Mẹ tôi yêu hoa thiên lý như yêu chồng con. Chả biết màu xanh dìu dịu của lá và hương thơm nhẹ nhàng của hoa thiết tha là bao mà mẹ tôi âu yếm nó thế.
Thường thường mẹ tôi trồng từng khóm. Mẹ bắc khum khum một cái giàn. Chiều chiều mẹ xách nước tưới vào gốc cho cây chóng lớn. Khi lá theo cành lên kín đầy giàn và khi loài ve sầu rủ rê mùa Hạ sang thì họ hàng nhà bọ ngựa đã tha thẩn cả ngày leo bò lên giàn hoa lý xanh tươi.
Đối với tôi, hồi còn bé, có lẽ cây ổi trĩu nặng quả chín còn thú vị hơn giàn hoa thiên lý của mẹ. Nhưng mỗi lần theo mẹ mang rổ ra vườn hái từng chùm hoa về nấu canh với cua đồng, tôi thấy lòng hớn hở và cả lòng mẹ cũng tươi nở dưới giàn hoa.
- Hoa thiên lý nấu với cua đồng ngon lắm cơ con ạ!
- Mùi nó làm sao ấy mẹ ạ! Con ghét giàn hoa của mẹ ghê đi ấy, cây gì lại cây chẳng có quả. Mai con chặt nó đi mẹ nhé!
- Hư nào, tại con chưa biết ăn thì đừng bảo nó làm sao chứ? Hôm nay con thử ăn mà xem, ngọt ngọt là.
- Ngọt như kẹo dồi chó không hở mẹ?
Mẹ tôi cười đăm đăm nhìn tôi. Tia mắt hiền hòa ấy như tiếng ru muôn đời có bao giờ định nghĩa được, nên ngày nay dù tôi không nhớ hết kỷ niệm huy hoàng của thời thơ ấu thì tôi vẫn tự nhủ rằng: Tất cả đã nằm trong bài hát ru con mà mẹ tôi đã ru tôi trên đôi tay gầy nho nhỏ, và đã in vào ánh mắt mà mẹ tôi ban cho tôi thuở thiếu thời, đã lắng trong tâm hồn tôi.
- Mẹ yêu hoa thiên lý như yêu các con, hễ Long ghét giàn hoa của mẹ thì mẹ giận đấy!
- Ứ ừ! Thế con cũng yêu hoa lý.
Tôi vội vàng nói thế, kẻo mẹ tôi giận. Mẹ tôi chỉ cười. Và từ hôm ấy, mỗi buổi trưa mẹ hay dắt tôi ra hóng gió ở dưới giàn hoa. Mẹ mang chiếu ra trải. Mẹ ngồi nghĩ ngợi xa xôi. Tôi ngồi gối đầu vào lòng mẹ mơ màng nghe tiếng sáo diều vi vu, tiếng võng đưa kẽo kẹt, tiếng ru buồn thấm thía hay tiếng chim cu gáy xa xa vọng lại. Đôi khi mẹ kể chuyện gì mà tôi không hiểu được, nhưng chắc lòng mẹ rộn ràng lắm vì cứ thấy mẹ mỉm cười bâng quơ. Tôi thường ngủ thiếp đi trong hơi thở êm đềm ấy.
Dần đần tôi thích trồng hoa. Tôi bắt mẹ bắc cho tôi một cái giàn. Mẹ bảo đến mùa hạ sang năm giàn hoa của tôi đẹp lắm, bốn mùa trắng xóa ánh trăng lan. Nhưng tôi không đợi được đến mùa hạ. Khi khóm cây bắt đầu leo, cha tôi ở Hà Nội về đem gia đình lên Vĩnh Yên mở đồn điền. Tôi rời quê ngoại chưa biết tương tư tiếng sáo diều mà chỉ nhớ mang máng giàn hoa thiên lý mới trồng.
Rồi tôi lớn lên giữa cảnh bao la hùng vĩ của đồi núi. Những buổi chiều theo cha cỡi ngựa đi hứng gió không làm cho tôi sung sướng bằng nằm trên bờ cỏ nghe tiếng suối reo. Tôi ghét cái bộ mặt của mấy bác cai, tôi ghét tiếng hò hét khi các bác ấy mắng mỏ người làm. Tôi cũng ghét cả nét mặt lạnh lùng ghê sợ của cha tôi. Đến bây giờ, tôi vẫn chưa hiểu tại sao ngày bé nhỏ tôi ham thích những cái gì mềm mại, dễ thương, im lặng như giọt mồ hôi chảy đều trên lưng người thợ hay hơi thở đều đều của mẹ tôi. Tâm hồn tôi giản dị nên tôi không ưa gì lũ cây sù sì mọc đầy nơi rừng rậm hoang vu này. Tôi vẫn thích giàn hoa thiên lý ở quê ngoại.
Lên đây ít lâu, mẹ tôi đã tốn nhiều công phu mà chưa ươm được khóm nào. Tại hoa lý chẳng hợp đất rừng hay đất rừng không chịu dung nạp loài cây ỷ lại sức người? Mỗi lần có người xuôi đồng bằng, mẹ tôi cố dặn thử mang một cây giống lên xem sao, cha tôi đều gạt đi:
- Giồng làm cái quái gì của nợ ấy!
- Cậu thì chẳng khi nào muốn giữ kỷ niệm êm đềm của đời mình.
Mỗi lần thế, mẹ tôi buồn lắm, có khi mẹ khóc và bỏ ăn hai ba bữa. Mới lên mười tuổi, tôi đã làm sao thấu rõ tâm sự của mẹ, làm sao tìm hiểu nổi niềm ấp ủ hoa thiên lý của mẹ tôi. Nhưng dù sao mẹ cũng cố vun trồng và mẹ đã mãn nguyện. Mấy giàn hoa xanh mơn mởn đẹp kiêu hãnh như nàng công chúa đứng trước đám thần dân. Những mùa hạ đi, những mùa hạ lại, ở rừng không có cua đồng nên hoa thiên lý phải nấu với thịt lợn rừng giã nhỏ. Nó vẫn ngon làm sao, mẹ tôi nói thế. Và người còn bảo:
- Còn hương vị quê hương con ạ!
Trưa hè miền này vắng tiếng sáo diều, tiếng ru buồn thấm thía. Mẹ tôi không đem chiếu trải dưới giàn hoa ngồi kể chuyện cho tôi ngủ thiếp đi nữa. Cuộc sống đồi núi nối tiếp từng trang dài tẻ nhạt. Mưa rừng giăng mờ muôn ngả chỉ làm cho tôi hậm hực trên nhà sàn. Và mỗi chiều nắng rớt rơi đọng trên cây lá thay màu cảnh vật cũng chẳng làm tôi say mê. Tôi đã biết cảm thế nào là tình quê hương.
Ít lâu sau công việc làm ăn thất bại, nắng dữ dội quá nên cà-phê, chè chết khô chết héo, cha tôi phải nhường quyền cho người khác trông coi rồi đem gia đình về Hà Nội.
Từ đấy, cha tôi thay đổi tâm tính, thường kiếm cớ mắng mẹ tôi, tuy mẹ tôi rất mực hiền hòa. Nhiều lần cha đi chơi mấy ngày mới về, mẹ tôi chỉ khóc âm thầm và để quên chuỗi thời gian mong đợi cha tôi hối hận, mẹ tìm vui bằng cách trồng thiên lý cho nó leo lên tường. Nhưng có một đêm nọ mẹ khóc nức nở, sáng hôm sau sưng cả mắt. Cha tôi đã bỏ vợ con bơ vơ đi theo tiếng gọi sông hồ. Cánh chim vỗ cánh tung bay biết khi nào mới trở về tổ cũ. Mẹ tôi chợt nghĩ tới chân trời quê hương im lặng như giòng sông Trà Lý mà một cuối mùa thu, người đưa hai anh em tôi về nối lại tháng ngày êm ái cũ.
Tôi được sống với họ hàng bên ngoại, nhởn nhơ cả ngày thả diều, câu cá. Mẹ tôi dạy anh em tôi học. Tôi lớn dần trong sự chiều chuộng, trong sự bình thản mơ màng của mẹ tôi. Tâm hồn tôi đã ướp chung với hoa bưởi, hoa lài, hoa lý. Tôi chỉ muốn đời đời sống trên mảnh đất làng quê bên cạnh những cuộc đời giản dị, biết thương yêu nhau thành thực như tình khoai lúa. Mộng ước chỉ có thế nhưng sao dệt mãi chưa thành, hay mình cứ dối lòng mình mà đuổi theo sóng gió của đại trùng dương?
Mẹ tôi bây giờ hay thở dài. Chiều chiều mẹ đứng bâng khuâng bên giàn hoa thiên lý ngoài ngõ, lơ đãng nhìn mây trôi. Lúc ấy là lúc mẹ tôi đang cảm nghĩ đến kỷ niệm thiêng liêng nhất của đời mình.
Cuộc sống của chúng tôi bắt đầu chật vật. Cha tôi vẫn chưa về. Mẹ tôi tính từng ngày một, cha tôi đã đi tròn năm rưỡì. Hoa bưởi rụng cuối vườn rồi héo khô tàn tạ, người nghèo hết cả thì giờ nghĩ vẩn vơ nên mẹ tôi không nhặt hoa, xâu vào dây đeo lên cổ cho tôi nữa. Tôi cũng biết theo mẹ ra đồng nhặt từng bông lúa còn sót khi lưỡi liềm của mẹ nhẹ ngốn từng nắm lúa ruộng nhà. Không ai thèm than thở. Tình đời luôn luôn thắm nở thì lòng mình sao chẳng cởi mở cho hy vọng tràn đầy. Mẹ tôi vất vả tháng ngày song vẫn dành riêng chút ít thì giờ hiếm hoi dạy em tôi đánh vần dưới giàn thiên lý vào buổi trưa, và bắt tôi học thuộc lòng những bài thơ nho nhỏ. Sau mỗi buổi học tôi hay hỏi:
- Cha con đi đâu hở mẹ?
- Đi xa lắm, xa lắm.
Mẹ tôi trả lời thế và cặp mắt mọng đầy nước cho đến khi không thể cầm được, mẹ ôm em tôi mà khóc. Tôi thương mẹ tôi quá cũng vội òa lên khóc nức nở làm mẹ phải an ủi:
- Sang năm cha con về. Nín đi, mai hãy khóc, khóc nhiều hôm nay đau mắt đấy.
Quê ngoại nhà tôi nghèo nàn nên dù sống với bà tôi, mẹ tôi đã phải trải qua tháng ngày dầm sương dãi nắng. Anh em tôi thiếu thốn đủ bề.
Hoa thiên lý trĩu nặng cả giàn, bây giờ mẹ đành lòng hái xuống đem đổi lấy cua mang về nấu canh hay bán lấy vài hào, để chỉ mua cho con cái bánh đa hoặc mấy viên kẹo vừng. Một buổi sáng, tôi trông thấy mẹ tôi trèo lên cây sung ở bờ ao trước ngõ, hái mấy chùm xanh chát xuống, lấy muối chấm ăn ngon lành lắm. Đến trưa mẹ ôm bụng kêu đau. Bà ngoại tôi phải xin dầu con ó và nướng ông đầu rau chườm mãi mới khỏi. Mẹ tôi cố giấu kín chuyện ấy. Sau này tôi khôn lớn, gia đình khá giả, mẹ mới chỉ kể riêng cho tôi nghe:
- Vì mẹ đói quá, mẹ tưởng ăn sung sẽ cầm chừng được, ai ngờ nó hành hạ ghê gớm. Từ bận ấy mẹ sợ.
Kỷ niệm chua chát ấy tôi còn ghi nhớ. Đôi khi vọng về dĩ vãng tôi không khỏi ngậm ngùi thương cảm. Hai năm sau cha tôi hồi hương, cánh chim đã mỏi thì phải về tổ cũ mà xây dựng lại những gì mất mát hôm qua. Vợ chồng gặp nhau, mẹ tôi vẫn khóc như ngày cha tôi bỏ nhà ra đi. Sung sướng hay đau khổ người đàn bà cũng chỉ biết dùng nước mắt để giải tỏ nỗi niềm. Cha tôi về đem theo bệnh đau mắt khá nặng và một con dao rừng. Ngày đêm, mẹ chăm lo bệnh cho cha tôi. Nhờ sự săn sóc ấy, vài tháng sau cha tôi khỏi. Từ đấy cha tôi không đi đâu nữa. Cha thường kể cho tôi nghe chuyện đường rừng. Hễ có dịp thuận tiện cha lại đem con dao ra khoe:
- Tốt lắm, của người bạn Thổ tặng cha đấy.
Con dao quý ấy, tự tay cha tôi đã đào lỗ trồng mấy khóm cây. Có lần tôi thấy cha mẹ tôi nói chuyện với nhau rất lâu dưới giàn thiên lý hôm xưa. Những chùm hoa nấu với cua đồng lại ngọt ngon hơn cả bao giờ.
Dòng thời gian lặng lẽ trôi nhưng cuộc đời không êm ả chảy xuôi như nước sông Trà Lý vào cuối mùa thu nữa. Tôi đã lớn hơn xưa để phải chứng kiến những trận giông tố, những cơn sóng lớn phũ phàng trùm lên mái nhà êm ấm. Gia đình tôi trở về quê nội, để rớt rơi bên ngoại từng mảnh nắng cô liêu của những chiều xưa thân mến. Mẹ tôi lại bắc giàn trồng hoa thiên lý, ngồi kể chuyện quê hương cho anh em chúng tôi nghe. Em tôi thường ngủ đi như thuở nào tôi ngủ nhờ hơi thở êm đềm ấy. Đắm chìm trong niềm im lặng muôn đời của thôn trang, tiếng mẹ tôi tha thiết rót vào tai tôi thay cho tiếng ru êm ái ngày xưa, làm cho lòng tôi càng ngày càng rộng mở, và mắt tôi càng ngày càng thắm sắc mộng mơ. Tâm hồn tôi dào dạt tình cảm, cái gì cũng gợi cho tôi niềm say đắm, từ chiếc áo nâu thô đến mảnh quần nâu ố màu bùn, từ cái cầu ao chênh vênh đến túp lều tranh xơ xác. Tôi bắt đầu suy cảm về số phận loài lá vàng chết rụng mỗi khi thu về và những con cuốc kêu rỉ rả suốt mấy tháng hè nóng bức. Hôm nay, nếu ai có tò mò hỏi tại sao tôi cố níu tiếng đàn bầu, cố níu tiếng kèn đưa đám ma, cố níu tấm áo nâu non cùng dải thắt lưng xanh, cố níu tất cả hình ảnh cũ kỹ đã bị chôn vùi xuống lòng đất quê hương mà hối tiếc, tôi sẽ trả lời sao đây?
Sợi dây luyến ái như tơ trời giăng mắc nhè nhẹ, buộc chặt lấy tim mình mà nào ai hiểu được tự giây phút nào, nút dây ấy đã thắt lại. Chuyện yêu thương không biết nghĩa để giảng giải, như hoa thì thơm, hương thì phải ngạt ngào, trăng thì sáng và sao thì lấp lánh. Dù sao, tôi cũng không hề nông nổi mà dám tin rằng, chính ở giàn hoa thiên lý ngày xưa đó, mẹ tôi đã dạy tôi bài học đầu tiên về Tình người.
Năm mười sáu tuổi, dần dần tôi xa mẹ. Con chim non biết ra ràng rồi đây, ngày kia nó sẽ bay mất để mẹ nó gục trên tay gầy mà thương về viễn phương mưa gió. Mẹ tôi chừng hiểu ý nghĩ đó nên một chiều tháng Hai hoa gạo rụng đỏ nát màu máu lên đường làng, mẹ dẫn tôi đi khắp hang cùng ngõ hẻm, qua mấy nhịp cầu tre, cầu đá. Mẹ chỉ vào bụi tre còm tơi tả, bức tường đất xiêu vẹo. Mẹ dừng chân bên dòng sông nhỏ bé, lặng ngắm mái đình cong cong, con trâu gầy ốm, cánh đồng xanh xanh mà giảng giải vu vơ. Sau cùng mẹ dắt tôi lên đầu làng, ăn bát canh bánh đa nấu với cá rô rồi hai mẹ con về ngồi dưới giàn hoa lý. Mẹ mở đầu câu chuyện bằng lời bâng khuâng:
- Giá mà ở đâu cũng có hoa lý... Ừ, hoa lý đơn sơ lắm, hương thơm chỉ phảng phất mà tưởng như bền chặt đến muôn đời.
Lúc ấy âm hưởng sáo diều đã lên mênh mông. Nắng đang thoi thóp nhuộm màu cảnh vật. Từ xa xăm vọng lại tiếng con nghé lạc mẹ, tiếng thời gian chìm chìm. Tôi nín thinh, không dám phá tan sự im lặng đó để mặc cho tâm tư lơ lửng tựa tơ trời. Mẹ ngồi yên, ánh mắt sầu cảm lạ lùng. Những tia mắt hiền hòa của thời thơ ấu vẫn còn lắng trong suối mắt vô tận kia, sao tôi chẳng thấy mà chỉ nghĩ tới sự buồn thương xâm chiếm lòng mình? Phải, tôi lớn rồi. Hôm qua hay hôm kia, mẹ tôi còn dạy tôi làm thơ. Mẹ chả bảo tình yêu phải có u sầu mới đẹp là gì? Trông chiều xuống vội vã, tôi khẽ gọi mẹ. Mẹ tôi giật mình, âu yếm nhìn tôi:
- Long này, mẹ muốn kể cho chú (lúc này mẹ gọi tôi bằng chú) nghe chuyện giàn hoa thiên lý. Mẹ phải đợi đến hôm nay vì chú đã lớn, chú có thể bỏ nhà ra đi bất cứ lúc nào như cha chú hồi còn trẻ. Lúc nãy mẹ đưa chú vào lòng quê hương, sau này chú sẽ hiểu tại sao mẹ làm thế. Bây giờ thì Long lắng tai nghe nhé!
Mẹ tôi thong thả lật lại vài trang dĩ vãng viết tự mười mấy năm về trước, với nhập đề là Ngày xưa. Vâng, ngày xưa khi tâm hồn mẹ còn phơi phới, mắt đen chưa vẩn chút bụi đời, tóc xanh chưa một lần bối rối, mẹ tôi đẹp ai cũng khen nhưng không ai dám thương, và dám ấp ủ linh hồn yếu đuối ấy trừ bà ngoại tôi. Ồ, có gì lạ đâu, tại mẹ tôi bị bệnh lao, cái bệnh gia truyền khốn nạn. Khi mắt mẹ phảng phất khói hương mơ mộng thì lại là lúc phải khóc nhiều vì cô độc đau thương. Pháo cưới thi nhau nổ nát tan lòng mẹ. Màu áo đỏ, áo xanh bỗng nhiên ngả màu tang tóc như muốn liệm chung cuộc đời người con gái chưa đầy hai mươi mùa xuân. Những con bươm bướm đa tình chẳng chịu ghé hoa vườn thuốc độc nên mẹ già cỗi và gần như xa hẳn nhân gian. Mẹ tôi buồn thảm oán hờn. Chiều chiều mẹ đứng ngắm mây trời đổi sắc dưới giàn thiên lý ngoài ngõ đợi ngày yên ngủ dưới mồ.
Một hôm có chuyến đò ngang chở hồn biệt xứ qua bến làng Thanh Triều rồi chí lớn thiên hạ bỗng dừng lại bên giàn hoa, coi dặm đường xa là vô tận. Hồn biệt xứ là cha tôi. Cha tôi ngỏ lời chắp duyên cùng mẹ. Mẹ tôi khóc lóc chối từ, mẹ nói rõ bệnh tình cho cha tôi biết. Cha tôi không cần phải so đo, người nhất định lấy mẹ tôi dù kết quả có tái tê đau đớn. Mẹ tôi cảm động chết ngất trong đôi tay người yêu. Rồi cha tôi lo chữa chạy, rồi lòng mẹ nhóm lên ánh lửa tin yêu. Mẹ tôi lành mạnh nhờ thuốc thang nhưng phần lớn là nhờ lòng thương yêu của cha tôi. Mẹ tôi ngừng lại mỉm cười:
- Chú có dám tin không?
- Tin gì hở mẹ?
- Tin rằng người ta sống bằng tình thương và người ta chết đi rất đỗi nghẹn ngào nếu chưa hưởng được chút thương yêu trong trời đất, như mẹ chẳng hạn.
- Có mẹ ạ!
Mẹ kể tiếp. Cha tôi tạm bỏ mộng sông hồ, dừng chân bên quê ngoại nhà tôi để phả vào tai mẹ những âm điệu vui vui, buồn buồn, phả vào hồn mẹ những vần thơ phiêu bồng nhất của tình yêu không giới hạn. Cha tôi dạy mẹ tôi tất cả nỗi niềm tha thiết, trao cho mẹ tôi trọn vẹn gia sản tinh thần của một người yêu quê hương và muốn người khác cũng biết thương yêu nhau. Sau này, tình cảm đó hòa với suối mộng mơ của mẹ, rồi mẹ truyền cảm cho anh em tôỉ. Kỷ niệm ấy gợi hình từ giàn hoa thiên lý quê ngoại nên mẹ tôi thích trồng thứ cây dịu dàng này bất cứ ở đâu: Rừng đồi, thôn ổ, phố phường...
- Chú có hiểu không?
- Chuyện hết rồi ư mẹ?
- Ừ.
- Sao ngắn thế mẹ, con tưởng dài ghê lắm.
- Nói bao giờ cho hết được, chú cố tìm hiểu nhiều hơn. Mẹ chỉ tóm tắt thế thôi. Nay mai chú ra đi và chiều nào đó chú sẽ gặp một con bé dưới giàn thiên lý. Chuyện thương yêu thì ai kể hết, ai biết hết mà kể.
- Khó quá mẹ ạ!
- Dễ mà. Khi nào ở phương trời xa lạ, chú đáp chuyến tàu ba mươi Tết xuống một bến quen rồi lại tha thẩn chẳng biết về đâu, lúc ấy chú sẽ hiểu Tình thương. Khi nào lòng chú se sắt, chú thấy bơ vơ, thiếu điều gì khó diễn tả thì chú sẽ hiểu Tình thương. Hay khi chú thấy người đồng loại đau khổ, nghẹn ngào chú nhỏ lệ cúi xuống hôn trán em nhỏ mồ côi, âu yếm dắt tay người thợ cùng bước trên đường, chú sẽ hiểu Tình thương. Còn nữa, còn nữa, vì Tình thương rất diệu vợi và khó đo lường. Chú sẽ hiểu chú nhỏ ạ!
- Nhỡ con không hiểu?
- Nhảm nào, chú phải hiểu, chú phải nói lên bằng lòng chú, bằng nước mắt của chú, tô lên những trang thơ trịnh trọng mà mẹ dạy chú niêm luật hôm nào. Nhưng cậu cả này, bao giờ khăn gói cho mẹ biết đấy nhé! Mẹ không ngăn cấm chú đâu, chim đầu đàn phải bay dò đường cho các em chứ. Mẹ sẽ dặn chú điều này... Thôi đi vào.
Mẹ còn muốn dặn điều gì? Mà sao mẹ vội nghĩ đến ngày tôi bỏ nhà ra đi. Đêm ấy tôi băn khoăn suy cảm. Hương thiên lý phủ kín tình tôi rạo rực như lần nhìn cảnh chim lạc bầy bay về viễn xứ.
Ngày tháng rụng rơi nối tiếp, mẹ tôi vẫn trồng thiên lý và những trưa mùa hạ, cua đồng nấu với chùm hoa vẫn ngọt ngon. Cho đến năm tôi hai mươi tuổi thì lời dự đoán của mẹ hiện hình. Than ôi, tôi đã nói dối mẹ tôi vì ngày tôi đi, giặc cướp ở rừng núi tràn về nhiều quá, và tôi đi xa xôi lắm. Đêm giã từ mẹ, tôi đứng bên thềm nhà lắng tai nghe ngóng. Tim tôi đập mạnh, nước mắt đầm đìa. Tôi run run gõ cửa, mẹ tôi ra. Tôi chùi vội nước mắt hỏi nhỏ:
- Em Dực về chưa mẹ, lúc nãy con đưa em về.
- Thế à, em ngủ rồi chú ạ!
- Thưa mẹ... Mai... con đi...
- Đi đâu, chú tính giang hồ chăng?
- Con đi dự lớp huấn luyện hai ngày.
- Mẹ cứ tưởng... Mang chăn đi kẻo lạnh. Chú có cần tiền tiêu, mẹ đưa cho?
- Không mẹ ạ! Khuya rồi mẹ vào nghỉ, con đi từ đêm nay.
Mẹ tôi trở vào. Mẹ lê guốc lẹp kẹp. Tôi ngờ rằng đó là tiếng nứt rạn của hai trái tim. Có tiếng mẹ thở dài và tiếng đặt mình nặng nhọc xuống giường.
Tôi đứng trơ như gỗ, một cái gì thiêng liêng níu chặt lấy chân tôi. Tôi muốn chạy nhưng khó khăn quá, khó khăn như chạy sự ghê rợn trong giấc chiêm bao. Khi chợt tỉnh tôi băng mình đi, đi không hành lý, không lời từ biệt, không người đưa tiễn.
Ba bốn năm trời lưu lạc miền Nam, cứ mỗi lần gió heo may rủ mùa thu sang thì lòng tôi lại nao nao sầu cảm. Cuộc sống lần hồi của tôi trôi dạt nhiều nơi, ở đâu cũng chỉ đan dệt bằng u buồn chán nản. Mắt tôi ngây dại, tóc tôi bụi đời phủ kín. Tôi vẫn đi và thường băn khoăn tự hỏi tại sao người ta cứ phải suy cảm rằng lòng mình chỉ giới hạn, người ta không chịu mở rộng cánh cửa tim đón từ muôn phương những luồng gió yêu thương thắm thiết hay trao tặng muôn phương những tiếng nói tâm tư cho kẻ khác tin cuộc đời. Lòng tôi càng ngày càng khát vọng tình yêu. Tôi đã hiểu sức thiêng liêng và quyến rũ của nó và tôi thấy nhớ mẹ tôi quá.
Giàn thiên lý quê nhà giờ đây héo khô tàn tạ. Loài ve sầu không rủ rê mùa hạ sang nữa nên họ hàng nhà bọ ngựa cũng chết hết vì buồn. Ở ngoài ấy dễ gì mẹ tôi đã còn được ngồi dưới giàn hoa mà kể chuyện cho em tôi nghe, thì dễ gì có phút giây mẹ nằm tưởng tượng ra bão táp ngoài trời, thấy con chim nhỏ lạc bầy trôi dạt thảm hại.
Tôi buồn, tôi muốn khóc khi nghĩ rằng chiều nào, người ta đã bắt mẹ tôi nhổ hoa lý, phá giàn tre để trồng ngô khoai, chẳng hạn. Mẹ tôi sẽ chết khô héo trên mảnh đất xác xơ. Không biết mẹ tôi có giận tôi, có ân hận vì chưa dặn tôi thêm một điều gì không? Riêng tôi, tôi tiếc những mộng mơ thuở ở rừng đồi. Biết đâu mẹ tôi chả dặn cái điều liên quan đến việc ấy?
Tôi đi tìm thương yêu trong màu hoa lý, đi tìm những bà mẹ biết kể chuyện tâm tình, đi tìm cô bé thả mắt trong mơ dưới giàn cây. Tôi chưa gặp ai cả. Tình thương nhân thế còn se sắt lắm. Nhưng nắng miền Nam ấm áp, đất miền Nam trồng cây gì cũng có trái, vậy nên tôi cố gắng ươm cây Hy Vọng và quên rằng minh đang sống cùng cực, nghẹn ngào, thiếu từ đốm lửa gia đình đến mảnh áo đẹp. Tôi sẽ đi nữa, sẽ cầu xin từ ánh mắt tìm hiểu của người quê hương để tưới vào hàng cây Hy Vọng cho hoa nhân ái thắm nở rợp trời.
Bao giờ rừng cây yêu thương đơm trái, người quê hương sẽ về và tôi sẽ gặp cô bé nào đó dưới giàn cây bâng khuâng, ngồi đếm từng vệt hoàng hôn rơi trên sóng tóc. Tôi sẽ đưa vợ tôi sang quê ngoại mình, chỉ cho vợ tôi dấu vết giàn hoa thiên lý xa xưa. Vợ chồng tôi sẽ bắc giàn trồng hoa, chiều chiều tưới nước vào gốc cho chóng lớn. Đợi đến lúc lá theo cành leo kín đầy giàn thì loài ve sầu lại rủ rê mùa hạ sang và họ hàng nhà bọ ngựa lại tha thẩn cả ngày leo bò trên màu xanh muôn thuở. Tôi sẽ ngồi dưới giàn kể Chuyện hoa lý của Mẹ cho vợ tôi nghe. Vợ tôi phải nhớ để kể cho con tôi nghe sau này. Làng xưa đẹp lên màu áo nâu, rộn ràng lên tiếng kéo cưa xẻ gỗ làm đình. Tôi tập làm ca dao ví von những câu thương yêu với màu xanh hoa lý dìu dịu, nhẹ nhàng, lơ lửng tự ngàn xưa đến tận ngàn sau.
Duyên Anh
1962
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét