Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2024

CHẾT DỞ - Nhất Linh

 

Khương chống hai tay xuống chiếu, lê dần người ra một góc giường, rồi giơ tay mở ngăn kéo bàn. Chàng cúi mặt nhìn vào trong ngăn kéo, nhưng vì buồng tối, không nom rõ, nên chàng cho tay vào lục lọi, năm ngón tay xòe ra quờ quạng bốn góc. Tìm một lúc lâu, chàng đậy ngăn kéo lại, có vẻ thất vọng. Khương nhớ rõ một hôm có vứt vào ngăn kéo một điếu thuốc lá hút dở, thế mà nay biến đâu mất. Chàng cau mày lẩm bẩm :

- Chắc lại thằng nhỏ khốn nạn ấy nó xoáy của mình rồi.

Bỗng Khương chợt thấy một mẩu thuốc lá nằm gọn ở chân cái mễ. Chàng cầm lên, thổi mạnh cho hết bụi, để vào mũi ngửi.

- Thuốc lá Ăng-lê. Chắc là của thằng cha Hạp lại thăm mình hôm nọ.

Khương nhỏm dậy và lấy ngón tay cời thuốc cho tơi. Chàng nhìn dúm thuốc trong lòng bàn tay, vui mừng nói :

- Cũng được một điếu nhỏ.

Móc túi một lúc lâu, Khương lấy ra một tập giấy thuốc lá, ngồi loay hoay quấn. Chàng làm công việc ấy rất thong thả như có ý kéo dài cái thời kỳ chờ đợi được hút một điếu là rất ngon.

Từ ngày bị liệt hai chân - đến nay đã gần bảy năm - Khương lúc nào cũng quanh quẩn bên giường.

Không làm việc gì cả, nên chàng lấy cái nghiện thuốc lá làm một cái thú độc nhất để khuây khỏa nỗi buồn. Nhà chàng nghèo dần; chàng còn sống được đến bây giờ là nhờ ở người vợ có ít lưng vốn mở một cửa hàng bán gạo tẻ.

Khương đánh diêm châm điếu thuốc lá, nhưng vì thuốc ẩm, hút mỏi mồm cũng không được tí khói nào. Giấy ướt nước bọt, rách tung; Khương nhổ mạnh cho những sợi thuốc khỏi bám lấy môi rồi tức mình quẳng điếu thuốc đi.

Khương nằm im một lúc, toan gọi thằng nhỏ, thì có tiếng vợ chàng thét ở ngoài nhà. Chàng định bảo thằng nhỏ xin tiền mua thuốc lá, nhưng thấy vậy, chàng đành nhịn thêm đợi lúc khác. Nửa giờ sau, nghe ngóng biết là ở ngoài cửa hàng không có khách nào, Khương khẽ gọi :

- Nhỏ ơi!

Không thấy thằng nhỏ vào, và biết là nó bận luôn tay, nên Khương cứ thỉnh thoảng lại gọi khẽ một tiếng, may ra lọt vào tai nó chăng. Sau cùng, thấy thằng nhỏ vào, chàng ngập ngừng dặn :

- Em ra xin mợ tiền mua cho cậu bao thuốc lá.

Lúc thằng nhỏ ra ngoài nàng cất tiếng hỏi, chàng đã đoán trước được những lời của vợ chàng :

- Cậu mày hút gì mà hút lắm thế. Cậu mày hút nửa, thì mày cũng hút vào đấy một nửa. Đánh mãi cũng không chừa được thói ăn cắp của chủ.

Theo sau lời nói, một tiếng cốp mạnh lên đầu thằng nhỏ, nhưng Khương chỉ để ý đến tiếng mở tráp và tiếng xu, hào chạm nhau. Đưa tiền rồi, vợ chàng còn lẩm bẩm nói một mình :

- Hút vào chỉ tổ ho, chứ có được tích sự gì đâu.

Thằng nhỏ vào buồng, nửa như đặt, nửa như vứt bao thuốc lá trên nắp cái ấm giỏ, rồi bước vội ra ngay. Khương không nhận thấy cử chỉ khinh thị ấy của đầy tớ, chàng chỉ khó chịu về nỗi phải lê mãi mới tới cái giỏ để lấy bao thuốc. Chàng trân trọng mở bao ra, quấn một điếu thật to, rồi nằm ngửa hút luôn mấy hơi dài.

Khói thuốc khi bay ngang qua những tia nắng xiên chếch từ khe cửa sổ xuống đất hiện rõ ra những đám mây, rồi một lúc sau lại biến mất vào trong bóng tối gian phòng. Khương đau đớn nghĩ đến cái thời kỳ cường tráng từ năm hai mươi nhăm đến năm ba mươi tuổi, cái thời kỳ còn chứa chan hy vọng về cuộc đời, lúc nào cũng hoài bão những công cuộc to lớn, bồng bột chí khí hùng dũng. Học trường Luật được hai năm, Khương bị đuổi, rồi từ đấy, chàng bắt đầu hành động. Vợ chàng, người đàn bà cằn cỗi, chua ngoa, ngồi bán gạo ở cửa hàng hồi đó, còn là cô Liên, một thiếu nữ mảnh dẻ dịu dàng, hai con mắt đẹp lúc nào cũng như đương mơ một giấc mơ xuân. Liên lấy chàng chỉ vì phục chàng là người có chí rộng. Nhưng nay cái chí khí của chàng, cũng như cái sắc đẹp của Liên không khác gì làn khói thuốc lá đã bay qua tia nắng biến vào bóng tối đen.

Từ khi bị chân tê liệt, tuy vẫn nghĩ đến những việc hoài bão cũ nhưng Khương dần dần thấy không tha thiết nữa, cho những việc ấy là không cần. Chàng thờ ơ với mọi việc, thờ ơ với cả vợ chàng là người chàng tưởng yêu đến khi nhắm mắt. Vợ chàng cũng không yêu chàng nữa, và sau bảy năm vất vả, khổ sở, nàng chỉ coi chồng như một cái bao nặng trên vai, muốn vứt đi nhưng không nỡ.

Khương chỉ mong vợ bỏ hẳn mình, vì có thế, chàng mới có can đảm định liệu lại đời chàng. Còn có người nuôi cơm ăn, thì chàng còn như thế này mãi, vì chàng đã hết cả nghị lực, không thể tự mình vùng dậy được.

Khương quấn luôn điếu thuốc lá thứ hai hút tiếp; trong phòng khói um như có sương mờ. Chàng thấy rức đầu và rạo rực trong người. Tiếng vợ chàng the thé mắng đầy tớ ở ngoài nhà khiến chàng bịt tai lại. Tuy vậy, chàng cũng vẫn nghe rõ và lần này khác hẳn mọi lần, chàng lại để ý nghe.

- Vừa mới thấy bóng ở đây đã chạy rúc vào buồng ngủ. Ngủ gì mà ngủ lắm thế. Tao nuôi mày để mày ườn thây ra ngủ và ăn hại tao à?

Vợ chàng hứ lên một tiếng dài rồi tiếp theo :

- Sao mà cái số tôi số khổ sở thế này. Những tội, những nợ nặng chình chịch cả người.

Khương xoay mình úp tai xuống gối nằm yên như người không muốn nghĩ ngợi gì cả. Nhưng trí chàng vẫn cứ quanh quẩn nghĩ về mấy tiếng mắng :

- Mình bịt tai thì mình chỉ không nghe thấy. Nhưng những tiếng ấy vẫn có.

Chàng vùng ngồi dậy, máu rực lên làm chàng nóng bừng mặt.

Chàng cất tiếng gọi :

- Nhỏ!

Liên chạy ngay vào, vì thấy tiếng chồng gọi to khác thường, đoán là có việc gì nguy kịch :

- Gì thế, cậu?

- Mợ ngồi xuống đây, tôi nói câu chuyện.

Liên nhìn quanh quẩn biết là không xẩy ra việc gì, liền gắt :

- Cậu làm gì mà rối lên thế?

- Mợ ngồi xuống đây đã nào?

- Cậu muốn nói gì thì cứ nói ngay đi. Tôi đương giở bận...

Khương nói như quát :

- Thì tôi bảo mợ ngồi xuống!

Liên cũng quát lại :

- Cậu muốn mắng tôi đấy, có phải không? Ồ lạ chưa?

Khương hạ giọng xuống :

- Tôi tưởng khi mợ mắng đầy tớ, thì mợ cũng nên nghĩ đến tôi mà liệu giữ gìn lời nói. Mợ cũng phải có ý tứ một chút chứ?

- Bây giờ cậu lại cấm đoán không cho tôi mắng đầy tớ nữa sao. Tôi giận thì tôi nói cho sướng mồm, tôi không rỗi hơi đâu mà nghĩ đến ai cả... Khổ tôi chưa, muốn yên thân mà người ta không cho tôi yên thân. Thế này thì chết đi cho rảnh.

Khương đợi cho vợ im hẳn rồi cố lấy giọng ôn tồn nói :

- Mợ khổ thì tôi cũng không sung sướng gì. Nhưng mợ nên nghĩ lại ngày trước mà thương tôi. Sao vợ chồng mình...

Khương muốn nhắc lại cái thời kỳ hai người yêu nhau ngày xưa, nhưng nhìn vợ thấy nét mặt lạnh lùng, hai con mắt khô khan, chàng biết rằng không bao giờ, không bao giờ nữa, còn mong sống lại được những ngày hạnh phúc đã qua.

Liên không hiểu chồng định nói gì, trước khi quay ra, nàng cười gằn, nói :

- Làm người ta mất cả thì giờ! Chả được tích sự gì, chỉ được cái nhắng hão.

Hai tiếng “nhắng hão” khiến Khương uất người lên, vì nhắc Khương nghĩ đến cái tính hăng hái của chàng nay đã nhụt. Chàng muốn ngoài chàng ra không ai được nhận thấy sự trụy lạc của tâm hồn mình. Chàng nghiến răng, nắm tay giơ lên trước mặt vợ :

- Mợ phải biết, nếu tôi không tàn tật...

Nhưng dáng dấp hùng hổ của Khương chỉ làm cho Liên cười nhạt :

- Cậu không phải dọa. Cậu dọa nhiều lần rồi. Cậu tưởng tôi sợ cậu lắm hay sao...

Nàng đi ra lẩm bẩm :

- Anh hùng rơm!

Khương nắm cái nắp ấm toan ném theo vợ. Nhưng chàng lại hạ tay xuống. Chàng tự bảo :

- Có hơn được gì đâu. Nó cũng đã khổ chán vì mình. Giờ nó thành ra khốn nạn như vậy, đâu phải lỗi tại nó.

Khương chán nản, nằm vật xuống giường. Chàng cố nhấc hai chân lên, nhưng không thể được.

- Mình cũng như thằng chết rồi!

Mắt chàng bỗng để ý đến con dao díp, lưỡi thuôn thuôn nhọn vì đã bị mài nhiều lần. Con dao đó chàng mua từ ngày còn khỏe mạnh, và đã nhiều lần dùng để hộ thân, vì độ ấy chàng có bao nhiêu người thù, người sợ chàng! Nhìn cái mũi dao nhọn hoắt, chàng lại nhớ những hôm hội họp với các bạn ở nhà ả đào dùng mũi dao để mở những hộp thuốc phiện mới mua về. Chàng còn như trông thấy rõ trước mắt bàn tay của cô đào yểu điệu tìm chỗ chích, rồi mũi dao cắm xuống, làm phọt lên một ít thuốc phiện đỏ sẫm như máu đào. Khương bất giác với con dao díp, lấy ngón tay trỏ vờn lưỡi để thử xem sắc, nhụt. Chàng nắm chặt cán dao trong lòng bàn tay, đưa lên gần cổ. Chỉ một cái chích nhẹ vào gáy, một ít máu phọt ra, thế là hết. Văng vẳng bên tai chàng mấy tiếng :

- Anh hùng rơm! Anh hùng rơm!

Chàng sẽ yên lặng không kêu một tiếng nào để tỏ cho vợ biết rằng mình cũng có can đảm, cái can đảm cuối cùng, biết chết một cách lặng lẽ.

Bỗng chàng sợ hãi, hai con mắt mở to chăm chú nhìn bàn tay nắm con dao. Cánh tay tự nhiên ngả dần dần xuống chiếu và bàn tay mở ra; con dao lăn trên mấy ngón tay rồi rơi khẽ xuống nền đất. Khương lẩm bẩm bằng tiếng Pháp :

- Không! Ta không thể được.

Cánh cửa sổ hé mở bị một cơn gió đóng sập lại. Trong buồng tối om. Khương thấy lạnh cả người; những câu nhiếc của vợ, sự nhát gan lúc định quyên sinh đã làm cho chàng trông thấy rõ cái chết của tâm hồn chàng. Chàng cảm thấy cái chết ấy ghê sợ bằng mấy mươi cái chết thật, vì nó bắt chàng phải sống mãi, sống để mà biết.

Khương duỗi hai tay, nhìn lên mái nhà. Một tia nắng lọt qua khe lá làm chàng nghĩ đến cảnh vui sống của cuộc đời bên ngoài. Chàng tưởng tượng các ngọn cây đương phấp phới ánh sáng, ngả nghiêng đùa với gió và những đám mây trắng đương nhẹ nhàng trôi trên trời xanh cao...

Mấy cô con gái vừa đi ngang qua vừa nói chuyện. Khương tưởng tượng họ đẹp lắm, người nào cũng khỏe mạnh, má rám hồng vì nắng, và mắt trong sáng vì phản chiếu ánh trong trẻo của trời thu.

Một tiếng cười giòn sau một câu nói đùa, Khương nghe như là ở trên cõi sống đưa xuống, mà cái buồng tối này chàng tưởng như là một cái áo quan lớn để chôn sống chàng.

 
(Trích trong tập truyện ngắn Những Ngày Diễm Ảo) 
 

Thứ Năm, 25 tháng 7, 2024

NHỮNG KHỐI TÌNH CON CỦA HỌC SINH - Bình Nguyên Lộc

 

Đạt gầm đầu trên tờ giấy có vẽ những hình vuông, hình tròn về những bài toán hình học anh đang làm.

Bỗng sau lưng anh, anh nghe ai ngâm "

Trăm năm tính cuộc vuông tròn...

Đạt giựt mình, ngước lên nhưng không ngó lại.

Người ngâm Kiều cười ha hả rồi nói :

- Anh giựt mình mà vẫn ngồi trơ, nghĩa là anh hết hồn về chuyện khác, chớ không phải vì có tiếng thình lình.

Giọng nói là giọng của người lớn tuổi. Mặc dầu thế, Đạt cũng đùa :

- Trinh thám lắm, nhưng tôi hết hồn vì chuyện gì ?

- Vì câu Kiều tôi ngâm. Câu ấy để trêu những anh học sanh như anh, ngày nầy qua tháng khác cứ học mãi những hình vuông hình tròn. Có gì đâu anh phải sợ. Nhưng anh sợ vì nó nói đúng tim đen anh trong giờ phút nầy. Tôi đoán chắc là anh đang lo ra. Anh ngó hình mà chỉ thấy con Chi.

Đạt tái mặt, rồi bẽn lẽn cắn móng tay, không nói gì nữa, cũng chẳng dám day lại dòm người đối thoại với anh.

Người nầy sợ anh mắc cỡ tội nghiệp, cười một xâu dài rất dòn rồi kể :

- Hôm qua tôi lại đằng chị tôi. Thằng cháu nó mượn thầy về dạy thêm toán. Thấy hai thầy trò đang làm bài toán số học viết lên bảng đen đầy những chữ A chữ B chữ C. Chị tôi hỏi ông thầy : "Ông à, con tôi nó mười tám tuổi, học trên mười năm rồi, sao cứ còn phải học A, B, C hoài vậy ?".

Đạt và người nọ đồng cười xòa.

Bấy giờ người ngâm Kiều mới bước hẳn vào buồng nhỏ của Đạt. Đó là thầy bảy Tân, chủ nhà nơi Đạt ăn cơm tháng đi học.

Thầy bảy Tân đặt nhẹ tay lên vai Đạt mà rằng :

- Anh đừng sợ gì hết. Con Chi là cháu tôi, phải. Nhưng anh có tội gì đâu. Tôi chỉ khuyên anh yêu nó vừa vừa thôi. Yêu chơi chơi vậy thôi, chớ đừng yêu thiệt tình...

Đạt ngạc nhiên đến cực điểm và tự hỏi : "Sao thầy ta lại xúi dại thế, bảo đừng yêu thiệt". Như hiểu ý người bạn trẻ, Tân nói :

- Anh ngạc nhiên vì anh không hiểu rõ hai tiếng "chơi chơi" của tôi. Nầy, để tôi kể anh nghe một câu chuyện tình của học sinh, một cậu học sinh mười chín như anh vậy.

Tân kéo ghế ngồi sát Đạt, vói lấy một quyển sách đậy những hình vuông, hình tròn lại, rồi bắt đầu :

"Một buổi chiều xuân êm đềm ấm áp. Trên phố hàng Bồ, cậu ấm Nguyễn Khắc Hiếu vừa đi vừa ngước mặt lên nhìn trời trong, miệng ngâm nga nho nhỏ : "Hoa cù hồng phấn nữ, tranh kháng lục y lang".

Đó là hai câu thơ trong quyển Ấu học ngụ ngôn thi mà cậu ấm đã học thuộc lòng cách đây mười bốn năm, năm cậu lên năm tuổi.

Người thanh niên ấy với bản chất đa cảm đa tình lại bị giáo dục hơi lơi (ai đời con nít lên năm lại bắt học thơ tình) nên trước cái xuân tạo vật, bất giác đọc lên bài thơ năm cũ, vì lòng đang rạo rực yêu đương.

Đời đẹp lắm, chiều hôm ấy. Trời, mây, chim chóc, cây cỏ, con người, phố xá, xe cộ, cái gì cũng dễ yêu hết.

Từ phố Gia Ngư nơi mà cậu ấm theo học trường qui thức, về nhà trọ ở phố hàng Nón, mỗi ngày cậu ấm qua đây bốn lượt, thế mà mãi đến chiều hôm nay cậu ta mới thấy vẻ đẹp con đường.

Đây, Hà-Nội Đinh-Mùi 1, một Hà-Nội mà gương mặt còn nặng vẻ Thăng-Long cũ với những ngôi nhà mái cong cong, cất không ngay hàng thẳng lối. Đây đó vài tấm biển hàng treo đứng như bên Tàu.

Hà- Nội ấy nhắc nhở đến rất nhiều cái "Thành Tây" năm cũ với những Bích Câu Thôn, những cầu con trên sông Tô-Lịch có người bán tranh tiên.

Đi trên con đường hàng Bồ, nhìn những song sa trên gác con con, cậu ấm mơ đến những cuộc thả lá của tiên để mời tao nhơn mặc khách đi uống rượu làm thơ.

Lá có rơi thật đó, nhưng xem xét kỹ mãi mà không thấy đề thơ. Mà ồ kia, có phải là tiên nữ chăng, một người con gái yếm trắng ngồi trước một căn nhà bên dãy phố lẻ.

Cô gái ngồi trước hiệu tạp hóa, bên cạnh một cái quả sơn son đựng đầy dẫy miếng song thần 2. Sau lưng cô là những bó hương xanh đỏ, những gói chè giấy vàng vàng.

Bấy giờ một chiếc ô-tô cao cẳng, ốm tong teo hổn hển chạy đến trong một vầng bụi hồng, còi bóp te te liên hồi. Cậu ấm hoảng hốt nhảy trái lên vỉa hè trước hàng tạp hóa, đánh rơi xuống đường hết một chiếc giày Gia Định.

Cô hàng tạp hóa trông thấy vẻ sợ sệt của người con trai, bèn nở một nụ cười rực rỡ bằng cả một mùa xuân năm đó.

Cậu ấm quên lượm giày, đứng trân trân mà nhìn những chiếc răng huyền bóng như hạt mãng cầu.

Trời đôi mắt bồ câu sao mà sáng hực trên gương mặt trái soan mà da hồng hồng như cô gái làng Lim thế ?

Bỗng có người đi đến đông đảo, cậu ấm bẽn lẽn quay mặt ra đường. Cậu ta không nhát gái, nhưng cả một nền luân lý Khổng Mạnh mà cậu ta thuộc làu làu kêu lên rằng cử chỉ ấy xấu lắm, nên cậu ta hổ thẹn thật tình.

Cậu ấm do dự vài giây rồi cúi xuống lượm giày, sau lưng cậu, cậu nghe tiếng cười khúc khích.

Suốt buổi chiều hôm đó, cậu ấm như kẻ mất hồn. Cầm chén cơm thì y như gương mặt giai nhân hiện lên trên đó. Tiếng đũa chạm chén, cậu ấm nghe sao mà giống tiếng cười khúc khích phát ra từ hiệu tạp hóa, tiếng cười đáng giận nhưng dễ yêu biết bao ?

Đầu hôm, hễ :

Giở sách ra, lụy sa ướt sách,
Quên câu chữ đầu bài, vì nhớ em.


Giấc mộng hồ ly của pho truyện Liêu Trai mà cậu ấm nằm lòng, lẽo đẽo theo hoài cậu ta suốt đêm đó. "Người con gái ấy có phải là hồ ly không, và nếu phải đi nữa cũng chẳng sợ gì cả, ta lại thiết tha mong nàng là hồ ly, ta sẽ chết vì nàng cũng không ân hận".

Ngày đến với ánh sáng ràng ràng; mộng nên thơ bao nhiêu cũng phải thấp lại, là là mặt đất.

Trên mặt đất, chỉ có trai thật và gái thật. Hễ yêu thì phải đi đến chỗ yêu nhau.

Kể từ ngày đó cậu ấm Hiếu sống giữa Hà - Nội mà chỉ biết có phố hàng Bồ, và đi trên phố hàng Bồ mà chỉ thấy có mỗi ngôi hàng tạp hóa ấy mà thôi.

Cậu ấm ghé hiệu mua hương, mua hương và mua hương mãi. Mỗi lần như thế là cô bé cắn chặt một cọng miến để ngậm cười người con trai mà cô đã thấu rõ nỗi lòng, mua hương mãi không biết để làm gì.

Cả một truyền thống Á Đông còn chảy trong huyết mạch cậu ấm Hiếu nên cậu ta không thể quan niệm một cuộc yêu đương ngoài hôn nhơn được.

Nhưng cái nghiệp đa-tình, dầu sao cũng phải nói một lời gì với người mơ ước, chỉ một lời thôi, chỉ một cái nhìn xa thôi cũng đủ như là một giai đoạn ái ân thầm lén, thú vị biết bao trước khi cậy mai dong đến dạm hỏi.

Cho nên một hôm vào hỏi mua hương, cậu ấm nghẹn ngào nuốt nước bọt đến mấy mươi lần mới hỏi được một câu rất vô duyên :

- Nầy cô em, cô em nghĩ sao nếu tôi cậy mai đến hỏi cô em ?

Cô bé cắn đứt ngon lành cọng miến, lần nầy không phải cắn để ngậm cười, mà cắn vì hoảng hốt trước câu hỏi bất ngờ ấy.

Giây lâu cô đáp :

- Cậu cứ vậy đi rồi hẵng hay !

Ồ thì ra đó là một lời xúi biểu, thì ra, từ lâu cô bé chắc cũng đã cảm tình với mình !

Cậu ấm lòng mở rộng thênh thang để đón cả cuộc đời như đang ùn chạy vào đó.

- Cám ơn em nhé !

Cậu ấm nói thế cố ý quên tiếng cô, rồi vội vã ra về.

Nhưng về nhà, khi thưa với người anh thế phụ việc hôn nhơn đó, người anh suy nghĩ giây lâu rồi thở ra nói :

- Nhà mình nghèo như thế, lấy đâu được song mã mà cưới !

Thật là trời long đất lở. Cái khó chiếm là lòng người. Mà lòng người thì đã về tay cậu ấm chắc chắn rồi. Vậy mà một món khó hơn đây !

Cậu ấm rúc vào buồng, ngã vật lên giường, lòng nát ngướu như tương.

Thấy em bỏ ăn suốt hai ba hôm, ông anh kêu cậu lại, ôn tồn bảo :

- Tiền đồ khoa cử có quan hệ với tình duyên. Chú cứ lo học đi, thi đỗ là việc gì cũng xong cả. Cứ theo lời chú thì cô ấy vốn cũng có cảm tình với chú, thì cố nhiên là cô ta đợi chú, đến mấy năm cũng chả nản lòng.

Không hiểu vận động thế nào mà ông anh đang tu thư ở Hà - Nội lại được bổ về làm giáo thụ ở phủ Vĩnh - Tường. Ý hẳn để cho người em trai xa cô hàng tạp hóa rồi quên cô ta chăng ?

Quên thì không bao giờ cậu ấm quên cả. Sở dĩ cậu vùi đầu học, chỉ để nên danh phận hầu "Võng anh đi trước, võng nàng theo sau" mà thôi.

Ngày chia tay cô bé không nói gì, chỉ cắn cọng miến, cắn để nuốt những tiếng nấc chực vang lên.

Không bao giờ cậu Hiếu quên được đôi mắt huyền long lanh lệ ứa đó cả.

Năm ngoái đây người ta đã đày đức Thành - Thái đi hải ngoại. Nỗi đau đớn của cậu ấm bấy giờ tuy to, nhưng ngẫm không bằng cuộc tự đày cậu lên phủ Vĩnh Tường bây giờ.

Thi hương năm Nhâm Tý 3. Cậu ấm thi hỏng và sáu tháng sau về Hà - Nội.

Công việc đầu tiên của cậu là đến phố hàng Bồ. Phố bây giờ nhà cửa đông đúc hơn xưa, cuộc buôn bán cũng tấp nập thập bội.

Ngôi hàng tạp hóa vẫn y nguyên như cũ với những quả miến, những đống bấc, những bao chè. Nhưng sau mớ hàng tạp nhạp ấy là một bà cụ đầu đã nhuốm sương.

Hỏi ra mới hay là cô nàng tạp hóa năm xưa đã đi lấy chồng.

Trời ơi,

Đời đáng chán hay không đáng chán ?
Cất chén quỳnh riêng hỏi bạn tri âm.


Cậu ấm ngậm ngùi lủi thủi ra đi, lang thang trên các vỉa hè Hà - Nội, nghe như cả vũ trụ đều sụp đổ quanh mình.

Cậu giận cho thói đời đen bạc, phi công danh bất luận vợ chồng. Trong cơn căm tức, thốt ra mấy vần thơ khinh bạc mà trong đó người đàn bà bị mai mỉa nặng lời :

Thối om sọt phẩn nhiều cô gánh,
Tanh ngắt hơi đồng lắm cậu yêu.
Quần tía đùi non anh chiệc vỗ,
Rừng xuân cây quế chú mường leo.


Cậu ấm lùi về một cái ấp ở thôn quê rồi quyết định tịch cốc để từ trần.

Nhưng nhịn ăn mà không chết, lại sầu thêm, vì tinh thần suy quá, cậu ấm lại uống rượu thật say cốt "mượn tửu bôi giải phá thành sầu".

Rượu thấm vào một cơ thể đang đói, gây nhiều phản động hóa học trong đó. Cậu ấm nghe thân mình nhẹ lâng lâng, không biết vui, không biết buồn, tai như thoáng nghe nhạc tiên giữa cảnh bồng lai.

Cậu đâm ra làm thơ, thơ đầy cốt cách thần tiên.

Cửa động,
Đầu non,
Đường lối cũ.
Nghìn năm thơ thẩn bóng trăng chơi


Một hôm có người bạn Hà - Nội lên chơi cho biết rằng cô bé hàng tạp hóa lấy chồng trước năm cậu hỏng thi.

Người khách ấy thêm :

- Bác không nhớ ta đang sống vào thời buổi Tây - Tà. Cái gì cũng nhanh như cắt. Nếu ở cảnh tiên của bác một ngày dài bằng mười năm thì ở Hà - Nội sáu năm cũng dài được như một thế kỷ. Vào thời xưa thơ mộng của bác, cô gái nào đợi đến một thế kỷ chăng ? Bác quên cái nhịp sống hiện tại rồi trách người ta tội nghiệp, chớ cô ấy quả thật yêu bác lắm đó. Cô đi lấy chồng như Chiêu - Quân bị đưa đi cống hồ.

Sự thật ấy bóp thắt lòng thi sĩ lại (vâng, bây giờ người ta đã gọi cậu là thi sĩ Tản Đà rồi đó).

Thi - sĩ biết buồn trở lại như bất kỳ kẻ phàm tục nào. Đó là một nỗi ngậm ngùi tê tái như nỗi nhớ nhà, nhớ cây da cũ, bến đò xưa, mà con đò đã đâu rồi, con đò nên thương vì nó cũng có công đợi khách cũ nhiều năm, xuất giá vì nhịp sống quay cuồng của thời đại chớ không vì phụ kẻ hỏng thi.

Ôi,

Kiếp sau xin chớ làm người,
Làm đôi chim nhạn tung trời mà bay,
Tuyệt mù bể nước non mây,
Bụi hồng trông thẳm như ngày chưa xa.

*

- Anh nghĩ thế nào sau câu chuyện nầy ? Thầy bảy nhìn ngay vào mắt người học sinh ở trọ mà hỏi như vậy.

- Tôi thấy cho dẫu thất vọng vì tình, cũng có lợi, như cậu ấm Hiếu được biến thành thi hào Tản - Đà, và bên kia trời Đức - quốc xa xôi, ngày xưa cậu Henri Heine được biến thành thi hào Henri Heine.

- Anh lầm, chỉ có hai người ấy là thành thi hào, mà chắc đâu đã vì tình. Còn ra thì hàng vạn cậu học sinh khác hỏng cả cuộc đời, có cậu còn xằng bậy như cậu Tân-Trụ nữa là khác.

- Vậy thầy bảo bạn trẻ chúng tôi phải khô khan không được yêu đương gì hết hay sao ?

- Không, tới đây anh mới hiểu hai chữ "chơi chơi" của tôi. Các anh nên yêu chơi chơi vậy thôi, đùa nhè nhẹ với tình yêu mà không yêu say ngây như anh vậy. Anh chưa đủ điều kiện cưới vợ, anh yêu thiệt con Chi, tội nghiệp nó. Còn như yêu không được, có phải anh phá hoại tương lai của anh không ?

"Nhịp sống ngày nay còn quay cuồng bằng vạn cái thuở cậu ấm Hiếu thi hỏng. Trên đời nầy không có con Chi nào bền gan đợi cậu được cho đến ngày cậu thôi học, kiếm tiền được để nuôi thân và cưới vợ. À, con Chi nào cũng thề là đợi các anh được đó. Mà những con Chi ấy quả đã thành thật thề như vậy. Nhưng rồi chúng nó sẽ thấy một năm là lâu lắm mà sắc đẹp của chúng thì mong manh quá, dễ phai màu quá, nên chúng nó vội vàng lấy chồng. Cũng chánh đáng chớ ! Nhưng bọn các anh lại dại dột, không hiểu sự chánh đáng đó, rồi đâm ra làm thơ, mà làm thơ dở, chớ không phải hay như Tản - Đà, các anh làm thơ khóc trăng, khóc hoa, rồi hỏng thi, rồi lu bù, chuyện ba-lang-nhang khác, khổ lắm.

- Nhưng yêu chơi chơi làm sao yêu được ?

- Dễ lắm. Tối tối anh đi một vòng với tôi, yêu tất cả cô bé nào gặp anh, yêu một phút thôi, rồi quên ngay đi. Lát sau, anh về, học bài thì mau thuộc như vọng cổ vậy mà.

- Tôi sẽ thí nghiệm. Nhưng...

- Mặc con Chi. Nó không tự tử đâu mà anh lo. Rồi nó sẽ đi lấy chồng đó chớ.

Bông Lúa, 1957            
(Tài liệu dựa theo GIẤC MỘNG LỚN
thơ trích KHỐI TÌNH CON của TẢN-ĐÀ)

 (Trích từ tập truyện ngắn Nụ Cười, Nước Mắt Học Trò)
 
--------------------------------
11907
2Bún tàu
31912

Thứ Hai, 22 tháng 7, 2024

KHÔNG CÓ ĐI, THÌ KHÔNG CÓ LẠI - Bình Nguyên Lộc

 

Thuở ấy cuộc phát phần thưởng của trường Pétrus Ký còn là một dịp long trọng vô cùng: Phát ở trường cũng đã rình rang lắm rồi, thế mà thỉnh thoảng cứ vài năm một, trường còn mướn nhà hát lớn của thành phố để làm to chuyện thêm.

Vào những năm phát thưởng tại nhà hát lớn, rất nhiều trò vui diễn ra không phải trên sân khấu, mà chính ngay trong hàng ngũ phụ huynh học sinh.

Phụ huynh học sinh trường Pétrus Ký thuở ấy, phần đông ở tỉnh. Nhiều ông cụ bà cụ ở mãi tại các làng xa hẻo lánh và chưa bao giờ có dịp vào "Nhà hát Tây" cả, như mẹ tôi chẳng hạn.

Năm đó cha tôi và mẹ tôi, hai người, sau khi tiếp được thiệp mời của trường, bèn giành nhau mà đi dự lễ.

Mẹ tôi đưa ra lý lẽ rằng cha tôi đã biết nhà hát ấy rồi thì không cần đi nữa. Còn cha tôi lại hăm dọa mẹ tôi bằng một câu chuyện ghê rợn lắm là tại nhà hát ấy người ta cấm nhặt ăn trầu. Mẹ tôi ghiền trầu rất nặng làm sao mà nhịn từ tám giờ sáng đến một giờ trưa cho được.

Mẹ tôi băn khoăn tới ba ngày đêm về vụ nhịn trầu nầy, và rốt cuộc bà quyết định vượt qua các trở ngại là mang theo một ống phóng bằng đồng, nho nhỏ xinh xinh, giấu trong một cái giỏ rất đẹp, đẹp để cho xứng với "Nhà hát Tây".

Khổ làm sao trong cơn bấn loạn tâm trí vì thấy nhà hát to quá, và người sang trọng đông đảo, mẹ tôi đánh rơi mất cái giỏ trầu với cái ống phóng trong đó.

Vào ngồi tại Salle d'orchestre giữa nhà hát, mẹ tôi rầu chín ruột vì miệng đang nhai lỡ một miếng trầu, không biết làm sao mà phóng thích mớ nước bã cứ càng ngày càng tăng lên mãi.

May sao một cứu tinh ngồi sát cạnh mẹ tôi. Vị cứu tinh đó là một nàng tiên đẹp tuyệt trần, độ mười bảy tuổi, và ăn nói một cách hay lạ khiến mẹ tôi mê cô ta hơn là vở kịch, và các lớp vũ nhạc trên sân khấu.

Cô bé săn sóc mẹ tôi như nàng dâu mới săn sóc mẹ chồng và khi biết được nỗi lo âu của mẹ tôi, cô nói:

- Bà cứ yên lòng, con đã có cách.

Nói xong cô lấy khăn tay ra, một chiếc khăn tay thơm phức bọc một cục gòn to tướng.

- Ấy con có tật hay chảy máu cam nên con đem gòn theo hờ. Bà cứ nhổ trong cục gòn nầy, nhổ hết cả miếng trầu, rồi con sẽ liệu sau chỗ lạt miệng của bà.

Mẹ tôi do dự hoài, vì chiếc khăn đẹp quá, lại trắng tinh như bột. Mặc dầu có gòn, chiếc khăn cũng sẽ hỏng vì nước cốt trầu thấm ra ngoài.

Nhưng cô bé nằn nì tha thiết và khuyên mẹ tôi đừng để cô ta nói nhiều mà rầy tai khán giả.

Rốt cuộc, bí quá, mẹ tôi đành hy sinh cái khăn của cô để giải thoát cái miệng của bà.

Xong đâu đấy, cô bé trao cho mẹ tôi một gói kẹo the để ngậm cho đỡ cơn ghiền trầu.

Bài diễn văn của Thống đốc Nam kỳ đọc xong, cuộc phát thưởng bắt đầu.

Học sinh lớp chót, tức là đệ nhất niên, ra lãnh thưởng trước rồi kế học sinh năm thứ hai, thứ ba.

Sau những cuộc phát sách thưởng cho mỗi lớp, có những trò vui như là đọc thơ Pháp có múa bộ, ca nhạc, vũ khúc, diễn kịch v.v... giúp khán giả đỡ chán.

Cô bé hỏi nhỏ mẹ tôi:

- Thưa bà, bà có con cháu gì học trong trường ?

- Con trai tôi, cô à.

- Dạ thưa, anh ấy học lớp mấy mà chưa thấy ra ?

- Nó học năm thứ ba.

- Anh ấy ngồi ở đâu, thưa bà.

Mẹ tôi đưa mắt tìm quanh, như đã tìm ngay từ khi mới vào đây, nhưng không thấy dạng tôi đâu cả.

- Mắt tôi kém quá, kiếm nó không được, thôi để lát nữa cô nghe tên là biết, nó sẽ ra khi người ta kêu. Nó tên là Ngô.

Cô bé sốt ruột lắm, đợi cho vở kịch "La Rente Viagère" diễn xong để đến phiên học sinh năm thứ ba ra lãnh thưởng.

Cô có biết đâu rằng tôi đang ngồi mãi tận trên chuồng gà cao ngất ngưỡng. Ấy cậu nào không được thưởng gì hết hay chỉ được thưởng ít thôi như tôi đều bị đẩy tuốt lên chuồng gà hết ráo. Chuồng gà là khu hạng bét của nhà hát, tiếng Tây gọi như vậy một cách phủ phàng.

Khi ông giáo sư N. xướng ngôn viên kêu tên tôi, tôi bèn hạ san tốc hành, nhảy qua cầu gỗ tạm, gập ghềnh bắt từ salle d'orchestre qua sân khấu, để đến nghiêng mình trước bàn sách.

Ông N. trao cho tôi một quyển sách nhỏ gần như là loại bỏ túi, để thưởng tài kể chuyện của tôi. (Tôi học dở tuốt về bất kỳ môn nào, trừ môn compte rendu litréraine, mà môn đó chỉ là môn phụ để giải trí vậy thôi).

Tôi còn nhớ đó là quyển "Truyện kỳ quái" của Hoffmann.

Trời ơi, đau đớn thay cho mẹ tôi. Từ một làng xa vắng, cơm ghe bè bạn đùm đề đến thủ đô, vào nhà hát lớn để nhìn con trai mến yêu nhận lãnh một quyển sách to bằng bàn tay.

Nhưng đau đớn nhứt cho bà là (sau nầy bà kể lại tôi mới biết) cô bé thay đổi thái độ ngay, cô lấy một tờ giấy trong quyển sách học sinh lãnh thưởng, rồi vừa gói chiếc khăn mù xoa lại, vừa chắt lưỡi hít hà như tiếc đã hy sinh vô ích cho một bà mẹ đã có một thằng con trai học dở như cóc. Cô không còn thỉnh thoảng nghiêng mình qua để thỏ thẻ điều nầy điều nọ nữa, và cho đến khi buổi lễ bế mạc, cô đã trở thành xa lạ với mẹ tôi như vẫn xa lạ từ bao giờ.

Tôi đến với mẹ tôi. Mẹ tôi khiến tôi cám ơn cô bé về chỗ giúp đỡ của cô.

Cô bé đẹp quá, tôi run bắn người lên và rất ân hận đã biếng học để mang xấu trước mặt giai nhân.

Nhưng thuở ấy tôi cũng khá trai và nhứt là ăn nói thì rất bặt thiệp, nên chi tôi thâu được cảm tình của cô bé.

Nữ (tên cô bé) ở Saigon. Từ đó tôi có nhiều dịp để đến thăm cô. Tôi yêu thầm cô bé ghê lắm và đợi thi xong để tỏ thật với cha mẹ đôi bên.

Tôi có nghe mẹ tôi thuật về sự thay đổi thái độ của cô, nhưng tôi yêu cô ta quá nên đã tìm đủ lẽ để bào chữa cho cô ta.

Năm thứ tư ấy tôi nỗ lực học hành nhưng đã quá trễ. Bỏ trôi tới ba năm, năm chót dầu có chạy nước rút cũng chả kịp ai.

Nên chi cuối năm tôi trượt bằng Brevet. Còn một tuần nữa, tôi sẽ gỡ gạc bằng Thành Chung, nhưng dầu sao, cũng đã là một thất bại rồi.

Tôi nhớ lại chiếc khăn mù xoa trong nhà hát lớn, rồi do dự không biết có nên trở lại với cô ta không.

Cứ thử xem rồi biết. Tôi quyết định như thế rồi đến nhà cô ta một cách anh hùng như là ta đây đậu rớt không cần.

Khi hay tin "chẳng lành" cô bé xụ mặt xuống quên cả "mời anh ngồi", "mời anh uống nước".

Rầu lòng, tôi đi luôn về quê.

Hai tháng sau, tôi trở lên Saigon thì cô bé đã lấy chồng.

Từ đó, tôi mới hiểu sự thật nầy, và hiểu được là tha thứ cô ta ngay. Mình không có cái gì để biếu người ta thì đừng mong ai biếu lại mình cái gì cả.

Tầm Nguyên, 1956       

 
(Trích từ tập truyện Nụ Cười, Nước Mắt Học Trò)




Thứ Ba, 16 tháng 7, 2024

BỌT NƯỚC TRẮNG - Nguyễn Quốc Hiệp

 

Họ quen nhau thật là lạ lùng. Đó là cô bé có mái tóc ngang vai và con mèo mắt bi ve. Cô bé thì hay học bài ở cửa sổ, ngồi mơ mộng nữa. Từ cửa sổ nhìn ra biển cô bé chỉ thấy chòm cây bàng xanh mướt, còn biển thì lờ mờ loáng thoáng nên không giúp cô bé mơ mộng được, cả con đường Hoàng Hoa Thám nữa. Xời ơi nắng gì mà chang chang, thấy mà ghét. Chỉ con mèo, con mèo trắng mươn mướt của ai đó hay qua vườn nhà cô bé để ngủ quên, ngủ ở nhánh cây ngọc lan gần cửa sổ phòng cô bé. Không biết vô tình hay cố ý, con mèo thỉnh thoảng lại chớp chớp mắt nhìn cô bé, đó là chưa kể, đôi khi còn kêu meo meo nho nhỏ. Cô bé thích chí lắm, cười hoài, giúp thêm ý cho mơ mộng, cho mấy bài luận (luận của cô hay nhất lớp ấy), cho cả khuôn mặt bầu bĩnh của cô nữa, dễ thương ơi là.

Thế là họ quen nhau, cô bé đặt tên mới cho con mèo hết nửa ngày, Forget-me-not, cái tên dài quá mà cũng dễ thương. Đừng quên tôi, ý cô bé nhắc con mèo ấy mà. Và cô bé xưng bằng tên mình. Ức Gi. Cũng dễ thương nốt. Cô bé học siêng ghê lắm, dân "gạo" đó. Nhưng mỗi lần thấy con mèo sang để... ngủ quên là cô bé mừng ghê lắm, cứ y như bắt được vàng. Cô bé kêu gọi vang cả con đường dài đang nghỉ trưa, làm cả những con chim thức dậy náo động tưng bừng. Mẹ đi ngang nhăn mặt:

- Ức Gi làm gì đó, có để bố ngủ không, bố dậy đánh đòn giờ.

Rồi mẹ lẩm bẩm:

- Con gái lớn mà còn đoảng thế.

Cô bé làm bộ so vai rụt cổ rồi cười xòa, chị Ức Ti ghé mắt kêu:

- Hình như nó bị khùng rồi, kìa me, cho nó vào nhà thương nhanh lên...

Có tiếng me cười. Ức Gi định cãi với chị, nhưng nghĩ sao cô bé lại thôi, cô quay sang háy mắt với con mèo.

- Forget-me-not thấy không, suýt nữa là Gi ăn đòn rồi.

Con mèo dừng lại trên chót cành cây, còn một chút xíu nữa, con mèo không nhảy qua, nó đứng nhìn cô bé. Còn đợi người ta bế nữa à? Con mèo "xụ" mặt làm thinh, giận đó, cô bé cười cười rồi nhoài người ra bế nó vào, con mèo vẫn lẫy, cô bé mất hồn xin lỗi rối rít và phải đền bằng một cái "mi" nhẹ lên trán con mèo, nó mới kêu nho nhỏ và vẫy đuôi, nhưng đến phiên cô bé giận. Cô bé giận thì thôi khỏi nói, dễ thương ghê là, hai mắt nhắm nghiền, môi mím lại, mặt hồng lên, tóc rũ ngổn ngang trên vai, con mèo lại rối rít, nó nhảy lên bàn, leo xuống ghế, liếm vào chân trần của cô bé, "người ta" xin lỗi đó. Cô bé mới cười, mím thôi, còn giận mà. Một chặp, cho đã đời, cô mới bế nó lên "chồng đồn" lên vai và ca hát vang lừng. Mẹ phải xách roi chạy xuống mới thôi. Nó khùng mà. (?)

Đó mới là chuyện giận giận quen quen thôi, chưa kể chuyện đi học, đi nhà thờ, đi chơi biển v.v... Cô bé siêng đi nhà thờ lắm, cũng như đi học. Hồi kia, cô bé phải đi bộ, từ nhà đến trường Thánh Tâm mất mười lăm phút, chưa kể nhiều hôm dậy trễ với làm nũng với mẹ. Và mòn sơ sơ một tháng một đôi guốc gỗ. Mẹ kêu tội nên cho đi xe, xe nhà ấy mà, cái xe của bố đi làm buổi sáng, buổi chiều bác tài chở đi học. Bác chiều cô bé ghê lắm, cô bé đòi đi ngả biển, bác đi ngả biển, cô bé đòi chở theo con mèo, bác chở con mèo, lúc lên xe thì đủ chuyện, cô và con mèo giận nhau, rồi cô đòi ngừng mua kem, lên chia bác tài, đòi đi mua chiếc vòng san hô đen... Tùm lum hết, mà bác vẫn chiều, chị Ức Ti biết, kêu bác tài bảo chiều quá nó hư bác chỉ cười thôi, bác dễ yêu ghê. Đến trường cô bé chia tay và bác tài chở con mèo về, trả cho cái cây trước cửa sổ phòng cô bé.

À, con mèo của cô bé đó, nó ở cùng đường ấy mà, nhà nó xeo xéo với nhà Ức Gi, cũng có căn gác gỗ trắng lại có lan can nữa, chiều chiều, có người con trai ra đó đánh đàn, đánh thì nghe "được" mà cứ nhìn cô bé hoài dị òm à. Con mèo thì cũng ngồi đó, nó đợi chiếc xe chở cô bé về là chạy theo sang chơi với cô, chơi hàng xóm láng giềng, giận giận quen quen và học với cô bé.

Nhưng... một hôm, cô bé đang vói tay ôm con mèo sang thì chạm phải một tờ giấy nhỏ, được buộc bằng chỉ trắng vào chân con mèo, làm cô cuống quýt. Cô bé gỡ ra cầm nơi tay, ngượng ngùng. Có phải là một lá thư đó không. Ô! Lá thư nhiệm mầu làm sao, nó làm mặt cô bé cứ hồng lên, hồng lên và đỏ ửng. Cô bé thấy nóng ran ở má, mạch máu trong người căng thẳng, tim đập thình thịch. Cô mở ra, lá thư chỉ vỏn vẹn:

"Đằng ấy cho đằng nầy làm quen đi.
Nguyễn Quốc Hiệp"

Cô bé bỏ rơi tờ thư xuống đất. Ê quá, ai mà lại làm cho người ta mắc cỡ. Cô bé giấu nụ cười trong tóc mà hồn đã ra ngoài cửa sổ, cô bé liếc lên căn gác bên kia. Anh chàng đang nhìn cô bé đó kìa. Ức Gi cuống quýt bước lại bàn cắm cúi viết:

"Có phải đằng ấy hay đánh đàn ở lan can phải không? Đừng nhìn người ta nữa.
Nguyễn Vũ Ức Gi"

Cô bé buộc thư lại chỗ cũ, hai tay vẫn còn run rẩy, con mèo hình như hiểu được, nó liếm vào đôi tay nóng ran và nhìn cô bé. Cô bế nó lên hôn nhẹ vào trán và trả lại cành cây. Làm giùm sứ giả cho Gi đi bơ! Cô bé lại liếc lên bắt gặp Quốc Hiệp đã ngưng đàn, nhìn cô bé đắm đuối, cô bé giật thót mình, chạy vội đến giường nhoài người trên ấy. Lúc này, cô bé giận mình quá khi nhớ đến những lúc giận con mèo, và làm nũng với mẹ. Không biết người ta có thấy không nhỉ? Đến thứ bẩy tới, làm sao cô bé xưng tội nữa? Bắt đền à?...

...

- Thưa Cha.

- Hở?

- Cho con xưng tội.

- ...

- Thưa Cha cho con xin xưng tội tám tuần... con đã giận hờn ba mẹ nhiều lần, con đã giận hờn anh chị nhiều lần, con đã giận hờn con mèo nhiều lần, con đã giận hờn người ta nhiều lần, con...

- Hết chưa?

- Dạ.

- Hết chưa?

- Dạ... dạ con... con... con... có quen với một... một... một người con... trai... ở trước nhà thì... thì... có tội không Cha?

- Hừ, con mấy tuổi?

- Dạ mười lăm.

- Thôi... con coi chừng. Việc ăn năn đọc năm kinh Lạy Cha, năm kinh Kính Mừng. Lạy Chúa tôi...

Từ đó hai người yêu nhau, vui lắm. Cô bé cứ ngẩn ngẩn ngơ ngơ như ai cướp mất hồn, giả dụ như mẹ bảo cô rót nước mời khách, cô lại nhớ Quốc Hiệp và thay vì rót nước, cô ngồi làm thơ, mẹ đợi hoài, đến khi khách về, mẹ túm cổ cô bé ra cho ăn một trận đòn nứt đít nên thân. Nhưng chứng nào tật ấy, cô cứ mơ mộng và ăn đòn đều đều. Hôm học thi kỳ hai cô cứ mơ mộng quên "tụng" bài, mẹ dọa rồi, cô bé cứ trơ trơ. Cho đến ngày kế cận cô mới học, học cuống quýt, chữ nghĩa không ăn vào óc, và kết quả kỳ thi cô lại ăn đòn, hai roi thôi. Và cô bé đi xưng tội thế này:

- Lạy Cha...

- Hở?

- Xin thương xót con...

- Hở?

- Con hay nhớ người... con trai nên... kỳ thi này con hỏng, lạy Cha, mẹ giận đánh con, xin Cha thương xót con.

- Sao nữa?

- Xin Cha giúp con, cho con hết mơ mộng.

- Con cố học.

- Nhưng không được, thưa Cha.

- Cha biết sao bây giờ?

- Xin Cha thương xót con.

- Lạy Chúa tôi...

Cô bé từ đó đã vướng vào cái vòng lẩn quẩn, cô hứa rồi lại quên, quên rồi lại hứa, cuối cùng cô buông tay và ngồi khóc, buồn đến chết đi được. Bây giờ cô hết chơi với con mèo. Hai đứa hết thân, mà cô bé mắc thân Quốc Hiệp rồi còn đâu mà thân con mèo, chỉ nhớ một tí thôi. Chị Ức Ti biết, nhưng không nói, lâu lâu lại háy mắt với cô bé, hay hỏi:

- Quốc Hiệp ra sao rồi?

Làm cô bé đỏ mặt. Có một lần Ức Gi ngồi chải tóc trước gương hết hai tiếng, ủi áo quần hết một tiếng. Chị Ti kêu:

- Có hẹn hả?

Nói thực to làm cô bé hết hồn. Mẹ nghi, hỏi:

- Hẹn ai đó Gi?

Chị lại đỡ lời:

- Nó hẹn với tụi bạn đó, ăn gì đó mà me.

Rồi chị háy mắt với cô bé. Cô sợ muốn rụng tim ra luôn, chơi chi ác quá, từ đó thôi, cô bé giữ gìn ý tứ hơn, ra đường đi ngay ngắn hết còn tung tăng như trước. Mẹ thở dài:

- Giời ơi! Con gái giờ điệu rơi điệu rụng.

... Bây giờ, cô bé cũng quên xưng tội, ít xem lễ nhà thờ. Quốc Hiệp đã làm cô quên hết, cô chỉ nhớ Quốc Hiệp và những phiến bọt biển Quốc Hiệp tặng cô hôm sinh nhật:

"Cô bé giống như bọt biển trắng dễ thương ghê là"

Chừng đó thôi và bài hát nữa: "Anh theo là theo cô nàng..."


NGUYỄN QUỐC HIỆP          

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 100, tuần lễ từ  3-5 đến 10-5-1973)

Thứ Bảy, 13 tháng 7, 2024

MỘT LẦN ĐI THI - Trầm thị Dễ Thương

 

Còn mấy ngày nữa là đã đi thi, tiếng nói như những nhát búa gõ mạnh vào đầu óc, làm thằng học trò 17 tuổi hoảng sợ. Biết bao ngày tháng trôi qua, học hành chẳng ra gì, đợi đến lúc ngày thi đứng bên cạnh mình rồi mới chúi mũi mà học, học đến phát sốt, học đến điên người, học đến hoa mắt, mờ tai. Hình ảnh của tôi đó, hình ảnh năm nào ôm cặp sách đi thi tú tài, lớ ngớ, lơ ngơ, chữ nghĩa chưa thuần thục đã đến ngày ứng thí. Bình thường, tôi là thằng lỳ lợm, ít biết sợ bất cứ chuyện gì, cả trong lãnh vực đáng sợ là lãnh vực tình yêu, chả thế mà từ đầu năm đệ Nhị, tôi hiên ngang gửi những bức thư tình cho An, gửi thư không chút e dè, để rồi chúng tôi thân thiết với nhau. Cúp cua một vài giờ học, đi chơi rong ngoài đường, cả tôi và An đều phí đi bao nhiêu là ngày giờ vàng ngọc. Tôi cứ tỉnh bơ, mặc dù lúc nào cũng nghe thầy cô nhắc nhở bên tai rằng năm thi đấy, đừng đi chơi nhiều, rủi ro trượt vỏ chuối thì chết. Có những đứa bạn tôi khôi hài thêm rằng con trai mà rớt thì đi Đại học Quang Trung, ắc ê cho gấp, còn con gái thì đành "lỡ bước sang ngang" cho xong đời. Lúc chưa thi thì còn khôi hài được, chớ lúc thi đến nơi rồi thì chẳng đứa nào còn thấy mặt đứa nào mà chỉ thấy quanh mình toàn là Sử Địa, Lý Hóa, Vạn Vật ám ảnh đầu óc. Riêng tôi, sắp đến ngày thi thì đóng cửa phòng, học ngốn ngầu như ma đuổi, học như điên loạn cả đầu óc, có lẽ mặt mũi tôi xanh xao, đầu tóc tôi bù xù trông ghê gớm nên mẹ tôi cứ xuýt xoa và vội vàng mua đồ về tẩm bổ. Mãi rồi tôi chẳng dám soi gương để nhìn mật mũi của mình, nhỡ chỉ thấy hình ảnh một con ma đói hiện ra trong gương mà thôi. Cả An cũng vậy, có lẽ lo học lắm (!) nên không đến nhà tôi và tôi cũng chả có thì giờ để mò đến nhà nàng. Đến bây giờ tôi mới tiếc những ngày đi chơi lang bang, giá như tôi chịu khó học hành cho đàng hoàng thì bây giờ đâu có lâm vào tình trạng là cứ cầm quyển vạn vật đọc lầm nhẩm vài dòng thì tim lại buốt lên bèn nhớ đến cả đống Lý Hóa đang chờ, vừa cầm bài Lý Hóa lên đọc thì bụng chợt thót lại, nhớ ra Sử Địa cả mấy chồng, Quốc Văn cả quyển vở. Rồi thì tôi lại cho Nguyễn Khuyến giao duyên với gương phẳng, những bó mộc, bó su be lại cho chơi cả với Đạo hàm, Lượng giác rối tung lên. Đến ngày lấy phiếu báo danh, lên trường nhìn bạn bè, đứa nào cũng xanh xao vàng vọt, nói không ra hơi, đứng không muốn vững thật là thê thảm.

Và dù muốn dù không ngày thi cũng đến, buổi sáng mẹ tôi đã cẩn thận bắt ăn ly chè đậu xanh to tướng, theo lời mẹ thì cứ ăn đậu sẽ đậu liền. Lúc đó, tôi lại thấy mẹ có lý và cố gắng nuốt cho trôi cả ly chè để... đậu! Đến lúc này thì đã quá sợ hãi và mất tinh thần, tôi bèn phải van vái sao cho đậu được là ăn chay một tháng. Những ngày thi trôi qua, bài làm thật thường, chỉ làng nhàng thôi. Toán bỏ vài câu, Lý Hóa bỏ vài câu, Quốc Văn thì làm thiếu, Vạn Vật tương đối khá, còn Sử Địa tha hồ đánh a, b, c, d loạn đả. Tôi cứ định thi xong sẽ tha hồ đi chơi cho sướng, nhưng mà những ngày chờ đợi kết quả sao mà dài thê thảm, tôi cứ trùm mền năm nhà, chán rồi tung mền lại bàn tính điểm, rồi lại âu sầu lo lắng. Cả An cũng thế, 2 tháng chúng tôi đồng hội đồng thuyền, riêng An là con gái nên hay khóc làm tôi phát cáu. Tôi cũng lo sợ ghê lắm chứ, nhỡ mà tôi rớt, chao ơi! Tôi nhắm nghiền mắt không dám nghĩ tiếp đến lúc tình tôi và An tan vỡ, tôi vào Quang Trung, An sẽ tiếp tục học nếu An đậu, và sẽ lấy chồng nếu An rớt. Nghĩ đến lúc An lấy chồng tôi đâm oán Bộ Giáo Dục quá, sinh ra thi cử làm chi cho nhiều người sau mùa thi bén xếp bút nghiên "cất bước sang ngang" và làm bao mối tình dang dở. Riêng An, nếu nàng lấy chồng thì sẽ yêu đời, còn tôi, vào Quang Trung rồi đi Trung Sĩ, cuộc đời kể như đã hết bởi vì đi lính rồi còn tính chi chuyện học hành. Nghĩ mãi rồi sinh ra ốm nặng, tôi nằm liệt giường cho đến hôm có kết quả, tôi biết có kết quả, cố gắng lết đến trường mà không nổi, đành phải ở nhà chờ An đến, giây phút chờ đợi dài quá, tôi như người ngồi phải lửa, cứ nhấp nha nhấp nhổm trên giường mặc dù rằng tôi mệt muốn đứt hơi. Đến khi nghe tiếng giầy của An vang lên dưới nhà, tôi điếng cả người, tay chân bủn rủn bám chặt lấy thành giường, hơi thở như đứt quãng, nghèn nghẹn mãi tới khi nghe tiếng An nói với mẹ tôi một cách run rẩy, Bác ơi, đỗ rồi, tôi mới thở phào nhẹ nhỏm. An còn đứng nói chuyện với mẹ tôi một lát, lúc này tôi mới nghĩ rằng An nói đỗ rồi mà ai đỗ mới được, tôi hay An? Thế là tôi lại lo sợ phập phồng. Đến lúc An xuất hiện ở thang lầu, vẫy tôi và cười, đỗ rồi, cả hai đứa hết, đỗ hết rồi. Tự nhiên tôi tung chăn đứng bật dậy, cứ như là bách bệnh tiêu tán, vạn bệnh tiêu trừ, chả còn bệnh hoạn gì nữa. An cho biết cả hai đứa đều đỗ thứ, hạng bét trong tất cả. Sợ tôi buồn An cứ xuýt xoa, bét thì bét chứ có nhiều người thèm được dính vào bảng vàng như mình mà có được đâu. Riêng tôi, tôi chỉ muốn hét to lên rằng "Quang Trung ơi, chào mi, hẹn một ngày nào xa xôi lắm".

Xong màn xem kết quả thi đỗ, tôi và An mở tiệc ăn khao, đi chơi đã đời. Mãi đến lúc mẹ tôi nhắc đến một tháng ăn chay tôi mới nhớ ra, thôi chết mất, ăn chay một tháng thì có khác nào đi tu đâu, tôi đâm ra trách mình sao nông nổi, vái chi đến một tháng ăn làm sao nổi đây. Mẹ tôi biết vậy nên cố gắng mua rau đậu về làm nhiều món ăn chay lạ miệng. Nhưng cho dù có thay đổi bao nhiêu thì tôi chỉ ăn được một tuần là ngán ngẩm, cứ chỉ toàn là đậu hũ mà thôi. Mẹ tôi thấy tội nghiệp nên van vái để xin ăn chay thay tôi 3 tuần. Đấy, mẹ tôi chịu khó với tôi như thế đấy, nghĩ mà thương mẹ quá, nhưng bù lại mẹ cũng đã hãnh diện nhờ tôi, đi đến đâu mẹ cũng được khen tốt phước, có con chăm học, thi đâu đỗ đấy, và tôi được đem ra làm gương cho những đứa bé nào biếng học trong họ hàng nhà tôi. Mà có ai biết rằng, chính tôi đây cũng phải học điên cả người, giỏi gì đâu.

Mãi cho đến bây giờ, đã vào đại học, sao mỗi khi nghe đến bốn tiếng "Đi thi Tú Tài" là tôi rợn người. "Thi ơi là thi sinh mi làm chi?" Câu hát của một tác giả thật là ý nhị, mùa thi thường đúng mùa mưa nên mùa thi cũng chính là mùa nước mắt học trò.


TRẦM THỊ DỄ THƯƠNG      

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 60, tuần lễ từ 20-7 đến 27-7-1972)

Thứ Tư, 10 tháng 7, 2024

BAO BỐ NHÌN MẶT - Bình Nguyên Lộc

 

Mạnh tuy còn ít tuổi mà lo xa như một ông cụ.

Anh sửa soạn nào bông gòn, dây hăng tanh-ti-dót đủ cả rồi cho mọi thứ vào cái hộp cứu cấp bằng da của anh.

Từ Sài-gòn lên đó mười ba cây sô. Biết đâu dọc đường lại không té trầy chơn hoặc tới nơi leo cây, lội rạch lại không bị gai quào, nọc đâm.

Hộp cứu cấp ấy anh dùng mang thuốc, mang ống tiêm để đi chích dạo trong xóm Hòa-Hưng.

Để thuốc, gòn vào đó xong, anh mới nhận ra rằng anh đã chuẩn bị như là đi làm nghề, chỉ trừ thuốc và ống tiêm không có bỏ vào đó mà thôi

- Hay là bỏ đủ vào đó ? Biết đâu...

Thế rồi anh thêm vào hộp một ống chích, ba cây kim, vài mũi thuốc khỏe, vài mũi thuốc cầm máu.

Vừa lúc ấy thì Thế tới ngoài ngõ, bóp chuông xe máy leng keng và kêu với vô:

- Rồi chưa ta ? Đi nè, kẻo trưa, nắng lắm !

Họ lên Vĩnh-Phú để uống nước chè tại lò đường của dì của Thế.

Vĩnh-Phú là một làng vườn, đất ẩm nên hợp với sự trồng mía.

Từ quốc lộ Sài-gòn-Bình-dương ra đến sông Sài-gòn, địa phận của làng, mía trương cờ lên, trùng trùng điệp điệp trắng xóa như một biển lau sậy.

Đây đó những hòn đảo xanh rì: đó là nhà dân, với vườn tược bao bọc chung quanh.

Xa, thật xa ngoài bờ sông, những trại ngói dài với ống khói cao, nhả khói lên đen ngòm cả bầu trời trong trẻo của thôn dã. Đó là những lò đường trong làng.

Nhờ có công nghệ nên làng trù mật lắm. Nhưng tuy dân có của thế mà không ai ở không cả. Cả làng làm việc như cái ổ ong.

Đây, vài mươi phu cuốc đất. Đất đen như than, mà mềm như bùn. Lưỡi cuốc rất to, xắn xuống rồi lấy lên từng cục trông ngon như nhưn bánh trung-thu chai bằng đậu đen.

Kia, một nhóm phụ nữ phát mía, những đám mía đã tới tuổi nấu đường.

Trong lò lửa cháy rần rần, trông vui và ấm lạ.

Tiếng ông che nghiến răng kèn kẹt như căm giận sao dân làng bắt các ổng làm việc nhiều thế để hưởng lợi.

Ông che là những khúc gỗ tròn, đứng kề sát nhau, lăn quay như con vụ. Mía đút vào đó, ổng nghiến dẹp lép, nước chảy ra không sót một giọt. Bàn ép của các xe mía là những ông che tí hon nằm ngang.

Dì của Thế là một chủ lò đường, nhà làm ăn rần rần nhưng không con.

Bà thấy Thế lên thì mừng rối rít, hối trẻ ví gà để đãi cháu một bữa gà luộc nước chè.

Hai anh em hỏi thăm sức khỏe bà dì xong là thoát ra ngoài. Uống nước chè là chuyện phụ. Họ lên đây chỉ để hưởng thú quê một ngày chúa nhựt, sau cả tuần lễ ngộp thở ở Đô-thành.

Cặp Mạnh, Thế đi xuống bến, mở xuồng của dì cột nơi đó, rồi bơi ra giữa dòng.

Nước sông Sài-gòn ở nơi đây xanh lơ như nước sông trong tranh, nên hai anh em muốn ở mãi dưới ấy cho đến bữa cơm trưa.

Nhưng mới bơi được một đỗi là bà dì đã cho người gọi giựt ngược lên. Bà ta nhận được lịnh khai thuế gì đó mà đọc không hiểu mấy bữa rày, nên nóng được đứa cháu thông thái cắt nghĩa cho nghe.

Không được chơi nước thì chơi lửa vậy, đôi bạn tự an ủi thế. Và giải thích xong giấy tờ cho chủ lò nghe là họ ra liền, không ngồi nóng ghế chút nào.

- Nước chè là nước làm sao vậy ? - Mạnh hỏi.

- Là nước mía nấu sôi để làm đường, mà chỉ mới sôi đến độ nào đó thôi.

- Vậy hả ? Thành ra thịt gà luộc trong đó ăn ngọt ?

- Ừ.

Người thợ nấu đường đứng xem chảo nước mía sôi một hồi, dường như thăm hỏi từ bong bóng mật đang sùng sục trồi lên hụp xuống, đánh hơi cái mùi ngon ngọt thơm thơm từ chảo bốc ra, rồi nói: "được rồi".

Đoạn anh ta thọc gáo vào chảo múc đầy một gáo nước chè, đổ ra hai cái tô đặt cạnh đó, trong tô có sẵn vài lát gừng.

- Mời hai cậu uống nước !

- Nước chè đây à ? - Mạnh hỏi bạn.

- Ừ, uống cho biết kẻo chết thành ma nhà quê.

- Ma chợ chớ. Nếu ma nhà quê thì đã sành uống nước chè.

Mạnh thổi vào tô nước nóng, rồi uống từng hớp kêu soạt soạt cái thứ nước ngọt một vị ngọt tươi và cay cay hơi gừng ấy.

Người thợ nấu đường khác đi lại, tay cầm hai cùi thơm phủ một thứ nước sơn vàng láng mà trong.

- Hai cậu mút cái nầy rồi uống nước mới ngon.

- Gì đây ?

- Đường gần tới. Nhúng cái gì vào đó, rồi mút cũng ngon cả, cùi thơm, cùi bắp, vỏ bưởi, đu đủ sống, v. v...

- Như con nít mút kẹo vậy. Thế ơi, ngộ quá !

Mạnh mút một cái, hớp một hớp nước chè nóng, vừa lắng nghe mùi nước mía ngập ngừng muốn biến ra mùi đường mà chưa thành hẳn, vừa nhìn người ngồi che cho che ăn.

Anh ta ngồi ngay dưới đất, rút mía nơi đống mía sau lưng rồi đút vào hai con che trước mặt.

Che nuốt lần lần những cây mía cứng ấy như một con quái vật đang đói một cơn đói khổng lồ, ăn mãi, không bao giờ no cả.

Hai con trâu kéo một cây trục đóng dính vào đầu một con che, đi vòng quanh bất tận. Đó là động cơ sống hai... ngưu lực, dùng để quay cái bàn ép to tướng kia.

Con che kêu rít lên, nghe rợn cả người, khiến Mạnh có cảm giác đó là một vật sống có linh hồn, mà đây là một linh hồn hiểm ác.

Như đang cùng một ý nghĩ với bạn, Thế nói:

- Họ sợ hãi kêu con che bằng ông che nghĩ cũng phải. Họ hay cúng kiến nó lắm, và con che nào cũng có "cô hồn" cả.

Cho che ăn về đêm là một công việc cảm tử. Hễ ngủ quên trong nháy mắt, đút luôn tay mình vào đó là chỉ có trời cứu. Ở đấy vài năm lại xảy ra thảm kịch ấy một lần.

Bỗng ai nấy đều giựt mình kêu thét lên một tiếng khủng khiếp. Họ dòm lại thì, trùng phùng kỳ lạ thay, tay người thợ ngồi che vừa bị "ông" che ngoạm phải.

Tiếng kêu la của nạn nhơn nghe kinh sợ lạ kỳ như tiếng một người thoạt thấy ma, rồi lại tuyệt vọng quá sức như người vừa rơi xuống miệng hố sâu, không mong ai cứu được cả.

Trong khi ấy thì cặp trâu cứ bình thản kéo cây trục, cho con che lăn quay đi.

Lẹ như chớp, anh thợ nấu đường nhảy tới nắm mũi trâu mà chận nó lại.

Nhưng tay anh thợ ngồi che đã bị nuốt đến cườm.

Cả xóm bu lại tháo che ra. Bàn tay anh nầy dẹp lại như con khô hố. Huyết quản và hồi huyết quản bị bể máu ra có vọt, còn nạn nhân thì đã bất tỉnh nhơn sự vì mất máu và vì sự đau đớn.

Mạnh lật đật chạy vào nhà lấy đồ nghề ra băng bó cho nạn nhơn, tiêm cho hắn một mũi thuốc khỏe và một mũi thuốc cầm máu, rồi hối thúc:

- Mau mau đưa anh đó đi nhà thương, không thôi anh ta chết mất.

- Liệu cứu được không cậu ? Bà chủ hỏi.

- Chắc chắn được, nếu đi kịp. Xuống nhà thương, người ta biết cách và đủ phương tiện thì hy vọng lắm.

Khi người ta đưa kẻ rủi ro đi rồi thì vừa tới bữa ăn.

Bà chủ lo ân cần mời khách, và cố nhiên nhấn mạnh về công của anh bạn trẻ nầy.

- Thuở giờ - bà nói - chúng tôi chỉ để vậy mà chịu chết. Nay nghe theo lời cậu thử một chuyến xem sao. Nhưng dầu sao cũng cám ơn cậu lắm. Trong làng mà có một người biết thuốc như cậu thì đỡ biết bao !

- Hay là mầy ở luôn đây mà làm thầy lụi vườn - Thế nói cà rỡn. Bà chủ cũng cười mà rằng:

- Thiệt chớ ! Ở đây không thiếu mối đâu. Giàu thì không giàu, nhưng cậu kiếm tiền sống dư dả. Muốn tìm đôi bạn, cũng chẳng thiếu gì nơi.

Thế thúc cùi chõ vào hông Mạnh một cái rồi nói:

- Mê chưa ? Cái vụ tìm đôi bạn đó mới là hấp dẫn đa !

Mạnh làm thinh, nhưng không và cơm nữa. Anh ta đang bị lời đề nghị chơi chơi nầy quyến rủ.

Thầy chích dạo ở Sài-gòn đã nhiều lắm rồi. Lóng nầy anh ta phải đạp xe máy rã cả giò để đi từ mối nầy tới mối khác, họ càng ngày càng hiếm hoi ra.

Giây lâu, anh ngước lên hỏi bà chủ:

- Nhưng ở đây tìm nhà ở, khó hay dễ thưa dì ?

- Cũng khó lắm. Mà tôi có một cái trại ngoài kia, cậu ở đó vài tháng, chừng có tiền, tôi sẽ cho đất mà cất nhà.

*

Dân ở đây chỉ mắc phải có ba bịnh thôi: rét rừng, kiết lị, và bón uất. Bịnh sau đó, giây ra muôn ngàn biến chứng, nào là nhức đầu chóng mặt, tức ngực, vân vân...

Mạnh biết rõ thế nên anh ta "làm thuốc" rất mát tay, chữa đâu lành đó. Dân làng phục lăn anh ta và kêu anh là thầy thuốc. Có người lại tôn Mạnh là đốc-tơ.

Ở Sài-gòn, sao anh ta lèn xèn, thế mà lên đây cũng bộ y phục ấy, nhưng trông anh ta lại sang trọng ra.

Mạnh thấy là mình đã tìm được đất dụng võ, và quyết yên phận sống nơi xó nầy đến già với cái mộng mua vườn mua đất và có vợ.

Vì ảnh hưởng kinh tế, ở những làng trù phú lâu đời, con gái thường dễ coi và nhiều khi đẹp.

Mới ở có một tuần mà Mạnh đã chú ý đến năm cô, cả năm đều cùng xóm với anh, đó là chưa nói đến nhiều xóm khác mà anh đi chưa tới.

Thật ra năm cô gái ấy không đẹp đẽ gì bao nhiêu. Một cô được nước đa trắng trẻo như gái chợ. Hai cô đen mà đen duyên, trông rất dễ yêu. Cô thứ tư hơi to lớn, nhưng thân thể nở nang đều đặn tuyệt mỹ. Cô chót nói chuyện nghe mê lắm, thông minh và khôn ngoan như một cô gái có học nhiều.

Yêu họ mà qua đường thì thú lắm. Mà cỡ cưới họ làm vợ cũng chẳng hại. Nhưng Mạnh còn tham lam. Biết đâu xóm khác lại không có người lý tưởng. Hấp tấp rủi còn nữa thì có phải là tiếc lắm hay không ?

Anh ta nghiễm nhiên là nhà tai mắt ở đây rồi, uy tín có thừa, bóng sắc như bóng sắc của anh, đối với gái quê cũng là có đường lắm, thì tội gì không chọn hoa khôi trong vùng để mà yêu hoặc để mà lập tổ ấm.

Hôm ấy anh đi chữa bịnh cho một ông lão ở xóm Lò mứt chuối.

Anh đạp xe đạp trên bờ các con đê, qua hết đám mía nầy đến đám mía khác, thì bỗng trước mặt anh một chiếc cầu ván đón đường.

Cầu ván làm bằng ba tấm ván nối dài lại, thành hình thang trong khoa hình học; bề ngang cầu chỉ vỏn vẹn rộng có bốn tấc thôi.

Anh Mạnh xuống xe, rồi người và ngựa (ngựa hai chân) cặp song song nhau mà qua cầu.

Cầu ván đóng đinh lắc lẻo, gập ghình, rung rinh thấy mà bắt ngán. Thỉnh thoảng cái bàn đạp bất nhơn đập vào ống qnyển anh ta một cái đau điếng người.

Tấm ván giữa cầu cao hơn tấm ở đầu cầu. Đẩy xe tới đó, ông thầy lụi bị đập một cái nữa, đau quá, ông ta toan cúi xống mà xoa chân thì bánh xe trước đã trật ván 1ọt xuống mương.

Cố níu xe lại, thầy lụi ta lại bị xe trì rồi cả hai rơi xuống nước một cái tủm.

Trong khoảng thời gian ngắn ngủi mà anh ta mới ngã mình ra khỏi cầu ván, Mạnh thoáng thấy một cô gái đứng ở bờ mương đối diện, cách đó độ hai mươi thước.

Cô gái xinh đẹp lắm. Trong lúc hốt hoảng mà Mạnh nhận được điều đó, chứng tỏ sắc đẹp của cô ta quả sáng rực lên.

Hình như cô ta đang cười rũ rượi, tuy không ra tiếng.

Mương sâu cỡ hai thước; gặp lúc nước ròng, các mương trong đều đánh tháo ra ngoài sông nên nước chảy siết. Mạnh lại không biết lội.

Hồi té, anh không sợ bao nhiêu, đoán nước dưới ấy giỏi lắm tới ngực là cùng. Anh không bông xe nên vì nặng, rơi tới đáy rất lẹ. Bấy giờ anh mới thả tay ra để đứng dậy.

Lần đầu tiên trong đời anh, Mạnh mới hay rằng hoạt hoạt động dưới nước khó vô cùng. mà lại lại dưới dòng nước đang chảy mạnh.

Anh đứng lên, nghe nằng nặng ở trên đè xuống, và gì mà như ai xô anh tới trước. Đã nghe ngộp, anh ráng hết sức bình sanh chống lại áp lực ở tứ hướng và đứng dậy thật mạnh. Anh đã đứng được, nhưng mặt anh vẫn còn ở dưới nước.

Tất cả những sự việc trên đây xảy ra mau hơn là thì giờ dùng để kể nó lại nơi đây, sự việc chỉ xảy ra trong nháy mắt thôi.

Mạnh hoảng hốt đến cực độ, chợt biết rằng mương sâu hơn thân người cao. Trên anh, khối nước còn đè nặng lên đầu anh.

Mạnh vừa quýnh lên thì thấy một bóng đen lù lù tiến đến làm anh khủng khiếp vô cùng, nghĩ tới những con thủy quái ghê gớm đọc thấy trong tiểu thuyết.

Nhưng một cánh tay thò tới, thoạt tiên làm anh khiếp vía, ngỡ vòi con mực trong phim chiếu bóng kia. Nhưng anh chợt hiểu.

Người cứu cấp nhảy lên bờ mương trước rồi nắm tay anh mà kéo. Mạnh níu cỏ thoát lên cho đỡ nặng người kia.

Anh mắc cỡ đến muốn nhảy xuống mương vì người đó là một cô gái, cái cô gái gặp mình mà cười hồi nãy.

Cô ta nhảy trở xuống nước để lôi xe máy lên, lần nầy khó khăn hơn nhiều, vì tuy xe nhẹ hơn người mà nó lắc lẻo khó kéo lắm.

Mạnh, tuy thế, vẫn cố dẹp tự ái lại, đứng lên để cám ơn người nghĩa. Người nầy chỉ mỉm cười, có lẽ quê mùa, ngây thơ, không tìm được lời khiêm nhượng nào để xóa lấp câu cám ơn của nạn nhân chăng ?

Mạnh lại hỏi thêm:

- Thưa cô, nhà cô ở đâu ?

Cô gái chỉ mỉm cười như trước, rồi không hiểu sao đâm đầu chạy đi một nước, trước sự kinh ngạc của Mạnh.

Anh ta ngó theo cho đến lúc cô ấy khuất dạng, sau một đám mía, ngó theo để biết hướng nhà cô ta, mà cũng là ngó theo cái thân hình tròn trịa lộ rõ ra vì y phục ướt dán sát vào da thịt cô.

Thầy lụi chích xong, hỏi người nhà ông lão:

- Ở xóm nầy, cái cô gái có nút ruồi trên môi trên là gì và nhà gần hay xa ?

Bà lão ngơ ngác, còn dâu bà thì mỉm cười nói:

- Chắc thầy hỏi con Bánh ?

- Con Bánh ? Tên ngộ quá ! Nhưng tôi không biết tên cô ấy, cô ta đẹp lắm, nhờ nút ruồi trên môi.

- Chắc chắc là con Bánh rồi. Nhà nó ở trong kia, nhà ngói cũ nhỏ, có hòn non bộ ngoài sân.

Rồi chị ta cười bí mật, hỏi gì cũng không chịu nói thêm nửa lời.

Bận về, Mạnh ra đường cái mà đi, không dám theo bờ đê nữa. Anh thay y phục, ăn cơm mà một chị hàng xóm làm giùm cho rồi đi nghỉ.

Ngủ trưa thức dậy, Mạnh diện bộ đồ bảnh nhứt của anh như chiều thứ bảy đi xem chiếu bóng ở Sài-gòn, rồi đẩy xe ra lộ lớn để xuống xóm cô Bánh.

"Cô Bánh, tên xấu quá, mà người lại đẹp. Mạnh vừa đi vừa nghĩ vừa buồn cười. Nhưng bánh nầy là bánh bò bông, nên trắng nõn, lại là bánh đám cưới, làm hoa hòe ra, trông ngon lắm. Nhưng biết có phải là cô Bánh hay không ?"

Anh ta đạp xe như đua nước rút, không mấy chốc là đã đến nơi. Đẩy xe đi dài theo bờ mương, anh nhớ lại tai nạn hôm qua mà tức cười.

- Cô ta cười là phải. Bộ mình qua cầu không quen, trông thấy lọm khọm ai mà nín cười cho được. Lại té xuống nước nữa ! Mà chết hụt trong một cái mương hẹp mới ác chớ !

Mạnh đi riết vô trong thì quả gặp cái nhà mà chị nọ đã tả. Trước sân có hòn non bộ hẳn hòi.

Chó sủa vang mà không thấy dạng người ta. Mạnh bẻ một cành tre ngoài hàng rào cầm quất chó rồi bước vào sân.

Không thấy bóng người, mặc dầu cửa mở. Có lẽ cả nhà đều ở ngoài đồng. Đứa bé coi nhà đã trốn đi chơi chăng ?

Mạnh đứng ngoài sân tằng hắng hai ba tiếng. Cũng không nghe động tịnh. Đánh bạo, anh đi vòng ra sau bếp thì mừng thay, cô gái nút ruồi, cô Bánh, đang nấu nướng gì đó.

Cô gái đưa lưng ra ngoài, chắc là điếc hay sao mà Mạnh lên tiếng cô ra vẫn chẳng day ra. Tức quá anh thầy lụi bước đại vào nhà bếp.

Bấy giờ cô Bánh mới day lại, thoạt tiên chưng hửng rồi vui mừng lộ rõ ra trên mặt cô. Cô cúi đầu chào khách rồi đứng đó làm thinh.

Thấy cô ta quá ngây thơ quê mùa, Mạnh thích lắm. Chàng nói:

- Thưa cô, ơn cô tôi không sao quên được, nên nay quyết đến để...

Cô gái mở miệng ra, ú ớ cái gì không biết nữa và Mạnh bỗng chợt hiểu tất cả: đó là một cô gái câm.

Chàng buồn cười hết sức, không cầm giữ được, nên bật tiếng cười dài.

Cô gái mắc cỡ, bỏ chạy ra đám mía trước nhà rồi lủi vào đó mất dạng.

Mạnh biết đợi thế nào cô ta cũng chẳng vô, nên ra về, tự hẹn sẽ đến.

Ngày mai chàng trở lại nơi đó, vì dầu sao cô gái ấy cũng đẹp mà chàng còn trẻ với tình yêu chan chứa, với dục tình muốn thoát cương.

Cô Bánh thấy khách toan chạy đi, nhưng nghĩ sao không rõ, lại thôi.

Mặt cô vừa bẽn lẽn vừa có vẻ giận dỗi. Mạnh hiểu ngay những phản động trong lòng cô ta, nên anh vào chào cô rất lễ phép và nghiêm mặt lại như trọng nể cô lắm.

Quả nhiên cô Bánh hết giận ngay.

Quên bịnh tật của cô, Mạnh hỏi Bánh một câu. Bánh u ớ lu bù những giọng líu lo gì đó, khiến thầy lụi sực nhớ lại thực trạng về cô.

Mạnh cố suy tính coi phải ra dấu thế nào cho cô ấy hiểu câu hỏi của chàng. Câu ấy là như vầy:

- Còn ba má cô đâu ?

Rốt cuộc chàng vuốt cằm như vuốt râu, muốn nói người có râu, tức ông già, tức cha cô gái. Rồi chỉ vào nhà, lại chỉ ra đồng.

May quá, cô gái hiểu và chỉ về đằng xa dưới kia, rồi lấy cây chổi giả bộ như cuốc đất.

- Ba tôi cuốc đất dưới kia.

Chàng muốn hỏi nữa, nhưng không biết ra dấu làm sao nên đành cụt hứng. Đôi bạn đứng đó mà làm thinh, miệng tuy ngậm câm, mà lòng nói với nhau nhiều lắm.

Đối diện đàm tâm mãi cũng chán, Mạnh lấy ra một gói nhỏ trao tặng Bánh. Đó là ve dầu thơm thứ lô-canh rẻ tiền mà chàng đã mua chiều hôm trước trên chợ Lái-Thiêu.

Cô gái không nhận, xua tay lia lịa. Mạnh làm ra vẻ khẩn khoản lắm, ra dấu nói nếu cô ta không nhận thì chàng sẽ đập lọ vào gốc cây rồi về và không trở lại thăm cô ta nữa.

Cô Bánh rốt cuộc nhận quà, rồi ra dấu bảo Mạnh đứng đó. Cô chạy vô nhà một lát thì trở ra với một chiếc khăn mu-xoa thêu rìa xanh đỏ trông rất quê.

Nhưng Mạnh tỏ vẻ vui mừng như được bảo vật. Rồi họ chia tay nhau, cả hai đều bằng lòng.

Sáng hôm sau, Mạnh vừa tiêm xong thuốc cho bốn năm người khách không bịnh nhiều, lại ngay nhà chàng được, thì cô Bánh đã đến.

Cô Bánh vừa bước tới sân là Mạnh nghe nực nồng mùi dầu thơm rẻ tiền. Cô ta làm dáng ghê lắm: nón bài thơ bọc áo ni-lông; áo bà ba bô-bơ-lin thêu trôn; đồ trong màu hường dạ ra ngoài rõ bông, quần lãnh tây thêu lai; guốc quai tréo.

Chiều hôm qua, Mạnh đã điều tra kỹ và biết cô Bánh là con một của một gia đình trung nông, ông cha là hương chức trong làng, chủ ba bốn mẫu mía.

Cô có học trường câm ở Lái-Thiêu mấy năm nên biết viết, biết đọc sách thầm, biết thêu thùa, làm hoa giấy v. v...

Mạnh tiễn khách tới sân rồi luôn tiện mừng bạn vừa đến. Chàng mời Bánh vào nhà, trà nước đàng hoàng, rồi ra dấu để đàm đạo.

- Cô đi chợ phải không ?

- Không, em lại đây.

- Cô có xức nước hoa, tôi tặng hay không ?

- Có, không nghe mùi đó sao.

Lại làm thinh, vì những câu muốn hỏi khó ra dấu quá.

Cô Bánh làm bộ như viết chữ. Mạnh chợt hiểu, chạy vào lấy giấy và một cây viết chì ra trao cho bạn.

Cô Bánh viết ngay mấy câu sau đây. Chữ rất xấu, chánh tả lại sai be bét:

"Anh Thầy Chít ơi"

Đọc xong lời kêu gọi, Mạnh cố nén cười đến tức muốn bể ngực. Thì ra cô gái đã điều tra, và có lẽ ai đã viết cho cô đọc để biết anh ta là thầy chích. Nhưng cô ta lại lầm tưởng thầy chích là tên của anh, nên mới viết hoa hai chữ T và C.

"Anh Thầy Chít ơi !

"Em tới thăm anh. Hỏi xao (sao) anh hổng tập lội, kẻo té nữa rồi ai dớt (vớt) cho. Anh có vợ con chưa ? Ai nấu cơm anh ăn ?"

Lần nầy Mạnh dám cười, cười thẳng thắn, anh đáp:

"Cô Bánh ơi !

"Tôi có té thì kêu cô vớt liền. Tôi chưa vợ. Tôi ăn cơm tháng với chị gần bên.

"Phải chi tôi ở gần cô, tôi mượn cô nấu tôi ăn. Cái khăn cô tặng tôi đẹp quá. Tôi cất kỹ để dành, lâu lâu, tôi lấy ra nhìn, cũng như là thấy mặt cô."

Đôi bạn bút đàm với nhau tốn đến năm tờ giấy mà nói toàn những chuyện vớ vẩn không mà thôi.

Rồi Bánh ra về, hẹn sẽ đến nữa. Họ thỏa thuận với nhau là lặp nhau nơi đây tiện hơn ở đâu cả, và Mạnh sẽ không đến nhà Bánh cho cha mẹ Bánh khỏi nghi nan.

Cưới Bánh làm vợ thì Mạnh không tính tới, cố nhiên rồi, mặc dầu nàng là con nhà khá giả trong làng.

Nhưng con trai thì tánh hay tham, nên Mạnh thấy bỏ đi cũng uổng. Vả lại làm bạn với một con câm cũng vui trong cảnh buồn tẻ ở xó quê nầy. Tỏ tình với nó cũng thú lắm.

Đôi bạn qua lại với nhau đâu được mười lăm hôm thì bữa đó Mạnh viết:

"Cô Bánh ơi,

"Tôi thương cô lắm mà không biết cô có thương tôi hay không ?"

Cô Bánh đáp:

"Anh Thầy Chít ơi,

"Sao lại không thương, em thương anh từ lúc vớt anh lên bờ. Không thương còn lại đây làm chi."

Mạnh lại viết:

"Cô Bánh ơi,

"Từ đây tôi kêu cô bằng em. Tôi mừng quá, tôi sung sướng quá. Tôi muốn nói chuyện với cô thật nhiều, thật lâu mà bây giờ sắp có khách khứa lu bu. Vậy tối cô lại có được hay không ?

Bánh lại đáp:

"Thầy Chít ơi.

"Ngày thường thì không được. Mà tối nay được. Ba em đi dọn đám ma nhà bà con dưới Bình-Phước. Má em thì quáng gà. Tối nay em lên lối tám giờ."

Mạnh bôn chôn trông cho mau tối. Tối đến, anh lại hồi hộp đợi bạn.

Bánh lên, anh nhắc chõng tre ra sân, ngồi cho mát. Cả hai đều biết cuộc gặp mặt đêm nay có mục đích gì, chớ nói chuyện bằng chữ sao cho tiện bằng ban ngày.

Sự gần gũi lần đầu trong đời người giữa đôi bạn trai gái, quá thần tiên và đẹp như mộng, đẹp hơn cả mộng nữa, bởi vì sự ấy đã là mộng rồi trong đó đôi bạn không còn ý thức rõ ràng về thực tế chung quanh.

Mạnh cầm lấy tay bạn thì nghe Bánh thở như ống bễ lò rèn. Chàng chợt nhận ra mình cũng thở như...

*

Cuộc sống ở thôn quê cứ lặng lẽ trôi qua như mây bạc trên trời, hay như nước dưới dòng sông.

Thỉnh thoảng có một con cá, trồi lên mặt nước vùng vẫy một cái mạnh làm xao xuyến sông lặng rồi đâu trở lại đó như cũ.

Con cá trong làng là vụ cô Bánh. Cô Bánh có thai. Với ai, nào ai biết đâu.

Tới chừng bụng cô ta lớn bà con mới tá hỏa ra.

Hai ông bà bắt con mà đánh một trận như trời giáng. Đoạn ông hương bà hương mới tra gạn Bánh để biết nó đã tư tình với ai.

Bánh cứ một mực lắc đầu.

Cùng thế ông hương phải viết giấy.

"Đứa nào ở với mầy cho mầy có thai, mầy nói ra đặng tao bắt nó cưới mầy. Nếu không thì xấu hổ tao, tao giết mầy chết."

Cô Bánh viết đáp cụt ngủn:

"Con không biết."

Nổi giận, ông hương đạp con một cái lăn cù rồi đánh bồi thêm túi bụi, đánh đấm, đánh đá như người đập nệm phơi ngoài nắng.

Bà hương nóng ruột con, nhưng không dám nói gì. Bà suy nghĩ dữ lắm trong trận đòn đó và bỗng tìm được kế để cứu đứa con gái thân yêu.

- Ông à ! Hay là nó không biết thật. Nó câm lại điếc, làm sao biết hết trai trong làng được.

Đánh con đã mỏi tay, nên ông hương mới chú ý đến lời bà.

Ông hơi nao núng, nhưng chỉ làm thinh. Bà đề nghị:

- Tôi nghĩ nên giao vụ nầy cho cậu hương quản của nó tra xét. Là hương chức đương quyền, cậu nó được phép tra hỏi cả làng. Mình cũng chẳng còn sợ tiếng tăm gì nữa, vì vụ nầy đã tùm lum ra rồi, ai lại không thấy cái bụng của con Bánh.

- Bà làm sao xong thì làm. Con của bà, dạy dỗ nó là phần của bà, tôi giao cho bà hết đó.

Hương quản Nhãn là một hương chức không bận trí về pháp luật cho lắm. Ông thấy phương tiện nào mà ông ngỡ hay thì cứ dùng. Và ông cũng sốt ruột cho con cháu nên không ngần ngại mà thi hành đến một biện pháp mà thôn quê đã bỏ hẳn ba bốn mươi năm nay rồi là tựu dân phái nam lại cho cô Bánh nhìn mặt.

Có lẽ thấy quân đội Pháp cho bao bố nhìn mặt nên ông phát hứng làm theo, chớ chắc không phải nhớ tục xưa đâu.

Sáng hôm ấy tất cả trai tráng trong làng đều bị lùa vô xóm trong. Đàn ông còn trẻ cũng không thoát được khổ dịch đó, vì biết đâu cô ta lại không bị một anh có vợ nào dụ dỗ.

Nhưng vì hương quản không đủ phương tiện bố ráp, nên các cậu trai chuồn đi rất nhiều. Đó là những cậu có chọc ghẹo cô Bánh (có tịt hay nhúc nhích ấy mà !) và những cậu đã bị bao bố của Tây nhìn mặt một lần, biết rõ những cái gật đầu ẩu xị của bao bố, nên quyết dĩ đào vi thượng.

Đàn ông con trai đứng giàn hầu hai hàng như lính giàn mặt trong một cuộc duyệt binh. Hương quản Nhãn dắt cháu đi giữa hai hàng rào người đó.

Đằng kia, dưới gốc sao, trên gò đất, nhiều vị hương chức, cha mẹ Bánh, vài bậc kỳ lão, và con trẻ cả làng đều tựu để chứng kiến cuộc truy tầm thủ phạm bí mật, vô hình này.

Cô Bánh hơi bối rối, như là cô đang đứng trước một vấn đề nan giải. Bước vào giữa hai hàng rào người, mặt cô ra vẻ miễn cưỡng nhẫn nại chịu đựng sự phanh phui nầy.

Qua mặt ai là người đó tái xanh đi, và chừng cô bước khỏi đó, họ mới thở ra, nghe nhẹ hẳn cả người.

Người câm là một kẻ lòng dạ khó lường, nên ai nấy đều sợ hãi, nghĩ cũng phải lắm.

Lạ quá, cô Bánh ngập ngừng, do dự trước bốn người con trai, nhưng mỗi lần như thế, cô lại đi qua luôn.

Mạnh đứng cuối hàng. Cô Bánh dường như không dè có mặt chàng ta nơi đó. Đến chừng đi trờ tới, thấy ông thầy chích, cô ta như sực tỉnh, áp tới mà níu áo thầy.

- À...

Cả làng đều à lên một tiếng dài, trong khi Mạnh ngạc nhiên thật tình và phản đối bắng tiếng "ủa" to.

Hương quản Nhãn cười ha hả:

- Ngỡ ai, té ra thầy ba. Thôi cũng được. Thầy chưa vợ, dễ tính lắm mà.

Mạnh hất tay Bánh rồi nói lớn lên, giọng giận dữ:

- Các ông làm như vậy oan tôi lắm. Phải có bằng cớ gì đích xác kia, chớ còn một lời quả quyết cảm của một người á khẩu đứng làm sao cho vững !

Hương quản Nhãn ra lịnh giải tán dân làng, họ mừng quýnh, đổ túa vô trong các đám mía.

Còn lại vài ông hội tề và cha mẹ cô Bánh. Hương quản Nhãn dịu giọng dỗ ngọt Mạnh:

- Thầy ba à, nếu ra tòa, tôi chắc là tòa cũng sẽ phải tin cháu tôi. Vả lại khi không nó vu oan cho thầy làm chi ? Thôi, ta thỏa thuận với nhau là hơn, cháu tôi nó xinh đẹp lại giỏi dắn; anh chị tôi cũng nhân từ, anh chị tôi sẽ gánh hết tổn phí đám cưới đám hỏi cho thầy, thầy đừng lo. Con một của người ta đó mà.

Mạnh sầu đến muốn cắn lưỡi mà chết. Thật là một nỗi oan Thị-Kính !

Đêm ấy anh quả có gặp Bánh tại nhà, quả có cầm tay nó, vuốt lên tóc nó và quả đã có nhiều tà ý.

Nhưng kỳ lạ quá, và mãi đến ngày nay Mạnh vẫn không hiểu sao mà đêm đó chàng có thái độ như vậy. Không phải chàng ân hận đã dại dột bỏ qua dịp may, mà chàng ngạc nhiên sao mình đã đứng đắn được như vậy.

Cầm lấy tay Bánh, Mạnh bỗng nghe ghê tởm mình quá. Dụ dỗ gái thường tuy không tốt gì, nhưng còn nghe ít tội một chút. Đàng nầy cô gái câm thật là một con mồi thật thà quá. Lòng chàng nghe khó chịu vô cùng như kẻ anh hùng ái ngại khi xuống tay hạ sát một người không được bảo vệ.

Bị cầm tay, cô Bánh giựt nẩy mình, rồi trong giây phút đê mê, cô ta ngã vào lòng Mạnh. Mạnh xô cô ta ra mấy lần mới được.

Bánh ngạc nhiên hết sức và chưa kịp hỏi nguyên do của sự thay đổi thái độ của bạn nàng thì Mạnh đã đưa tay biểu cô ta đi.

Bánh vẫn không chịu hiểu, ngồi lì đó mãi. Mạnh phải kéo cô ta dậy và đẩy đi như đuổi tà, cô ta mới chịu cúi trở xuống giường lấy khăn.

Cô gái ban đầu khóc vài tiếng rồi như nén sầu và đâm giận, vùng bỏ đi một nước.

Ngày hôm sau, Bánh lại đến, mặt hầm hầm. Mạnh xua tay bảo cô ta đi ngay cho.

Câm tức cực độ, cô ta viết:

"Em có làm gì mà anh ở ác dữ vậy. Em giận anh lắm đó ! Em buồn muốn chết đi. Bộ anh thương người nào khác phải không ? Coi chừng."

Mạnh có ác đâu, anh tốt lắm đó chớ. Anh chỉ vụng về thôi, không biết cách khước từ làm sao cho cô gái hiểu là không nên lén lút như vậy.

Từ đêm đó đến nay, anh không hề hội kiến với Bánh lần nào nữa cả. Thì làm sao mà nó có nghén được với anh !

Trời hỡi nè, oan nầy ai thấu cho mình ? Mà tại sao con Bánh nó vu oan giá họa một cách thất đức như vậy không rõ. Nó trả thù vì đã căm giận mình à ?

Không sành pháp luật lắm, Mạnh nghe những lý lẽ của hương quản mà đâm lo. Ừ, ra tòa, tòa nào lại không nghe lời con Bánh ? Sao cả trăm đàn ông con trai, nó không chỉ ai, lại nhè mình mà níu. Nó oán mình, ai biết cho ? Vả nếu nó khai ra vụ đêm đó, càng chết thêm, vì có ma nào tin được rằng một cậu trai gặp bạn gái ban đêm, cô bạn sắp hiến thân cho mình, mình lại khước từ ?

Thôi thì đành chịu số phận, rồi hãy hay. Anh định bụng, sau tiệc cưới anh sẽ trốn đi. Bỏ vợ không ai làm gì được, còn bây giờ mà họ đưa ra tòa là dính ngay cái tội dụ dỗ gái thơ.

Đám hỏi.

Người trong làng thấy đám nầy cũng xứng đôi vừa lứa, nên họ quên chuyện tồi tệ mà chỉ khen hai trẻ tốt đôi.

Bánh là cô gái câm đấy. Nhưng tật nguyền của cô được của cải bù lại. Cô là con một của một gia đình khá giả kia mà !

Nhưng Mạnh không nghĩ thế. Anh kiếm tiền để sống, kiếm dư tiền nữa để làm cho một cô gái lý tưởng được hạnh phúc.

Cô Bánh quả có xinh đẹp thật, nhưng mà cưới một người câm thì hạnh phúc anh sẽ giảm đi bao nhiêu ? Tệ hơn thế, người câm ấy bây giờ đã bị hoen ố rồi !

Anh định trốn, nhưng tính lại thì cũng không phải là chuyện dễ. Ra đi là muôn mắt dòm mình, trốn đâu cho thoát. Không lẽ giả đò dạo mát rồi lủi đại vào rừng. Vào đó, đi lạc đường sẽ khổ đến đâu.

Còn cái chỗ làm ăn nữa ! Không phải mỗi lúc mà tìm ra được một chén cơm trắng, cơm thơm như thế nầy, trốn về Sài-gòn, biết còn kiếm được khách hàng như trước nữa hay không ?

Khổ ơi là khổ ! Mạnh lẩn thẩn đâm ra ăn năn. Phải dè lúc đó mình cứ việc... thì ngày nay dầu bị cảnh nào cũng mát bụng đi.

Đạo đức làm chi, thương người làm chi mà phải quà quạ nuôi tu hú như bây giờ ? Ai ăn mắm ở đâu, mình lại chịu khát nước !

Trong thời gian ấy, Thế có lên hai lần. Nó hay tự sự, đã không tìm được mưu kế gì cứu bạn, lại cười ngã nghiêng ngã ngửa cho tình cảnh oái oăm của thằng bạn rủi ro nầy.

*

Chú rể Mạnh không thèm đi làm rể làm con gì cả. Trái lại, cha mẹ vợ anh mỗi ngày mỗi đến thăm anh. Mạnh biết họ đi thăm bẫy thử xem con vật vào cạm có sảy hay không, hoặc có thử vùng vẫy, để thoát hay không.

Nói cái nào cho ngay, ông hương rất quí rể. Không ngày nào là ông bà không mang quà đến: không một con gà quay thì cũng mươi con tôm luộc, hoặc vài cặp dừa xiêm.

Người trong làng ai cũng buồn cười cho cảnh làm rể ngược đời nầy. Ông già vợ gì mà đi làm cỏ trước sân chú rể ?

Hôm ấy bà Hương đem biếu một rổ bòn-bon và đưa cho Mạnh một bức thơ. Thơ rằng:

"Anh Thầy Chít ơi !

"Em thương anh Thầy Chít lắm, mà cũng giận anh Thầy Chít lắm, nên mới làm như vậy. Mà nghĩ cũng không hại gì cho anh. Em sẽ nhỏ nhoi hết sức, anh Thầy Chít muốn sai em làm gì cũng được, muốn đánh em, em cũng chịu. Tiền của em nhiều, em cho hết anh Thầy Chít đó. Tội nghiệp em lắm mà !"


Đọc xong Mạnh giận tím mặt, xé nát thơ mà vụt xuống đất. Bà già vợ anh kinh hãi vội rút lui ngay.

Trong cơn điên tiết, Mạnh muốn chạy đi tìm Bánh mà bẻ cổ cho lợi gan anh. Nhưng rồi anh dằn được.

Nghĩ cũng tôi nghiệp, Mạnh tự nhủ. Nếu mình không bày chuyện yêu đương, không rờ rẫm nó, chắc nó sẽ không bị động tình và giữ mình được. Xác thịt giống như thùng thuốc pháo. Không ai rớ đến thì thôi, mà hễ khơi ngòi nó, nó nổ lung tung, ông trời mà dập tắt được.

Bên đàng gái coi ngày gấp đặng làm đám cưới trước ngày Bánh khai hoa.

Còn hai tháng nữa !

Còn một tháng nữa !

Còn mười lăm ngày nữa !

Mạnh ra vào thơ thẩn như kẻ mất hồn.

Thấy con Ngọ bán đậu phọng rang đi ngang qua nhà, anh kêu mua một gói ăn cho đỡ buồn miệng.

Mạnh ngạc nhiên hết sức mà thấy trên giấy gói đậu có tuồng chữ viết của Bánh. Nhưng khi nhớ ra con Ngọ là chị em bạn dì với Bánh, anh không còn lấy làm lạ nữa.

Nhưng tánh tò mò, anh banh tấm giấy ra mà đọc.

"Anh Thìn ơi,

Thìn là anh ruột của Ngọ, người con trai sáng sủa nhứt trong đám nông dân ở đây.

"Anh Thìn ơi,

"Tôi vu oan cho anh Thầy Chít là để cứu anh đó. Bà con mà anh bậy quá, dụ dỗ tôi cho đến nỗi nầy.

"Từ rày tôi cấm anh léo hánh đến nhà tôi. Tôi quyết làm vợ anh Thầy Chít. Còn con anh, tôi đẻ ra, tôi sẽ lén cho nhà phước thiện. Liệu hồn, anh mà còn bén mảng đến, tôi khai tạch hoạch ra cho mà mang xấu cả lũ."


Hai tay Mạnh run bây bẩy. Mồ hôi trán anh nhỏ giọt. Anh mừng, mừng như dò giấy số thấy mình trúng độc đắc, mừng như kẻ tử tù hay tin được ân xá.

- Thôi, sướng rồi, bắt được bằng cớ rồi ! Bằng cớ nầy, mình dùng để thoát thân, rồi sẽ hủy. Nếu mình mà ác, mình sẽ làm tiền cả họ nhà nó. Chúng nó sợ xấu, mình đòi bao nhiêu họ cũng phải lòi ra.

May cho cả họ nhà nó lắm đa !

 (Trích từ tập truyện ngắn Tâm Trạng Hồng)

 

Chủ Nhật, 7 tháng 7, 2024

NỬA NƯỚC NỬA DẦU - Bình Nguyên Lộc

 

Tấn đứng lấp ló bên cửa nhà hộ sanh rất lâu mà chưa có can đảm để chân vào trong ấy.

Chàng sợ thất vọng lần thứ năm thì ít, mà rất sợ ông trời trác chàng một lần nữa. "Họa" đến nhiều lần quá rồi, khiến chàng đâm ra tin nhảm, tưởng như ông trời ổng phạt chàng về tội gì ở kiếp trước của chàng, nên cứ bắt vợ chàng đẻ con gái mãi.

Mấy tháng nay, chàng làm bộ ở bề ngoài, mà cả bên trong lòng chàng nữa, làm bộ như thích được thêm một đứa con gái nữa, đứa thứ năm.

Chàng nghĩ: "Ghét của nào thì trời trao của nấy, và ông trời ổng rõ thấu ruột gan mình thì mình cứ muốn con gái đi, để ổng khiến mụ bà nắn đứa bé trong ấy ra con trai".

Mãi đến giờ phút nầy, vợ chàng đã lâm bồn rồi, mà chàng còn cố ý gạt gẫm ông trời, vì biết đâu... vào phút chót, ổng không làm phép huyền vi để...

Chàng làm bộ không nóng nảy biết sự thật, giả vờ thèm được một đứa con gái bé lắm. Mụ bà đã xong sứ mạng nắn nót đứa bé, nhưng quyết định tối hậu là do ông trời.

Nhà hộ sanh tư nầy chỉ có một dãy buồng gồm sáu phòng. Hành lang chạy trước dãy buồng hẹp té, và Tấn đã ba lần rồi, đứng nép qua một bên, cho nhơn viên nhà hộ sanh đi trong hành lang, không thấy chàng.

Nhưng lần thứ tư nầy, chàng trốn không kịp và một chị nhân công nhận diện được chàng, người đã biếu tiền chị lúc đầu hôm, khi đưa vợ đến đây.

Chị ta cười toét miệng và nói lớn lên:

- Cô sanh rồi thầy, con gái !

Tấn không biết nên tiến hay lùi. Trong giây phút chàng tức giận vô cùng, thầm trách tại sao vợ chàng lại tệ như vậy, không làm tròn phận sự như hàng vạn đàn bà khác là đẻ trai lẫn gái, xen kẽ với nhau.

Tâm trạng chàng hiện giờ giống hệt như tâm trạng của các bà mẹ chồng thời xưa, cứ qui tội cho nàng dâu: không đẻ cũng tại các nàng thiếu đức mà đẻ toàn con gái cũng tại các nàng kém cỏi.

Nhưng người đàn ông còn trẻ và có biết chút ít khoa học nầy, chợt thấy là mình vô lý. Chàng thở dài nhẫn nại chịu số phận, bước vào bên trong.

Chàng mới có băm ba, vợ chàng cũng còn trẻ lắm mặc dầu liên tiếp trong bảy năm liền, nàng đã năm lần sanh nở rồi.

Chàng còn có thể có con, hai, ba đứa nữa là ít, và biết đâu chúng lại không là trai.

Đoán biết vợ mình bị mặc cảm phạm tội và có lẽ khổ tâm lắm, Tấn cố thương yêu vợ và đứa con sơ sinh, nhiều hơn những lần trước, để mà gián-tiếp an-ủi nàng.

Nhưng rồi bé Huệ cũng được thương yêu thật nhiều một cách thật tình, mặc dầu nó đen đúa và thô hơn mấy đứa trước.

Huệ không có vẻ là đứa con "ăn mót" chút nào, những đứa nầy thường rất bé và hay èo uột, Huệ, trái lại lớn như thổi, giành ăn với các chị nó một cách rất du côn và luôn luôn được phần.

Lúc Huệ còn bú, về đêm, cô Tấn thường thường than xót ruột vì Huệ rút rỉa dữ hơn mấy đứa khác, mấy năm trước.

Được cái là qua sáu tháng, Huệ lại tự nhiên không thèm bú nữa... chỉ thích ăn thôi, và ăn tợn lắm.

Hôm ấy chúa nhựt đầu tháng, Tấn đi dạo phố một hồi rồi ghé hiệu ăn Tây mua về cho con một chục bánh ngọt, thứ bánh mà Tây gọi là ga-tô, còn ta gọi là ba-tê ngọt.

Bánh làm thành nhiều kiểu khác nhau, thứ lớn thứ nhỏ không đều, thành thử khó lòng mà chia cho lũ trẻ tham ăn nầy.

Thừa dịp Tấn và vợ ngó lơ, bọn chúng năm đứa đánh nhau túi bụi. Vợ chồng Tấn day lại thị sát mặt trận thì thấy đứa đánh hăng hơn cả là con bé vừa lên hai, sanh sau đẻ muộn hơn thiên hạ hết.

Cả hai vợ chồng đều nhăn nhó, khó chịu trước sự hỗn loạn của một gia đình đông con, trật tự khó lòng mà giữ cho vẹn.

Trong khi vợ Tấn can thiệp để lấy lại an ninh trật tự thì Tấn mỉm cười. Đó không phải là cái cười độ lượng của người cha khoan hồng và cảm động vì lòng thương con. Chàng chợt nghĩ ra cái gì, khi nhìn con nữ cao-bồi Huệ.

Nữ cao-bồi là tục danh của bé Hồng, bảy tuổi, chị cả trong đám nầy, đã đặt cho đứa em du côn của nó.

Giây lát sau, bé Huệ ăn bánh xong, ba nó gọi má nó mà rằng:

- Em rửa miệng cho con để anh dẫn nó đi hớt tóc, tóc nó dài quá rồi.

Má Huệ giẫy nẩy:

- Khéo bày đặt cho tốn tiền ! Từ thuở giờ, đứa nào em cũng để ở nhà rồi hớt bom-bê lấy cho chúng nó, nay sao lại...

- Ấy em đừng có cãi, để anh săn sóc con mà.

Bé Huệ theo ba độ một giờ đồng hồ sau khi trở về. Cả nhà chưng hửng mà thấy lối xén tóc của nó: bé Huệ xén theo kiểu ma-ni của con trai.

- Ê mắc cỡ ê, hớt tóc theo con trai !

Trừ bé Lan mới có ba tuổi chưa biết gì, còn thì đứa nào cũng chộ em nó rồi nhảy chung quanh Huệ, vỗ tay ăn rập với nhau để đánh nhịp cho những lời nhạo báng của chúng.

- Mắc cỡ, ê ! Huệ là con trai !

Huệ ngơ ngác không hiểu gì, nhưng cũng vui với các chị của nó, cũng vỗ tay và bắt chước cái câu ấy, để tự chế giễu mình:

- Ê ! Mắc cỡ ê, hớt tóc con trai.

Tấn ngỡ vợ sẽ phản đối ghê lắm, nhưng bất ngờ, nàng sung sướng trông thấy, nàng tươi cười và giải thích cho các con nghe:

- Huệ là con trai thì phải hớt tóc như con trai, nó có phải là con gái như tụi bây đâu.

Trừ chị Hồng ra, còn thì không đứa nào biết rõ con trai, con gái, khác nhau như thế nào.

Ngỡ cha mẹ nói đùa, Hồng chỉ cười chứ không ngạc nhiên tại sao mẹ lại giải thích như thế.

Mấy ngày sau đó, Tấn may sắm cho bé Huệ.

Nhà không khá giả, bé Huệ từ ngày ra đời đến giờ chỉ mặc quần áo cũ của các chị nó, thành thử nhà chưa hề may sắm thứ gì cho nó cả.

Ba Huệ mua cho Huệ quần sọt và mua áo sơ mi con chim con cò may sẵn bày bán ngoài chợ, mua giày săn-đan con trai cho nó, lại mua nón nữa, nón may bằng vải ni-lông, nhưng giả như là nón nỉ.

Các chị của Huệ vui lắm vì có một đứa em tóc tai và y phục khác lạ với lũ nó, và chúng nó vui mà tò mò tìm để biết xem Huệ là con trai ở chỗ nào. Nhưng không biết được vì sao mà chúng nó là gái, còn Huệ thình lình bỗng hóa con trai.

Con Cúc, năm tuổi rưỡi, chị thứ ba, ngỡ hễ trời sanh ra phải làm con gái vài năm, rồi đổi ra làm con trai.

Chỉ có điều nầy làm nó thắc mắc, là tại sao con Huệ lại đổi trước, còn lũ nó thì chưa.

Chiều thứ bảy ấy, Tấn đưa vợ con đi chơi mát và ăn cơm ở ngoài.

Hai vợ chồng giành nhau mà dắt "thằng Huệ", hãnh diện với làng nước mà đẻ được một đứa con trai, y như bất kỳ ai.

Bé Huệ cũng thích lắm, vì mặc quần sọt mát hơn mặc quần dài. Tóc hớt ma-ni cái đầu cũng mát ghê.

Ngày tháng cứ trôi qua, và cả nhà cứ quen miệng được rồi với cái lối gọi mới: "thằng Huệ" thay vì "con Huệ".

Thằng Huệ đã ra ngõ chơi với lũ trẻ con hàng xóm và cả hàng xóm cũng gọi nó như vậy, người lớn thì đồng lõa với ba má nó, còn lũ trẻ con thì không phân biệt được, nghe chị nó gọi sao thì gọi y như vậy cho tiện.

Những ngày nghỉ, người xóm khác đến đây thăm bà con, bạn hữu, gặp thằng Huệ ngoài ngõ, ai cũng dừng chơn lại, nhìn nó rồi nói:

- Mẻ, con nhà ai mà trai lại giống như con gái ! Mụ bà nắn lộn chắc !

Bọn con trai nào tương đối lớn tuổi, đã biết Huệ là con gái, không thèm chơi với Huệ. Ấy trẻ con phái nam luôn khinh rẻ phái nữ, vì con gái bé hay khóc lại không đủ sức chơi những trò dữ tợn như chúng nó, chẳng hạn như trò đánh giặc, trò cảnh sát rượt cướp...

Bọn trẻ nít không phân biệt được nam nữ thì mới nhận Huệ là bồ.

Nhưng đây là thằng bồ bị xem thường vì nó là trai lại thích chơi trò nấu cơm và buôn bán với lũ con gái.

Lũ con gái, bé thì trái lại, thấy con trai sáp vô, sợ nó chơi dữ tợn nên tìm cách mà xua thằng con trai giả hiệu ấy ra.

Bé Huệ khổ quá, không hiểu sao nó không được như tất cả mọi đứa khác. Nó chưa biết ham làm "xếp sòng", chỉ muốn làm một đứa trẻ thường thôi, nhưng vẫn không toại nguyện.

Con trai chế nhạo nó:

- Mầy mít ướt như con gái thì về nhà bú má đi.

Con gái thì thào với nhau:

- Coi chừng thằng du côn đó nó giựt búp-bê của tụi mình.

Thời gian khổ sở nhứt cho Huệ là mùa dế.

Bọn con trai chơi tàn ác không thể tưởng tượng được.

Hễ con dế nào đá thua là bị chúng xoi óc ngay rồi nhét thuốc lá vào cho dế say, đoạn bỏ chung con dế say ấy với những con dế đang sức, để chúng nó đá lung tung, cũng như người lớn bắt cầu tướng dượt banh vậy mà.

Dế thường không sao làm biếng được vì dế say đá một cách điên loạn, không trốn nó được và bắt buộc phải so càng.

Đá hăng một lát, dế say lăn đùng ra mà chết.

Bé Huệ mọc óc cùng mình khi thấy lũ con trai hành hạ con vật tội nghiệp ấy. Thấy nó rùng mình, lũ kia nổi giận ném dế vào người nó suýt chết ngất đi.

Con gái có bộ thần kinh rất dở, thường sợ những con vật bé và mềm mềm. Hằng vạn phụ nữ chết giấc khi bị chuột con mới đẻ, còn đỏ lòm lòm từ nóc nhà rơi xuống vai họ.

Biết được chỗ yếu của bé Huệ, chúng nó phát minh được một trò giải trí mà Huệ là con vật hy sinh. Chúng nó bắt thằn lằn, ngắt đuôi, rồi bỏ đuôi ấy vào túi của Huệ.

Đuôi thằn lằn bị ngắt như vậy, tiếp tục cử động và run rẩy rất lâu y như là một sinh vật còn sống. Sinh vật giả ấy lại bé và mềm.

Để tự vệ, bé Huệ cố làm con trai, bé tập can đảm, không sợ dế say thuốc, không sợ đuôi thằn lằn, và không sợ trầy da trong những trận giặc mà hàng trăm đứa bé trong xóm đánh nhau loạn đả.

Nó cũng leo cây trứng cá như bất kỳ thằng con trai nào, cũng ném đá vào xe hơi chạy ngang qua đầu ngõ và cũng len lén lấy miểng sành cạo cho tróc nước sơn của mấy chiếc xe tắc-xi trong xóm nhà tối tối, tài - xế mang về nhà thay vì trả cho chủ xe vì họ được chủ xe tín nhiệm giao luôn cho họ dài hạn.

Bé Huệ bị nam hóa và tự nam hóa lần lần cho đến năm nó lên năm tuổi, thì ba bé Huệ gởi gắm vận động cho bé Huệ được nhận vào lớp chót một trường tiểu học con trai.

Sự nam hóa đã bước đến giai đoạn quyết định, vì ở đây có hàng ngàn con trai, chớ không phải hàng chục và thỉnh thoảng hàng trăm như trong xóm nữa.

Bé Huệ biết xấu hổ khi thầy giáo và bạn học nói lớn ra ý nghĩ của họ về nó: "Thằng nầy bị mụ bà nắn lộn đây ! Con trai mà mủ mỉ như con gái".

Bé Huệ tự tạo cho mình một nhân cách con trai, nên xấu hổ nầy là mặc cảm kém cỏi của một đứa con trai, chớ không còn là mặc cảm bị nam hóa.

Huệ lại nỗ lực làm con trai, nỗ lực tập thể thao, đá banh chạy đua, nhất là dang nắng cho tóc khét như tóc của con trai ba-gai, và cho da mặt sạm đen để xóa vẻ mủ mỉ phần nào.

Nó phá phách nhứt lớp, nhứt trường để hủy diệt mặc cảm kém cỏi.

Năm lên lớp tư, một biến cố xảy ra trong đời sống sinh lý bí mật của bé Huệ.

Bé Huệ chợt nhớ ra nó là con gái, nó đã phân biệt được trai gái một năm nay rồi, nhưng không thắc mắc lắm về điều đó, và say mê làm con trai, nó quên mất sự thật về nó.

Bé Huệ bắt đầu thấy những chiếc áo bà ba màu xanh, màu đỏ của bọn con gái bên trường Phan Văn Trị là đẹp và thấy lũ bé con bên kia kẹp tóc, nó ham lắm.

Ham nhứt là hoa tai. Ồ ! Những đôi hoa tai huê dạng không thể tưởng tượng được. Có đôi là hai chiếc khoen vàng đơn sơ, có đôi là hai con cá màu nằm trong hai chiếc bồn, cá bằng nhựa đỏ, còn bồn cá bằng nhựa trắng trong, nhỏ bằng đầu ngón tay út.

Còn nói gì những đôi hoa tai tòn ten gắn đầy hột chai lóng lánh dưới trời nắng trưa.

Còn nón nữa ! Chúng nó đội nón quai lụa màu ngũ sắc hay rằn ri, rực rỡ như cánh bướm, ôi chao là đẹp !

Hôm ấy đi học về, bé Huệ ném cặp rồi vùng - vằng nói với ba:

- Huệ hỏng thèm làm con trai nữa đâu ! Huệ muốn mặc áo màu, đeo bông tai hè !

Cả nhà phá lên cười, rồi không ai buồn cứu xét và nghĩ ngợi về yêu sách của "thằng Huệ" cả.

Năm ấy chị Hồng lên mười hai. Bà nội từ tỉnh lên, mua heo quay cúng tạ ơn ông Táo, ông Địa đã phù hộ chị, rồi thì má may cho chị Hồng chiếc áo dài đầu tiên trong đời chị.

Trời ! Chị Hồng đẹp số dách. Áo nylon màu hồng lấm tấm những hột cát nhuyễn dạ bóng, quần sa-teng mà lại quần có gắn ren.

Chị Hồng giác bín và hai cái bín cột đầu bằng hai chiếc nơ con bướm màu lam.

Hôm ấy cả nhà đi sở thú để khoe chị Hồng, như hồi đó cả nhà đi bờ sông để khoe "thằng Huệ".

Huệ khóc bù lu, bù loa, lăn dưới gạch rồi nằm vạ luôn không thèm đi.

Bà nội là người thèm một đứa cháu trai nhứt, để có kẻ lo hương khói về sau, vì bà nội nó rất lo đói lạnh dưới âm-phủ. Vì thế thằng cháu nội giả hiệu nầy được cưng ghê lắm, bởi nó cho bà ảo tưởng là có cháu trai.

Bà nội ẳm bé Huệ lên nựng:

- Con trai mới quý chớ. Còn cái thứ con gái đó, ai mà thèm cưng. Con Hồng nó ăn mặc cho đẹp rồi vài năm bị chúng xỏ mũi dắt đi mất. Chỉ có "thằng Huệ" là ở lại với nội. Nội cưng "thằng Huệ" như cục vàng.

Huệ bá lấy cổ bà nội, hôn bà nội rồi mới chịu dậy thay đồ để đi chơi với cả nhà.

Đoàn phiếm du hôm đó thật là téc-ni-cô-lo, chị nào cũng xanh xanh đỏ đỏ cả, mà các em gái của Huệ cũng xanh đỏ không kém.

Cho đến nỗi má cũng xanh xanh đỏ đỏ nữa, mà ba cũng vậy. Ba mặc quần màu, cà vạt màu, sơ mi màu, Huệ cứ mong lớn cho mau để ăn mặc như ba, giờ thì quần áo của Huệ cũng màu thật đó, nhưng thiếu cái cà-vạt. Huệ tự nguyện sẽ sắm một cái cà vạt mang đủ bảy màu của móng trời, để trả thù con gái.

Khi cả nhà đi tới hồ sen nhân tạo, giữa hồ sen có nhà thủy tạ thì một người Hoa-Kỳ tay cầm máy ảnh bước lại nói cái gì với ba nó không rõ. Ba gật đầu bằng lòng rồi thông ngôn lại cho cả nhà đều biết rằng ông ấy xin phép chụp hình bằng phim màu, mà chỉ chụp mấy đứa con gái không mà thôi.

Có đáng tức chưa ! Tại sao không chụp con trai.

Trí óc bé tuy còn non nớt, bé Huệ cũng hiểu ngay được rằng con gái nhiều màu lòe loẹt làm cho ảnh của mấy ông ấy chụp đẹp ra.

Lần đầu tiên, Huệ bị đời cho ra rìa, đau xót không thể tưởng tượng được.

Mấy chị và mấy em gái của Huệ được người Hoa Kỳ yêu cầu đi vào nhà thủy tạ, rồi từ trong ấy trở ra. Ông ấy sẽ chụp các nàng lúc các nàng đang đi giữa lưng cầu.

Bé Huệ nắm tay bà nội, thèm thuồng mà nhìn các chị em hãnh diện, ghen tức không biết bao nhiêu và cứ muốn nhảy đến lột áo của chị Cẩm-Nhung, xấp xỉ tuổi với Huệ, để mặc, hầu cho ông ấy chụp hình mình.

Bé Huệ rưng rưng nước mắt khi nghe ba nói với má:

- Y có hỏi địa chỉ anh và hứa sẽ gởi tặng gia đình một bức ảnh của mấy đứa nhỏ.

Trời ơi ! Trong ảnh ấy sẽ không có Huệ ! Nước mắt Huệ ràn rụa khi người Hoa Kỳ làm xong việc, bắt tay ba, chào bà nội với má, xoa đầu chị em Huệ, cũng có xoa đầu Huệ nữa, rồi đi nơi khác.

Má biết Huệ khổ lắm nên đền cho Huệ bằng nhiều chiếc sơ mi rằn ri, xanh đỏ, nhưng còn biết bao nhiêu thứ nữa mà Huệ thèm.

Chẳng hạn chị Hồng uốn tóc. Ừ, năm nay chị Hồng không kẹp tóc nữa mà uốn ngoài hiệu Saigon. Đẹp vậy mà chỉ còn cột lên tóc một sợi dây ruy-băng nó đè tóc xuống. Mỗi ngày một sợi khác màu với nhau, rồi cột lại sau ót thành một cái nơ.

Má lại sắm cho chị một bộ "Tuần lễ", gồm bảy chiếc vòng bằng vàng tây nhỏ chột, ngày thứ hai bảy chiếc đều ở cả cổ tay trái, rồi mỗi ngày sang bớt qua cổ tay mặt một chiếc, ôi chao là xinh, là ngộ !

Má cứ đẻ, năm nào cũng đẻ thêm một đứa em cho Huệ, mà cứ toàn là em gái không mà thôi. Lạ quá ! Sao má không chịu đẻ con trai ? Chính Huệ cũng thèm một đứa em trai lắm, nhứt là chờ một đứa em trai để thay thế cho nó khỏi phải làm khổ dịch con trai nữa.

Ừ, nó đã hiểu vì sao mà nó không được là nó. Nó đã hiểu ba xấu hổ mà không có được một đứa con trai, ngụy trang nó cho thiên-hạ khỏi nói ra nói vào, và nhứt là cho đỡ ghiền.

Làm trai quyết chí tu thân,

Công danh chớ vội nợ nần chớ lo.

Lần nào học bài ám học nầy, Huệ cũng cứ nghe làm sao ấy ! Làm trai ! Hừ, nó có phải là trai đâu mà bắt nó phải tập những tác phong của con trai !

Bãi trường về tỉnh, Huệ phải ở lại với bà nội lâu hơn mấy đứa khác.

Bà nội dạy Huệ cúng, lạy, và nhồi vào óc Huệ cái sứ mạng thiêng-liêng của một đứa cháu trai có phận sự nối dõi tông đường để lo phần hương khói hầu họ nhà được kiếp kiếp đời đời không tuyệt tự.

Bà nội đã lậm quá rồi, xem nó tưởng là trai thật và kể như là bà đã có một đứa cháu trai đích tôn.

Trở lên Saigon, ba dẫn Huệ vào hồ tắm để tập cho Huệ lội.

Ba nói với má:

- Nước nhà độc lập rồi thì con trai có phận sự đi quân dịch. Mà một anh lính chiến không biết lội thì nguy vì quân-nhân thường có dịp băng ngàn, vượt sông mà không xe cộ, ghe thuyền gì cả.

Ba cũng đã xem ảo tưởng là sự thật rồi.

Má thích ăn chua lắm, các chị em cũng vậy, bởi phụ-nữ thể chất hạp chua và cần của chua.

Mỗi lần cả nhà ăn chùm ruột hay ăn trái cóc, ăn soài tượng, bé Huệ không được mời.

Ban đầu nó hờn, không thèm lại gần họ, nhưng nghe thèm chảy nước miếng, nó sáp vô.

Chị và em Huệ không ai nói gì. Nhưng má cười mà rằng:

- Lêu lêu mắc cỡ, con trai gì mà ăn chua !

Đến má cũng đã lậm cái ảo tưởng Huệ là con trai.

Năm ấy Huệ nhờ học giỏi, khỏi thi bằng tiểu học. Nó lại đậu kỳ thi tuyển vào trường nữ trung học Gia Long.

Mới có mười một tuổi.

Ba, má khen Huệ ghê lắm, nhưng ba than với má:

- Anh không quen lớn với ban giám đốc trường P.Ký như đã quen với ban giám đốc trường tiểu học Nguyễn-Thái-Học nên không thể năn nỉ họ nhận gái trong lớp trai, vả lại trường trung học là trường của học sinh tương đối lớn rồi, người ta không dễ dãi cho cái trò trá hình được đâu. Thôi, Huệ hết được làm con trai !

Ba, má buồn ghê, nhưng Huệ nhảy lên mà reo vui. Đối với nó thì hết được phải đổi thành hết bị.

Và tổ tiên nhà Huệ chắc là tích đức lâu đời lắm hay sao mà thế hệ nầy được hưởng phước lớn. Còn hai tháng nữa bé Huệ được làm con gái, thì má đẻ em trai, em trai thứ thiệt đa nhé, đứa em thứ mười, đứa em mà cả họ trông đợi từ lâu.

Sự sung sướng trong nhà, thật hoàn toàn. Bà nội, ba, má sắp mất thằng con trai giả thì được ngay một thằng con trai thật.

Huệ mừng bằng hai thiên-hạ, vì nó đã được là nó, lại có em trai để mà cưng.

Mười một năm làm khổ dịch, nghĩ lại mà ghê ! Huệ giống như anh lính "săng-ti-nền", được cắt đặt đứng canh gác rồi bị bỏ quên lâu thật lâu mới được anh lính khác đến thay thế.

Thật là nhẹ.

Không kịp để tóc cho dài hầu phi dê, bé Huệ tạm dưỡng vài tháng rồi hớt a-la-gạc-son.

Để trả thù, Huệ đòi sắm áo nhiều thật nhiều, cái nào cũng màu sắc sặc sỡ, ở nhà nấu ăn nó cũng xức nước hoa, cho bõ những ngày khét nắng.

Tuy nhiên nỗi vui mừng của Huệ bị mây án phần nào. Nó chợt nhận ra nó đã mất ưu thế thằng con trai thừa tự giả hiệu rồi.

Trước đó người lớn trong gia đình đã quên sự thật nên quý nó lắm.

Giờ thì đứa cháu, đứa con trai cưng đã ra đời, Huệ bị đẩy về hàng ngũ con gái, thì nó lẫn lộn với tám đứa con gái khác trong nhà, không hơn đứa nào được vì không là trưởng nữ cũng chẳng là con út.

Tệ hơn thế, đó là một đứa con xấu xí vì bị nam hóa lâu năm.

Những trận giặc mà Huệ đánh nhau với lũ trẻ con trai mấy năm trước, để lại nhiều vết thẹo trên tay, trên chơn Huệ và khổ ơi, mặt Huệ cũng mang đến ba vết thẹo thật to, một ở trán, một ở má bên mặt và một ở ngay đầu mũi.

Ngày đầu mặc áo dài ra phố, Huệ theo dõi hình dáng nó trong kiếng cửa tủ hàng của các hiệu buôn thì nó thấy tướng nó cứng quá.

Con gái nào cũng ưa đẹp: Nhưng con gái còn bé chỉ ưa vậy thôi, chớ chưa ý thức rằng xấu xí là một tấn thảm kịch trong đời nó.

Thế nên bé Huệ vui được với may mắn làm con gái thật sự của nó trong hai năm đệ thất và đệ lục.

Đó là cô nữ sinh ba gai nhất trường Gia Long, không phải vì thiếu giáo dục gia đình mà vì đã bị nam hóa nên tánh tinh nghịch của con trai còn sót lại nổi bật lên trên hằng ngàn cá tính nhu mì quanh Huệ.

Huệ buồn lắm mà thiếu bạn.

Nữ sinh Gia Long, như bất kỳ nữ sinh trường con gái nào khác, ưa bắt bồ. Họ chơi riêng rẽ từng cặp một, nhỏ to tâm sự với nhau chớ không ồ ạt chơi chung như nam sinh.

Mặc dầu có lịnh của nhà trường cấm nhặt bắt bồ, thói ấy vẫn tồn tại với mọi hình thức trá hình, bởi vì bản năng của phái nữ ngàn đời không thể hủy diệt được bằng một cái lịnh cấm.

Bé Huệ rất ghét bắt bồ, nhưng cũng ghét cảnh lẻ loi vì bắt bồ tuy không hứng thú như chơi chung, vẫn còn hai đứa để làm bạn với nhau, chớ còn không bắt bồ, trong một thế giới mà ai cũng bắt bồ cả thì mình là con người dư rồi vậy.

Còn muốn bắt bồ, bé Huệ cũng không biết bắt bồ với ai. Không chị bạn nào mà chọn một đứa bồ mặt đầy thẹo, không biết chơi lưu bút, không biết lượm lá khuynh diệp đề thơ lên đó, và không biết ép hoa vào sách và làm thơ khóc hoa.

Bé Huệ chọn ban B, ban Toán, và cô đơn quá, nó nỗ lực với cái mộng làm kỹ sư sau nầy.

Đã bị đực thì làm đực luôn vậy.

Làm trai quyết chí tu thân,

Công danh chớ vội nợ nần chớ lo.

Bài ám đọc năm xưa thỉnh thoảng văng vẳng vang lên bên tai Huệ, và nàng thấy rằng nàng phải bất đắc dĩ làm trai, cho dẫu đã được mặc áo dài và được học trường nữ.

Lần nào nghe một bà mẹ bên cạnh ru con bằng câu hát:

Linh đinh nửa nước, nửa dầu, nàng cũng ngùi thương thân phận mình, rưng rưng lệ một hồi rồi nổi giận lên, rồi căm tức cha mẹ nàng đã chơi trò hiểm ác một cách vô ý thức mà hậu quả là sự hủy diệt một bản ngã đáng lý phải được bình thường như bao nhiêu bản ngã khác.

Sự hủy diệt tai hại ấy lại không được thay thế bằng một bản ngã khác, bản ngã cứng rắn thật sự của con trai. Nơi nàng, quả "linh đinh nửa nước nửa dầu" thật đó.

Nàng giống như là một con dơi, chim không ra chim mà chuột cũng chẳng ra chuột, đầu Ngô mình Sở, nàng rất khổ vì sự chèo kéo bên trong của hai bản ngã.

Huệ quyết làm kỹ sư điện chẳng qua là hờn dỗi phận mình đó thôi, chớ nàng vẫn dọn lòng để làm con gái.

Ví đây đổi phận làm trai được !.

Nữ sĩ Hồ Xuân Hương chỉ khẩu khí hão bằng câu thơ trên đây vậy thôi, chớ chắc chắn là nàng an phận làm đàn bà của nàng.

Đã không làm trai trên thực tế được thì ai lại không nỗ lực làm gái cho xứng một cô gái lý tưởng ?

Qua năm đệ ngũ, đời sống sinh lý bắt đầu thay đổi. Lần đầu tiên nàng mắc phải một tai nạn muôn thuở của đàn bà, khiến trong giây phút, nàng khủng khiếp đến cực độ, chạy đi cầu cứu với mẹ.

Má vui mừng lắm, xoa đầu con, cười hề mà rằng:

- Con tôi đã bắt đầu thành con gái lớn rồi đây. Không sao đâu mà con sợ. Đó là kinh kỳ, để má săn sóc con.

Đồng thời, nhiều biến cố xảy ra liên tiếp, Huệ nhổ giò, cao lên thình lình như những cái cây mà tay ảo thuật trồng trong một chiếc nón lật ngửa. Giọng bé Huệ bể, ca hát không thanh tao như ngày thường nữa.

Biến cố bên trong đi song hành với thay đổi bên ngoài.

Bé Huệ đâm ra buồn bã cả ngày, một nỗi buồn vô căn cứ, chớ không tinh nghịch nữa.

Nàng bâng khuâng trước lá rụng, mây trôi, như thương nhớ một cái gì xa vắng lắm.

Qua năm Đệ tứ, Huệ mắc phải chứng mất ngủ vì phải học nhiều để đi thi, mà cũng vì lẽ khác. Đó là chứng mất ngủ của tuổi dậy thì, cơ thể đang biến chuyển khó khăn để thay đổi và gây xáo trộn cho đến làm mất thăng bằng trong đó.

Huệ có những giấc mơ kỳ dị, mơ ngay trong lúc còn thức, hay trong những phút chập chờn sắp bước vào cõi cô miên.

Cái vật, không, cái người nàng mơ là một vị hoàng tử đẹp trai, hắn vừa thoáng hiện, chợt thấy mặt nàng thì thất vọng, vội trở gót mà đi. Huệ tủi thân quá, nước mắt tuôn trào.

*

Huệ thi đậu T.H.Đ.N.C. Nhưng đó không phải là một kỳ công. Kỳ công oanh liệt nhứt của anh con trai hụt nầy là một cái bằng nữ công.

Đã quyết ở vậy làm gái già, làm kỹ sư điện, nhưng Huệ vẫn nỗ lực nấu nướng vá may, một là vì khó lòng mà mất hẳn bản ngã thật của mình, khó lòng mà mất trọn hy vọng lấy chồng, mất chín mươi chín phần trăm vẫn còn được một, hai là cũng tại má nữa. Má thường mắng Huệ:

- Hứ, con gái hư ! Nấu có một nồi cơm mà khê lên khê xuống !

Má không ác, không bất công, nhưng má quên rằng má luyện Huệ làm con trai, chớ có dạy nữ công lần nào đâu.

Mỗi lần bị mắng như vậy, Huệ tức lắm, và tủi thân vô cùng, nàng nghẹn mà không khóc được. Ấy, đau xót ơi, cho đến khóc, cái đặc điểm con gái ấy, nàng cũng không khóc được. Mười mấy năm cố gắng tự nam hóa, đã làm mạch nước mắt của nàng khô rắn lại như mạch nước mắt của con trai.

Năm ấy chị Hồng đi lấy chồng từ giữa tháng hai ta, rồi chị Cúc v.v... lục đục đi theo, cứ mỗi tháng là có một anh con trai đến xỏ mũi các chị mà dẫn đi.

Ai cũng khen má có doan, gả con thật tài, gả một đứa con gái đã khó lắm rồi, mà gả rồi được bốn đứa con trong vòng non hai năm là chúa vậy.

Nhưng cái doan của ba, má thình lình đứng lại nơi đứa con gái thứ năm, cái đứa tinh nghịch, ba gai, mặt đầy sẹo và đi đứng nhanh nhẹn quá như một anh con trai ấy.

Thiên hạ đồn nhà nầy có đức, mà vào thời nguyên tử nầy, đức hiếm hoi nên được người ta tìm kiếm dữ lắm !

Vì thế con trai lui tới nhà nầy rất đông.

Ba má hình như mãi đến bây giờ mới sực nhớ ra rằng Huệ thiếu điều kiện, mà sự thiếu ấy do ba má gây ra, ba má hối hận, nhưng trễ muộn quá, nên quyết nỗ lực giúp đỡ Huệ.

Ba, má giấu mất mấy đứa em kế của Huệ, chúng nó xinh đẹp lắm ! Nhưng nếu cho lũ con trai ấy thấy mặt chúng nó thì Huệ còn hy vọng nào đâu !

Từ khi nhận được ý nghĩ thầm kín của ba má, Huệ cảm động lắm, và quên mọi căm hận mà nàng chất chứa trong lòng những khi nghĩ rằng trò chơi kỳ cục của ba má, đã làm hỏng cả đời nàng.

Huệ cảm động và mang ơn ba, má lắm vì nàng vẫn thích lấy chồng, mặc dầu không còn hy vọng nào.

Nỗi bâng khuâng của tuổi dậy thì, bấy giờ đã biến chất khác đi rồi. Bây giờ là một sự đói khát yêu đương.

Huệ thấy rằng nàng sẽ thiếu thốn ghê lắm, mặc dầu sẽ là kỹ sư điện, lương bổng tương đối cao, nàng có thể hưởng đầy đủ mọi tiện nghi vật chất.

Con trai đến, rồi ra về. Nhà nầy như là không còn con gái nữa vì lâu lắm rồi mà không cử hành lễ vu qui nào hết.

Mỗi lần một anh con trai đến rồi về không, để không bao giờ trở lại cả, Huệ buồn hiu như một chị buôn gánh bán bưng ngồi chợ trưa, đợi khách mãi mà khách chê hoa héo, ghé mắt nhìn sơ một cái rồi đi qua.

Thuyền qua rồi thuyền lại qua ! Hằng trăm chiếc mà không chiếc nào ghé bến cả.

Trong khi đó thì Huệ nỗ lực học, nàng học ban B khắc khổ của con trai, và những chương trình toán học càng làm cho nàng khô cằn thêm, sự nỗ lực càng làm cho nàng cứng rắn thêm.

Cô kỹ sư điện tương lai đọc báo ngoại quốc thấy họ nói đến nhiều trường hợp trị liệu biến cải được giống người và cô định sẽ xuất ngoại để nhờ các danh y Tây phương biến quách cô thành con trai cho xong.

Nhưng muốn đạt mục đích phải có tiền, nghĩa là phải làm cô kỹ sư điện hà tiện năm bảy năm tài chánh.

Ô hô ! chừng ấy nàng đã băm sáu băm bảy tuổi rồi, có thành con trai cũng sẽ thành con trai già, không khéo lại ế vợ nữa thì thật là ê chề.

Huệ đỗ tú tài II ban toán, ưu hạng.

Nhưng nàng không xin được vào trường Kỹ sư điện như đã dự định từ lâu.

Nàng tự nhận thấy mình cần phải hy sinh cho em út lấy chồng, tức là rời khỏi nhà nầy.

Ba má thương hại nàng cứ đưa nàng ra cho con trai xem, mà món hàng Huệ là món hàng không hấp dẫn thì Huệ là con kỳ đà ngăn trở tương lai của các em nàng.

Nhơn tòa đại sứ một cường quốc kia cho mở học bổng vào mấy trường kỹ thuật bên xứ họ, Huệ vào đơn xin và được đi học kỹ sư hóa học ở Ba Lê.

Huệ mừng được xuất ngoại thì ít mà phấn khởi vì một điều bí mật kia thì nhiều.

Bí mật ấy chỉ có nàng biết thôi, do một chị bạn đi Pháp về nói lại.

Ở Ba Lê sinh viên ta rất đông. Nhưng trong giới Việt kiều ở đó, gái thiếu mà trai thừa.

Thành thử cô gái Việt Nam xấu xí nhứt, qua bên ấy vài năm thì thế nào rồi cũng lấy chồng được.

Huệ can đảm lên đường, mặc dầu má Huệ và em Huệ khóc dữ lắm ! Đứa con gái không may nầy giờ được mẹ thương yêu nhiều lắm, để bù vào phận hẩm của nàng.

Nàng không có khóc lúc chia tay với mẹ tại phi trường Tân Sơn Nhứt. Con trai mà !

Sự hy sinh của Huệ đem lại kết quả mà nàng mong muốn ! Ba đứa em gái của nàng ở nhà, lần lượt đi lấy chồng được cả suốt thời gian đi học của nàng là ba năm.

Ở Pháp, Huệ giống như con cá gặp nước. Ở đây phụ nữ nhanh nhẹn như nam nhi, chơi thể thao và nhảy xe buýt rất tài, và đàn ông họ bất kể đến những cô gái nhiều nam tính, không xầm xì như ở nước nhà.

Huệ được cái an ủi tinh thần nầy là nàng có bạn trai rất đông, chớ không như ở Saigon.

Hình như con trai Saigon chỉ tìm bạn gái đẹp mà thôi. Con trai Pháp, mà cho cả con trai Việt du học nữa, tìm bạn gái vì tâm hồn, vì chí khí, vì sở thích chung nào ấy chớ không cứ vì sắc đẹp của họ.

Ở đây, trai gái chơi với nhau y như là họ cùng một giống với nhau, ít nghĩ đến hậu ý gì khác.

Tuy nhiên tình bạn vẫn không thay thế được tình yêu.

Huệ khao khát yêu đương một cách chánh đáng y như là bất kỳ cô gái nào khác, không có gì đáng trách cả.

Và nàng sốt ruột quá mà thấy Việt kiều yêu nhau và kết hôn với nhau gần như ngày một.

Xa gia đình, cô cậu nào cũng cần yêu cả. Xa gia đình, cô cậu nào cũng tìm yêu dễ dàng cả. Và họ kết hôn với nhau cũng dễ dàng và mau lẹ.

Sốt ruột cho Huệ nhứt là khi thấy có những cô dâu được "đóng thùng" từ nước nhà gởi qua.

Thành ngữ bóng "cô dâu được đóng thùng" chỉ những cô gái mà cha mẹ của các du học sinh chọn ở chánh quốc, cử hành hôn lễ mà không có chú rễ, rồi lấy vé máy bay, gởi tuốt cô dâu đi mấy vạn dặm để tìm chồng.

Thế mà Huệ, nàng ở sẵn bên cạnh các sinh viên Ba Lê mà vẫn không lọt được vào cặp mắt xanh của cậu nào cả.

Có một lần nàng được một sinh viên Nam Phi Châu tỏ tình. Huệ không có óc kỳ thị chủng tộc, nhưng quả anh ấy xấu quá, cái mũi tẹt như là một tay đánh võ nhà nghề vừa bị đấm trong một trận thư hùng.

Tuy nhiên, nàng cũng do dự rất lâu, nửa muốn ưng... nửa muốn không, rồi rốt cuộc từ chối hẳn.

Huệ học giỏi nhứt lớp và thi ra trường nàng đỗ đầu.

Một xưởng kỹ nghệ lớn ở Haute Savoie, được trường giới thiệu cho, mời nàng giúp việc, lương rất cao.

Nhưng Huệ từ chối và sửa soạn hồi hương. Nàng nhớ xứ, nhớ nhà cũng có, nhưng lại muốn quay về nước để tìm may mắn một lần nữa.

Nam sinh viên ở đây đông thật đó, nhưng chỉ có hạn thôi. Nước nhà còn hàng triệu thanh niên, thì may mắn có thể sẽ nhiều hơn.

Mọi hoài bão của Huệ đều được thỏa mãn.

Ba Huệ về hưu, nhưng Huệ lại tìm được việc ngay.

Nàng nuôi mẹ già và thằng em trai út. Không là cô kỹ sư điện, Huệ là nữ hóa học gia, cũng là một chuyên viên ít có dịp bị tình cảm phá quấy.

Cô nữ khoa học gia nầy luống tuổi, và sẽ làm gái già phụng dưỡng cha mẹ cho đến ngày ông bà khuất núi, y như một đứa con trai có phận sự giữ nhà thờ.

Bấy giờ chỉ có má Huệ khóc thôi. Thỉnh thoảng nghĩ đến nỗi cô đơn của đứa con gái đáng tội nghiệp mà chính ông bà đã vô tình làm hại đời nó, bà mủi lòng rơi lệ.

Rồi bà lo phục dịch Huệ như một bà vợ đảm đang phục dịch chồng.

Giờ có tiền, Huệ không nghĩ đến nhờ y học biến thành trai nữa. Hương vị của cuộc đời đã nhạt phai đối với nàng rồi thì trai hay gái nàng cũng cóc cần.

Đuốc Thiêng, 1962

 (Trích từ tập truyện ngắn Nụ Cười, Nước Mắt Học Trò)