghe ngày tháng ngắn vô cùng
 
bé có thấy nắng ngà rơi trên áo
chùng lòng không khi lần cuối giã từ
môi vẫn khép ngậm nụ cười ngọt mật
và mùa hè bay mất chút vô tư 
 
bé có thấy khi bàn tay vẫy gọi
là dấu chân ngày cũ đã xa rồi
là tiếng hát nửa chừng bay muôn hướng
khi về đây nhớ mãi một chỗ ngồi
 
(nhìn ra sân có một cành phượng đỏ
và nắng nhung đẹp lắm giữa sân trường
và bạn bè dấu yêu thời tuổi nhỏ
kỷ niệm xưa từng lớp lớp reo mừng)
 .    .    .    .    .    .
 
bé có thấy chút tình yêu mộng tưởng
đã ngát đầy trong đôi mắt anh không?
 
                                     TÔN NỮ THU DUNG
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 105, tuần lễ từ 7-6 đến 15-6-1973)
 

Thứ Tư, 4 tháng 6, 2025

QUA MẤY NGÕ HOA - Mường Mán

chim vỗ cánh nắng phai rồi đó
về đi thôi, o nớ, chiều rồi
ngó làm chi mấy trắng xa xôi
mắt buồn quá, chao ơi là tội!
 
tay nhớ ai mà tay bối rối
áo thương ai lồng lộng đôi tà 
đường về nhà qua mấy nhõ hoa
đừng có liếc mắt nhìn ong bướm
 
có chi mô mà chân luống cuống
cứ tà tà ta bước song đôi
đi một mình tim sẽ mồ côi
tóc sẽ lệch đường ngôi, không đẹp
 
để tóc rối cần chi phải kẹp
nắng sẽ chia nghìn sợi tơ huyền
buộc hồn o vào những cánh chim
bay lên đỉnh lòng anh ngủ đậu
 
 
cứ mím môi rứa là rất xấu
o cười tươi, duyên dáng vô cùng
cho anh nhìn những hạt răng xinh
anh sẽ đổi ngàn ngày thơ dại
 
mi khẽ chớp nghĩa là sắp hay
háy nguýt đi, giận dỗi càng vui
gót chân đưa guốc mộng bồi hồi
anh chợt thấy trần gian quá chật
  
không ngó anh, răng nhìn xuống đất
đất có chi đẹp đẽ mô nờ?
theo nhau từ hôm nớ hôm tê
anh hỏi mãi răng o không nói?
 
tình im lặng : tình cao vời vợi?
hay nói ra sợ dế giun cười?
sợ phố ghen đổ lá me rơi?
sợ chân bước sai hồi tim nhịp?
 
cứ khoan thai rồi ra cũng kịp
vạn mùa xuân chờ đón chung quanh
vạn buổi chiều anh vẫn lang thang
vẫn theo o về giờ tan học
 
từ bốn cửa đông tây nam bắc
tới bốn mùa xuân hạ thu đông
theo nhau về như sáo sang sông
như chuồn chuồn có đôi có cặp
 
chim chìa vôi chuyền cành múa hát
trên hư không ve cưới mùa hè
o có nghe suốt dọc đường về
sỏi đá gọi tên người yêu dấu?
 
hoa tầm xuân tím hoang bờ dậu
lòng anh buồn chi lạ rứa thê!
nón nghiêng vành nắng chết đê mê
anh mê sảng theo chiều tắt chậm
 
chiều đang say vì tình vừa ngấm
hai hàng cây thương nhớ mặt trời
chiều ni về o nhớ thương ai?
chiều ni về chắc anh nhuốm bệnh
 
thuyền xuôi giòng ngần ngơ những bến
anh như là phố đứng trông mưa
anh như là quế nhớ trầm xưa
sợ một mai o qua mất bóng
 
một mai rồi tháng năm sẽ lớn
o nguôi quên những sáng trời hồng
o sẽ quên có một người mong
một kẻ đứng dọc đời trông đợi
 
còn nhớ chi ngôi trường con gái
lớp học sầu, ô cửa, giờ chơi
cặp sách quăng mô đó mất rồi
vì o bận tay bồng tay bế
 
chuyện hôm nay sẽ thành chuyện kể
những lúc chiều đem nắng sang sông
0 bâng khuâng nhè nhẹ hỏi lòng:
mình nhớ ai mà buồn chi lạ!
 
chim vỗ cánh nắng phai rồi đó
về đi thôi, o nớ, chiều rồi
ngó làm chi mây trắng xa xôi
mắt buồn quá, chao ơi là tội!
 
                                MƯỜNG MÁN
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 50, tuần lễ từ 12-5 đến 19-5-1972)
 
 

Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2025

CHIA TAY NGƯỜI BẠN NHỎ - Võ Hồng

Đó là một gia đình chim sẻ cư ngụ nơi mái hiên của một ngôi nhà yên tĩnh. Gia đình gồm một chim mẹ và ba chim con. Cha chúng bị tử nạn vì hòn đá ngu si của một cậu học trò lười biếng, nhác học bắn trúng. Sau tiếng 'rẹt" phát ra từ cái ná cao su, chim mẹ trở thành góa phụ, ba chim con thành mồ côi.

Một mình mẹ đặt tên cho con. Con chị là Nâu, vì cái đầu có lông màu nâu - thằng anh kế được gọi là Rằn, vì mình nó lông mọc rằn ri, còn con chim nhỏ nhất được gọi là "con Út". Thật tiện lợi. Đúng theo tinh thần của những bà mẹ quê.
 
Sáng nào cũng vậy, Má chỉ cần gọi "Nâu ơi! Rằn ơi! Út ơi! Dậy đi mấy con! Sáng rồi" là đã thành một tràng dài những tiếng chi chi chích chích.
 
Khi ba chị em bắt đầu có trí khôn, một hôm Má giảng:
 
- Đây là mái hiên của một ngôi nhà. Kia là phòng của ông chủ bà chủ. Kia là phòng khách. Chỗ cái cửa sổ sơn màu hồng, đó là phòng của hai đứa con.
 
Út nói: Con có thấy cái cửa sổ màu hồng. Trong cửa sổ có những cái dài dài.
 
- Đó là hai cái giường nhỏ cho hai đứa con, cái bàn nơi đứa lớn ngồi tập viết.
 
- Có những cái tròn màu đỏ.
 
- Đó là hoa hồng cắm trong lọ.
 
Út cúi đầu thấp xuống, cố gắng cho thật thấp nữa để dòm vào cửa sổ. Rồi reo lên:
 
- Con đã thấy hai đứa nhỏ rồi. Chúng nó ngồi trên hai cái thấp thấp.
 
- Đó là hai cái ghế.
 
- Đứa lớn tóc dài.
 
- Đó là con chị.
 
- Đứa nhỏ hơn đang cầm một cái gì trong tay chọc chọc vào một cái gì đặt trên bàn.
 
Má cúi thấp đầu xuống nhìn rồi quay lên nói:
 
- Nó cầm cái thìa múc vào tách nước.
 
Từ ngày biết rằng đây là một ngôi nhà và trong ngôi nhà có người ở, ba chị em hay chú ý nhìn xuống. Buổi sáng có một chị ra đứng quét sân xoèn xoẹt. Gặp một hòn đá hay một cái que chị hay to tiếng la lối, mặc dù quanh đó không có ai. Rồi chị ném vung hòn đá hay cái que ra đường một cách giận dữ. Mỗi lần thấy hòn đá bay vù thành vòng cung, ba chị em sợ quá nép vào nhau. Nếu hòn đá trúng ngay ổ thì... thì cái gì sẽ xảy ra, ba chị em không thể tưởng tượng tiếp được, chỉ biết sợ cái đã. Rằn có nhiều tưởng tượng nên sau khi nép lại còn né cái đầu nữa, làm như hòn đá đang nhắm cái đầu nó mà chạy tới.
 
Khi nắng lên, có ông làm vườn rảo qua một vòng. Ông lặng lẽ cắt những cành hoa, tỉa những lá sâu, uốn những nhánh cây manh mảnh. Ông có bộ râu rậm nơi cằm và cái ống điếu bự nơi miệng. Từ cái ống điếu, luôn luôn có khói bay lên.
 
Út chú ý đến cái vật lạ nơi cằm và nơi miệng của ông lão. Nó hỏi anh:
 
- Cái "người ta" lớn kia có cái mỏ dài. Nơi một đầu cái mỏ thì đen (chắc nó muốn chỉ bộ râu). Nơi một đầu cái mỏ thì trắng (chắc muốn chỉ đám khói). Cái "người ta" gì vậy?
 
- Chắc là cái... xe lửa. Bữa trước anh nghe Má nói khi Má bay lên cánh đồng thì gặp cái xe lửa. Đầu nó đen thui và nó phì phì khói trắng.
 
Ông chủ ít nói và cũng ít ra sân. Chỉ khi có khách tới thăm, ông ra hiên đứng tiếp, đứng ngay dưới cái ổ chim, ba chị em sợ quíu lưỡi. Hai đứa nhỏ thì mũm mĩm dễ thương. Da trắng và môi màu hồng. Con mắt tròn đen. Con chị hay dắt thằng em đi lững thững trong sân trong những buổi chiều. Con chị hay ngắt một cái lá trao cho em cầm rồi đi sục sạo vào góc sân, vào bụi cây tìm bắt những con vật nhỏ. Có khi nó đuổi theo một con bướm, đuổi từ bụi cây này sang bụi cây khác. Con bướm như đùa nghịch lại nó, cứ bay chập chờn rồi lại đậu xuống một nơi rất bất ngờ: một viên sỏi nhỏ hoặc một cái vành rổ cũ ai vất đâu đó. Khi con chị rón rén lại gần, thò hai ngón tay ngón tay nhỏ xíu lại bắt thì con bướm vỗ cánh nhẹ bay lên, bay đến đậu ở một cành gần đó. Con chị lại nhẫn nại rón rén đi tới, lại giơ hai ngón tay. Và con bướm lại bay lên. Khi con chị bị con bướm dẫn dụ đi xa, thằng em lẽo đẽo đi theo không kịp thì nó cất tiếng gọi chị. Tiếng gọi nhỏ và thanh. Có khi hai chị em ngồi kề nhau nơi bực thềm. Đứa em đong đưa đôi chân bụ bẫm. Con chị say sưa nói chuyện, - chắc là kể chuyện đời xưa, - và đứa em mở tròn đôi mắt ngây thơ.
 
Thấm thoát mà anh Rằn, chị Nâu lông cánh đã mọc đầy đủ, chỉ có Út gầy yếu, lông mọc lòi xòi. Má muốn tập bay cho hai đứa nhưng sợ Út buồn, Má chẳng biết nên tính sao. Một đêm khuya lắng nghe tiếng thở đều đều của Út, Má và anh chị nghĩ rằng Út đang ngủ say nên cả ba bàn chuyện tương lai. Má nói:
 
- Má muốn tập bay cho hai con...
 
Nâu:
 
- Nhưng tập bay được rồi, chẳng lẽ bỏ con Út lại một mình với Má?
 
Rằn:
 
- Dầu bay được, chúng ta vẫn cứ ở với Má. Đợi tới chừng Út bay được chúng ta sẽ chia tay.
 
Tiếng "chia tay" làm Má rơi nước mắt. Nuôi con lớn khôn, đủ lông đủ cánh thì mẹ con phải đành đoạn chia tay. Má quệt nước mắt vào lông cánh, thổn thức:
 
- Thương cho con Út, ốm yếu, òi ọp hoài. Cái chân trái của nó còn bị kiến bu nhọt cắn hồi nhỏ, đi dẹo một bên.
 
Út thức giấc từ nãy nhưng giả vờ ngủ say nằm lắng tai nghe. Nghe tiếng "chia tay" của anh Rằn nói, Út cũng bùi ngùi trong lòng. Út ít thấy thương thân phận mình mà thương Má nhiều hơn. Rồi tới thương chị và anh. Khi chia tay nhau rồi mỗi người đi về một xứ lạ, biết có dễ gặp nhau lại chăng?
 
Tiếng anh Rằn run run vì xúc cảm:
 
- Má tập bay cho chị Nâu và con. Chúng con sẽ bay tìm thức ăn phụ với Má. Má có thể nằm nhà chơi với Út.
 
Tiếng chị Nâu:
 
- Rằn nói phải đó. Hai đứa con đi kiếm thức ăn về nuôi Má và em, như vậy hợp lý hơn là một mình Má phải nuôi tới ba miệng ăn.
 
- Nhưng hai đứa con chưa có kinh nghiệm, dễ gặp tai nạn dọc đường. Lớp thì người ta giăng bẫy bắt, lớp thì người ta bắn ná trúng. Lại còn có lũ chim dữ bắt nạt dọc đường.
 
Rằn:
 
- Con sẽ học những kinh nghiệm của Má. Con sẽ...
 
Rằn lặng im không biết rõ mình nên sẽ làm gì.
 
Má thở dài:
 
- Thôi hai con ngủ đi, kẻo nói chuyện ồn em nó thức dậy, mất giấc ngủ của nó. Để rồi hãy hay.
 
Trong đêm tối, Út cảm thấy anh và chị rón rén trở mình. Cái lưng ấm áp của anh, cái cánh mềm mại của chị đang cạ vào lưng vào hông. Một ngày nào, Út sẽ không còn có nữa cái lưng đó, cái cánh đó nằm bên cạnh. Nghĩ đến  đây, Út thấy buồn quá, vội lắc đầu không muốn nghĩ tiếp.
 
Nhằm một buổi trời nắng đẹp, Út mở lời với Má:
 
- Bữa nay tốt trời, Má tập bay cho chị Nâu và anh Rằn đi Má.
 
Má nhìn Út, ngạc nhiên:
 
- Con nói... Ai bày con...
 
- Chị và anh đã lớn rồi, đã đến tuổi biết bay. Con thích được nhìn anh chị bay lượn.
 
- Để đợi con lớn rồi cùng tập một lượt.
 
- Con tập sau cũng được.
 
Má biết Út thành thật khi đề nghị như vậy nên Má gọi Nâu và Rằn hãy chuẩn bị đi theo Má ra vướn ổi sau nhà. Té ra Má đã sắp đặt đâu đó sẵn sàng, đã chọn lựa bài tập từ lâu mà các con không hề biết. Trước khi rời ổ, Má dặn Út:
 
- Con nằm yên trong ổ. Nửa giờ sau anh chị và Má về.
 
Bằng những bước nhảy ngắn, ba mẹ con chuyền thoăn thoắt trên những cành khế. Từ cành khế, họ vù một cái đáp sang cành mận. Thật dễ sợ! Một thước khoảng cách, một thước bay giữa khoảng không, và mặt đất thì sâu hun hút dưới kia. Nếu đuối cánh một chút, nếu hụt chân một cái thì... Không ai dám nghĩ tiếp. Chỉ mới nghĩ tới đó người ta đã muốn nhắm mắt.
 
Má đã đưa anh chị đến vườn ổi sau nhà. Nằm trong ổ, Út nghe những tiếp chích chích thật lớn của Má, những tiếp chíp chíp run run của anh chị. Chích chích nghĩa là "Bạo dạn lên con... Đập cánh mau thêm chút nữa... Đừng ngó lui ra sau... Coi chừng cái nhánh mãng cầu nằm ngang..." Chíp chíp nghĩa là "Con run chân quá Má ơi... Sao đập cánh mau mà người con nó không nhích lên được chút nào vậy... Má đứng xê ra để con bay về chỗ đó..."
 
Ở bài tập về, Rằn ngậm theo một trái ổi non xinh xinh để tặng em. Út hỏi:
 
- Có nhiều cây ổi không?
 
- Nhiều lắm, Chúng đứng gần nhau, cành của cây này đâm vào cành của cây kia.
 
Út cười:
 
- Như vậy là anh yên tâm, không sợ bay dở té xuống đất. Cây ổi nào cũng nở nhiều hoa phải không?
 
- Nhiều lắm. Hoa trắng đầy cành. Nhìn đâu cũng thấy có hoa nở sẵn đang đợi mình.
 
Chị Nâu tặng Út một cái kén trong có con nhộng nằm.
 
- Con "nhộng" là con gì, chị?
 
- Là con... Con sâu lớn lên biến thành con nhộng.
 
- Rồi con nhộng lớn lên biến thành con gì?
 
- Thành con bướm.
 
- Con bướm là cái con có cánh màu vàng như cái hoa phải không?
 
- Đúng đó.
 
Út nhớ đến con bé bắt bướm ngoài sân. Hôm đó Út chưa biết con bướm. Út tưởng là cái hoa lạ biết bay. Nhớ đến con bé, Út thò đầu nhìn xuống chiếc cửa sổ màu hồng. Không thấy có con bé, chỉ có thằng em nó ngồi ở mép giường. Bên cạnh, chị Năm đang dỗ dành (Út biết tên chị Năm do miệng hai đứa nhỏ thường kêu).
 
- Bé uống sữa đi. Uống xong, chị Năm dắt bé đi chơi. 
 
Mặt thằng nhỏ phụng phịu:
 
- Bé không uống sữa. Bé không đi chơi. Không có chị Ti, bé không uống sữa. (Chắc Ti là tên của chị nó).
 
- Chị Ti mắc đi học mà.
 
- Mặc kệ. Không biết.
 
- Lát nữa chị Ti về.
 
- Mặc kệ. Không biết. Có chị Ti, bé mới uống sữa.
 
- Nhưng đợi lúc nào chị Ti về thì bé đói
 
- Mặc kệ. Không biết. Không có chị Ti về thì bé không uống sữa.
 
Út thương cái mặt của thằng bé quá. Má nó trắng và môi nó đỏ. Nhìn cái mặt nó buồn, Út thấy tội nghiệp nó. Sao không uống sữa đi. Bé ơi! Không uống sữa. Bé sẽ đói. Bé sẽ gầy gò ốm yếu. Út sợ gầy gò ốm yếu. Út nghe lời Má, Út ăn hột gạo đó, thấy không?
 
Chị Năm lại ngồi cạnh thằng bé, cầm muỗng múc vào tách sữa để kề miệng nó. Bàn tay kia vuốt tóc nó và miệng nói dịu dàng:
 
- Bé "ùm" đi một miếng cho chị vui. Bé "ùm" một miếng nhỏ thôi.
 
Thằng bé đẩy cái thìa sữa ra.
 
- Bé không uống. Không có chị Ti...
 
- Bé không uống sữa thì chị buồn. Chị không ở đây nữa. Chị về quê. Chị đi ở nhà khác.
 
Thằng bé quay nhìn chị.
 
- Chị ở đây với bé chớ. Với chị Ti chớ.
 
- Tại bé không uống sữa, chị buồn, chị đi.
 
- Chị không buồn, chị có đi không?
 
- Không.
 
Thừa lúc thằng bé không đề phòng, chị đút thìa sữa, và nó ngoan ngoãn uống.
 
Sau mười lần tập, chị Nâu và anh Rằn đã bay xa được. Mỗi chuyến bay xa về, anh chị không quên mang quà về cho em và mang những chuyện kể về cho em nghe.
 
Chị Nâu ưa mang về món ăn. Chị có tài chọn lựa món ăn, nếm những trái cây lạ, mổ những hột lạ và chị sưu tầm về nhiều thức ăn mà chính Má không hề biết. Anh Rằn thì ưa kể chuyện. Anh kể rằng anh đã thấy con bò và anh bay lại đậu lên sừng nó mà không có sợ gì hết. Con bò cứ cúi xuống thản nhiên gặm cỏ, ngước mặt lên nhai cỏ và đi đi lại lại, huơ cái đuôi đập qua phải qua trái để đuổi ruồi muỗi. Có lúc ruồi muỗi đậu ngay vào mắt vào tai của bò khiến bò lúc lắc cái đầu làm Rằn ngả nghiêng muốn té. Nhưng Rằn khôn lắm. Rằn khẽ đập cánh, co chân lên và trong nháy mắt Rằn đã ung dung đứng trên lưng một con bò khác.
 
- Đừng đứng trên mông nó, nghe không? - Rằn nghiêm trang dạy em. - Đuôi nó có một cái chổi, quất trúng mình một cái thì đau lắm.
 
Những chuyện lạ do anh Rằn kể làm Út say mê. Tưởng tượng con bò như vậy đó, cánh đồng như vậy đó, con sông như vậy đó. Ờ, trên đời sao lại có cái vật gọi là "con sông" nhỉ? Nước ở đâu mà nhiều dữ vậy, nhiều đến nỗi muốn uống bao nhiêu cũng có, muốn tắm bao nhiêu cũng có, khỏi cần tranh giành nhau, khỏi cần lấy cất để dành. Sao lại có con cá ở trong "cái nước" đó, con cá hình thù ra sao mà nằm được trong nước không ướt mình và không bị lạnh?... Lại còn vườn xoài của ngôi chùa cổ! Cứ đứng ăn trái chín, vừa ngọt vừa thơm, đứng ăn tỉnh bơ, ông thầy ngó thấy cũng chỉ "ùi ùi" giơ tay đuổi chớ không biết ném đá.
 
Tâm hồn mơ mộng, Rằn thường, kèm với gié lúa ngậm về cho em, thỉnh thoảng Rằn khéo thu xếp để ngậm  thêm một nụ hoa xinh, một mảnh lá đẹp. Có lần anh ngậm về một cái hoa, cài lên thành ổ. Út reo lên:
 
- Hoa gì mà đẹp vậy anh? Sao nó không màu đỏ? Nó xanh xanh. Cái màu xanh sao mà... đẹp vậy anh?
 
Giọng Rằn chậm rãi:
 
- Anh đem nó từ núi xa về cho em đó. Nó tên là hoa Bìm.
 
- Ồ hoa Bìm! Nó không phải là hoa Lan hả?
 
Rằn lắc đầu:
 
- Anh không biết. Nó nở nhiều. Nở rực rỡ cả một sườn núi.
 
- Núi có xa không?
 
- Xa. Xa hơn cánh đồng.
 
- Anh bay lên đó một mình?
 
- Ừ. Nhưng đừng có méc Má.
 
- Hôm sau anh đừng bay xa như vậy nữa. Em sẽ buồn nếu anh gặp phải tai nạn.
 
- Ừ.
 
Út nhìn cái hoa Bìm. Tràng hoa mỏng, cuộn tròn hình chuông, màu xanh da trời, rực sáng như có chứa niềm vui trong đó. Cái hoa đẹp, Út không muốn thưởng thức một mình, Út muốn đem tặng hai chị em đứa nhỏ. Ờ, chắc chúng nó mừng lắm. Hoa Bìm mọc ở núi đồi xa chớ đâu có bán ngoài chợ mà chúng nó có, do chị Năm mua? Nhưng mà đem tặng bằng cách nào?
 
Út suy nghĩ cả buổi trưa, bỏ cả giấc ngủ trưa. Cuối cùng, nghĩ ra được một cách. Buổi xế, khi Má và anh chị đã bay đi, Út ngậm đóa hoa Bìm vào mỏ rồi ngồi đợi một cơn gió. Út đã biết phân biệt hướng gió thổi và lượng được sức mạnh yếu của gió. Út chong mắt nhìn sang tàu dừa trước sân và đúng lúc nó uốn cong mình theo sức gió thì Út buông đóa hoa. Gió mang hoa, hoa rơi xuống thấp nhẹ nhàng.
 
Tim Út hồi hộp. Gió đẩy lọt đóa hoa vào cửa sổ. Hoa rơi nhẹ trên chiếc khăn trải giường.
 
Thằng bé trông thấy trước. Nó reo lên:
 
- Chị ơi! Có cái hoa!
 
Chị nó chạy lại:
 
- Ờ! Cái hoa đẹp.
 
Chị nhặt cái hoa, âu yếm tựa kề bên má.
 
- Chị yêu cái hoa quá. Cánh nó mỏng hơn cánh một con bướm. Em có yêu nó không?
 
- Có. Màu nó giống màu áo của Mẹ.
 
- Em yêu thì chị tặng em.
 
Vừa nói, con chị vừa trao hoa cho em.
 
- Nhưng nó từ đâu bay tới, hở chị?
 
- Cũng chẳng biết nữa. Chẳng biết từ đâu.
 
Con chị nhìn ra cửa sổ, ngước nhìn trời cao.
 
- Ở đâu vậy hà? - miệng nó lẩm bẩm.
 
Út vội vã núp vào ổ. Lòng nó vui rộn ràng. Nó tự nhủ: Mình giữ cái hoa đẹp không thích bằng đem tặng nó cho một người hiền lành mà mình yêu mến. Như vậy là có hai người sung sướng... ưở không, có tới những ba người sung sướng.
 
Một hôm Út hỏi má:
 
- Má ơi, cái "người ta" không có má phải không?
 
Má hỏi lại:
 
- Ai bảo con vậy?
 
- Con thấy hai cái "người ta" nhỏ nơi cửa sổ màu hồng không có má.
 
- Ờ, Má chúng nó bệnh. Bệnh cả mấy tháng nay, hiện vẫn còn nằm ở nhà thương. Mỗi ngày ba chúng nó đưa chúng đi thăm một lần.
 
- Có má bệnh chắc là buồn lắm ?
 
- Phải. Có má đi giữa, cầm tay hai đứa con đi hai bên thì vui hơn là hai đứa con cầm tay nhau đi lúc thúc trong sân.
 
Ờ, nay Má có nói mình mới nghĩ ra. Cả ngay chị Năm cũng chưa thấy bao giờ cầm tay hai đứa. Chỉ thấy cầm cây chổi. Hay cầm một hòn đá, mắt láo liên kiếm chỗ để ném.
 
Đã quá tháng tám mà những nhánh phượng còn rực rỡ hoa đỏ. Đứng giữa rừng hoa màu đỏ như làm nóng rực cả người. Chắc cái mặt mình cũng đang đỏ. - Út nghĩ. (trời ơi, cái mặt phủ toàn lông thì còn chỗ đâu để mà đỏ!). Những cánh nhị đực của hoa bung lên manh mảnh. Những phiến lá nhỏ cắt vòng tròn thật tinh vi xếp cạnh nhau đều đặn. Những cành thấp quấn xuống, vươn ra xa, ra mãi ngoài lề đường. Ưở, có một hàng "người ta" đi thành hàng dài, màu sắc xanh, đỏ, vàng, tím loạn xạ. Đi đầu có mấy người tay bưng những cái vuông vuông tròn tròn màu đỏ.
 
Đang say mê nhìn, chợt một tràng tiếng nổ vang dội khiến Út hoảng hốt nhảy vội về ổ. Chiều về hỏi Má, anh Rằn giành trả lời:
 
- Đám cưới đó.
 
- Các "con người" có đứa giống màu lá chuối, có đứa giống màu hoa phượng, có đứa giống màu hoa cúc...
 
- Mặc áo dài đó. Loài chim mình cũng vậy. Nhà nghèo đồng phục rằn ri là lũ mình: Sẻ. Áo nâu thầy tu là chú Bìm bịp. Sặc sỡ như công chúa là Công. Màu xanh thanh nhã là chị Ngũ trảu. Đồng phục áo dài trắng quần trắng là Cò. Đồng phục áo dài đen quần đen là Quạ.
 
- Màu trắng chắc hiền lành, màu đen chắc hung dữ - Út rụt rè nói.
 
Tức thì anh Rằn ré lên:
 
- Trời ơi, đừng lầm. Bà Cò lưỡn thưỡn ngó như vô tâm, vậy mà thấy cá lội thong dong là lướt tới xớt luôn, nuốt gọn.
 
- Lúc nãy đám cưới em thấy cái "người ta" bưng những trái xanh xanh dính thành chùm. Chắc trái đó ăn ngọt như...
 
- Chát ngắt. Trái cau đó. Có cái cô đẹp đẹp ở xế nhà mình chuyên môn buôn cau đám cưới. Bữa nọ lăn rớt một trái, anh mừng quá nhảy tới mổ. Lật đật phun nước miếng không kịp.
 
Má cất tiếng:
 
- Thôi ngủ đi. Khuya rồi. Để nó lớn nó bay đó đây, nó khắc biết.
 
Lại chuyện bay! Nằm tưởng tượng thấy mình bay được, bay được để nhìn thấy tận mắt những cảnh lạ, những vật lạ, chớ chỉ nghe không chưa đủ, càng nghe càng thêm thèm. Út chợt có ý nghĩ: Mình thử lén tập bay một mình chớ xin phép Má thì Má chẳng đời nào cho. Trong con mắt của Má thì mình luôn luôn là yếu là ốm. Ừ, thì mình cứ tập lần lần chứ có sao đâu. Bắt đầu bay một đoạn thật ngắn bằng cái cọng lá dừa kia thôi. Rồi bằng hai cọng lá dừa. Rồi bằng cả cái tàu dừa.
 
Sáng hôm sau, khi Má và anh chị đi rồi, Út đem thực hành ý định. Út bước ra khỏi ổ. Nhảy nhảy mươi cái cho giãn xương. Chọn những cành nằm gần nhau để tập chuyền. Tưởng khó lắm nhưng không ngờ cũng chẳng đến nỗi. Nhờ lông cánh cà lông đuôi khi xòe ra nâng đỡ cái mình nhẹ hẫng lên. Út bay tới bay lui. Sau một buổi tập, Út đã có thể bay chuyền từ cành này sang cành khác của cây phượng.
 
Ngày hôm sau Út bay chuyền từ cành phượng sang cành cây vú sữa. Những trái vú sữa chín mọng đứng nhìn gần ngó thật dễ thương. Cái vỏ mỏng láng mướt. Cứ muốn mổ, muốn rỉa cho sướng mỏ. Nhưng Út phải nhìn gấp vào cái cửa màu hồng cái đã và Út thấy thấu suốt cả căn phòng. 
 
Căn phòng nhỏ mà xinh xắn biết bao. Nơi những cửa sổ đều treo màn màu xanh nhạt. Thằng bé đang ngồi bên cạnh chị nó. Chắc vừa mới ngủ dậy nên gương mặt buồn buồn. Con chị cầm một miếng vuông vuông (sau này anh Rằn nói nó là cuốn sách) có nhiều hình vẽ tô màu, ê a tập đọc. Cứ đọc một đoạn ngắn thì nó quay lại nói chuyện với em.
 
- Cái con bé đó nó quàng cái khăn đỏ.
 
Thằng em hỏi:
 
- Con bé nào?
 
Con chị chỉ ngón tay vào cuốn sách:
 
- Con bé này. Nó quàng cái khăn đỏ thấy không?
 
- Ờ... ờ... - thằng em gật đầu
 
Con chị cúi xuống đọc một lát rồi quay sang em:
 
- Bà nó bệnh. Má nó sai đem bánh sang cho bà.
 
- Bánh gì? Bánh su sê hả?
 
- Không. Cái bánh này.
 
Con chị chìa sách chỉ cho em coi rồi cúi xuống đọc tiếp. Trong khi đó thì thằng em nhìn vu vơ ra ngoài khung cửa. Nó thấy con chim. Nó đập vào tay chị:
 
- Chị ơi, có con chim con đứng kìa!
 
Con chị ngửng mặt lên nhìn theo ngón tay chỉ của em. Ngón tay nhỏ như cái mỏ của một loài chim lớn. Bốn con mắt đen nhìn chăm chăm vào Út. Út nhìn lại. Con chị giơ bàn tay vẫy Út:
 
- Vào trong này chơi đi, con chim nhỏ.
 
Thằng em bắt chước chị cũng giơ bàn tay lên rồi nắm lại mở ra liên tiếp. Nó chưa quen cách vẫy tay. Và miệng nó cũng nói:
 
- Vào đây chơi, chim nhỏ.
 
Út lắc đầu, chíp chíp mấy tiếng. Chíp chíp nghĩa là "Không, không dám. Sợ Má la".
 
Thằng em nói:
 
- Chắc chim nhỏ nó đói. Lấy cho nó cái bánh mì.
 
Con chị:
 
- Ờ. Lấy thêm cho nó trái cam. Chị Năm ơi, lấy dùm cho em trái cam và cái bánh mì.
 
Từ đằng sau chị Năm "oi" lên một tiếng thật to làm Út giật mình bay vút lên cành cây cao.
 
Từ ngày biết rõ tính nết dịu dàng của hai đứa nhỏ, Út hay nghĩ đến chúng mỗi khi phải nằm trong ổ một mình. Nhiều lúc Út muốn bay thẳng vào phòng đậu trên thành giường để nhìn hai chị em chúng nằm ngủ trưa. Hoặc là đậu trên cái ngón tay nhỏ trắng nõn của thằng em để nhìn lên đôi môi màu hồng của nó. Hoặc đậu lên cái vai nhỏ của con chị để nhìn vào cuốn sách có in hình, tô màu đỏ màu xanh. 
 
Một buổi sáng kia Út nghe có tiếng khóc nơi phòng của hai đứa nhỏ. Tiếng khóc của đứa em, Út nằm lắng nghe một lát, thấy thương nó quá. Út liền vùng ngồi dậy, bay vù một cái đứng ở cành ô-ma nhìn qua cửa sổ. Thằng bé đang ngồi ở giường khóc bệu bạo, nước mắt chảy đầm đìa trên hai má. Nó vừa khóc vừa gọi nho nhỏ "Chị Ti ơi! Chị Ti ơi!"
 
Trông đôi môi của nó méo xệch đi để khóc, trông những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má phúng phính, Út mủi lòng cũng muốn khóc theo. Út bay sà lại đậu ngay trên thành cửa sổ cất tiếng chíp chíp. Thằng bé nghe tiếng chim kêu quay mặt ngó ra. Thấy con chim, nó bệu bạo nói:
 
- Chị Ti đi nhổ răng.
 
- Chíp chíp chíp chíp.
 
Chị không cho bé đi theo.
 
- Chíp chíp chíp chíp.
 
- Bé không sợ ông Bác sĩ nhổ răng đâu. 
 
- Chíp chíp chíp chíp. 
 
- Bữa nào chị Ti cũng đi hoài. Bỏ bé ở nhà một mình.
 
- Chíp chíp chíp chíp.
 
Con chó Nina không thích nghe tiếng chíp chíp. Nó vẫy đuôi, miệng hực hực sục sạo đi tìm cái tiếng dễ ghét đó. Nó thấy liền chim Út nơi thành cửa sổ. Nó hực lên một tiếng thật to, nhảy chồm hai chân trước chống lên mặt tường. Nhưng vút như một mũi tên, Út bay vù lên cao.
 
Con Nina há mõm nhìn lên. Hàm răng trắng nhởn trông lởm chởm không ra hàng lối. Cái gì mà kỳ cục vậy? Sao không có một cái mỏ? Làm sao mổ một hột lúa với những cái răng bất tiện như vậy. Giỏi bay lên đây coi nào. Không có cái cánh mà. Còn cái đuôi gì lạ vậy? Làm sao xòe rộng ra được?
 
Chiều đó khi sắp đi ngủ, chị Nâu nói với Má:
 
- Độ rày Út ăn được nên nó mập ra. Má thấy không? 
 
- Ờ.
 
- Hôm nào Má dạy Út tập bay.
 
- Để hôm nào. Để coi nó có đủ sức bay không. Trông đôi bắp đùi còn gầy.
 
Rằn:
 
- Để cho em thật cứng cáp đã. Vội vàng gì?
 
Nâu:
 
- Chị sợ em phải nằm nhà một mình em buồn. Nhất là bữa nào Rằn về cũng kể cho em nghe những thú vị của cuộc bay.
 
Má giải quyết lửng lơ:
 
- Để bữa nào coi. Để bữa nào...
 
Nghe Má và anh chị lo lắng cho mình, Út cảm thấy hối hận. Mình đã lén Má tập bay không cho Má biết. Làm lén cũng là một cách dối trá, một cách nói láo. Đó nhất định là điều xấu. Bây giờ có nên thú tội không? Chà, khó nói quá. Thú tội Má lại còn sợ thêm. Má lại càng thêm âu lo mỗi lần Má đi vắng. Thiệt mệt. Thôi, tốt hơn hết là mình đừng có dối Má nữa. Còn lỗi đã phạm thì để hồi nào có dịp thuận tiện sẽ thú với Má sau.
 
Nhưng sự quyết tâm coi vậy mà quả thật khó thực hiện. Không được bay thì cánh và chân ngứa ngáy khó chịu lạ. Những cành cây như mời gọi. Cái khoảng không như thúc hối. Gió thổi lao xao nền lá, thổi phập phồng lông cánh, lông măng. Cứ nhắm mắt mà tưởng tượng mình nghiêng qua đập đập vài cái, nghiêng cánh lại đập đập vài cái và thân mình lượn qua lượn lại giữa thinh không. Nhẹ hơn một chiếc lá bay.
 
Có tiếng thằng bé bi bô dưới sân: "Con chim xanh xanh. Nó đậu trên cành. Con chim xanh xanh...". Út cúi đầu nhìn xuống: thằng bé đi thơ thẩn một mình. Nó mặc bộ quần áo trắng, đội cái két trắng và mang giày trắng, bít tất trắng. Trông nó nõn nà như một cục bông. Nó đi từng bước ngắn, miệng cứ bi bô nhắc lại: "Con chim xanh xanh. Nó đậu trên cành".
 
Út nghĩ thầm: Nếu thằng bé thấy mình thì nó sẽ không hát như vậy. Nó sẽ hát "Con chim xam xám. Nằm bám trong ổ". Tội nghiệp, nó lại ở nhà một mình. Chị nó chắc lại đi nhổ răng. Sao mà nó không về chơi với nó. Ngó bộ nó cô đơn ghê chưa! Y như mình.
 
Thằng bé đã lẫm dẫm đi khuất góc tường. Tiếng bi bô "Con chim xanh xanh" nhỏ dần rồi cũng lặng mất. Út muốn nhìn xem thằng bé đi đâu. Nó đứng nhòm dậy. Nhưng nó vội tự nhủ: "Không được. Mình không được lén Má nữa". Nó nằm xuống trở lại.
 
Gió thổi lao xao những chiếc lá mãng cầu để lộ cho Út thấy những trái nhỏ nhăn nheo trông ngộ nghĩnh ghê. Chưa thấy có thứ trái nào sần sùi xấu xí như vậy. Mà sao thằng bé chưa thấy trở lại? Nó đi đâu vậy, cô đơn trong một khoảng sân rộng dường đó? Út thương nó. Phải đi ra coi thử nó hiện làm gì. Chỉ đứng trên cành cây thôi. Không bay đâu. Không bay thì có gì mà nguy hiểm?
 
Vừa tự nhủ như vậy, Út vừa rón rén đứng dậy bước ra khỏi ổ. Cái chân trái khập khiễng. Thật giận cái cái chân trái, phải bước nhẹ nhẹ với nó. Út nhảy lên cành phượng. Út nhảy ra xa. Vẫn chưa thấy thằng bé. Út nhảy ra xa hơn. À, nó kia rồi. Nó đứng nhón chân khều một trái khế nhỏ. Chắc nó muốn rủ trái khế xuống chơi với nó.
 
Người nó nghiêng về đằng trước. Cái quần ngắn kéo xếch lên để lộ đôi bắp đùi trắng tròn. Bé ơi, sao da bé trắng nõn vậy? Chẳng bù da của Út xám xám rằn ri. Ờ, rán thêm chút nữa đi. Khều khều cái móc cầm bên tay trái đó. Ngón tay mặt gần tới cái trái rồi. Nhón chân thêm một chút nữa đi. Một chút nữa. Chút nữa. Chút... Thằng bé bỗng loạng choạng. Trong loáng mắt nó ngã nhào xuống đất. Nó hét to. Út hoảng kinh , bay vù xuống cứu nó.
 
Út thấy đau nhói nơi chân trái. Đáp xuống đất quá gấp, Út quên cái chân trái có tật của mình. Đáng lẽ phải để cái chân mặt chạm đất trước để chịu đựng sức va chạm. Cơn đau làm Út nhăn mặt. Út ngã chúi xuống. Vội vàng, Út đập cánh phành phạch trên mặt đất, cố nhỏm dậy. Nhưng cả cái đầu và cái ức cứ nhủi xuống. Út xòe cái đuôi để chống lấy điểm tựa, nhưng cái đuôi lửng lơ ở đâu. Út nhoài người tới lấy đà, nhưng đôi cánh như mất tiêu hết sức lực. Út kinh sợ muốn khóc. Khốn khó như vậy sao? Út lấy lại can đảm. Phải nằm nghiêng bên mặt và đẩy người tới bằng cái chân khỏe mạnh. Phải nhủi tới. Phải nhủi tới. Phải...
 
Chợt có một vật gì âm ấm phủ lên cả mình Út. Cả thân mình Út được nhấc bổng. Út đưa mắt nhìn lên: một bàn tay người. Nhìn lên nữa: một khuôn mặt người. "Trời ơi!", Út thét lên và ngất xỉu đi vì khiếp hãi.
 
............
 
Khi tỉnh lại, Út ngơ ngác không biết mình hiện giờ ở đâu. Cái hoa màu vàng trong lọ. Cái giường trải khăn trắng. Cái rèm cửa màu xanh nhạt. Ừ, đây là căn phòng cửa sổ màu hồng. Nhưng sao mình lại ở đây? Út cố nhớ lại... Má và anh chị bay đi... Mình nằm trong ổ... Gió thổi... Có tiếng thằng bé... À thôi, nhớ rồi. Cái cảm giác âm ấm còn choàng ấp trên lưng. Đúng rồi, mình còn nằm trong một bàn tay nữa. Phen này con chết rồi Má ơi! Má ơi! Anh Rằn ơi! Chị Nâu ơi!
 
Nước mắt Út chảy lặng lẽ. Nó nhìn cái ngục đang giam cầm nó: bàn tay. Nhưng mà...ưở, sao bàn tay này khác bàn tay hồi đó. Bàn tay này nhỏ. Mềm. Thơm thơm. Bàn tay hồi đó cứng hơn mà. Nhám hơn mà. Có những cái móng dữ tợn mà. Út len lén đưa mắt nhìn lên: thằng bé. Bé ơi! Thả Út ra đi cho Út về với Má. Út thương bé lắm mà. Út thấy bé ngã. Út bay xuống cứu bé mà. Sao bé lại bắt Út?
 
Thằng bé không có vẻ gì hiểu lời nói của Út. Có điều khi nghe Út chíp chíp thì nó mừng rằng Út còn sống và khi thấy Út mở mắt nhìn nó thì nó cúi xuống gần mặt Út. 
 
- Chim nhỏ ơi, chim nhỏ sống rồi hả? Thương chim nhỏ quá. Chim nhỏ có đói bụng không? Chim nhỏ ăn bánh kem với bé nghe? Lát nữa chị Ti đi học về, chị Ti mua sữa đậu nành cho chim nhỏ uống nữa. Bé không muốn uống sữa đậu nành. Chị Năm nói sữa đậu nành của lão đó chỉ toàn nước lạnh. Chị Năm nói hôm nào má mạnh má về chị sẽ méc má là chị Ti hay uống sữa đậu nành của lão đó. Uống bệnh liền. Hay là chim nhỏ ăn mứt? Lọ mứt mới mở hôm qua đó. Chim nhỏ ơi, thương chim nhỏ quá.
 
Thằng bé cầm Út đưa lên kề sát má. Đó là lối hôn của nó. Rồi nó bẻ một miếng bánh kem, rứt một mảnh nhỏ đút vào miệng Út. Nhưng Út nhằn nhằn nhả ra.
 
- Sao vậy chim nhỏ? Ăn bánh kem đi chớ. Bánh ngọt và béo mà. Mềm nữa. Hay là chim nhỏ thích ăn kem? Thôi để bé lấy thìa múc kem đút cho chim nhỏ ăn.
 
Thằng bé lấy thìa múc kem đút vào miệng chim nhưng chim cứ ngậm chặt cái mỏ. Bé loay hoay xoay trở cái thìa, tìm cách đút cho được. Kết quả là kem dính bẹt vào đầu, vào mỏ, vào mặt Út, trắng bệch như mặt thằng hề.
 
- Chắc chim nhỏ không thích ăn kem. Chắc chim nhỏ thích mứt hơn. Để bé lấy lọ mứt cho chim nhỏ ăn.
 
Và lần này cái thìa sau khi vục vào lọ mứt lại tìm cách lách vào miệng Út và cuối cùng mứt lại được quệt đầy lên đầu, lên mặt, lên cả cổ và cánh của Út. Vừa lúc ấy, có tiếng chuông gọi cổng và Ti đi học về.
 
Ti mở cửa phòng, chưa kịp bỏ cái cặp nặng trịch xuống bàn đã nghe bé méc lia lịa, nghe không kịp:
 
- Chị Ti ơi, bắt được chim nhỏ đây này. Chị Năm bắt. Chị Năm cho em. Chị Năm nói nó tập chuyền. Rồi nó té. Nó có mở con mắt. Em mới cho nó ăn bánh và cho ăn mứt.
 
Ti đã chạy lại đứng kề em từ khi nghe tiếng đầu tiên "bắt được chim nhỏ". Trẻ con đứa nào cũng thích những con chim. Đợi bé thôi nói mà bé cứ nói hoài. Ti ngắt lời:
 
- Đưa cho chị cầm một chút.
 
- Một chút thôi nghe. Rồi trả cho bé. Mà coi chừng, phải cầm cho chắc chớ chim nhỏ bay mất.
 
- Ừ.Bé trao chim cho chị.
 
- Mà sao mặt mày nó dính tùm lum những gì thế này? Cái gì trăng trắng, nâu nâu, dẻo dẻo thế này?
 
- Bé cho nó ăn kem đó. Rồi bé cho nó ăn mứt nữa.
 
- Nó có ăn không?
 
- Nó nhớ mẹ, không chịu ăn.
 
Ti lại cầm chim đặt lên kề má, nói nựng:
 
- Sao chim nhỏ không ăn? Chim nhỏ không thích mứt chớ gì. Chắc chim nhỏ khát nước. Để chị Ti lấy nước cho chim nhỏ uống.
 
Vừa lúc đó cửa phòng mở, chị Năm hiện ra:
 
- Bé và Ti xuống tắm. Nước pha sẵn rồi.
 
Bé:
 
- Bé không tắm. Bé mắc giữ con chim.
 
- Chim đâu mà giữ? Hai bàn tay không.
 
- Chị Ti cầm dùm.
 
- Chị Ti cũng xuống tắm luôn.
 
Ti chu mỏ:
 
- Không có. Ti mắc nắm con chim.
 
- Bộ nắm suốt ngày đêm vậy sao? Không đi tắm, lát nữa Ba về tôi mách.
 
- Ti mắc nắm con chim.
 
- Nói lỳ vậy hả? Tắm xong còn ăn cơm. Ăn cơm xong còn học bài.
 
Chị nhìn lên đồng hồ tường:
 
- Ba sắp về rồi đó.
 
Ti vẫn xịu mặt:
 
- Ngày nào cũng tắm, ăn cơm, học bài. Ti mắc nắm...
 
- Để chị đi lấy cái lồng nhốt nó cho.
 
Chị Năm đi ra. Năm phút sau, chị trở lại với cái bẫy chuột mặt lưới trên tay.
 
- Vậy mà kêu cái lồng? - Ti phản đối.
 
- Nhốt tạm. Mai hay. Đưa con chim đây.
 
Ti giấu lui ra sau lưng, không chịu đưa.
 
- A, trễ giờ rồi đó nghe. Xe Ba sắp về rồi.
 
Chị hạ giọng dỗ dành:
 
- Đưa đây chị nhốt cho. Đi tắm rồi vô chơi. Tí xíu, lâu la gì.
 
Thừa lúc Ti không để ý, chị nhảy tới chụp bàn tay Ti. Ti la lên:
 
- Không được. Không được.
 
Nhưng con chim đã nằm gọn trong bàn tay của chị. Và đến lượt chị la:
 
- Cái gì mà tèm lem tèm luốc như vầy?
 
Chị đưa lên mũi ngửi:
 
- Ưở, mứt cam và kem ga-tô ở đâu mà đầy mặt đầy mũi con chim như vầy?
 
- Bé nó cho ăn đó. Không phải Ti đâu.
 
- Chim gì lại ăn mứt với ăn kem? Nuôi kiểu này mai nó chết ngay đơ.
 
Bé vội vàng cãi:
 
- Nhưng mà nó không ăn.
 
- Hú vía cho nó. Nếu nó ăn thì chỉ có nước đem chôn. Thà đem đưa chị vặt lông, ướp nước mắm hành tiêu rồi đặt lên lò nướng.
 
Ti nhảy tới giành cái lồng:
 
- Không được. Không cho chị nướng con chim.
 
Chị Năm cười:
 
- Thôi chị nói chơi. Chị không nướng đâu. Để cho Ti và bé chơi. Đi ra tắm rồi vô chơi. Chị để cái lồng trên bàn đây.
 
Ti ngần ngừ không biết có nên tin lời chị không. Bé thì hết nhìn chị Năm đến nhìn chị Ti và nhìn lồng chim. Chị Năm giục:
 
- Nước nguội ngoài đó rồi.
 
Ti nhích tới một bước:
 
- Mà chị phải hứa là không nướng con chim.
 
- Ừ, chị hứa.
 
Chưa lần nào cuộc tắm diễn ra mau mắn như hôm nay. Những lần trước hai chị em cứ mải chơi với bọt xà bông, cứ nhảy giỡn hoặc bước đi chỗ khác, chớ không chịu ngồi im cho chị Năm kỳ cọ và dội nước cho đâu. Hôm nay thì ngược lại. Phải tắm thật mau để trở lại với con chim. Chắc nó đang buồn.
 
Vừa tắm xong chưa kịp lau, bé đã vội chạy về phòng. Chị Năm hỏi:
 
- Chớ chạy đi đâu vậy? Bộ không bận quần áo hả? Bộ ở truồng hả?
 
Thật là bực bội, những cái quần và những cái áo, - lần đầu tiên bé nghĩ - Bày chi tới hai cái ống quần và hai cái tay áo. Làm bé suýt té mấy lần vì cứ thọc hai chân vô một ống quần. Lại còn chải tóc nữa. Thôi, hôm nay khỏi phải thoa phấn rôm. Hai chị em xỏ dép vội vàng, chạy băng lên phòng. Mở cửa một cái ào. Tiếng cánh chim bay vù ra cửa sổ.
 
- Chết! Con chim bay mất rồi!
 
Cả hai chị em cùng la lên vừa chạy vội lại bàn. Trong lồng, Út vẫn còn đó. Út nhảy qua nhảy lại tới tấp bấu những vuốt nhọn lên mặt lưới. Đôi cánh lè phè, lông rụng xơ xác. Miệng kêu chíp chíp thảm thiết. 
 
Bên ngoài cửa sổ nơi cành mãng cầu, Má Út, chị Út, anh Út miệng kêu chạch chạch, nhảy nhót tơi bời. Út nghe tiếng kêu lại càng lồng lộn, nhảy xuống nhảy lên, thò đầu ra ngoài mắt lưới cố tìm lối thoát. Ti đứng cạnh lồng nói giọng vỗ về:
 
- Đừng sợ chim nhỏ ơi. Ở đây với chị, chị cho ăn chuối và ăn cơm. 
 
Bé cũng đặt tay lên mặt lồng, nói nho nhỏ:
 
- Chim nhỏ ơi, ở đây với bé. Rồi tối cho chim nhỏ coi tivi. 
 
Nhưng chim nhỏ không nghe, chim nhỏ cứ nhìn ra cây mãng cầu, chim nhỏ cứ nhảy điên cuồng. Nhảy mệt quá, đứng nghỉ một xíu rồi lại nhảy nữa. Ngoài kia ba con chim lớn cũng nhảy rối loạn, miệng kêu không ngớt.
 
Có tiếng xe ba về trên sân. ba con chim hoảng sợ bay vụt lên cành cao. Ba đi vòng ra ngả sau. Chị Năm nói huyên thuyên gì đó với Ba và Ba bước vào. Bé chỉ cái lồng, mách Ba:
 
- Con chim. Bắt được con chim.
 
- Chị Năm bắt cho con đó hả?
 
- Dạ nó muốn bay theo mẹ nó.
 
- Ờ.
 
- Mẹ nó đứng ngoài kia.
 
- Ờ.
 
Ti nối lời:
 
- Lúc nãy bé đút kem và mứt cho nó ăn.
 
- Chim sẻ đâu có ăn kem và mứt. Nó ăn gạo.
 
Ti:
 
- Vậy mình lấy gạo cho nó ăn.
 
- Nhưng có mẹ nó gọi ngoài kia, nó không chịu ăn đâu.
 
- Vậy thì làm sao hở Ba, - Ti hỏi - Nó không ăn, nó đói, nó sẽ chết.
 
- Chắc chắn là nó sẽ nhịn đói mà chết.
 
Bé:
 
- Tội nghiệp nó.
 
Ba cha con im lặng. Ti hỏi lại:
 
- Vậy bây giờ phải làm sao, Ba?
 
- Chỉ có một cách là hãy thả nó ra.
 
Bé gạt ngay:
 
- Không được. Không được. Không cho thả. Con chim của bé.
 
Vừa nói bé vừa kéo cái lồng ôm vào mình. Giọng Ba chậm rãi:
 
- Tối, nó phải ngủ với mẹ nó. Mẹ nó ấp cho nó khỏi lạnh.
 
- Tối nó ngủ trong giường với bé. bé đắp cái mền cho nó.
 
Ba cười:
 
- Con ngủ quên, lăn đè lên cái lồng và cái lồng sẽ bẹp xuống.
 
Bé không còn biết cãi sao. Đành nói lì:
 
- Nhưng mà con không cho thả con chim.
 
Ba bước lại gần, đặt tay lên vai bé:
 
- Con thương con chim nhiều lắm phải không?
 
- Thương nhiều lắm.
 
- Con muốn con chim sống, hát và bay nhảy vui vẻ, sung sướng phải không?
 
- Phải. 
 
- Con không muốn con chim nằm chết, mắt nhắm nghiền và đôi chân co quắp lại phải không? Con không muốn thấy những bầy kiến lửa sẽ dẫn nhau tới cắn xé cái xác của chim, đục khoét đôi mắt của chim phải không?
 
Bé vội vàng lắc đầu:
 
- Không. Không. Bé không chịu để con chim chết.
 
Tay Ba nhẹ xoa đầu bé:
 
- Nhưng Ba đã nói, nếu con cứ giữ nó trong lồng thì nó sẽ bỏ ăn mà chết. Bởi nó nhớ mẹ nó, nó không thể sống xa mẹ nó.
 
Bé ngước mắt chăm chăm nhìn Ba.
 
- Lúc đó thì dù không muốn con cũng phải mở cửa lồng bắt bỏ nó ra. Nhưng bỏ ra để làm gì nữa? Nó nằm im. Nó chết rồi.
 
Ti tỏ vẻ xúc động:
 
- Không có cách nào hết sao Ba?
 
Ba lắc đầu:
 
- Chịu.
 
Mọi người lại im lặng. Ti đi lại gần bé:
 
- Thôi, bé để cho Ba thả con chim ra.
 
- ...
 
Mắt bé có đọng hai giọt nước mắt. Giọng Ba nhẹ nhàng:
 
- Nhưng nếu để con nuôi, mai mốt nó chết thì con sẽ phải khóc nhiều hơn. Thôi, đưa cái lồng cho chị Ti.
 
Bé không trả lời. Chị Ti lại cầm cái lồng và gỡ từng ngón tay của bé đang bấu vào mắt lưới. Bé chỉ cưỡng lại yếu ớt. Chị Ti cầm cái lồng trao cho Ba. Ba nói:
 
- Con chim này của bé nên để cho bé thả.Bé sẽ mở cửa lồng, con chim sẽ bay đi và con chim nhớ mãi ơn bé. Chị Ti cầm cái lồng đem lại gần cửa sổ cho bé.
 
Ba cúi xuống bế bé lại gần cửa sổ:
 
- Con nói lời từ giã chim đi.
 
Bé không nói. Chị Ti đặt tay lên mặt lồng, kề miệng bảo chim:
 
- Giã từ chim nhỏ nghe! Chim nhỏ bay về với mẹ nghe.
 
Ba giục bé:
 
- Bé cũng nói giã từ đi...
 
Bé lí nhí một tiếng: "Giã..." rồi nghẹn ngào không nói thêm được.
 
- Bé đè cái chốt cửa này xuống.
 
Bé thẫn thờ đè ngón tay lên cái chốt một cách chậm chạp. Cánh cửa lồng mở toang. Con chim nhìn ngơ ngác. Rồi nó bay vụt qua cửa. Chị Ti vỗ tay:
 
- A! Chim bay rồi! Giã từ chim nhỏ nghe! Mừng nghe! Về với mẹ nghe!
 
Ba cúi xuống bé:
 
- Bé cười lên đi.
 
Bé gắng mỉm miệng cười nhưng hai vệt nước mắt còn long lanh nơi gò má. Trên cành mãng cầu, anh Rằn, chị Nâu và Má ngạc nhiên nhìn thấy Út bay vút đến đậu kề bên. Có thật hay là đang nằm chiêm bao? Cái lồng bằng lưới kẽm kiên cố vậy mà. Nhưng mà phải rảo cánh bay về ổ cho mau cái đã, xa gấp cái vùng nguy hiểm. Má nghĩ như vậy và Má bay trước. Ba chị em nối tiếp bay theo.
 
Về đến ổ, những tiếng chích chích vang lên loạn xạ. Ai cũng cất tiếng nói và Út không biết nghe ai. Đại khái đó là một màn chất vấn: "Tại sao bị lũ đó bắt? Lũ đó leo lên ổ chụp được Út phải không? Út bị bắt hồi nào? Lũ đó có đánh đập Út không? v.v... Út nhọc mệt trả lời những câu hỏi.
 
Nâu nói:
 
- Cái "người ta" nhỏ đó, nó xấu lắm mà Út lại bay xuống cứu nó khi nó bị té.
 
Út cãi liền:
 
- Không phải. Không phải. "Người ta" nhỏ không xấu.
 
- Không xấu mà nó ôm giữ cái lồng không cho "người ta" lớn thả Út ra.
 
- Tại nó thương Út. Nó muốn Út ở chơi với nó.
 
- Thương cái kiểu gì lạ vậy?
 
- Nó cho Út ăn nữa mà.
 
- Ăn cái gì?
 
- Nó lấy cái dài dài múc cho Út cái mềm mềm, nhão nhão.
 
Rằn hỏi:
 
- Thế Út có ăn không? Ăn ngon không?
 
- Út không ăn. Út sợ quá. Út không ăn.
 
- Thế bây giờ Út có đói bụng không?
 
- Sợ quá, Út cũng quên đói.
 
Rằn đưa mỏ sục sạo tìm kiếm gì đó nơi bờ ổ. Lát sau, nó ngậm một con sâu nhỏ trao cho em:
 
- Út ăn đi. Hồi nãy anh tìm được con sâu này đem về cho Út. Da nó nõn màu vàng lợt, ngó là lạ. Đinh ninh Út sẽ thích. Ai ngờ bay về thấy cái ổ vắng ngắt.
 
Chợt Má hỏi:
 
- Mà ai dạy cho con bay vậy?
 
Từ nãy tới giờ mải vui mừng vi tai qua nạn khỏi, không ai chú ý đến việc Út đã biết bay. Giờ nghe Má hỏi, anh chị mới chợt nhớ ra. Út ngượng ngập trả lời:
 
- Con tự tập lấy.
 
- Cái chân trái con khập khểnh mà.
 
- Con liệu thế để ít chạm đến nó.
 
- Vậy là hú vía cho con. Má đã dặn bao nhiêu lần, phải luôn luôn giữ mình cẩn thận. Kẻ thù của chúng ta nhiều lắm. Có kẻ thù lập tâm cố ý dùng ná bắn ta để ăn thịt. Có kẻ thù vô tình như cái cây ngã đè, như hòn gạch rớt trúng. Má đã chọn cái mái hiên này để lót ổ vì cái "người ta" ở đây hiền lành. Nếu gặp phải kẻ dữ thì...
 
Má không nói hết câu nhưng Út đã hiểu rằng nếu gặp kẻ dữ thì sự việc gì đã xảy ra cho Út. Giọng Má chợt ngậm ngùi:
 
- Hồi còn mồ ma Ba các con, Ba các con cũng hay mơ mộng và cả tin. Thích lót ổ ở giữa đồng hoang để nhìn hoa nhìn lá. Có ruộng lúa chín để vừa cắn hột lúa vừa nghe tiếng sơn ca.
 
- Đó là sự thật. Ai lại chẳng thích? - Rằn ngắt lời.
 
- Nhưng lúa chỉ chín vào tháng Ba, tháng Tám. Phải bay mãi lên miệt đồng khô mới có lúa tháng Giêng. Chẳng lẽ mấy tháng khác chỉ nghe tiếng sơn ca mà no?
 
- Thì có chuối, có ổi. - lời chị Nâu.
 
- Quả đúng như vậy. Có xoài, có mít, có trái thơm, có trái thị, trái sim... Nhiều trái lắm. Nhưng đang mê ăn trái, có con chim cắt nó bay xớt qua, nó kẹp luôn mình, ôm về ổ nó.
 
- Thì mình đậu thấp thấp, núp trong lùm bụi, cũng có trái cây mà ăn.
 
- Ở dưới thấp có con rắn. Rắn hổ mang, rắn hổ lửa, rắn ráo, rắn cạp nong...
 
Rằn và Nâu lặng lẽ thở dài. Giọng Má nhẹ nhàng:
 
- Ba các con đành giã từ hương lúa và gió mát để dọn về thành phố. Nơi này người ta không thèm để ý đén loài sẻ nghèo nàn chúng mình. Họ chơi với hoàng anh, bạch yến, họa mi. Để ăn thịt thì có gà thiến, vịt áo lá. Chớ trẻ nhà quê thì một con chim sẻ nhỏ xíu cũng đem ướp đem nướng.
 
Út ngậm ngùi thương cho bà con của mình. Giọng Má vẫn đều đều:
 
- Xuống thành phố, Ba các con chọn làm ổ nơi trần nhà của một bệnh viện. Lý luận nghe quá đúng: Đã đi bệnh viện thì chỉ toàn là những con người đang đau khổ. Lo cái khổ của mình chưa hết, còn tâm tư đâu nghĩ cách làm khổ kẻ khác. Nhưng báo hại, một đêm kia có kẻ bắc thang leo lên trần nhà rồi dùng đèn rọi chụp bắt các ổ chim. Đèn sáng chói mắt, không biết đàng nào mà bay. Nhưng không hiểu do vận may rủi làm sao mà Ba con và Má thoát nạn. Dọn về ở nơi chái hiên này. Kiếm ăn ở cái chợ nơi cuối đường.
 
Nhưng Ba vẫn bị tai nạn. - giọng Nâu bùi ngùi, nửa như than, nửa như chất vấn.
 
- Đã nói Ba các con có tính mơ mộng. Ăn xong là thích bay đó đây để nhìn. Bay xuống bờ biển. Bay lên tháp chuông. Bay lại trường học. Thích nhìn học trò ngồi vòng tay nghe thầy giáo giảng bài. Kỳ đó Ba các con còn rủ một ông bạn láng giềng là ông Sẻ Trụi cùng tới thăm lớp (Ông này có cái đầu trụi lủi do bà vợ ghen mổ rứt rụng hết lông). Cô giáo bỏ lớp ra đứng nói chuyện với bà Cai ở hành lang, để học trò ngồi làm bài. Nhưng nhiều đứa nói chuyện. Nhiều đứa thụi nhau. Nhiều đứa nằm dài trên băng. Nhiều đứa moi bánh mì, lục trái ổi ra ăn. Ông Sẻ Trụi tính ba hòa liền lạch chạch một tràng, ý muốn lên tiếng phê phán cho Ba con nghe. Dè đâu một đứa học trò có thủ sẵn ná cao su liền gài viên đá nhắm bắn một phát. Trật ông Sẻ Trụi mà trúng ngay Ba con.
 
Má ngưng nói. Hai giọt nước mắt long lanh nơi khóe mắt Má. Xung quanh im lặng. Tiếng gió vi vu len lỏi giữa những cành phi lao đứng bên kia đường. Tiếng một cái xe gắn máy rồ lên rồi mất hút nơi xa. Má nghẹn ngào thở dài.
 
- Thôi, các con ngủ.
 
Hai ngày sau, Sẻ mẹ cho các con biết là mình đã quyết định dọn ổ đi nơi khác. Tim Út nhói lên khi nghe Má nói như vậy. Út không muốn đi ở chỗ khác. Anh Rằn và chị Nâu thì im lặng. Quyết định đột ngột quá làm hai người chưa kịp có ý kiến. Mãi lâu anh Rằn mới nói:
 
- Má định đi đâu? Má nói đã chọn nơi này hiền lành.
 
Giọng Má buồn buồn:
 
- Quả như lời con: nơi này hiền lành. Thằng em nhỏ, con chị nó, Ba nó, Má nó đều là những người người tốt. Nhưng còn chị... chị...
 
Nâu nhắc:
 
- Chị Năm.
 
- Má không nghĩ rằng chị ấy xấu, nhưng Má chưa dám nói là chị ấy hiền lành. Chị ấy đã biết rằng chúng ta lót ổ gần đây và có thể một ngày nào chị ấy lưu ý tìm tòi và chị ấy sẽ tìm ra.
 
- Còn cái chỗ sẽ tới?
 
- Gần đây thôi. Ở nơi mái lầu kia. Chủ nhà là một ông hay mang gương ngồi trước một cuốn sách. Có một bà chị tóc bạc phơ và mấy cô con gái dịu dàng. Nhà không có trẻ con nghịch phá.
 
- Rồi phải xây một cái ổ mới?
 
- Có một cái ổ cũ bỏ nằm gần đó. Rơm rác còn đó. Má sẽ lượm lặt sắp xếp làm tạm cái ổ cho bốn mẹ con mình.
 
Nhìn nét mặt buồn của Út, Má nói:
 
- Qua đó ở tạm một thời gian, tránh con mắt dòm ngó của chị...
 
Nâu lại nhắc:
 
- Chị Năm.
 
- Bên đó gần mà. Khi nào con muốn, con đi vòng qua góc nhà thì có thể nhìn thấy cái "người ta" nhỏ của con.
 
Út gượng mỉm cười. Má nói tiếp:
 
- Rồi khi tình hình không có gì xấu hơn thì chúng ta có thể dọn về trở lại bên này.
 
Út thầm nói trong lòng: "Cám ơn Má".
 
Bữa dọn nhà không có gì nhọc mệt. Chẳng có gì phải mang theo. Má bay trước, bay chậm dẫn đường. Anh Rằn chị Nâu có bổn phận bay kèm theo Út. Út nói:
 
- Để cho em đứng nhìn cái cửa sổ màu hồng một chút.
 
Chị Nâu vùng vằng:
 
- Má đang đợi kìa.
 
Anh Rằn bảo chị:
 
- Thôi để cho Út nó nhìn một chút.
 
Rồi quay sang Út:
 
- Một chút thôi, nghe.
 
Út gật đầu. Út đứng lại ở cành ô-ma nhìn qua cửa sổ. Cái lọ cắm toàn hoa cúc trắng trên bàn. Cái giường trải khăn trắng. Cái "người ta" nhỏ đang ngồi  bên cạnh chị. Đôi mắt đen như hai hột nhãn. Đôi môi nhỏ màu hồng đang mím chặt, nghiêm trang.
 
Tiếng anh Rằn đập cánh thúc giục sau lưng. Chị Nâu chắc đang sốt ruột. Út chăm chăm nhìn vào căn phòng, miệng thẫn thờ nói:
 
- Giã từ cái "người ta" nhỏ. Giã từ cái...
 
Út bật òa khóc, không nói trọn được hết câu. 
 
VÕ HỒNG