Thứ Sáu, 28 tháng 6, 2024

THÁNG NGÀY CÒN LẠI - Vu Vơ

 

Trời hình như xuống thấp hơn. Sương mù lãng đãng trên các ngọn cây. Lâu lắm mới có một ngày như thế này ở thành phố. Làm gì để tiêu pha hết ngày hôm nay, và còn những buổi đẹp trời như thế nữa. Thật là khoảng thời gian trống rỗng đối với tôi. Đi đâu là gì tôi cũng không lấp được khoảng trống này. Đôi lúc tôi có cảm tưởng mình là cọng cỏ dại năm chơ vơ giữa cánh đồng bát ngát, tâm hồn đôi khi lạc mất tự phương nào. Dưới ánh mặt trời, tôi đáng tội nghiệp quá. Có lẽ tôi phải sống gần hơn và hòa hợp với mọi người để tìm kiếm cho mình một chút hạnh phúc nào đó. Nhưng sao tôi cảm thấy lời nói mình lạc lõng, vô nghĩa. Tôi chợt thấy khôi hài. Và tôi giận dữ với mình. Tôi có thể giả dối đến vậy sao. Tôi chợt bâng khuâng nhận ra rằng, có những khi mình chướng, không chịu ở trong sự bình yên. Con người càng phức tạp, càng đau khổ. Tôi biết chứ, những sao tôi vẫn không nguôi. Xung quanh tôi hình như tất cả mọi người đều giả dối, đóng kịch với nhau. Ôi, niềm vui của tôi đang tìm kiếm, cũng sẽ như thế kia, thì mỉa mai quá. Tôi bằng lòng nhận chịu sự cô đờn, nhưng có chút hạnh phúc, mong manh của riêng mình. Tôi nói thầm cho mình nghe, mình đối diện với chính mình. Nhưng điều tôi nghĩ  nếu mình có thể làm được thì có lẽ mọi người trên cõi đời này không ai là người nữa.

Tôi hoang mang vô tận những khi nhìn đi, nhìn lại chỉ  có tôi. Trời ơi! Tưởng tượng suốt một ngày không ai nghe tôi, không nhìn tôi, để công nhận sự hiện hữu của mình. Tôi muốn gào to, hét lên những gì đang chất chứa trong lòng...

Tôi mang cảm giác của người thích phiêu lưu, mạo hiểm nhưng sợ sệt ; tưởng tượng tận cùng việc mình đang làm phải ghê rợn lắm.

Đồng hồ gõ 8 giờ. Tôi vùng dậy nhìn bóng mình trong gương và mỉm cười đăm đăm.

Từ phòng ngoài tiếng mẹ tôi loáng thoáng xen lẫn với tiếng hát từ chiếc cassette.

- Đứa nào vào kêu chị Tâm chúng mầy dậy.

- Thôi mẹ ơi! Lúc nào chị ấy cũng đăm đăm khó chịu.

Tôi nhăn mặt. Thằng em hỗn như gấu. Trong nhà này có lẽ nó là người được mẹ tôi nuông chiều nhất. Mẹ tôi là người hay biểu lộ tình cảm quá nhiều. Điều đó để chứng tỏ tình thương của người đối với mọi người chăng? Nhiều lúc tôi cảm thấy quá ngượng ngùng trước sự săn sóc của mẹ đối với mình. Không hiểu tại sao. Có lẽ vì vậy, tôi không hay để lộ tình cảm của mình. Tôi hổ thẹn và đỏ cả mặt nếu tôi vô ý có những cử chỉ âu yếm. Mẹ tôi thường than phiền với mấy đứa em:

"Chị các con, nó làm sao ấy. Mẹ là mẹ nó còn không hiểu thì ai hiểu nổi". Mẹ ơi! Có lẽ muôn đời mẹ sẽ không hiểu con. Nhưng chỉ một người hiểu con mà thôi.

Một lần Miên khẽ thổi tóc tôi khi hai đứa đứng tán gẫu ở trên lầu một giảng đường: "Bên trong sự lạnh lùng của em là cơn giông bão". Tôi cười kiêu ngạo: "Lâu nay, mới hay anh làm thêm nghề thầy bói".

Tôi quơ vội những quyển sách nằm bừa bãi trên giường, rồi chạy  vội xuống phòng tắm làm những công tác của buổi sáng. Tôi lững lờ đi vào phòng ăn, lúc mẹ tôi, thằng con trai , đứa em gái đang ngồi ăn. Tôi kéo chiếc ghế ngồi cạnh đứa em, mẹ tôi cắt một mẩu bánh đưa cho tôi, âu yếm hỏi:

- Những hôm đã thi xong rồi, con ngủ ngon chứ?

Tôi vừa  xé bánh cho vào mồm vừa nói:

- Cám ơn mẹ con ngủ ngon...

Tôi nín ngang, vừa định xin mẹ để đi. Nhưng tôi chợt nhớ ra không biết đi đâu nhỉ? Bây giờ ăn đã, chốc nữa điểm danh kỹ mấy đứa bạn. Đứa nào được, hợp tí ti thì đến. Tôi hững hờ vừa nhai vừa lan man nghĩ chuyện không đầu, không đuôi. À! Mà sao bỗng nhiên bàn tay tôi hôm nay có vẻ lạ quá. Cũng bàn an cũng khung cảnh thế này, tôi có cảm tưởng tất cả mọi người từ đâu mới đến. Tại sao tôi phải là thế này? Mẹ tôi, em tôi nữa, họ là những ai lại phải sống chung dưới mái nhà như thế này. Tôi bỗng cười khan khi ngước lên nhìn lại mẹ và em tôi. Thằng Duy vừa nhai ngấu nghiến, vừa liếc ngang liếc dọc tờ báo, ngẩng mặt lên ngó tôi:

- Mới sáng ra có ngay nụ cười chị Tâm. Hôm nay chắc hên.

Đôi mắt tôi liếc qua đôi mắt nó, rồi dễ dãi bỏ qua. Tôi lẩm bẩm "hồi sáng tới giờ cười ba lần rồi đấy nhé". Trong nhà này ghét mấy đứa em, thì tôi không ghét, nhưng hợp ý thì chắc cũng không. Mẹ tôi đứng dậy đi ra cửa. Quỳnh lấy tay đập những đôi đũa lóc cóc trên mặt bàn, một tay che lên miệng nói khẽ với tôi "Em có cái này lạ lắm. Chị Tâm thưởng em gì?"

Tôi chống tay lên cằm, lững lờ đáp:

- Gì mà lạ dữ vậy. Nghiêng trời, lệch đất?

Nó lấy ta khẽ hé quyển tập mang theo để học bài trong lúc ăn. Một phong thư ló ra. Tôi hồi hộp, trái tim bắt đầu nhảy lung tung. Chắc là của Miên. Duy xô ghế đứng dậy nói bâng quơ "Người lịch sự cần tránh đi khi người ta có chuyện bí mật". Tôi nheo mắt rồi nở nụ cười thật tươi:

- Cám ơn nhé. Lâu lâu thấy Duy dễ thương. Nó nhún vai đi ra cửa. Quỳnh lôi trong tập ra một phong thư. Nó quơ qua, quơ lại:

- Gớm, nhớ nhau kỹ quá. Chắc đêm qua nằm mơ, sáng nay dậy sớm để đưa thư.

Tôi náo nức ghê lắm. Không biết Miên viết gì nhỉ. Hình như đã hai ba tháng rồi chúng tôi không gặp nhau. Sách vở, thi cử đã chiếm hết thì giờ của hai đứa. Miên thi chứng chỉ nên đã xong trước tôi lâu rồi. Những lần trước không cần thư gì cả, cứ giờ giảng nào chán, Miên rủ tôi đi lang thang, hay ngồi trong góc vắng của trường nói chuyện trời mưa trời nắng.

Tôi liếc ra cửa xem mẹ có vào không.

- Hồi đưa thư mẹ thấy không?

Quỳnh đặt phong thư xuống bàn khẽ ngúc ngoắc ngón tay:

- Thưởng gì đi. Mẹ không thấy, em kín lắm mà.

- Yên chí. Sẽ thưởng chầu xi nê.

- Đừng quên nhé.

Tôi cầm phong thư mân mê rồi đưa lên miệng hôn gió. Tôi xé thư rồi chợt nhớ ra điều gì:

- À hôm nay sao em nghỉ?

- Hôm nay ông thầy ấm đầu.

Phong thư mở ra nghe xào xạt. Chỉ mới liếc qua tôi hơi thất vọng. Trời ơi, mấy tháng trời chị được trả lời có vài giòng chữ. Miên đáng đem câu sấu thật. Tôi phì cười, những khi giận tôi thường bảo đem Miên câu sấu. Miên bảo tôi hỗn như gấu, nhưng là một con gấu dễ thương.

Miên hẹn đi chơi sáng nay. À! Hay quá, ngọn gió vô tình thổi đúng lúc. Phải tìm chút sinh khí cho tuổi trẻ từ hôm nay, cả những ngày kế tiếp. Tôi khô héo vì những tháng qua, sách vở thi cử hành hạ tôi. Tiếng hát của ai thoảng vào phòng tôi, len lén vào tim, vào óc. "Nhớ tới mùa thu năm nao gửi nhau phong thư ngào ngạt hương"...

Bỗng dưng tôi muốn khóc quá. Câu nói như đồng lõa những gì tôi đang nghĩ. Tôi mím môi khẽ lắc đầu. Thôi Miên ạ, những gì em đã nghĩ, nói ra cũng chẳng ích gì, không bao giờ tìm lại được một thời đã qua.

- À! Mà anh vào coi lại xem có sai không?

Miên cười nửa miệng, vẻ bất cần:

- Mắt anh còn tốt... Anh sẽ ra đi về miền cát trắng là cùng chứ gì.

Miên ngồi xuống nhìn tôi đăm đăm:

- Đùa cho vui chứ anh rớt thật rồi.

Giọng Miên xa xăm:

- Em hãy tin rằng chúng ta có mặt trên cõi đời này đều do sự an bài của Thượng Đế. Định mệnh đi theo mình như hình với bóng. Nó chi phối chúng ta từng ngày, từng giờ. Làm gì cũng có bàn tay Thượng Đế. Phải tin như vậy mới sống được em ạ. Mắt tôi đã nhòe nhoẹt. Những cảnh vật lung tung mờ ảo. Nước mắt làm hồng má, mặn môi. Từng giọt thấm vào lòng như uống luôn những gì cay đắng, xót xa phiền não. Miên nâng cằm tôi:

- Thôi nhé! Chuyện có gì đâu, mình còn thời gian để gặp nhau mà.

- Hôm nay đi chơi đâu cho hết ngày vậy.

Hai đứa đi lang thang ra cổng trường, đi dọc theo Cường Để. Tôi bâng khuâng, xao xuyến lạ lùng. Từ đây con đường lại bắt đầu mới để tôi đi. Dưới khung trời hai đứa đã vui buồn sẽ không có anh. Có lẽ tôi sẽ lẻ loi lắm.


VU VƠ          

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 96, tuần lễ từ 5-4 đến 12-4-1973)
 
 

Thứ Ba, 25 tháng 6, 2024

VỀ TỪ MỘT ĐẢO XA - Hoài Diễm Từ

 

Đó là con đường nhỏ, nằm dọc theo mé sông thuộc phần đất phía bên kia tỉnh lỵ. Cũng giống như nhiều đường khác trong tỉnh lỵ hoàn toàn không có bóng cây này, về mùa mưa đường bẩn vô cùng. Nó còn tệ hại hơn nữa, bởi không có vỉa hè dành riêng cho bộ hành. Chỉ được những khoảng bùn đất. Phía mé sông nhà sàn có gác. Trên bờ, nhà cũng có gác lợp tôn. Đa số bằng vách ván, sơn xanh. Lác đác vài cửa hàng tạp hóa, vài tiệm thuốc bắc, dăm quán cà phê bẩn thỉu lạnh lẽo.

Thường nhà nào cũng chất ở hiên những thùng to dùng đựng cá. Loại cá đồng được chở ra từ nhiều thôn ấp xa, đổ lên đây cân kéo, kỳ kèo giá cả, xếp lên xe chạy về đô thành. Bởi thế đường càng ngày càng tồi tệ do những bánh xe hàng nặng nề, lỗ mãng. Bù lại, nó có sắc thái đặc biệt riêng tư, tuy rằng vẫn liên lạc mật thiết với bờ bên này bằng những chiếc đò ngang đầy người, bằng cầu đá to, cao như một quả đồi con xinh xắn.

Bờ bên này, toàn thể bộ mặt của thành phố. Những ngôi nhà mới cất lên, tường vôi trắng toát. Mươi con đường đan vào nhau, tương đối sạch sẽ. Trụ sở hội đồng tỉnh, tòa án, trường trung học, tiểu học công lập, nhà đèn, phòng thông tin, quán nước, tiệm sách, khách sạn và ngân hàng. Bờ bên kia lạnh lẽo bao nhiêu, phía bên này đông đúc sầm uất bấy nhiêu.

Khoảng ba bốn giờ chiều, Nhiên từ bên này phố, xuống đò sang bên kia. Len lỏi khỏi số người đông đảo giữa hai bến đi đến, thêm một quãng đường ngắn đầy rác rến, xe hàng. Nhiên dừng lại trước căn nhà sơn màu xanh nước biển. Hai bên hai cửa tiệm tạp hóa. Nhà sân tráng xi măng khá rộng, cửa đóng im lìm. Do dự một lát, Nhiên đưa tay gõ nhẹ mấy tiếng rồi chờ, rồi lại gõ.

- Ai đó? - Một âm thanh khàn đục hắt ra theo khe cửa - Vào đi!

Nhiên kéo cánh cửa bước vào. Giữa tranh tối tranh sáng, trong góc nhà, một người già mặc đồ đen nằm im trên ghế bố. Thấy Nhiên bà ngồi dậy. Đó là một bà già nhỏ nhắn, lạnh lẽo, mặt tam giác xương xẩu, da thịt nhăn nheo, mắt trũng sâu. Nhiên gật đầu chào.

- Cậu tìm ai?

- Thưa bà, có cô Bắc ở nhà không ạ?

Bà lão lạnh lùng:

- Không có đứa nào ở nhà hết. Cậu là gì của con Bắc?

Nhiên bối rối:

- Thưa, cháu là bạn đồng sở của cô ấy.

- Tìm nó làm gì?

- Thưa có chút chuyện...

Chút chuyện lai rai. Nhiên nghĩ thầm. Chàng không biết bà lão là ai tuy đã đến nhiều lần. Bà lão chắc khó chịu khi nghe đến tìm Bắc. Hay tại bộ vó chàng lơ ngơ, xốc xếch như một tên ăn trộm.

- Không có đứa nào ở nhà hết.

Nói xong bà thản nhiên nằm xuống, kéo hai chân để lên thành ghế. Nhiên gật đầu chào bước ra. Không có đứa nào ở nhà hết. Lạ nhỉ. Tuy rằng Bắc có ba chị em, nhưng chàng đến tìm riêng nàng thôi. Không có Bắc mới quan trọng còn hai cô kia hay thêm bốn cô nữa không có nhà thì đáng gì. Bà lão hình như là bà ngoại Bắc bởi có lối nói chuyện giống những người khác trong gia đình. Riêng Bắc, nàng khác tất cả từ khuôn mặt đến tính tình. Đôi khi Bắc tâm sự : Em sống trong nhà nhiều lúc thấy cô đơn lạc lõng vì không giống ai, không hợp ai hết. Nhiên cười : Không giống vậy mà hay đó cô... Nhiên sờ túi định lấy thuốc mới hay thuốc hết nhẵn tự bao giờ. Chàng ghé lại sạp thuốc mua một bao và thấy khát nước. Nhưng nghĩ hãy qua bên chợ ngồi ở một quán quen may ra gặp tên bạn nào để đấu láo chăng. Nhiên trở về bằng cách leo dốc cầu để nhìn nước chảy. Vừa lên tới dốc, Nhiên thấy trước mặt chàng một bóng áo vàng nhạt, tóc ngắn. Nhiên đi nhanh theo, người con gái có mái tóc và dáng đi giống Bắc, nhưng mặt lạ, Nhiên chưa hề gặp lần nào. Lúc đó một bóng trắng trờ tới, Nhiên nhìn lên:

- Bắc!

- ...

- Anh vừa sang nhà em.

Bắc dừng lại:

- Chớ không phải theo cô áo vàng.

Nhiên phân trần:

- Hồi nào đâu.

- Mới đây.

- Ba láp. Anh thấy cô ấy tưởng là em. Định gọi lại, đến gần mới vỡ lẽ không phải em, chỉ giống nhau thôi.

Bắc cười thật tươi, Nhiên tưởng chừng thành phố vừa được trồng nhiều cây to bóng mát.

- Cô ấy đẹp đấy.

Nhiên nịnh một câu:

- Nhất định rồi, giống em thì phải đẹp.

- Lần sau nịnh tôi nhớ xin phép đấy nhé, ông tướng.

- Vâng, thưa cô.

Bắc nhăn mặt, Nhiên nghe tim mình nhói lên, chàng hồi hộp đợi rồi thở phào. Bắc nói:

- Đi anh, nắng quá.

- Đi, chứ không lẽ đứng hoài giữa cầu đợi mấy ông cảnh sát lại mấy ông ấy đuổi. Nhưng đi đâu? Về nhà em?

- Về đó nói chuyện cho mát.

- Chịu thôi. Có bà cụ khiếp quá. Bà ấy là ngoại Bắc đấy ư?

- Ngoại em đó. Sao? Anh gặp bà cụ rồi à? Gì mà khiếp?

- Bà nghe anh đến tìm em, bà muốn đuổi ra.

- Vậy đó. Mấy bà già không ưa cho lũ con trai đến nhà nói chuyện với con cháu mình dù là ai đi nữa.

- Không cho nói chuyện ở nhà vậy chớ nói ngoài bụi à?

Bắc đỏ mặt lườm Nhiên:

- Thì ngoài bụi có chết ai. Nhưng đi đâu anh?

- Đến T. ngồi nghe nhạc. Chiều em ở nhà có làm gì không?

- Nấu cơm. Nhưng không sao. Hôm nay Tuyết nghỉ giờ chót về không có em, nó sẽ nấu hộ.

- Cô ấy không về đâu.

Bắc tròn mắt nhìn chàng:

- Sao anh biết?

- Hôm nay chiều thứ bảy phải không? Ít có cô nữ sinh nào nghỉ hai giờ chót chiều thứ bảy lại về sớm.

- Ai về trước người ấy lo. Em có xin phép mẹ đi chơi buổi chiều, nói đi qua nhà con nhỏ bạn...

- Đi chưa?

- Nhưng thật ra là sang nhà anh, anh lại đi vắng, em trở về.

- Anh cũng đến nhà em tìm rồi trở về và gặp nhau.

Bắc lẩm bẩm:

- Gặp nhau.

Nhiên đi chậm lại:

- Sao em không sang ngã bến đò?

- Đi đó phải chen lấn xô đẩy, vả lại, sông sâu nước chảy xiết làm em sợ.

- Đi sóng đôi giữa phố, em không sợ người quen gặp sao?

- Không, nhớ bây giờ em là người lớn chớ đâu còn bé bỏng học trò như trước.

- Người lớn ngậm ngùi.

- Anh muốn nói vì thôi cắp sách? Không đâu, chính em quyết định trong khi có thể học hết...

- Vậy mà em học có nửa năm. Lúc trước anh cứ tưởng em chán.

- Như trong thư ấy à? Có thể, anh thử nghĩ sống ở gia đình em đã lạc lõng ghê gớm nhưng dù sao cũng không đến nỗi bơ vơ bằng đi học xa, ở trọ nhà người khác. Em cô đơn đến ngạt thở anh ạ. Tính em không thích bè bạn vẩn vơ.

Nhiên nhìn nàng tha thiết:

- Phải chi lúc đó anh về bên cạnh.

Bắc bâng khuâng:

- Biết đâu anh tính thế sẽ khá hơn. Biết đâu nhỉ, và em quyết định từ bỏ tất cả dù ba me ngăn cản, nhưng chẳng lẽ lại về nhà ăn không ngồi rồi, em phải đi làm để tiêu khiển. Giờ, em thấy em lầm.

- Chỉ có học đường là mảnh đất tốt nhất hở em? Nhưng đâu phải chỗ trú ẩn suốt đời. Rồi em cũng phải ra.

- Nhưng có ra cũng không đến đỗi chung đụng, bon chen như mọi người. Em học được mà. Em, định làm một cô dược sĩ cô độc lủi thủi.

- Còn anh?

Bắc nhìn bâng quơ:

- Anh ư, lúc đó ai biết anh ở đâu.

Nhiên biết nàng đùa, chàng nghe tiếng nàng nhẹ thoảng:

- Lầm, nhưng em không ăn năn hối tiếc.

- Đời sống mỗi người đều có những sai lầm mà. Nhiều kẻ lầm lẫn đến nát bét đời mình. Đôi khi lầm lẫn đó giúp họ làm nên một cái gì khác. Bởi con người không thể nào sống rập khuôn nhau được. Em thấy không? Đồng ý lầm lẫn thật tai hại và bi đát, nhưng phải thêm đó là một bi đát thú vị.

- Thú vị hay thi vị?

- Có lẽ cả hai.

- Chả trách anh bây giờ trôi giạt long đong.

Không khí trong quán bắt đầu dịu dần. Có thêm vài người khách đi vào. Cô bé ngồi ở quầy vẫn im lìm xem một quyển sách. Lúc đó nhạc rất nhẹ, rất loãng. Cả hai đều lắng nghe : Rằng xưa có gã từ quan, lên non tìm động hoa vàng ngủ say... Nhớ xưa em chửa theo chồng, mùa xuân thay áo áo hồng đào rơi, mùa thu áo biếc da trời, sang đông em lại đổi dời áo hoa... Chim ơi chết dưới cội hoa, tiếng kêu rụng giữa giang hà xanh xao, mai ta chết dưới cội đào, khóc ta xin nhỏ lệ vào thiên thu... Bắc đột ngột cắt ngang:

- Thật tình mai anh đi?

Nhiên ngẩn ngơ:

- Thật chứ!

- Anh không thể nán lại ngày nào hết sao? Mai chúa nhật mà.

- Không em, vé phi cơ có rồi. Lẽ ra anh phải đi sớm hơn, ở thêm ngày nào, anh càng sa lầy thêm ngày đó, em biết không?

- Tại sao?

- Tại em!

- Em? Em làm gì?

- Em làm anh nhụt chí, mất tinh thần. Em làm anh quên ngày quên tháng quên tuổi quên tên, quên tương lai sự nghiệp, xiêu hồn lạc phách bủn rủn tay chân.

Bắc vừa nghe, vừa tinh nghịch đốt một que diêm và nhìn nó cháy. Nàng cười khẽ:

- Sợ em không tài ba được như thế. Đứa con gái tài tình là đứa giữ được người yêu bên mình không cho đi đâu hết. Em không giữ được anh nên anh đi biệt mù. Em bất tài quá đỗi.

- Bổn phận anh là đi biệt để được về.

- Đời sống tư chức làm đầu óc em đần độn. Bây giờ mỗi lần viết cho anh, mỗi lần thấy khó, không còn dễ dàng như thời đi học.

- Tưởng tượng nếu sống mãi, một ngày nào đó ta sẽ thành một tên già đần độn khó thương. Chỉ nghĩ bấy nhiêu thôi anh muốn tự tử quách cho xong.

- Em cũng thế.

Ở Bắc tất cả đều có vẻ tròn trĩnh dễ thương, khiến nàng có dáng như một búp bê mũm mĩm tuyệt đẹp. Mắt nàng tròn và sáng, tay chân nhỏ nhắn tròn trịa.

Nhiên nghĩ đến những thư từ liên lạc giữa hai đứa trong thời gian qua. Những thư dài lê thê của Nhiên, những cánh thư không dấu chấm hết của Bắc mà có lần nàng đùa : Nếu đem nối lại với nhau sẽ thành con đường thư bằng từ nơi Nhiên về nơi nàng ở. Ngày mai, khi Nhiên rời khỏi nơi này, con đường thư sẽ được đắp dài thêm. Trên đường đó, thư của chàng, thư của Bắc trộn lẫn với nhau những nhớ thương bằn bặt nhập lại. Cái ý tưởng ví Bắc như chinh phụ khiến Nhiên thương nàng thêm gấp bội. Bắc không là chinh phụ sao được trong lúc nàng vò võ đợi chờ. Nhiên nhớ loáng thoáng ý tưởng này hợp với mấy câu thơ trong Chinh Phụ Ngâm mà chàng quên mất. Không biết Bắc có nghĩ thế không. Thư nàng kể lể: "... Anh biết không, chưa bao giờ em thấy cô đơn mệt mỏi như bây giờ. Sáng đi học về ăn cơm. Tối lên căn gác nóng ngồi học, người ngầy ngật, trí óc dật dờ. Ngày này sang ngày khác lập lại bao nhiêu đó. Đứa con gái cần phải có đứa bạn thân để kể lể, tâm sự. Chỉ một đứa thôi nhưng quan trọng nhất là phải có. Con bạn em bây giờ cũng xa như anh vậy. Ba má và chị em dù thương nhưng làm sao hiểu. Ba em dù thương nhưng làm sao hiểu. Ba em chỉ mong hòa bình, chỉ giỏi về tình hình chính trị. Ông nói nếu hòa bình, tụi em sẽ được theo ông về quê, lúc đó ai muốn làm gì tùy ý. Đố anh em thích làm gì? Một thửa vườn nhỏ, một con thuyền và cần câu. Quê em ở D. Tản cư em tám tuổi gì đó, lúc đi em có mang theo con mèo trắng, hơn mười năm qua, nó đã già yếu, chết mất. Ở thành phố, chỉ mình em chôn mèo thôi hở anh. Thường thì họ vất xuống sông, hoặc vất lên xe rác...

Thư hai đứa nhiều ghê gớm. Cánh thư nào của Bắc, Nhiên cũng nhớ loáng thoáng vài đoạn ngắn. Vì không có bạn thân nên Bắc tâm sự với Nhiên không chừa điều gì, kể cả những chuyện vặt hàng ngày. Nhiều lúc Nhiên muốn bay về với nàng ngay nhưng phương tiện di chuyển rất khó khăn.

Gần một năm, Nhiên được duy nhất lần phép này. Hạnh phúc làm đi nhanh thời gian. Ngày mai chàng phải về đó rồi. Nhiên bấm đốt tay thấy thời gian phục vụ còn không lâu lắm. Nhưng chàng không nói cho Bắc biết đâu. Chàng sẽ dành cho Bắc một bất ngờ thú vị.

Thực ra khó tin Nhiên có can đảm trở về nơi chàng đang sống. Một vùng rừng núi điệp trùng cây, đan rừng cây. Diện tích núi non bao la chỉ có hai xóm nhỏ. Một xòm ở giữa. Một xóm ở phần đất chót. Cả hai gồm khoảng vài trăm ngôi nhà cất dọc ven biển. Một trường trung học duy nhất với dăm ba phòng. Đa số dân chúng sống bằng nghề đánh cá, làm nước mắm. Khi bọn Nhiên đến, những quán nước, quán ăn, những chỗ giải trí từ từ mọc lên. Ban đầu, Nhiên thấy vô cùng ngạt thở, chợ nhỏ chỉ bán giấy viết thư hoặc bao thư, hay những tờ tuần báo phụ nữ rẻ tiền. Không có tiệm bán sách, chỉ có chỗ cho mướn sách. Những quyển sách tanh tưởi lợm giọng. Giải trí mãi bằng bi da, nghe nhạc thời trang, Nhiên không giải trí nổi. Đi rừng, đi biển, trèo núi mãi cũng chán. Bắt buộc Nhiên phải chọn môn tiêu khiển duy nhất là viết thư và đợi. Đầu tiên là những sách báo Bắc mua dùm, kế đến những thư dài, những vui buồn, phiền bực trao đổi. Nếu thời gian không làm vơi bớt, thời gian chất nặng thêm.

Từ đó, gió cát cứa da, mưa lũ xé thịt không còn ý nghĩa gì với Nhiên. Những lần nằm dài trên bãi chiều, những đêm im trong rừng sâu, hồn Nhiên dạt dào, xào xạc hình bóng Bắc. Mấy tờ thư Nhiên mang ra đọc đi đọc lại thay thế cho món sách báo khan hiếm đã như một linh dược chữa Nhiên thoát khỏi đủ thứ bệnh. Kể cả căn bệnh nan y khoét mòn trí não, đục ruỗng tâm hồn...

- Nhiên ơi, anh đang nghĩ gì? Mắt anh trôi về một cõi xa nào làm em không an lòng rồi đó.

Tiếng Bắc lao đao nổi lên kéo Nhiên về đối diện. Chàng cười rạng rỡ.

- Anh nghĩ đến tương lai Bắc ạ. Điều mà khá lâu anh cố trốn lánh bây giờ anh đã có đủ can đảm nghĩ đến. Đố em tại sao?

- Em chịu thôi.

- Bởi bây giờ anh đã có em.

Bắc trông lên, Nhiên thấy có bóng chàng trong đôi mắt sáng:

- Em biết, nhưng anh nhìn kìa.

Nhiên bàng hoàng nhìn ra, trời đang tắt nắng, chỉ còn sót vài vệt vàng trên tường vôi cao.

- Ta đi em nhé!

Bắc ra trước đợi Nhiên ở cửa. Hai người đứng bên nhau nhìn qua hàng phố đối diện. Tiếng Bắc mờ mịt và man mác như đêm tối sắp dâng.

- Em thấy đói Nhiên ạ, mau kiếm cái gì ăn rồi đi suốt đêm nay. Anh có thích không?

Nhiên không trả lời, chàng nhẹ nắm tay Bắc băng qua đường, cùng lúc với tiếng nhạc trong quán vẳng ra, vô tình lập lại : Rằng xưa có gã từ quan, lên non tìm động hoa vàng ngủ say (*).


HOÀI DIỄM TỪ     

_______________ 
(*) Thơ Phạm Thiên Thư.

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 67, tuần lễ từ 7-9 đến 14-9-1972)
 

 
 

Thứ Bảy, 22 tháng 6, 2024

BÓNG MA TRƯỜNG ÁO TÍM - Bình Nguyên Lộc

 

Thái ngóc đầu lên để vói rút khăn lông trên đầu giường đặng che mặt mà ngủ, vì đèn chong nóng quá.

Rút khăn xong, anh thả rơi đầu xuống thì nghe một cái cộp, rồi lại nghe anh ta la : "Ui cha!"

Ở mấy chiếc giường hai bên, người ta rúc rích cười. Anh đã bị bạn kế giường rắn mắt ăn cắp gối lúc anh ngóc đầu lên. Tên ăn cắp là Ngư. Ngư hô :

- Nè chụp nè ! Rồi liệng gối Thái theo đường vòng cầu. Gối bay ngang mình Thái rồi rơi qua giường bên kia. Nguyên đưa tay sẵn để hứng lấy rồi dồi gối qua cho Thoại bên cạnh, y như người ta chơi bóng rổ.

Gối chuyền tay mà bay từ giường này đến giường khác, Thái rượt theo mãi mà không kịp. Rốt cuộc anh đành trở về giường, cuốn mền lại kê đầu mà nằm.

Những người chơi cái trò trẻ con trên đây toàn là người lớn cả, trên dưới bốn mươi tuổi đầu.

Đó là những thầy giáo ở tỉnh, nhân dịp bãi trường về Sàigòn theo học các lớp tu nghiệp tại trường Gia Long.

Tất cả, ngày xưa đều là lưu trú học sinh ở một trường trung học nào đó ở miền Nam.

Cuộc sống chung trong mùa tu nghiệp năm nay bỗng dưng gây lại cái không khí mười mấy năm về trước với những dãy giường sắt ngay hàng thẳng lối, với trống điểm giờ ăn, giờ tắm, giờ nằm, với bóng đèn chong màu xanh xanh tỏa ánh sáng trăng nhơn tạo xuống những chiếc mùng rung rinh mà trong đó các cậu thiếu niên mơ những mộng đẹp ngoài đời.

Ôi, cái đời lưu trú năm xưa, xa lắm rồi mà nghe sao như là mới hôm qua này thôi !

Ôi, những cái đầu, tóc còn đường rẽ, ôi những chiếc tủ đầu giường thơm mùi thuốc rệp mà trong đó bao thiếu niên mơ mộng đã xếp kỹ những bức thư xanh, những bức thư tím, những bức thư hồng, cũng như họ đã ủ kín trong lòng non dại của họ niềm yêu bâng quơ tác giả các bức thư kia.

Ôi,những gói bánh tổ bột gạo, đường hạ Biên hòa mà các cậu thiếu niên gặm mòn trong đêm tối như chuột gặm khoai, ôi những kỷ niệm xa xưa, nay đã đâu rồi !

Ngày đầu vào trường Gia Long, ai nấy lòng cũng quặn thắt đau, nghẹn ngào xúc động mà nhìn những dãy nhà giống hệt những dãy nhà của trường Petrus Ký, trường Sở Cọp, trường Cần Thơ, trường Mỹ Tho mà trong đó đã nghỉ yên quá khứ của họ.

Làm sao không ngậm ngùi được vì đó là nơi mà một khi kia trong đời họ, họ đã hoài thai nhiều mộng vĩ đại, đã mơ những giấc mơ tiên.

Nhưng rồi sự học tập và cuộc sống tập thể lôi cuốn họ vào một nhịp khắc khổ hơn nên họ tạm dẹp tình cảm lại.

Nhưng họ vẫn cảm nghe họ trẻ lại đi mười mấy năm, ham nô đùa với nhau như lũ lưu trú học sinh ngày trước

Các thầy giáo hôm nay cũng rắn mắt y hệt như cái bản sao của họ hồi tiền chiến.

Khi chiếc gối bay đến giường cuối dãy thì anh Trung chụp rồi dộng vào cửa buồng một cái rầm nghe như vợ chồng ai đang đánh lộn với nhau.

- Mấy thằng dịch già này, không cho tao ngủ hở bây ?

Đó là lời mắng rất hiền của một ông cụ bốn lăm. Mới bốn lăm mà ông ta ra vẻ cụ lắm.

- Thôi ngủ bây ơi, kẻo cụ giận không gả con cho thì chết đến sáu bảy cửa lận : cửa trước không ai đóng, cửa sau không ai gài, cửa túi rách không ai vá, cửa tủ tiền chạy ra không ai ngăn, cửa miệng không ai tiếp tế lương thực nè...

Cả bọn cười xòa, và anh Hạc hát giọng tuồng :

- Nhạc gia ơi ! Xin đó mựa đừng vội giận, đây nguyền nuốt hận làm im cho nhạc gia ngủ đó a nhạc gia !

- Thùng ! - anh Trinh đánh trống miệng một cái nghe ngọt xớt

- Thôi phát nầy ngủ thật đa ! - Dung nói.

- Khoan, để mổ ra câu đối, đứa nào đối được, sáng mổ bao ăn kem. Ráng nghe các cha :

- Ngủ giả mà nói ngủ thật, là giả ngủ

- Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh đối vậy.

- Im !

- Đèn chong sáng quá làm sao ngủ.

- Trong Petrus Ký đó nghen tụi bây, hồi đó nó không chong đèn bóng xanh như ở đây, vì bóng xanh sáng lắm, học trò lén thức học, bỏ ngủ rồi bịnh cả đám. Biết nó làm sao hôn ? Nó chong bằng bóng trắng mà ngoài sơn dầu sơn xanh. Như vậy ánh sáng tối hù, đứa nào ham học thì bơ.

Có một bận đó nghen, tụi nó đòng đòng lên ba đứa như làm trò xiệc ấy, để lấy dao cạo dầu sơn. Quên nói là trường Petrus Ký khôn lắm, nó rút bóng đèn lên sát tận trên trần để mình phá không được.

Đang cạo sột sột bỗng đâu thầy Su-quây-dăng mở cửa kiếng kêu cái bực mà bước ra, vì tụi ngoài này làm ồn như giặc, thầy ta chịu không thấu đời quyết ra chụp vài cậu phạt cho hả giận.

Đám hát xiệc nghe nguy hoảng hốt, anh kép ở dưới quăng anh kép đứng giữa, anh kép giữa quăng anh kép trên. Anh nầy, tao nhớ tên là anh Gừng. Anh ta té cái rầm, năm bất tỉnh nhơn sự, con dao đâm lủng tai trái anh ta, máu ra linh láng.

Thầy Su vừa bước ra, thấy vậy ngỡ anh ta chết, sợ chịu nhơn mạng, vội thối trở vô. Vừa lúc ấy thì mùng cháy rần rần vì anh Ký thắp đèn cầy mà học, học mê không hay gì cả, đến chừng nghe cái rầm anh ta giật mình hươi tay đụng đèn ngã vào mùng mà gây hỏa hoạn.

- Rồi sao nữa ?

- Rồi áp nhau mà la mã tà chớ sao. Có thằng hô to " Hỏa thiêu Hồng Liên Tự rồi bây ơi ! "

Đêm ấy, nhà ngủ tụi tao rầm rầm như đám giựt giàn cúng làm chay.

- Rồi anh Gừng có sao không ?

- Sau đó, anh ta hóa thành thi sĩ.

- Lạ không ?

- Anh ta làm thơ như vầy :

Cạo đèn bây học, lại quăng tao,

Nghĩ giận tụi bây, máu muốn trào

Hát xiệc không lương, xương lại gãy,

Thầy Su hoảng sợ, thích biết bao !

Chưa chết mà bây châm lửa đốt,

Tao chẳng dân Miên, hỏa táng tao !

Từ rày nhắn với quân ham học,

Vùi đầu vào sách sẽ ho lao.


- Toàn vần ao không mà thôi.

- Phải, đó là anh ta cố ý, vì anh ta nói anh ta đã bị nóc ao mà !

- Thôi bỏ mùng xuống ngủ các cha !

- Tụi bây ơi, mùng của mình vén coi có vẻ thất trận lắm ! Tụi áo tím hồi đó tao đi ngoài đường thấy chúng nó vén mùng khéo mà bắt thèm. Chúng nó may mùng trùm phủ ngoài trụ, rồi muốn vén, vo tròn lại từ lai trôn vo lên, như con gái thợ cấy xăn ống quần. Thật là tay con gái có khác.

- Các cô con gái áo tím dễ yêu hồi đó bây giờ đã hóa ra bà già rồi bây ơi, trời hỡi nè, đời người sao mà thấm thoát, cô áo tím của tôi đã năm con bảy cháu rồi nè trời !

- Hu... hu...!

- Thùng !

- Các anh ơi, sao mà nằm trên giường nầy, tôi nghe như hương thừa của ai còn phảng phất đâu đây...

- Giường cũ biết còn hay không ?

- Sao lại không. Trường Gia Long là cái trường độc nhứt không bị quân đội Nhật và Pháp sung công thì cái gì cũng còn nguyên vẹn cả, trừ người xưa. Kìa cái cây dé ngựa ngoài sân, ngày xưa, cô áo tím của tôi chiều chiều đã dựa vào đó mà làm thơ.

Cây cối bây giờ đã thành đoàn cổ thụ già, đang chờ người đi mất tự ngàn xưa... Ngày nào tròn trăng lại nhớ...

- Có ai xuôi vạn lý, nhắn đôi câu...

- Thùng !

- Tân cổ nhạc hằm bà lằng, mại dô !

- Quỉ dịch, có để người ta ngủ hay không nè ?

Bấy giờ chắc cũng đã khuya rồi, nên phần đông mòn mỏi và lời mắng cuối cùng đã bịt miệng họ được.

Tuy nhiên, những người chưa ngủ vẫn lăn qua trở lại hoài. Nhớ vợ, nhớ con ở tỉnh nhà, hay nhớ một mối chinh phục mới ? Ừ, một dịp đi Sàigòn y như là ngày kép núi hạ san và rất có thể gặp đào giữa truông mây.

Thầy giáo Lâu ngồi dậy định bước ra cửa sổ dòm sao. Thầy giáo Niệm cận giường còn thao thức, thầy kéo bạn dậy và nói nho nhỏ :

- Chưa ngủ à ? Ra đây hứng mát. Trời, tháng bảy mà sao nóng nực quá ?

Giáo Niệm là tay làm ồn nhứt trường từ hổm nay, không ai chịu nổi thầy ta cả. Mỗi đêm thầy ta đều rủ các bạn tái diễn cái trò kêu rệp ngày xưa nghe muốn bể con rái.

Thầy gác, tiếng Pháp kêu là Su-quây-dăng, nhưng hồi xưa học sinh lại kêu lầm họ là rê-pê-ti-tơ và kêu tắc là Rệp.

Đêm đêm hễ thầy gác đi rình là họ kêu than có rệp :

- Rệp mắc dịch ! Bò hoài sáng đêm !

Rồi họ đập giường rầm rầm.

Giáo Niệm nô đùa dữ quá, cười muốn bể cửa kiếng nhưng ai tinh ý thì thấy trong cái quá lố ấy có ẩn hiện một hơi hướng đau thương, như là sầu quá hóa điên, cười ra nước mắt.

Nhứt là từ lúc các bạn nhắc đến các cô áo tím cho vui thì thấy thầy ta ngậm câm, không tham gia buổi tối vui nữa.

Tiểu tiết ấy không thoát khỏi mắt quan sát của người bạn thân giữa đường của giáo Niệm là giáo Lâu.

Còn một điều lạ lùng nầy nữa là từ Phong Dinh ( Cần Thơ) lên để theo học lớp tu nghiệp Anh văn mà giáo Niệm không thèm học hành gì cả. Theo chỗ dọ biết thì ngày xưa thầy rất khá Ăng lê, mà đã quên hết rồi.

- Thì nay học lại, chớ khó khăn gì đâu.

- Nhưng thầy ta như cóc cần học. Mỗi lần bà giáo người Mỹ gọi đến thầy là thầy cứ trả lời độc một câu mà thầy còn nhớ :

- I can't speak English (1)

" Tâm sự gì ? " Lâu tự hỏi thầm và ái ngại cho người bạn mới mà thầy rất mến.

Một người từ Bình Dương xuống, một người từ Phong Dinh lên, chơn trời góc biển gặp nhau, lại mến nhau như bạn thâm giao đâu từ thuở ấu thời.

Đôi bạn thót lên ngồi trên đầu tủ com-mốt, rồi Lâu chỉ vòm trời đen lóng lánh sao mà hỏi bạn :

- Giống cái gì ?

- Giống sao vàng rải trên hòm sơn đen.

- Ghê quá ! Sao anh lại nghĩ đến cách so sánh tang tóc như vậy ?

- Có lẽ vì liên tưởng.

- Đến cái gì ?

Giáo Lâu đặt tay lên vai bạn không nói gì, nhưng cử chỉ ấy hùng biện biết bao ! Đôi bạn thông cảm nhau một niềm thương mến sẵn sàng trao đổi nhau nghe tất cả cái gì ray rứt trong lòng họ.

Giáo Niệm cúi xuống nhìn sân trường tối om, xa xa một vừng ánh đèn vườn làm nổi bật lên cây lá trong một khoảng nhỏ...

- Trong cái im lặng bao phủ cảnh trường nầy, tôi bồi hồi tưởng nhớ năm xưa....

- Ngỡ gì, ai lại không như thế. À, hồi đó anh học trường nào ?

- Petrus Ký.

- Còn tôi thì học Sở Cọp. Trường của mình nên thơ hơn trường này phải không anh. Thuở ấy, đêm tôi dòm ra sở thú, lắng nghe tiếng thủ thỉ của dân rừng bị nhốt...

- Còn tôi thì đêm đêm dòm ra thành Ngã Bảy lúc đó còn là một cánh đồng ma, để xem đèn ma và nghe mấy chị bột khoai kêu mả tà. Ấy,quanh trường hoang vắng nên tối nào cũng có cướp cạn.

- Còn ở đây lâu đài, dinh thự nhiều quá, không đẹp gì hết.

- Tôi, tôi lại nghĩ khác. Tôi thấy ở đây rất nên thơ vì có lẽ trường này dính líu đến tôi nhiều.

Giáo Lâu đã thành công nhờ khôn khéo. Thầy ta biết nếu tra hỏi thì chắc bạn không chịu khai. Còn gợi chuyện thì tự nhiên việc nầy đưa đến việc khác, và đầu dây mối nhợ sẽ được tháo tung ra.

Giáo Niệm đột ngột hỏi :

- Anh có biết là tôi chưa vợ hay không ?

- Không, trời ơi, đã bốn mươi hai rồi mà...

- ... Mà còn cô độc, ừ. Tôi đi lên đây, mục đích chánh là đi hành hương. Hễ có dịp vào trường Gia Long là tôi vào, không biết để chi, nhưng không thể đừng được.

Trường nầy không phải cảnh cũ, nhưng có lẽ nó gợi nhớ nên tôi thích. Hễ nhớ là đau, nhưng lại cứ muốn nhớ, nhớ hoài để nghe như nó còn mới hoài, mới như vừa xảy ra hôm qua đây.

Năm ấy tôi học năm thứ hai. Một hôm Chúa nhựt ra chơi nhà người chịu trách nhiệm về tôi đối với nhà trường, tôi gặp Oanh, trường áo tím, cháu của nhà nầy mà tôi không dè.

Tôi còn nhát gái lắm, nên bẽn lẽn một lúc rồi bỏ đi luôn.

Tối lại về trường tôi mới thấy là tôi ngu quá. Bạn hữu trong trường đứa nào cũng có bạn gái ở ngoài cả chỉ trừ tôi thôi. Nhà quê không biết làm quen với ai, nay gặp dịp tốt lại trốn mất thì có ngốc quá hay không ?

Nhưng bây giờ mà có bạo gan tuần sau ra đó để gặp cô ấy chắc cũng sẽ ú ớ, không biết nói gì

Cô bé đẹp quá ! Áo tím làm nổi bật nước da trắng nõn của cô và cái e lệ của cô sao làm tôi điếng người đi.

Bí quá, tôi lén bạn hữu kéo anh Lưu ra góc sân và hỏi :

- Anh Chín nè, làm sao anh quen với bạn gái ?

Lưu là một học sinh rất đẹp trai. Anh ấy lại biết làm thơ nữa. Anh có một tập thơ nhan đề là " Anh Chín thi tập ", trong đó anh sưu tầm thơ của anh và của nhiều bạn gái của anh. Anh Chín là biệt hiệu cà rỡn mà bạn hữu gán cho anh và anh vui vẻ nhận lấy.

- Cái đó tùy anh, Lưu đáp. Với mỗi người, phải mỗi cách. Cô ấy thế nào ?

Tôi kể chuyện gặp gỡ cho anh nghe. Anh trề môi mà rằng :

- Anh thật là thằng chúa ngục, anh trốn như vậy nó khinh anh rồi thì còn mong gì.

Tôi khổ sở quá, và luôn hai ba Chúa nhựt không dám ra đó nữa.

Tuần ấy tôi xáng bịnh: sốt rét rừng. Nhà thương cứu cấp ở trường gởi tôi vào nằm điều trị trong Chợ Rẫy.

Thuở ấy công chức và học sinh đi Chợ Rẫy đều nằm chung một trại, gọi là " Nhà giàu !".

Tôi được tiêm thuốc hai hôm là hết sốt. Nhưng lệ nhà thương, sốt rét rừng cho nằm mười lăm hôm.

Hôm thứ ba tôi ra ngoài sân, lại gốc me ngồi chơi thì lạ quá, trên băng đá dưới gốc me ấy, cô áo tím đang ngồi đan nón.

Tôi hoảng vía toan thối lui để chạy vào trại thì cô ta thấy tôi, mỉm cười chào tôi một cái. Tôi quýnh lên, đỏ cả hai tai rồi ú ớ như thằng câm.

Để cứu tôi, cô hỏi :

- Anh vào nằm đây bao lâu rồi ?

- Dạ ơ... hơ... mười lăm.

Sợ quá, đến số ngày cũng nói bậy.

- Em thì mới có ba ngày. Anh bịnh làm sao và nằm phòng số mấy ?

Bấy giờ tôi đã hoàn hồn, bước lại gần băng mà đáp :

- Tôi nằm số bảy, trên lầu. Cô bịnh làm sao và nằm ở đâu ?

Thì ra cả hai đều sốt rét. Cô ấy nằm số 25 dưới đất. Hỏi phăng tới thì biết cô cũng học năm thứ hai, ban sư phạm, và tên là Oanh.

Oanh nói :

- Mấy tuần nay, em có ra luôn. Cậu em ngạc nhiên lắm mà thấy anh không tới. Cậu em nói anh học giỏi lắm, không lẽ lại bị phạt ở lại ngày Chúa nhựt.

Không, không bao giờ cậu Oanh và Oanh biết lý do vì sao tôi không ra cả.

Nhà thương Chợ Rẫy lúc ấy là nơi gặp gỡ của lưu trú học sinh các trường trung học ở Sàigòn. Vài mươi hôm hết hạn, rồi lắm khi thân đến suốt đời. Kỷ niệm chung cũng nhiều lắm.

Oanh và tôi, cố nhiên, cũng trở thành đôi bạn. Đêm nào chúng tôi cũng ra hàng rào sắt đón chú giò chó quảy mua vài chiếc để ăn với sữa đặc nhà thương phát cho.

Cái thú ăn giò chó quảy to bằng cườm chân ở cửa Chợ Rẫy, không anh học sinh tiền chiến nào quên được cả.

Với lại cái thú kéo nhau xuống nhà xác, rồi hù một tiếng, mạnh đứa nào đứa nấy chạy, chạy đến vắt giò lên cổ.

Một bận Oanh chạy như vậy rồi vấp té, nhờ tôi đỡ kịp. Không hiểu sao kể từ phút đó chúng tôi không còn thẳng thắn với nhau được nữa.

Ra nhà thương, tuần nào chúng tôi cũng gặp nhau ở nhà người chịu trách nhiệm.

Ở đó, câu chuyện giữa chúng tôi là câu chuyện học hành, là chương trình đại số, là phản động hóa học, là định lý hình học, chớ không còn là câu chuyện trăng, sao thú vị ở nhà thương.

Vì vậy, tôi cố tìm cách gặp Oanh nơi khác, đổi không khí để tìm lại những ngày thần tiên khác.

Và chúng tôi đã tìm được.

Không nói chắc anh hiểu ngay là chúng tôi yêu nhau. Phải, nhưng con người của chúng tôi đứng đắn lắm, nên chỉ yêu nhau suông vậy thôi, chớ không có gì tội lỗi hết.

Nhà cũng biết thế, nhưng tin chúng tôi lắm, nên cũng chẳng rầy la gì, mặc dầu nhiều chúa nhựt, chúng tôi rủ nhau đi tuốt, bỏ cơm trưa. Tối lại vào trường mới ăn.

Tôi hẹn với Oanh ra trường sẽ xin làm thầy giáo để cùng nghề với vợ tôi cho tiện lúc đổi đi nơi nầy nơi khác.

Và tôi đã giữ lời hứa. Nhưng vì chưa cưới nhau nên Oanh được bổ đi Sóc Trăng, còn tôi thì Bà Rịa.

Tuy cách trở, mà thơ từ qua lại luôn. Oanh bị tang bà nội, nên chúng tôi chưa thành hôn với nhau được.

Cứ mỗi ba tháng là tôi xin phép nghỉ, đi xuống thăm Oanh một ngày ! Oanh vẫn yêu tôi như thường, có lẽ yêu hơn trước vì hễ tình yêu chưa toại thì nó cứ càng ngày càng tăng.

Cả hai chúng tôi đều nóng lòng đợi mãn khó tang bà và cùng dự liệu nhiều việc về tương lai.

Như vậy được một năm. Còn có bốn tháng nữa là hết tang. Tôi nao nức lắm và vừa định xuống thăm bạn lần chót để thỏa thuận nhau về chi tiết đám cưới, thì bỗng được thư Oanh.

Oanh bảo tôi đừng xuống nữa, giọng nhứt quyết lắm và hăm sẽ giận tôi luôn nếu tôi cãi lời Oanh. Oanh lại cho biết rằng đám cưới phải đình lại không biết đến bao giờ.

Đọc xong thư, tôi đâm nghi. Tại sao nàng lại cấm tôi xuống, và đòi đình hôn lễ ? Có phải nàng đã yêu kẻ khác hay không ? Tôi ghen tức lên, rồi tôi đau xót không thể tả được.

Vài hôm sau, tôi định cứ đi đại xuống đó, xem cho biết sự thật. Thà là phải bật ngửa ra mà thấy mình bị phụ tình, còn hơn là ngồi nhà mà xốn xang, mà nghi hoặc.

Nhưng tôi lại không đi, vì tôi hờn Oanh. Thôi, người ta không thương mình nữa thì thôi, đeo đuổi theo làm gì, Con người bạc nghĩa ấy còn xứng đáng sao được mối tình chung thủy của mình !

Thế rồi tôi nín đi hai tháng. Tôi ốm xanh xao, và bỏ công việc đến nỗi bị ông Thanh tra hàng tỉnh phê bình cảnh cáo mấy lần.

Không chịu được nữa, tôi gởi thư, gửi liên tiếp mỗi ngày một bức, hăm tự tử, dọa xuống thăm nàng,đủ thứ việc.

Nàng trả lời cũng liên tiếp và nói nếu tôi xuống là nàng sẽ chết mất.

Rồi đùng một cái, đến tháng tư là tháng xả tang, Oanh gởi cho tôi một bức thư vĩnh biệt. Tôi còn thuộc lòng bức thư ấy.

Anh Niệm ơi !

Em đã chết rồi. Kể từ giờ phút anh được bức thư nầy thì em không còn ở trên đời nầy nữa. Hay là em còn, mà không bao giờ anh thấy mặt em được cả.

Anh ơi, em ích kỷ lắm, rất muốn làm vợ anh cho dẫu một ngày thôi, để thỏa tình em yêu anh từ bao lâu nay.

Nhưng mà suy cho cùng, nghĩ cho tận, hưởng thụ ấy không ích lợi gì cho em cả, mà hại cho anh không biết bao nhiêu.

Vậy anh cứ xem là em đã chết rồi. Dầu anh có lục lạo thế nào cũng chẳng tìm được em đâu. Mà tìm làm chi, nếu anh muốn mối tình đôi ta cứ còn chớm nở mãi mà không tàn rụng bao giờ.

Nghĩ ra thì thái độ của em cũng do ích kỷ xui giục mà có. Tránh ích kỷ kia lại phạm ích kỷ nầy. Đừng tìm hiểu, không bao giờ anh hiểu được đâu.

Em đã khóc ra không biết bao nhiêu là nước mắt khi quyết định điều trên. Anh có lường được niềm đau xót của em không ?

Nhưng em là gái mà em đã can đảm được, thì anh cũng nên theo gương em. Đừng sầu muộn gì hết, cố mà quên đi rồi lập gia thất. Trong đời chắc không thiếu chi người đáng yêu hơn em, anh đừng có lãng mạn lắm mà thiệt thân.

Anh ơi, em chết đây ! 

Trời ơi ! Tôi đau nhói như ai cắt ruột tôi !

Dưới thư không có lời chào nào, cũng không ký tên, dường như Oanh không còn can đảm viết thêm chữ nào nữa hết.

Tôi chết sững nửa tiếng đồng hồ, rồi đánh điện ngay cho ông Hiệu trưởng trường Sóc Trăng, vì đã bỏ bê công việc lại xin phép mãi, e bị quở nếu xin nghỉ nữa.

Điện tín, tôi viết như vầy :

Trân trọng yêu cầu cho biết sức khỏe của Oanh.

Ông ấy đáp :

Oanh thôi việc. Đi không để lại địa chỉ.

Hừ, thế nầy là làm sao ? Thoạt tiên, tôi đoán là Oanh đã lỡ dại với ai, có nghén nên sợ xấu và sợ tội (trong giáo giới người ta nghiêm khắc về hạnh kiểm của giáo viên lắm) nên trốn đi. Lại ân hận nên viết thư cho tôi thế.

Nhưng xem kỹ lại lời thư thì không phải vậy.

Hay là ? Tôi nhớ có đọc một tiểu thuyết trong đó tác giả kể chuyện một cô kia ho lao, rồi trốn tình nhơn để chết.

Nhưng cũng không phải. Oanh có học, dư biết bịnh lao không hoàn toàn tuyệt vọng (2), thì dại gì nàng phải làm như vậy.

Mà nàng tự tử hay trốn đi đâu ? Đó là điều tôi cần biết, nên đánh liều làm mặt lì, tôi xin nghỉ phép nữa.

Oanh người Thủ Thừa. Cha mẹ nàng vẫn ở đó. Tôi vừa vào tới sân thì bà cụ đã khóc rền nhà.

- Con ơi, vợ con nó đã chết rồi ! Ơ... Ơ... trời ơi là trời, con tôi chết.

Chúng tôi không có làm đám hỏi, nên chưa kêu cha mẹ Oanh là ba má. Thế mà nay bà cụ lại ăn nói như vậy thì tôi hiểu ngay là Oanh không có tội lỗi gì đối với tôi cả.

Tôi chỉ ngậm câm, khóc không được mà nói cũng chẳng ra lời.

Ông cụ chạy ra xách valy cho tôi và kéo tôi vô nhà. Bà cụ khóc kể một hơi rồi hối trẻ bắt vịt làm thịt đãi tôi. Đàn bà Việt Nam bao giờ cũng vậy. Đau đớn làm sao, họ cũng dẹp lại để lo ăn cho chồng con, cho khách khứa.

Đàn ông chúng tôi không khóc, nhưng im lặng còn đau thương hơn những kể lể của đàn bà không biết bao nhiêu.

Ông cụ cứ làm thinh mà săn sóc tôi, coi như con rể cũ mới về và nó đang sầu, cần thương yêu nó để an ủi nó.

Khi bà ra sau chỉ huy bữa nấu ăn, ông cụ mới mở miệng :

- Nó về đây, cất một cái chòi nhỏ trong ruộng, thật xa. Nó căn dặn tôi với mẹ nó hễ.... con đến - ông cụ ngập ngừng trước tiếng "con ", ngại thốt nó ra, nhưng rốt cuộc vẫn dùng tiếng ấy - hễ con đến thì nên giấu biệt chỗ trú ẩn của nó. Ngỡ như vậy là xong, nào dè mấy hôm sau thì nó uống thuốc ngủ để quyên sinh.

Bấy giờ tôi mới khóc được. Đàn ông khóc chắc là trông xấu lắm ! Nhưng tôi bất kể, cứ khóc mùi mẩn như không có ông cụ ở đó.

Khóc cạn lệ tôi mới hỏi xin ông cụ cho biết vì sao em Oanh tôi lại như vậy.

- Con yêu nó quá rồi hoa mắt, hay nhờ nó che giấu khéo thì không rõ. Thật ra nó đã mang bịnh từ một năm rồi, Nó nổi đơn...

- Trời ! - Tôi kêu thầm.

- Trong gia đình, bên nội và bên ngoại nó, ba đời liền, không thấy ai có bịnh đó. Xem sách thì thấy nói bịnh cùi có thể lặn trốn hai ba thế hệ liền rồi mới xuất hiện trở lại.

Tội nghiệp nó quá, căn bịnh bất nhơn lại trồi lên vào thế hệ của nó Hay nó bị truyền nhiễm do người ngoài không biết chừng, vì không nghe nói ông bà hồi trước có ai bị phong đơn.

Nó hoảng sợ hết sức lúc buổi đầu, uống lu bù thứ thuốc mà đơn cứ nổi lên : da sần sần, trái tay dầy ra. Chắc là nó đánh phấn khéo nên con không thấy.

Về sau, nó tuyệt vọng lắm, và có ý muốn quyên sinh. Cái ngày mà nó viết thư dặn con đừng xuống là ngày đơn nổi dữ sau một bữa ăn cua đinh.

Bạn hữu khuyên nó theo thuốc Tây, trị bằng thuốc xanh trộn vời dầu chùm bao. Lối điều trị ấy có hiệu nghiệm thật. Các dề đơn lỳ mặt xuống, nhưng khốn thay, da mặt nó lại xanh lè như đã nhúng chàm,đánh phấn thế nào cũng chẳng lấp được cả.

Sở giáo huấn cũng chưa nói gì, ông Thanh tra chỉ khuyên sơ sơ nó nên nghĩ dài hạn mà điều trị. Nó còn đang trù tính thì đơn lại nổi trở lên, lần này tao loạn lạ kỳ, bất chấp thuốc men, và nổi cao như phỏng lửa.

Thế là nó xin thôi, viết thư vĩnh biệt con, rồi lùi về đây.

Mấy ngày ở trong chòi cô quạnh, chắc nó khổ sở lắm về viễn ảnh tương lai của nó, nên trong một lúc tuyệt vọng kia, nó hủy mình.

Trời ơi, bấy giờ tôi mới hiểu thấu mấy tiếng kêu than của Oanh ở cuối thư, và mới hiểu được tại sao nàng bảo là nàng ích kỷ.

Oanh muốn cho tôi giữ mãi trong trí hình ảnh tươi đẹp của nàng, y như người quí phi bên Tàu ngày xưa cấm đoán ông vua ấy vào thăm nàng lúc nàng đã tiều tụy sau một trận ốm nặng.

Nhưng không, Oanh có ích kỷ đâu. Nàng chỉ thương tôi thôi, muốn tránh cho tôi nỗi thất vọng vì thể chất của nàng.

Lâu kính nể sự yên lặng của Niệm sau câu chuyện ấy. Trên trời đen sao giống như các điểm vàng trên cỗ săng, cỗ hòm chôn vùi nàng Oanh kiều mị ngày xưa.

- Anh thấy không - Niệm tiếp - làm sao mà tôi quên được mối tình chớm nở ấy. Nó có tàn rụng sau một thời ăn ở với nhau đâu. Mãi đến giờ phút nầy, tôi nghe vẫn còn yêu Oanh, còn nghe như Oanh còn sống đâu đó. Tuổi tôi cứ chồng chất lên, nhưng tôi có ấn tượng rõ rệt là tôi còn là học sanh mới ra trường với một mớ mộng xuân.

Chúng tôi day lưng dòm vào phòng ngủ thì, qua lưới mùng "tuyn", các cậu học sanh già đang yên giấc, ngáy pho pho.

Ánh đèn chong xanh xanh gợi lên hình ảnh huyền hoặc của một thế giới ma quái mà trong đó hồn người xưa như đang rung rinh bay qua bay lại, hồn những cô áo tím ngày trước, những cô mà thất tình, bịnh tật, chiến tranh đã cướp đi khỏi thế giới của chúng ta.

Dưới sân đen ngòm, nhiều bóng đen dường như thơ thẩn.

Những bóng ma của dĩ vãng !.


Điện Tín, 1950

Thứ Tư, 19 tháng 6, 2024

LƯU BÚT NGÀY XANH - Bình Nguyên Lộc

 

Sáng Chúa-nhựt đầu tháng.

Trung-tâm thành phố Sài-gòn giống như một cái ao sâu, sau một đêm mưa, nước dâng lên đầy ứ. Người của ngoại-ô đổ vào rún đô-thành như nước chảy vào chỗ trũng, đông gấp năm gấp bảy ngày thường.

Trên đại lộ Lê Lợi, cứ một trăm thước là một bóng trắng nổi lên, bóng của bộ sắc phục của cảnh-sát-viên công lộ, họ chận xe cho bộ hành băng qua con phố quá rộng ấy.

Bên cạnh mỗi bộ sắc phục trắng, một bộ đồng phục vàng với chiếc khăn xanh quấn cổ: hướng-đạo-sinh của ta phụ-lực với cảnh-sát để giữ gìn trật-tự.

Hôm nay là ngày đầu mà một chánh-phủ mới bước lên lãnh đạo quốc gia, nên cảnh-sát công lộ được tăng cường và tăng viện, chớ các ngày Chúa-nhựt thường không hề có những chặng chận xe quá ngắn như thế, và không hề có hướng-đạo-sinh phụ lực với công-quyền.

Trong không khí vui nhộn ấy, một thiếu nữ từ nhà thuốc gác Nguyễn-Thị-Hai thất-thểu bước ra.

Nàng rất cao lớn, nhưng không cứng người và thân thể với dáng đi của nàng vẫn đầy đủ nữ-tính, nghĩa là vẫn uyển chuyển và yểu điệu. Người ta đoán được rằng nàng đẹp toàn diện, tuy chỉ thấy được phong-thái nhã-lịch của nàng mà thôi, còn gương mặt nàng thì bị mái tóc bồng-bềnh có ý "lấn sân" ra phía trước, như để che giấu cái gì.

Người con gái nầy vừa mua một ống thuốc ngủ, thứ thật mạnh, nàng mua được nhờ cái toa mà nàng đã gạt gẫm một vị bác sĩ quen thân với thân phụ nàng để mà xin. Nàng kêu mất ngủ đã nửa tháng rồi vì đã trót uống cà-phê đen nhiều quá để thức học, giờ thôi uống cà-phê bộ thần kinh của nàng đã bị sự kích-thích trước vuốt cho có lằn xếp, không sao ngủ bình thường được nữa.

Ông bác sĩ quen nầy đã tin cô gái bằng lời, vì quả đây là mùa thi và cô gái vừa đỗ bằng tú-tài toàn phần hôm kia, cha cô có báo tin mừng ấy cho ông thầy thuốc đó hay.

Đây là ngày cuối cùng của đời nàng, nên thiếu-nữ còn ham sống nầy nhìn cảnh vật với tất cả ngậm ngùi luyến tiếc. Lòng nàng se thắt lại, nàng muốn khóc lên một tiếng cho bao nhiêu người trẩy hội vui tươi và thờ-ơ với nỗi sầu riêng của nàng, biết rằng có một người con gái đang đau như ruột gan bị xé và họ không nên vô ý thức mà cười cợt trong "vũng nước mắt" nầy.

Vâng, Loan còn ham sống lắm và ghen với niềm vui của thiên-hạ. Ham sống, nhưng nàng không thiết sống nữa, từ hôm kia, mà nàng hay tin Khương, người yêu của nàng, đã yêu một cô bạn đồng lớp với hắn ở Luật-khoa Đại-học.

Con đường trong của đại lộ không có xe qua lại. Loan phải ra bồn cỏ giữa phố để đón tắc-xi. Về nhà trưa nay, trong buồng ngủ, nàng sẽ uống hết ống thuốc nầy, sau khi kêu nhức đầu và hâm hâm sốt. Mẹ nàng chắc không ngạc nhiên mà thấy nàng không thức dậy hồi ba giờ xế.

Có lo lắm, bà sẽ vào buồng nàng, sờ trán con thấy con hết sốt, bà sẽ an lòng để cho nó ngủ. Tới bữa cơm tối thì đã trễ quá rồi.

- Chị Loan !

Loan giật nẩy mình mà nghe ai gọi đúng tên mình. Có tật hay giật mình, Loan cứ sợ người ta biết dự định của nàng rồi ngăn trở, cứ tưởng tượng ông bác sĩ quen cho người theo dõi nàng, rình xem vẻ mặt của nàng để hành động kịp lúc, bởi sau khi biên toa xong, ông ta đâm nghi cái gì chăng ?

- Chị Loan !

Giọng kêu là giọng con trai, một đứa con trai đang bể tiếng, vừa ồ ề, lại vừa ẻo lả. Nàng day lại: một toán bộ hành vừa "sang sông" và ông cảnh sát viên vừa hạ tay xuống, bên cạnh ông ấy là một hướng-đạo-sinh. Không, không có ai trên bồn cỏ hết.

- Chị không nhận ra em sao chị Loan ?

Loan nhìn sững người hướng đạo sinh đang nhổ giò, cao lỏng khỏng và ốm nhom. Chính hắn đã hỏi nàng câu trên đây.

- Nghiệp đây chị.

- Nghiệp ?

- Dạ, Nghiệp, sói ở bầy Bắc Giang đây mà chị.

- Trời !

Loan kêu lên như vậy rồi thừ người ra, trong khi cậu thiếu sinh Nghiệp nhìn nàng mỉm cười, hãnh-diện.

Thằng Nghiệp ! Nó mới mười hai tuổi ngày nào đây, mà giờ đã cao bằng ngọn tre miễu rồi.

Khi đi trúc chửa mọc măng

Khi về trúc đã cao bằng ngọn tre.


- Giờ em lên "Thiếu" và thay chị để làm bầy trưởng bầy sói Bắc Giang. Nghiệp nói tiếp.

- Vậy à ? Té ra em là Nghiệp ! Mau quá !

Nghiệp đứng thẳng người lên như con nhà binh. Cậu ta bất giác có dáng điệu ấy trước bầy trưởng cũ của cậu là Loan vì cậu cứ còn nghe chị ấy là bầy trưởng mãi và cậu cứ còn là sói mãi.

Thật ra thì ba năm đã qua rồi, Loan làm bầy trưởng bầy Bắc Giang năm nàng còn học đệ tam Gia Long. Thuở ấy Nghiệp đã mười bốn, nhưng nó vào hướng đạo trễ, làm sói thì già quá, còn làm thiếu sinh thì không có khả năng, bởi chưa được huấn luyện, nên nó ăn gian tuổi khai sụt đến ba năm.

Tuy nhiên, mặc dầu mười bốn, thuở ấy nó vẫn còn bé lắm, nên sự thay đổi nơi nó bây giờ làm cho người chị năm xưa không nhận ra nó được, không có gì lạ cả.

- Em thì thấy thời gian qua chậm quá.

Nghiệp đứng lại bình thường và cười nói như vậy. Loan cũng bật cười. Đúng là quan niệm thời gian của nàng năm đó. Trẻ con luôn luôn nóng nẩy muốn làm người lớn. Làm người lớn xong, chạm trán với bao nhiêu là phiền toái, là khó khăn, là đau khổ, người ta thấy khác đi, muốn trẻ con trở lại, hoặc muốn thời gian ngừng trôi vì họ biết rằng, dòng thời gian sẽ mang lại cho họ những điều không hay, tệ hơn giây phút hiện tại nhiều lắm.

- Còn các em Hoặc, Nhiệm, Công...

- Dạ, các anh ấy cũng đã lên "Thiếu" như em.

- Còn sói bây giờ có ngoan như hồi đó không em ?

- Dạ, cũng y hệt như hồi đó.

Y hệt như hồi đó ! Đúng là như vậy. Con người cứ lên như những lớp sóng, đợt nầy kế tiếp đợt kia, và đại khái thì đợt sóng nào cũng như đợt sóng nào, cũng như tre cứ tàn, măng năm nay cũng như măng của mười năm trước.

Chỉ có tre là khác măng thôi. Nhưng có những lúc như lúc nầy, tre bỗng sống lại thời măng.

Tất cả, từ lời nói của đứa em cũ, từ sắc phục của nó đến những điều nó nói đều xô nàng trôi ngược trên dòng thời gian.

Niên học đệ tam ! Đó là niên học cuối cùng của đời người niên thiếu, niên học cuối cùng mà họ còn vui được với những niền vui thơ dại của tuổi trẻ, niên học mà họ còn mơ những giấc mơ huyền ảo, thần tiên.

Lên đệ nhị là phải học bù đầu suốt hai năm trường để thành người lớn và... đau khổ.

Người học trò năm đệ tam cũng mang máng ý thức rằng cuộc đời học sinh của họ phải chấm dứt cuối năm đó nên họ cố vui vớt vát lần cuối cùng, thành thử lớp đệ tam của trường nào cũng là lớp ba-gai nhứt, lớp làm cho giám thị khổ sở nhứt.

Họ sống vội đời học trò của họ, còn mấy ngày thì đập phá mấy ngày, và đồng thời họ cũng biết rằng vội bao nhiêu cũng không kịp, vì sắp vãn hát rồi. Thế nên vui dữ họ cũng buồn nhiều.

Đó là mùa hoa nở của những tập "lưu bút ngày xanh" xinh xinh, khéo léo, mang rất nhiều trong mỗi tập bản sắc của chủ tập và bản sắc của bạn bè người chủ tập đó.

Người ta hấp tấp tích trữ hình ảnh, tuồng chữ và cảm nghĩ của bạn bè người ta, mà ngày kia "đời ngăn chia ngàn lối" người ta khó lòng gặp lại.

Tất cả đều than khóc ve sầu, xác phượng, tất cả đều bùi ngùi thương tiếc cái chết của tuổi hoa niên, tất cả đều khóc trước những cuộc chia ly không tránh được.

Riêng Loan, nàng có đến hai tập "Lưu bút ngày xanh", tập dành cho bạn hữu ở Gia Long và tập riêng cho giới hướng đạo,

Nàng còn nhớ rõ cái trang của chú sói Nghiệp. Chú ấy vẽ rồng vẽ rắn lu bù và lưu bút của chú là những dòng chữ sau đây:

"Chị Loan, chị đã dạy em nên tập cho quen chịu đựng để ngày sau chống chỏi với sóng gió cuộc đời. Em ráng làm theo đúng lời dạy bảo ấy, để nữa lớn em khỏi phải xấu hổ mà gặp lại người chị cứ đứng vững như một thủ lãnh can trường, trong khi đứa em thương mến chị lại chiến bại"

Ký tên: Sói Nghiệp.    


Một thủ lãnh can trường ! Có mỉa mai chưa ? Người thủ lãnh can trường, hiên ngang năm nào trong giới hướng đạo, chưa chi đã sắp ngã quay ra trước một ngọn gió không đâu, một lượt sóng tình nho nhỏ.

Người thủ lãnh can trường năm xưa đã dạy sói và chim non những tư tưởng cao cả, dạy chúng nó có tình thương quê hương xứ sở, tình yêu loài người, đã dạy chúng nó nhiệm vụ công dân, nhiệm vụ của một phần tử của cái xã hội lớn của giống vật hai chơn.

Thủ lãnh ấy không hề đá động đến tình yêu, không phải vì lũ sói là trẻ con không nên nói tới điều ấy, mà vì tình yêu không phải là điều quan trọng nhứt trong đời người.

Tình yêu đẹp lắm, và nếu không có tình yêu, không biết con người sẽ khô khan đến đâu. Nhưng thiên nhiên cũng đẹp không kém, hội họa, âm nhạc có thể còn đẹp hơn, và nghĩa vụ thì chắc chắn là đẹp, không có gì vượt qua nổi.

Tình yêu ! Ừ, nó đẹp lắm ! Và nàng đã đau lắm khi mất nó. Sau nhiều trận khóc gió thảm mưa sầu, Loan đã ngậm ngùi rưng rưng lệ mà nhớ lại những buổi đi xem chiếu bóng với chàng, những ngày chúa nhựt đi "bic-nic" với người bạn mà nàng quyết trăm năm gắn bó đời nàng với hắn.

Giờ bao nhiêu lời ngon tiếng ngọt, hắn để mà rót vào tai một thiếu nữ khác, bao nhiêu lịch sự hắn để mà săn sóc người bạn mới của hắn, bao nhiêu mơn trớn dịu dàng hắn để mà vuốt ve kẻ có diễm phúc hơn nàng. Đau lắm thay !

Nhưng mà...

Người thủ lãnh năm nào không thể không thấy cậu thiếu sinh đang tràn ứ tin tưởng, đang căng đầy ý chí phục vụ, đứng trước mặt nàng để gợi nhớ cái "ta" năm cũ của nàng.

Cái "ta" ấy, năm đó, lại thoáng thấy cuộc đời rực rỡ huy hoàng, và sự thật thì có phải cuộc đời đang rực rỡ, huy hoàng đây không ?

Cái "ta" ấy, năm đó, lại thoáng thấy cuộc đời đen tối, đầy tủi nhục, của nhiều lớp người tự nguyện sẽ giúp một tay cho họ được sống một đời sống có thể thống phần nào.

Cái "ta" tốt và đầy phấn khởi ấy đã bị bước đầu của đời người lớn làm méo mó bậy bạ rồi đây ! 
 
Ừ, tình yêu đẹp lắm ! Cứ mà yêu đi ! Ừ, bị tình phụ thì đau lắm, cứ mà sầu đi ! Nhưng phải quên, và nhứt là phải nhớ.

Quên mối sầu không đáng sầu muôn năm ấy và nhớ rằng hột cơm, tấm áo của đoàn thể mình chưa đền.

- Chị còn giữ tập "Lưu bút ngày xanh" hay không chị ? "Thiếu" Nghiệp hỏi.

Loan giựt mình, chợt tỉnh:

- A... ơ... còn chớ ! Nhưng chị bận không có đọc lại bao giờ hết. Nhưng chiều nay chị phải đọc lại cái trang của em mới được.

- Bây giờ chị làm gì chị ?

- Chị đã đậu tú tài toàn phần. Nay mai chị sẽ ghi tên vào lớp dự bị của Khoa học Đại học.

Thật như vậy, đây là dự định mới nhứt của Loan, dự định chỉ mới được dựng lên có hai phút đồng hồ thôi.

Không, nàng không đi làm nữa như đã sắp đặt. Nàng cũng không chết nữa như đã lén mọi người mà chuẩn bị.

Tiếp tục học ở Đại học, nàng sẽ được nằm lưng chừng giữa đời sống học trò và đời sống người lớn, đời sống mà nàng rất ham muốn và bồn chồn trông đợi từ mấy năm nay, nhưng bây giờ thấy là không toàn thiện toàn mỹ như nàng tưởng tượng.

Không chết nữa để mà đọc lại mấy tập "Lưu bút ngày xanh" chứa đựng những lời nguyền của bạn hữu nàng và của chính nàng, lời nguyền xứng đáng với đoàn thể đã tạo ra nàng, nuôi dưỡng nàng.

Người cảnh sát viên nãy giờ làm việc một mình. Y nhìn cậu "Thiếu" Nghiệp mà mỉm cười. Cậu ta hiểu ý, đưa ra một cánh tay.

Tức thì bao nhiêu xe cộ đều dừng lại như bị chiếc gậy thần định thân họ lại, trong khi đó thì bộ hành băng qua phố.

Thật là huyền diệu, sự trật tự trong xã hội ! Loan thấy rằng đời sống tình cảm của con người cũng cần được hướng dẫn phần nào cho nó đỡ bừa bãi.

Vâng, giết chết tình cảm là sát nhân đấy. Một xã-hội không tình cảm là một xã-hội người máy, một xã-hội thú vật.

Nhưng một xã hội buông lung cho tình cảm là một xã-hội bắt đầu xuống dốc.

Xe cộ phải được tự do chạy trên đường phố, nhưng thỉnh thoảng cũng phải có một cánh tay ngăn dòng thác lũ ấy lại, tạm thời trong giây phút, không thì đổ vỡ cả.

Tình yêu đẹp lắm, và đau vì tình cũng đẹp lắm. Nhưng nỗ lực mà quên mối sầu tình và thành công được trong nỗ lực ấy, còn đẹp hơn biết bao !

Tình thương mẹ, lớn lao như thế kia, vậy mà còn có thể thay thế được bằng tình yêu, thì tại sao một mối tình bị giết oan lại không được thay thế bằng một mối tình khác.

Nàng bước lên một chiếc tắc-xi vừa đậu lại, nói lớn:

- Chị đi nhé, Nghiệp !

- Dạ, chúc chị vui vẻ !

Loan vui vẻ thật. Nàng mở xắc ra, lấy ống thuốc ngủ, lượm từng viên rồi bỏ rơi xuống đường, cứ vài phút một vơi đi một viên.

Những chiếc lông ngỗng mà nàng Mỵ-Châu tân thời nầy gieo rắc dọc đường không đưa tới chỗ mà con gái thời xưa phải chết. Trái lại, nó đánh dấu con đường ham sống của một thiếu nữ vừa tỉnh ngộ sau cơn ác mộng.

Nếu có một anh Trọng-Thủy thời nguyên tử nào theo dấu những chiếc lông ngỗng ấy, chàng sẽ tìm thấy một thiếu nữ sống nhăn, mặc dầu thiếu nữ ấy đã bị một chàng Trọng-Thủy phản bội.

Tập lưu bút ngày xanh của nàng có phép mầu xóa được một niềm đau cứ ngỡ là không bao giờ nguôi, vì ngoài những câu văn than khóc xác phượng, khóc ve sầu, tập ấy có mang một đoạn văn lành của một chú Sói con. 

Tiền - Phong, 1966   

(Trích từ tập truyện ngắn Nụ Cười, Nước Mắt Học Trò) 

Chủ Nhật, 16 tháng 6, 2024

KHÓI CAY TRONG MẮT - Trần Huỳnh Bảo Khánh

 

Năm nay là năm thi, tiếng con Đức như còn vang dội trong tôi suốt quãng đường về. Năm nay là năm thi, nghe Khánh, chẳng còn lý do chi để ăn rồi chơi như những mùa hè năm trước. Tôi bắt đầu khoa thi đầu tiên trong đời năm 17 tuổi, có được xem là lớn không? Có lẽ chỉ vừa lớn như "anh chàng" vẫn nói. Lo lo và sợ sợ, chẳng biết rồi chuyện chi đây sẽ xảy ra, vui hay buồn lắm?

Con đường về nhà hôm nay răng ngắn ghê vừa đi vừa nghĩ lan man mà đã đến nhà rồi, mọi hôm đi hoài chẳng thấy tới. Rồi đây, khoảng sân sau sẽ là nơi để tôi có mặt mỗi ngày. Những cành lá nhãn to xim xuê che mát một phần sân, buổi chiều đem ghế ra đó ngồi học thì tuyệt cú mèo. Nhất định là như vậy. Thôi, cho mình được chơi hết ngày hôm nay. Ngày mai bắt đầu cho việc dùi mài kinh sử mà ứng thí, để một ngày nào đó không xa, hiu hiu tự đắc, rung chân ngâm lớn hai câu thơ của ngài Nguyễn Khuyến:

Nghĩ mình cũng gớm cho mình nhỉ
Thế cũng bia xanh cũng bảng vàng.

Vâng, oai đấy chứ, người ta làm cô Tú lận mà, cho anh Sơn khỏi cười, ghẹo mãi con bé chỉ biết có ăn. Nhất định, sẽ làm anh Sơn lé mắt.

*
 
Buổi chiều xuống chầm chậm, những giọt nắng bắt đầu đi về phía tây, để lại khoảng trời xanh bát ngát trên đầu. Từng cơn gió bay qua, mơn man mái tóc. Những cánh hoa phượng đỏ bay tung theo gió, trong tiếng ve sầu. Đẹp. Một buổi chiều đáng để đi chơi, để thả bộ dọc giòng sông Hương, qua cầu Trường Tiền gió bay lồng lộng. Trời đẹp như ri học chi cho uổng hè? Tôi gấp vở nằm yên trên ghế xếp, nghĩ ngợi lung tung. Những đám mây trắng bay lang thang như hồn tôi bây giờ. Chúng có thật tình cô đơn như nhà văn nào đó nói không? Hình như có tiếng đàn của ai vừa cất lên, khúc "Tình xa" của TCS. Tuyệt vời. "Ngày tháng nào đã ra đi khi ta còn ngồi lại, cuộc tình nào đã ra khơi..." Tôi nhìn quanh, bắt gặp khuôn mặt trắng của thằng bé bên kia nhà ngồi bên cửa sổ, ôm đàn gảy tưng tưng. Thằng bé mặt trắng đến đó tự bao giờ, cu cậu lại biết đàn à? Con trai mà học ban A, điều tra của em tôi, con trai mà không lo học, lại lo đàn với địch. Hỏng dị lắm nghe cu cậu. Tôi vừa lén nhìn hắn thì hắn cũng vừa nhìn lại, cu cậu mỉm cười, nụ cười "ngây thơ tội lỗi". Vô duyên, cười chi vô duyên rứa cậu bé, học bài đi. Tôi nói thầm với hắn và cũng tự nhắc mình, học bài đi, Khánh ơi!

*

Anh Sơn vừa chạy vừa kêu, con trai lớn mà chi lạ ghê, mẹ tôi vẫn la hoài:

- Khánh ơi, Khánh ơi! Mau mau thay quần áo anh dẫn đi chơi.

Rồi, hối lộ Khánh để ngày mai đưa thư cho chị Hạnh chứ chi. Muốn hối lộ ta làm eo cho bỏ ghét.

- Thôi, em bận, anh đi một mình đi, hay là rủ chị Hanh đi đi.

- Suỵt, con nhỏ - anh cốc đầu tôi - nói nhỏ chứ, mẹ la thì làm răng?

Tôi vừa xoa đầu, định mở miệng la thì anh đã đưa tay bịt kín.

- Im, đừng ồn, giỏi, anh thương, anh dẫn Khánh đi ăn kem Đào Nguyên, về anh sẽ mua cho Khánh 100 gram ô mai, chịu hỉ?

- Cha chả, anh tốt quá hè, nhưng để làm chi rứa, không lẽ anh cho Khánh ăn không rứa à?

- Có chớ - anh Sơn nhăn mặt - Chị Hạnh giận anh, mai Khánh qua xin lỗi giùm anh, đưa cái thư anh cho chị ấy nữa.

Tôi dẫy nẩy:

- Thôi đi, em sợ con chó bên nớ lắm. Với lại - tôi cười - để em hỏi thử ý kiến mẹ đã hỉ?

- Chết, giỡn hoài, giúp anh đi.

Mặt anh Sơn nhăn lại như vừa cắn một miếng ớt. Tôi cười:

- Thôi được, nhưng phải cho Khánh đủ mọi thứ anh hứa đó nghe.

- Biết rồi cô ơi!

Tôi lồm cồm ngồi dậy, nghĩ đến ông anh mà bắt buồn cười. Dạy người ta học, chê người ta ngu, gõ người ta nhiều cái đau điếng óc, biểu phải lo mà học, chừ người ta đang học lại dụ dỗ đi chơi để nhờ công việc, anh chi mà dị tặc. Thôi kệ, đi cho ông vui lòng, không ông lại chẳng kèm cho học. Chán ơi là chán. Ra đến ngõ, bắt gặp đôi mắt anh chàng ánh lên tia nhìn buồn rầu. Anh chàng chẳng muốn tôi đi chơi. "Phải lo học, ham chơi quá!" anh chàng vẫn thường nói tôi như thế. Tôi quay nhìn anh chàng mỉm cười xin lỗi, anh Sơn đã rú xe vọt đi. Trời ơi, xe với cộ, kêu to như khi thiên lôi nổi giận, làm thiên hạ nhìn kỹ quá, dị quá trời!

*

Buổi sáng, khoảng sân sau đầy nắng. Tôi ngồi học trong phòng, căn phòng hướng ra vườn hoa, nơi mà lũ bạn tôi cho là lý tưởng nhất trong căn nhà. Sáng nay không học được nhiều, cứ thấy buồn, lo, rồi nghĩ vẩn vơ. Thằng bé mặt trắng lại gảy đàn, tiếng đàn buồn, chùng thấp. Thằng bé dễ ghét ghê, răng chẳng chịu học, đàn hoài, lỡ người ta mê nghe đàn người ta quên học làm răng. Đang mơ mộng lan man, tôi nghe tiếng con Xí:

- Chị Khánh ơi, chị Trang tới tề.

Rồi, thêm một kẻ phá đám nữa đây. Hết anh Sơn đến thằng bé gảy đàn, bây giờ đến phiên con bé này. Cha chả, học hành đã lơ mơ, làm cái kiểu ni nữa thì mong chi tên có ở bảng vàng, hở trời?

- Ê, Khánh, học chi nhiều rứa?

- Học chi mô, đang ngồi nghĩ ba láp đây.

- Đi chơi với tau!

- Buổi sáng bày đặt đi mô, nhác lắm.

- Thôi mà, buồn thúi ruột đây mi, đi với tau chút đi.

Rồi, lại chuyện buồn. Mấy con bé ni mới lắm chuyện, cứ bắt con người ta gỡ rối tơ lòng. Bữa mô lớn, có lẽ tôi phải xin giữ một cột báo cho mục này quá. Có chuyện chi cũng réo Khánh ơi, Khánh ơi : Không biết khi tơ lòng tôi rối rắm, tên mô sẽ gỡ rối cho tôi đây?

Mặc quần áo theo con bé ra ngõ, lại gặp đôi mắt của anh chàng. Đôi mắt buồn rầu và trách móc. Thôi cho tui xin lỗi lần nữa vậy, đừng buồn tui nghe anh.

Và rồi cứ thế, những lần bị phá đám, những tiếng đàn buồn, những ánh mắt buồn rầu, những lần gỡ rối cho lũ bạn theo những bài học từng ngày qua đi. Sáng mai, ngày tôi lên đoạn đầu đài. Run quá là run dù đôi mắt anh chàng vẫn gửi tôi nhiều an ủi.

Chiều hôm nay trời mưa to, lụt. Vùng tôi ở thấp quá, tôi đành phải khăn gói lội nước về phố ở lại nhà người bà con đợi sáng sẽ lên đường. Gặp đôi mắt tiễn đưa của anh chàng ngoài ngõ, buồn vô cùng. Anh chàng chúc tôi may mắn. Good luck!

Ở lại một đêm trong căn nhà lạ, tôi không ngủ được, lo lắng vu vơ. Năm giờ sáng thức dậy với bà cô, cũng đi thi như tôi. Hai cô cháu ngồi ngó nhau đến buồn cười, trời lạnh như cắt da, hai đứa ngồi co ro trong căn phòng nhỏ với cây đèn dầu tù mù buồn chi là buồn. Chị tôi dẫn tôi đi thi bây giờ vẫn còn nằm ngủ. Vừa sợ vừa buồn, tôi rưng rưng nước mắt.

7 giờ sáng, ăn uống xong xả, tôi vào phòng thay áo. Trời ơi, khổ thân tôi, hồi đêm mưa gió, cánh cửa sổ phòng bị đánh bật ra ngoài, không biết ngọn gió vô tình mô đã cho chiếc áo dài trắng tinh của tôi đo ván, vạt áo dính đầy bùn đất. Làm răng đây, tôi cầm tấm áo mà khóc òa. Chị tôi dỗ thôi mặc đỡ đi, kệ, có áo mưa che rồi, lo chi. Cũng đành mặc áo vô đi mà lòng lo chi lạ, răng thấy mình cứ mãi gặp chuyện không may (?)

Vào đến trường thi, gặp lũ bạn tíu tít vui mừng, tôi bớt buồn. Nhưng bây giờ thì run, hồi hộp, "run như run thần tử thấy long nhan" dù đã cố trấn an bằng đôi mắt an ủi của anh chàng chiều hôm trước. Kiểng đánh ba hồi. Tiếng sột soạt của ông thầy khi xé bì thư làm mắt tôi hoa lên, tôi tưởng như mình chẳng còn ngồi yên được trên ghế. Tôi bị phát bài cuối cùng vì tôi ngồi chót lớp. Cũng may đề thi chẳng lấy chi làm khó lắm, ngó ngoáy một hồi, rồi cũng xong. Buổi trưa, tôi nhất định về nhà, không ở lại nữa dù một phút một giây. Gặp đôi mắt anh chàng dò hỏi, tôi gật đầu.

Và những buổi thi kế tiếp trôi qua, những ngày tiếp nối là những ngày hồi hộp. Tôi xin phép ở nhà đi Đà Nẵng để quên đi, dù biết rằng bài vở mình không tệ, nhưng cái hồi hộp vẫn đuổi theo tôi mỗi ngày. Trở về lại Huế, vẫn chưa có bảng. Tôi đứng ngồi không yên. Một buổi trưa, ba tôi trở về, cười nhẹ:

- Khánh, làm bài răng mà...

Tôi cúi gầm mặt buồn buồn. Thôi rồi, giấc mộng vàng son của tôi bay theo mây khói.

- Chị Khánh hỏng hở ba, đáng kiếp, ai biểu đi chơi mãi chi.

Mấy đứa em trời đánh thiệt, tôi nhìn ba tôi, chợt thấy nụ cười của ông:

- Lấy xe xuống trường coi bảng lại đi, đậu rồi đó, con chó nhỏ!

Tôi hét lên sung sướng, chạy vào nhà rồi ra đi trong phút chốc. Ra đến ngõ, gặp đôi mắt vui vẻ của anh chàng, có lẽ anh chàng đã biết tin tôi đậu. Xin cám ơn trời, cám ơn đất, cám ơn ba mẹ, cám ơn ánh mắt an ủi của anh, cám ơn tôi, cám ơn tất cả mọi người. Tôi vui quá.

*

Bây giờ tôi bắt đầu cho khoa thi thứ hai, cũng gần đến rồi. Năm nay vì chiến cuộc, gia đình tôi phải di tản vào Đà Nẵng. Phòng học của tôi bây giờ là cái lò bát quái luyện kim đơn của Thái Thượng Lão Quân nóng không bút mực nào tả xiết. Hết rồi khung trời ấm êm của tôi năm ngoái, với tàn lá cây xanh, với hoa phượng đỏ với ve sầu. Thành phố này thiếu vắng tất cả những thứ đó, vắng luôn tiếng đàn của đứa con trai mặt trắng, đôi mắt an ủi của anh chàng. Hết những ngày cùng anh Sơn dạo phố, cùng lũ bạn đi ăn chè cồn, đi gỡ rối tơ lòng cho chúng.

Tôi đang ở đây, gần 2 tháng trời, trong thành phố đầy người, bụi, nóng và nắng cháy. Con Đức, bạn tôi, đã trở về lại Huế và viết thư cho tôi: "tau thương mi quá Khánh nợ, trở về đây, tau là nữ hoàng cai trị miền quê yêu mến. Về đây đi, tau sẽ chia cho mi nửa giang sơn mà cai trị..." Vâng, tôi rất muốn trở về, nhưng nhà tôi vắng quá, gia đình tôi còn sợ, tôi đành ở lại, nghe con Đức tả để chỉ thở dài. Bây giờ anh Sơn đi Saigon học khóa không quân. Tổ quốc lâm nguy, thằng bé mặt trắng chẳng biết trôi dạt phương mô, anh chàng đi ngoại quốc xa xứ. Những cánh thư gởi về, kể đến những miền xa lạ quá, tôi chưa hề nghe. Không biết đôi mắt của anh có còn những tia nhìn dịu, an ủi như mùa hè năm ngoái?

Chị Diệu vừa đi ngang, la:

- Thôi! Học đi chớ Khánh, viết hoài viết hoài chẳng ai dỗ mô nghe.

Vâng, em đang gắng học đây, cho chị vui lòng. Hỏng rồi chẳng ai dỗ cả, mọi người đã đi xa. Đôi mắt ngày xưa ơi, bây giờ chẳng còn anh để trấn an tôi nữa. Mùa thi này, tôi thiếu anh.


TRẦN HUỲNH BẢO KHÁNH     

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 59, tuần lễ từ 13-7 đến 20-7-1972)

Thứ Tư, 12 tháng 6, 2024

ĐỀU ĐÃ TRÔI XA - Phạm Vũ Kơ Linh

 

Năm tôi 17 hay 18 tuổi gì đó, đang học lớp đệ nhị một trường Trung học tư ở K.H. thì bố tôi mất. Bố tôi, xuất thân con nhà nông, nghèo nàn, bỏ ruộng vườn đi lính từ năm 16 tuổi. Ông leo từ binh hai lên đến được thượng sĩ trong quân đội mất trọn hai mươi mốt năm. Giang hồ đây đó theo đoàn quân, một ngày, gặp mẹ tôi và rồi có tôi. Ông đặt nhiều hy vọng vào nơi thằng con đĩnh ngộ, học hành khá chăm chỉ. Mẹ tôi tần tảo nuôi con bằng số tiền bố tôi đem về, chắt chiu lo lắng cho đời sống. Gia đình tôi nhờ thế đủ ăn đủ mặc. Tôi còn nhớ ngày còn sống, thấy tôi lơ đễnh học hành ông hay nói: "Con ạ, mày có thấy những kẻ thấp hèn như tao, ngóc đầu không nổi, suốt đời chỉ là thằng lính quèn. Mày có thương gia đình, thương tao thì cố học hành, không bằng được người ta thì ít ra cũng kiếm được cái bằng Tú Tài, đi lính làm quan cũng đỡ khổ". Bố ơi, con thương bố lắm, thương cho cái hoài vọng đứa con của bố lắm. Bố muốn làm một dấu mốc thắng lợi trên đường đi của cả một giòng họ. Cả một liên hệ gia tộc không ai vượt nổi mảnh bằng Tú tài, không có lấy một người làm đến chức quan. Suốt đời, chỉ là những con lạc đà trong sa mạc mênh mông. Mẹ tôi hay đùa bảo: "Họ Vũ nhà mày, mả ông Tổ để di hàm rồng mà!". Những lúc ấy bố tôi đăm chiêu suy nghĩ. Những ngày tháng năm cục nhọc, năm ấy bố tôi mắc bệnh nặng, qua đời. Không được sống để nhìn đứa con thắp sáng gia tộc. Bố tôi, bây giờ, giá còn sống, nhìn thấy đứa con trai hẳn là đau lòng lắm. Cũng lại là tên lính quèn, thuộc sư đoàn 23, sư đoàn cũ của ông. Chiều chiều đứng gác, nhìn ra trước mặt mịt mù quê hương, ngậm ngùi và nhớ lại ơ hờ.

Thật ra, khi còn đi học, tôi vẫn nghĩ rằng mình sẽ thi Tú tài và sẽ đậu. Khỏi tủi nhục trước bàn thờ cha mình. Tôi học khá, song cốn số lận đận. Mẹ tôi bảo lại: mày sinh hồi 7 giờ sáng. Thiên hạ rộn rịp đi làm cũng khổ con à! Mai mốt lại xuôi ngược kiếm cơm kiếm gạo mất thôi, bà thở dài, tuổi Thân nữa chớ. Vốn người chất phác bà tin rằng "Người ta tuổi Hợi tuổi Mùi, riêng tôi tuổi Thân lại ngậm ngùi tuổi Thân", ông bà đã nói vậy. Và lấy làm ái ngại cho tôi lắm. Tôi an ủi bà, tôi vẫn học đều nhưng giòng đời quái ác. Tôi không thoát khỏi "định mệnh đã an bài". Học củng lớp với tôi có Nga, Huyền Nga. Cô gái con nhà giàu, tên đẹp, người cũng đẹp. Nga làm lu mờ tất cả các cô gái khác trong lớp và có lẽ, cả trường nữa. Dĩ nhiên nàng đẹp vậy, phải có khối anh mê, trong lớp, trong trường mọc ra những cây si sần sùi, cổ thụ, rễ dài cả mấy thước. Trong số đó có tôi, tôi vốn hơi đẹp trai (giống mẹ tôi mà), ăn nói có duyên, lại có biệt tài hát hay (!), đờn khá nữa. Nga cũng có phần chú ý đến tôi, nhưng không đậm đà mấy. Nhiều đứa làm thơ, viết văn, gửi thiệp tặng Nga vào dịp tất niên nhưng không kết quả.

Không những học trò mê Nga mà cả các giáo sư cũng thầm ươm mơ hình bóng nàng nữa. Lũ học trò biết rất nhanh tin thầy Nam, thầy Anh si nàng. Chúng nó đem đề tài này ra nhạo báng, xuyên tạc, thổi phồng. Thầy Anh dạy Việt văn lớp tôi, người hơi lùn, xấu trai chưa vợ. Đem thầy ra đứng với Huyền Nga quả là hai thái cực. Nga cao, thân hình thon thon, mềm mại, đẹp. Nga biết thầy Anh si nàng song không chịu mấy (!). Nga khôn lắm, nàng lợi dụng những lần lên đọc bài, dáng nũng nịu, giọng dịu ngọt hơn chanh đường làm thầy Anh nhà ta đờ đẫn, quên tuốt hết nhiệm vụ. Và sau đó, trong sổ điểm, dĩ nhiên là một điểm cao nhất cho Nga. Thầy Anh và lũ bạn trồng cây si Nga cay tôi lắm từ hôm tất niên. Liên lớp đệ Nhị tổ chức văn nghệ. Tôi mượn bộ quần áo phong phanh nhất của một thằng bạn thân, trông đẹp trai tài tử, cầm đàn đứng hát một bản tình ca tặng Nga. Hát xong được vỗ tay rầm rầm và Nga đứng lên yêu cầu bản nữa. Tôi thân ái nhìn nàng cám ơn và hát. Thành công hoàn toàn. Sau bữa đó, Nga thân với tôi hơn. Các cô gái nhà giàu vốn có tính kiêu dưỡng, thích cặp với những kẻ có tác phong văn nghệ cơ. Nga rủ tôi đi chơi, xi nê, dạo phố, uống nước, đủ thứ. Tôi cúp cua liên miên, bài vở thiếu sót nhiều, mẹ tôi đâu biết gì. Tôi gay gụ bà xin tiền mua sách vở, song là nói dối để lấy tiền dẫn Nga đi chơi. Tôi xài lậm vào mấy tháng tiền học, nhà trường thúc đòi. Tôi cố xoay sở, nhưng vô hiệu. Tôi vẫn chưa dám thố lộ tâm tình cho Nga hay, mặc dù nhiều lần cơ hội thật thuận tiện. Tôi vốn nhát. Gần đến ngày thi đệ II bán niên, Nga có vẻ lơ là với tôi. Trường, ban giáo sư nghĩ rằng tôi là một học sinh khá, mới chưa đuổi học, song hăm he sẽ gửi thư về nhà cho mẹ biết. Phen này thì tôi kẹt gỡ không ra rồi. Tôi ở nhà ít nhất mấy ngày cố nghĩ cách kiếm tiền, không gặp mặt Nga.

Chẳng lẽ lại ăn cắp tiền mẹ tôi, tôi biết và có cất tiền ở một ngăn trạn góc bếp, rất kỹ. Tôi nghĩ lung tung, nhìn bàn thờ bố tôi, hình như mắt ông thoáng vẻ phẫn nộ, tôi ớn ớn. Nghĩ đến lời bố tôi nhắn nhủ, tương lai tôi. Tôi lén lấy tiền mẹ tôi dưới bếp, rồi mặc quần áo ra đường. Lúc ấy tôi nghĩ rằng mọi sự hậu xét. Phải nộp tiền học để thi. Vong hồn bố tôi khỏi  tủi. Tôi thoáng ân hận nhưng nghĩ lát nữa gặp Nga, tôi lại vui vẻ, yêu đời.

Tới trường nhằm giờ tan học, học sinh lũ lượt rời trường. Tôi thoáng thấy bóng Nga, Nga kia rồi, rực rỡ huy hoàng. Tôi tiến tới, song chợt dừng lại, đau lòng nhìn Nga, nga không thấy tôi, leo lên chiếc xe gắn máy của một tên cùng lớp, tên này nhà giàu, người Tàu phù. Bất mãn, tôi chạy theo gọi Nga, Nga hơi cau mày, rồi nói lời gì với tên Tàu, nhảy xuống đứng chờ tôi. Có thế chứ. Quên việc đóng tiền học, tôi rủ Nga đi phố. Tên Tàu lừ mắt, tức tối. À, anh Tàu con này muốn gây sự đây mà, tôi đâu ngán. Tôi lừ mắt nhìn lại rồi nắm tay Nga, rời chỗ. Tên Tàu con căm hận nhìn theo. Tên Tàu này nhà có thế lực, phe đảng. Tôi biết lỡ trêu vào tay khó chơi nên có hơi e dè. Mải vui, tôi quên hết tôi nhớ rằng mình có tỏ tình với Nga vào dịp ấy, khi hai đứa đứng ngoài bãi biển, nhưng Nga chỉ cười. Tôi nuôi hy vọng. Vài hôm sau lên trường, tên Tàu con chặn tôi ngoài cổng, có Nga đứng đó, ý hẳn hắn muốn rửa nhục hôm trước. Hai đứa quần thảo nhau. Tên Tàu bị tôi đấm bể cả mồm, máu mũi, máu miệng tuôn xối xả. Hắn bất tỉnh. Tôi chỉ bị u đầu sứt trán.

Sau vụ này, trường họp giáo sư lại, luận tội tôi. Thầy Anh vốn ghét tôi từ trước, đề nghị đuổi hẳn. Hội đồng giáo sư chấp thuận. Tôi, trốn học, không đóng học phí, đánh lộn với bạn trong trường, vô lễ với giáo sư... Bao nhiêu là tội. Bị đuổi, tôi không dám nói với mẹ tôi, vẫn giấu bà là còn đi học, tiền bà cho, tôi ngồi quán nước, thuốc lá, cà phê hết cả. Kỳ thi đến, lũ bạn chúi mũi, cắm cổ học. Nga lên Đà lạt học cho yên tĩnh, tôi không được gặp nàng, thất thểu, buồn, chán. Thuê truyện về đọc giết thời giờ. Mẹ ơi, tha lỗi cho con. Bố ơi! Con làm hư hoài vọng đới bố rồi. Ngày thi đến. Sáng hôm đó, tôi xin tiền mẹ tôi, ngồi ở một quán nước gần trường thi. Uống cà phê, hút thuốc, ngậm ngùi nhìn đốm lửa đỏ tự đốt cháy đời mình, buồn muốn khóc khi thấy người ta lều chõng, bút giấy đến trường thi. Hí hửng khi chưa đến, họ trở về. Tôi thất thểu, lê bước theo họ về nhà mình.

Những ngày thi qua mau. Kết quả đến. Nga đậu. Tôi về báo tin tớt cho mẹ tôi. Bà không nói gì, im lặng buồn thảm. Gặp Nga trên phố. Nàng nói mai đi Đà Lạt nữa. Tôi xin số nhà. Nàng ngập ngừng rồi viết cho. Nga đi mấy hôm trước, mấy hôm sau tôi trốn mẹ tôi đi theo. Lên tìm mãi ra được nhà nàng. Nhà to lớn, có nuôi chó dữ. Tôi thấy đèn hoa giăng tứ tung bèn hỏi người gác cổng: "Nhà có gì vui thế?"

- Cậu không biết ư, đám cưới cô Nga đó, đám hỏi từ mấy tháng trước. Nhà trai đợi cô Nga thi xong, chớ không thì lấy nhau lâu rồi...

À ra thế! Tôi chóng mặt. Từ chối không vô nhà Nga... Hết tiền, tôi năn nỉ đi nhờ xe một người buôn rau từ Đà lạt về. Nhìn bộ vó hiền lành của tôi, người này chấp thuận. Còn mấy chục, tôi mua vài điếu thuốc đen, dọc đường nuốt khói vào tận phổi, nhả ra hiu hắt những làn khói loãng để ráng quên một mùa thi, và cả một mối tình đầu đã trôi xa mãi mãi.


PHẠM VŨ KƠ LINH     

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 59, tuần lễ từ 13-7 đến 20-7-1972)