Thứ Ba, 4 tháng 11, 2025

CON CÁ MẮC CẠN - Doãn Quốc Sỹ

 
Ngày xưa có một người lính thú:
 
Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hỏa mai,
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền.
Thùng thùng trống đánh ngũ liên,
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.

Đi ngược dòng sông vài ngày rồi lên bộ lẽo đẽo vượt suối, rồi lại xuống thuyền ngược dòng sông, rồi lại lên bộ, cứ như thế ròng rã một tháng trường mới tới nơi đồn trú. Đó là miền biên giới có thác chảy ào ào suốt ngày đêm, có núi chập chùng cao ngất chắn mất đường về. Dọc theo ngọn nguồn con sông chảy xiết là những khu rừng già âm u nhiều rắn độc, nhiều thú dữ.

Đau đớn thay cho người lính thú. Anh phải ở đây ba năm, ba năm dài những lo âu, thương nhớ. Bất trắc có thể xảy đến hàng ngày khiến anh bỏ thây nơi rừng núi hùng vĩ nhưng hiểm độc này. Anh mà ngã xuống chỉ một chiếc lá nhỏ cũng đủ phủ thây anh vì thân anh sẽ rữa nát trước chiếc lá để rồi mất tích vào đám bùn đen ẩm thấp dưới rừng. Đêm đến anh ngủ, những hình ảnh khủng khiếp đó ùa đến cùng tiếng thác nước để uy hiếp linh hồn anh. Ba năm... ba năm dài...

Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thì canh điếm, tôi dồn việc quan.
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn.
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc măng mai,
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng?
Nước trong xanh con cá vẫy vùng...

Phải, một hôm kia anh vào rừng chém tre đẵn gỗ, anh lạc đến khoảng tròn rộng và sâu những đá là đá, lớn có từng tảng, nhỏ thành từng hòn, nhỏ nữa là cát sỏi. Nước ở đây thật là trong và có một con cá. Thoáng thấy anh, con cá vùng quẫy như muốn tìm nơi ẩn trốn. Người lính thú nào có biết điều đó, anh ao ước được tự do như con cá kia và buột lời ngâm:

"Nước trong xanh con cá vẫy vùng..."

Kỳ lạ thay, con cá đó biết nói. Nó hỏi anh:

- Anh cho là tôi sung sướng lắm sao?

Người lính thú đáp:

- Sung sướng lắm chứ! Cảnh thì tĩnh, nước thì trong, một mình anh thảnh thơi, vùng vẫy.

Con cá làm như cất tiếng cười mai mỉa rồi giải thích:

- Đây trước là con suối. Một hôm mưa nguồn lớn, đá trên núi xô lăn xuống ngổn ngang, con suối đổi dòng, để lại một khúc chết ở đây. Thoạt tiên nước đục, tôi còn khuây khỏa đôi chút vì mình có thể bơi lội tung tăng mà vẫn no mồi, chẳng phải để ý đến ai, và cũng chẳng ai biết có mình mà để ý. Tai hại thay nước lắng dần... Qua đi một tuần trăng, nước trong suốt như gương, tôi thấy mình trơ trẽn quá. Anh ơi, rủi bị tù trong một vũng nước đã là một điều đáng buồn, lại bị tù lộ liễu trong một vũng nước trong suốt như gương này thật là vừa buồn vừa nhục.

- Nước trong vắt không có mồi, anh có đói không?

- Tôi có thể ăn rêu bám ở những hòn đá quanh đây.

Người lính thú lấy cơm nắm giơ lên và nói:

- Tôi bửa cơm ra rồi ném xuống một ít cho anh nhé.

Giọng cá bình thản một cách buồn rầu:

- Cám ơn anh. Giá nước đục anh làm như vậy thì hay, nhưng nước trong như thế này anh ném xuống để thấy tôi bơi lên đớp lấy, chao ôi còn cảnh nào tủi hổ cho bằng!

Người lính thú ngẫm nghĩ, sực nhớ điều gì, anh nói:

- Thế tôi mang anh sang dòng sông gần đây vậy nhé!

Cá đáp:

- Cám ơn anh, nhưng cảnh tôi phải lên nằm trên lòng bàn tay anh để rồi anh mang ra sông thả xuống còn đáng sỉ nhục gấp ngàn gấp vạn lần cảnh bị tù thế này. Tôi tuy bị tù ở đây nhưng vẫn nghe thao thức tiếng sông qua mạch đất. Sẽ có ngày mưa nguồn làm tràn bờ giếng này, làm rềnh khúc sông kia, lúc đó tôi sẽ nương theo triền nước mà tìm ra sông. Như thế mới đẹp! Như thế mới đẹp!

Có tiếng mõ thu quân. Người lính thú chào cá, bịn rịn ra về. Từ đấy mỗi khi chém tre, đẵn gỗ, hoặc đi kiếm măng trúc, măng mai qua đấy anh cũng giữ ý chẳng muốn đến bên bờ suối chết để khỏi gây xao động cho con cá bị tù. Thảng hoặc gặp cơn mưa nguồn khá lớn, anh chạy vội tới đó ném vội xuống khối nước đục ngầu một ít cơm rời, rồi ra về trong lòng không vui, vì anh vẫn thắc mắc chẳng hiểu cá có còn ở dưới đó để nhận những hột cơm của người tri kỷ, hay đã trườn mình tìm ra sông rồi.
 
 
 DOÃN QUỐC SỸ  
  

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2025

MỘT THỜI KHÔNG QUÊN - Huỳnh Bá Hữu Minh


Năm đó tôi được 8 tuổi. Số tuổi quá nhỏ để hiểu biết mọi chuyện. Gia đình tôi sống ở miền Trung. Bố tôi, một quân nhân hồi hưu. Những hình ảnh nơi quê hương, chỉ còn trong ký ức tôi thật mờ nhạt.
 
Gia đình tôi thuở đó nghèo lắm, điều này chỉ lớn lên tôi mới biết. Trong thời gian còn tại ngũ, bố tôi để dành được một số tiền kha khá. Nên sau khi ra khỏi lính, số tiền đó bố tôi hùn với một người bạn, mua lại một chiếc xe đò cũ để chở khách. Lộ trình ĐN - HA - TK. Đời sống gia đình tôi nhờ đó cũng chưa đến nỗi nào. Mẹ tôi buôn bán phụ thêm ngoài chợ. Còn bảy anh em chúng tôi (ông anh cả mới 11 tuổi) dĩ nhiên, không giúp đỡ được gì cả.
 
Đời sống tưởng sẽ êm đềm như thế mãi. Nào ngờ, trong một chuyến đi như thường lệ, chiếc xe gặp tai nạn, bị lật. Hầu hết hành khách trên xe đều bị thương. Bố tôi, tưởng rằng đã chết. May sao, chỉ bị thương nặng.
 
Cả gia đình chỉ sống nhờ vào việc chạy xe của bố. Sau tai nạn, gia đình chúng tôi kiệt quệ luôn. Thuở đó, anh em tôi chỉ biết rằng bố gặp nạn. Chứ làm sao biết được vấn đề tài chánh trong nhà, với những đầu óc quá bé như thế. Gia đình chín người, thêm bà nội nữa là mười. Mười miệng ăn, chỉ trông cậy vào số tiền nhỏ nhoi của bố tôi. Và ít tiền kiếm được ở chợ của mẹ. Dẫu cố gắng hết sức, cũng không thể nào tránh được lo âu.
 
Nhưng bố mẹ vẫn không bao giờ cho chúng tôi biết tình trạng gia đình. Ông bà không muốn tuổi thơ chúng tôi bị ám ảnh vì những hình ảnh không đẹp. Cho nên, chúng tôi vẫn cứ thản nhiên vui sống. 
 
Sau khi đã lành hẳn các vết thương, bố tôi mới chạy tiền tậu được một chiếc xe đạp ngang, cũ. Sáng sớm, bố tôi chở mẹ cùng với hai gánh đồ ra chợ, bán. Nội tôi, đã già, cũng chạnh lòng cho tình cảnh dâu con. Nên mỗi sáng, bà cũng phụ giúp bằng một hàng trầu cau, bán nơi chợ. Chắt chiu từng đồng, dè xẻn từng cắc, vẫn không đủ chi tiêu cho gia đình. Trời không đoái hoài, mẹ tôi buôn bán lỗ lã, cạn vốn. Bố tôi lúc đó thất nghiệp. Ông cậu tôi, giúp bố mẹ tôi một ít để làm ăn, nhưng vẫn không lấp được vào chỗ thiếu hụt. Tình trạng kiệt quệ.
 
Bố mẹ tôi cố che giấu nỗi khổ. Anh em tôi, nhất là anh tôi vẫn cảm nhận được có một cái gì là lạ trong nhà. Những buổi tối, sau khi chở mẹ tôi về, bố tôi nhìn đàn con nheo nhóc mà âm thầm đau khổ. Tình thương của người bố không bộc trực như người mẹ. Âm thầm, kín đáo và tế nhị.
 
Để những đứa trẻ khỏi buồn, sau bữa cơm tối, bố tôi chở mẹ ở phía sau, và một đứa ngồi lên thanh ngang ở phía trước. Chở đi vài vòng - Bảy đứa cứ thay phiên nhau mỗi lần đi. Lần đầu tiên được nhìn thấy phố ban đêm, với ánh sáng, với xe cộ dập dìu, thằng bé tám tuổi tôi sung sướng lắm. Nhưng sợ hãi những chiếc xe chạy ngược chiều vô cùng. Những đêm đi dạo đó, thằng bé về ôm mộng đẹp vào giấc ngủ ngây thơ, vô tội. Đâu biết bố mẹ mình đang trằn trọc, đau khổ.
 
Tôi có một ông chú ở Sàigòn. Tôi chẳng biết Sàigòn ở đâu và ông chú tôi giàu sang cỡ nào. Nhưng mỗi khi (tôi nhớ lắm điều này) được tin chú tôi ở Saigon về, tôi thấy bố mẹ tôi và vài người bà con lo cuống lên. Lăng xăng, xếp đặt, lo lắng để "đón rước" chú tôi. Điều này làm tôi cũng sợ lây. Sợ nhưng mừng. Vì dẫu sao có một ông chú giàu như vậy, thế nào cũng cho tiền mình. Tôi nghĩ thế.
 
Sau này lớn lên, bố tôi mới kể cho chúng tôi nghe chi tiết, để ngậm ngùi thương cho bố mẹ.
 
Lần đó, chú Tư về - tôi nhớ rõ - đó là một người đàn ông đẹp trai. Bộ com-lê chú mặc làm cho hàng xóm phải khúm núm chào ông. Và ông đi máy bay nữa. Đó là điều xa vời đối với đám dân nghèo xung quanh. Chú tôi đi về cùng với bà vợ, mà tôi phải gọi bằng thím. 
 
Bố mẹ tôi lo lắm, chú về, dầu muốn dầu không, bố tôi cũng phải có một bữa ăn nho nhỏ gọi là. Khốn nạn cho bố, nhà bữa đó hết gạo. Tiền cũng chẳng còn. Làm sao bây giờ.
 
Trước khi đến nhà tôi, vợ chồng chú mua theo nửa bao gạo. Thấy mang vô nhà mình, bố tôi hồi hộp, nghĩ rằng dầu sao cũng anh em. Chắc chú thấy tình cảnh gia đình như vậy, nên chú mua cho. Bố tôi mới bàn với mẹ, qua bên hàng xóm mượn ít gạo, đãi chú bữa ăn.
 
Bố tôi định khi chú cho nửa bao gạo đó, mình sẽ trả lại gạo mượn, lo chi. Mẹ tôi thật thà tin thế và lùi cửa sau đi mượn gạo. 
 
Khi trách nhiệm đè nặng hai vai mà mình không gánh nổi, bố tôi có quyền nghĩ đến những điều, mà bình thường bố không bao giờ quan tâm đến.
 
Hai vợ chồng chú tôi ở chơi đến chiều thì phải đi thăm bà con ở bên vợ. Lúc chú tôi đi, bố tôi hồi hộp chờ chú tôi "bàn giao" cho nửa bao gạo, nhưng vẫn không thấy chú nói gì cả. Cuối cùng chú tôi đem gạo đi luôn. Bố mẹ tôi đứng nhìn nhau chết lặng, xấu hổ. Nửa bao gạo đó, thật ra của bà thím mua. Không phải để cho bố tôi, mà là cho người bà con bên họ của thím.
 
Bố tôi kết luận : bố không giận chú tụi bây. Vì bố biết, chú sẽ không giúp đỡ gì được bố khi có thím kề bên.
 
Những ngày chú ở Đà Nẵng, tôi thấy thỉnh thoảng chú có ghé nhà bàn bạc với bố tôi điều gì - mà tôi chẳng biết... Chỉ thấy bố mẹ tôi thầm thì, bàn tán ghê lắm. Và lo buồn ra mặt.
 
Đến ngày chú tôi trở vô Sàigòn, anh em tôi mới rõ chuyện. Số là, chú thím tôi tuy đã lấy nhau lâu rồi nhưng không có được mụn con nào. Chú tôi thấy bố khó nhọc mới nuôi nổi 10 miệng ăn. Nên chú đề nghị để chú đem theo một đứa vô Sàigòn nuôi dùm và cho ăn học. Chú chọn đứa em gái tôi - con Hoa - lúc đó mới bốn tuổi. Đẻ con ra, đau xót từng đoạn ruột. Xa con, thử hỏi bố mẹ nào không đau lòng. Bố mẹ tôi khổ sở, đau đớn lắm.
 
Sau khi bàn tính với nhau, bố mẹ tôi đành để chú tôi mang Hoa theo. Dẫu sao thì Hoa cũng được ăn uống đầy đủ, và khỏi phải thất học sau này. Đó là điều bố tôi sợ nhất.
 
Về sau, bố biết mình đã lầm. Thì quá muộn.
 
Sàigòn xa xôi vạn dặm, làm sao bố mẹ tôi đủ tiền đi thăm con khi nhớ thương quay quắt. Bố mẹ tôi đành nhìn chú thím mang Hoa đi, mà đau đớn tủi hổ chảy nước mắt.
 
Nhưng tôi thì khác. Tôi còn quá bé để có tâm trạng như bố mình. Nghe nói em mình được vô Sàigòn, sống với bố mẹ nuôi giàu có, được đi xe hơi, tôi sung sướng lắm. Và tiếc rằng chú thím đã không chọn mình.
 
Mọi đau thương rồi cũng cố quên đi. Bố mẹ tôi còn có trách nhiệm với đám con còn lại. Việc buôn bán càng ngày càng thất bại thêm mãi, ngóc đầu lên không nổi. Đau khổ và thương nhớ đứa con gái bé bỏng, nhiều khi làm bố tôi quẫn trí.
 
Điều mỉa mai cho bố mẹ tôi là bà thím nghĩ rằng "nuôi dùm" bố tôi một đứa là đã giúp đỡ bố tôi. Nên bà "không trả" một cắc. Bố tôi dẫu chết đói tới nơi nhưng chút tự trọng còn trong người, nên cũng chẳng xin giúp đỡ một đồng nào. Chú tôi có thương bố, cũng không thể nào giúp đỡ được. Chỉ an ủi ít câu rồi thôi.
 
Ít lâu sau, chú gởi thơ về cho bố tôi, kèm theo bức hình con Hoa. Nhìn hình đứa bé mặc áo đầm, mang giầy, tóc cột hai bím thật dễ thương, mẹ tôi khóc ròng. Dầu đứa bé có xa lạ cái bề ngoài, nhưng gương mặt đó làm sao mẹ tôi quên được. Bà đưa tay sờ má nó "trong hình" mà tưởng như đang âu yếm, vuốt ve một hình hài thật sự. Bố tôi đứng lặng nhìn thương nhớ.
 
Còn tôi, nhìn đứa em mình đẹp đẽ như thế, tôi ao ước được nhìn thấy Sàigòn hơn bao giờ hết. 
 
Bố tôi viết thơ trả lời chú. Ít lâu sau chú tôi lại gởi thơ về. Lần này, bức thơ mang một ý nghĩa mới cho bố tôi. Chú tôi đề nghị bố nên dọn vô Sàigòn làm ăn. Dẫu sao cũng còn hơn là ngồi nhìn nhau chết đói. Nhìn sự thành công của chú, bố tôi cũng tin Sàigòn lắm. Bố bàn với mẹ. Vấn đề được đặt ra là làm sao có tiền để trang trải cho một chuyến dọn nhà xa.
 
Chú tôi cứ gởi thơ hối thúc. Chú hứa rằng, nếu vô chú sẽ giúp đỡ cho bước đầu làm ăn. Nhưng điều cần thiết nhất đối với bố mẹ tôi, là có tiền. Phải có tiền mới được. Mà chú thì chẳng gởi về giúp đỡ đồng nào. Vấn đề cứ dằng dai như thế cả năm chưa giải quyết được. Bố mẹ tôi thì lại mắc nợ tùm lum. Viễn ảnh thật đen tối.
 
Trong giờ phút nguy ngập nhất, Trời Phật đã giúp bố mẹ. Bố tôi thường nói thế.
 
Một hôm bố tôi nhận được giấy lãnh tiền hồi hưu. Bố mẹ tôi mừng lắm. Số tiền nhỏ nhoi, nhưng đối với gia đình tôi là cả một gia tài. Vấn đề đã được giải quyết. Một phần cũng vì thương nhớ bé gái. Bố mẹ tôi thu xếp ra đi lập nghiệp.
 
Trước khi đi, bố tôi sòng phẳng thanh toán nợ nần hết. Đồng thời báo tin cho chú tôi hay. Ông anh cả tôi vì học trường công, nên ở lại với nội, để học cho hết bậc tiểu học. Như vậy cuộc ra đi chỉ có bảy người: bố mẹ, chị tôi, tôi và ba đứa em nhỏ. Riêng tôi, tôi sung sướng vô cùng khi biết mình sắp sửa đi Sàigòn. Điều mong ước đã trở thành sự thật. Tôi chạy đi tìm hai thằng bạn nhỏ của tôi để báo tin. Thằng Giới nghe tôi nói, đâm ra mơ ước. Như nỗi mơ ước của tôi cả năm nay. Còn thằng Ngự, xum xoe nhìn tôi thèm muốn. Nó nói tôi "viết thơ" về cho nó. Tôi sung sướng, vui vẻ hứa hẹn đủ điều.
 
Và cái tuổi bé nhỏ đó làm sao tôi cảm nhận được chia xa là một điều buồn. Và tôi ra đi, ra đi để rồi chẳng bao giờ còn gặp lại 2 người bạn nhỏ nữa. Dẫu có gặp, chắc gì còn nhớ được mặt nhau.
 
Chúng tôi đi chuyến xe lửa sớm nhất trong ngày. Nội, anh Thanh và một vài người đưa chúng tôi ra tới ga. Anh Thanh tôi khóc ròng. Bởi vì anh học giỏi, lại học trường công, nên bố tôi không muốn anh phải dở dang sự học.
 
Chúng tôi lên toa hạng ba. Lúc tàu chuyển bánh tôi thấy mẹ tôi đưa khăn lên lau nước mắt. Bố tôi buồn rười rượi. Nhìn xuống dưới đường, thấy nội và anh Thanh khóc, dù đang nôn nao Sàigòn tôi cũng thấy buồn theo với sự chia tay này. Và tôi khóc. Tàu chuyển bánh. Bóng nội và anh Thanh nhỏ dần, nhỏ dần rồi khuất hẳn.
 
Trời hãy còn tối. Ánh đèn vàng trong toa thật ấm và cũng thật buồn. Vì là toa hạng ba, nên hành khách cũng là những người nghèo khó. Một vài người đã dỗ lại giấc ngủ. Anh em tôi, sau khi khóc lóc mệt mỏi cũng đã ngủ lại. Trời sáng, chúng tôi thức dậy, vẫn tưởng mình đang ở nhà. Nhưng khi thấy nhiều người lạ chung quanh, tiếng máy kêu xình xịch và cảnh vật hai bên đang lùi dần. Tôi mới chợt nhớ đến chuyến đi của mình.
 
Mẹ tôi trao cho tôi một gói xôi nhỏ ăn lót bụng. Tôi vừa ăn vừa say mê ngắm cảnh vật, quên buồn. 
 
Mắt tôi mở lớn. Óc tôi vạch to ra, như cố thu hết những hình ảnh đẹp đẽ ngày nào. Những hàng cây xanh (mà tôi chả biết cây gì), những cột điện chạy lùi dần. Lâu lâu có một hai ngôi nhà mọc buồn bã giữa khoảng đất trống. Thằng bé tám tuổi say mê ngắm nhìn,
 
Một chuyến đi lập nghiệp xa xôi với số tiền nhỏ nhoi như vậy, bố mẹ tôi phải tiết kiệm tối đa để đề phòng mọi chuyện. Bảy người nhưng bố tôi chỉ mua có hai vé rưỡi. Hai cho bố mẹ, nửa vé kia cho chị tôi. Hai đứa em bé quá, được bố mẹ tôi ẵm vào lòng. Chỉ còn tôi và thằng em kế, thằng Hữu. Nếu bố tôi cũng mua vé, hai đứa tôi phải mất hết một vé. Số tiền không lớn, nhưng đủ nuôi sống anh em tôi được một bữa.
 
Cho nên mỗi khi người soát vé đến, bố tôi nhét tôi và thằng Hữu xuống gầm ghế, lấy hành lý che ngoài để người soát vé không thấy.
 
Cứ thế cho đến hết lộ trình. Người soát vé đến, hai anh em tôi chui xuống. Khi ông ta đi, anh em tôi chui ra. Thấy hoàn cảnh gia đình tôi như thế, hành khách cùng toa thương hại. Thỉnh thoảng có người cho anh em tôi nắm xôi hay cái bánh.
 
Tàu chạy được hai ngày thì đến Saigon. Sau khi qua bao nhiêu làng mạc, rừng núi và chui vào mấy cái hầm tối đen như mực.
 
Điều mà tôi mong mỏi cả năm, bây giờ đã thành sự thật. Tàu vào thành phố. Tôi ngồi chồm hẳn ra ngoài khung cửa để ngắm nhìn. Ngang qua bùng binh Saigon tôi trố mắt nhìn mọi vật. Chao ơi, xe đâu mà nhiều quá. Thành phố đẹp vô cùng. Lại còn những chiếc xe ba bánh, hình thù kỳ quái, đủ màu. Lại còn tiếng máy kêu xình xịch của nó nữa mới lạ làm sao. Tôi hỏi bố, mới biết đó là những chiếc xích lô máy. Những chiếc tắc-xi, những chiếc xe buýt vàng, xanh. Tất cả chói lòa trước mắt tôi. Lần đầu tiên trông thấy, thằng bé say mê ngắm nhìn cho đến khi tàu chạy vào ga.
 
Đã được báo trước, nên chú tôi đem xe đến đón. Chỉ có mình chú, không có bà thím. Trên đường về nhà chú, chúng tôi lại được dịp ngắm nhìn thành phố "vĩ đại" này. Thành phố mà thằng bé tôi đã mong mỏi được đến ngay từ khi vừa nghe nhắc tới.
 
Nhà chú tôi là một xưởng làm ống cống lớn ở đường T.M.G. Điều mong mỏi nhất của chúng tôi là được gặp lại con Hoa. Bố mẹ tôi nôn nóng vô cùng. Tôi nghĩ, chắc bây giờ con nhỏ "ngộ" lắm.
 
Thật ngỡ ngàng và buồn tủi cho bố mẹ tôi. Chẳng biết chú thím tôi đào tạo, dạy dỗ con bé như thế nào mà khi gặp lại bố mẹ ruột của nó, nó chỉ khoanh tay đứng chào, mà không dám chạy lại sà vào lòng mẹ tôi như lúc còn sống chung trong gia đình. Mắt nó lấm lét nhìn bà thím (mẹ nuôi nó) một cách sợ hãi. Bố mẹ tôi cũng nể vợ chồng chú thím, nên không dám vồn vã với con.
 
Còn tôi, tâm hồn còn bé bỏng ngây thơ, nhìn con bé em mình có vẻ Saigon quá tôi xum xoe, hỏi han đa điều. Và tôi khám phá được một điều hết sức lý thú. Giọng nói của con bé rất Saigon, không còn "nhà quê", răng rứa mô tê như tôi nữa. Tôi ngắm nhìn quần áo, giày dép em mình một cách thèm muốn.
 
Gia đình tôi được chú thím cho ở trên một căn gác dành cho thợ. Bố tôi cám ơn và dọn hết đồ đạc lên căn gác ẩm thấp đó. Những ngày đầu trôi qua thật lặng yên. Không biết chú thím nói chuyện, bàn tán gì. Tôi thấy thím không được vui. Rồi những ngày sau đó, mỗi sáng tôi thấy mẹ tôi phải đi mua cho anh em tôi mỗi đứa một nắm xôi nhỏ, không còn ăn sáng chung với chú thím như ngày đầu. Bố tôi bắt đầu sử dụng chiếc xe đạp ngang đem theo của mình, để kiếm nhà, mướn ở.
 
Hình như thím tôi sợ tốn kém khi phải chứa chấp gia đình tôi.
 
Còn còn bé Hoa, tình mẫu tử có một mãnh lực thu hút con bé, làm nó quên hết sợ, nó bám riết theo mẹ tôi. Dĩ nhiên có mặt bố mẹ tôi đó, thím tôi không thể nào "dạy" con bé theo ý mình được.
 
Gần một tháng tạm trú ở nhà chú thím. Có hai việc mà tôi nhớ suốt đời. Một do chính bản thân tôi nhận lãnh. Và một do bố tôi kể lại sau này.
 
Hôm đó thím tôi bận việc gì, tôi không biết, giao chùm chìa khóa cho tôi giữ. Trong thời gian giữ chìa khóa, tôi đau bụng và phải đi vào nhà cầu và tôi đã sơ ý để chùm chìa khóa rớt xuống lỗ cầu, đầy nghẹt phân. Tôi quýnh quá, chẳng biết làm sao, chạy tìm mẹ tôi để nói cho bà biết. Chỉ là chùm chìa khóa, nhưng gương mặt hốt hoảng, sợ hãi của mẹ tôi - Suốt đời tôi còn nhớ - làm tôi biết chuyện sẽ không dễ dàng như mình nghĩ. Tôi chạy vụt ra nhà cầu kiếm cái cây thọc xuống để khèo xâu chìa khóa lên. Nhưng nó ở sâu dưới, tôi khèo mãi không được. Nghĩ đến gương mặt của mẹ tôi, nghĩ đến bà thím, tôi cố quên hết dơ dáy, nhờm gớm, thọc tay xuống lỗ cầu, moi móc dưới đám phân để tìm cho ra xâu chìa khóa.
 
Tôi chạy đi gặp mẹ tôi, đưa xâu chìa khóa cho người. Bà dặn tôi đừng để chuyện này lọt đến tai thím tôi.
 
Chuyện đó làm cho đầu óc tôi lớn hẳn ra. Thằng bé chín, mười tuổi, lúc bấy giờ mới nhớ đến phận ở nhờ của gia đình mình. Tâm hồn ngây thơ của nó bắt đầu nhen nhúm một chút thù hận, ác cảm với bà thím. Điều này làm thằng bé biết bố mẹ mình đã phải chịu nhiều cay đắng vô cùng.
 
Khi anh em chúng tôi lớn lên, trong những buổi nói chuyện gia đình. Tôi hỏi bố, hồi đó làm sao bố có được một ngôi nhà và làm nên sự nghiệp (dầu sự nghiệp chẳng là bao). Sau khi suy nghĩ để nhớ lại, bố tôi mới nói:
 
- Chú Tư tụi bây tuy chết rồi, nhưng bố vẫn nhớ ơn chú. Nhờ có chú bố mới được như ngày nay.
 
Tôi ngạc nhiên:
 
- Nếu con không lầm thì chú Tư nào có giúp bố được đồng nào để lập nghiệp đâu? 
 
Bố tôi gật gù:
 
- Đúng, chú Tư tuy chẳng giúp được đồng nào không phải chú xấu, nhưng còn thím Tư đó, chú chẳng làm gì được hơn. Bù lại, chính nhờ câu nói của chú, đã làm cho bố dựng được chút sự nghiệp này.
 
Bố ngừng nói, uống hớp nước trà, rồi chậm rãi kể tiếp:
 
- Hồi đó ở tạm nhà chú thím, bố thấy thím có vẻ không bằng lòng nên bố mới chạy kiếm cái nhà nào mướn ở đỡ. Nhưng với số tiền nhỏ nhoi, bố không thể nào làm được việc gì. Còn làm việc, bố mới chân ướt chân ráo đặt chân đến Saigon, đường xá còn chưa thuộc, bố làm được việc gì bây giờ. Chú con thì không muốn bố làm cho chú. Chú nói, dầu sao bố cũng vai anh. Vì trước khi đi, chú con có hứa giúp đỡ, nên bố tin và ỷ lại. Có lần bố mở miệng nhờ chú giúp đỡ, chú con mới nói với bố rằng: Anh đừng trông cậy nơi tôi, anh phải tự gầy dựng lấy sự nghiệp cho anh và cho mấy đứa nhỏ. Chính vì câu nói đó mà bố tự ái, bố vật lộn với đời sống. Dầu chẳng rành đường xá, dầu khổ cực nhưng cuối cùng bố đã thành công. 
 
Nghe bố kể, tôi thương bố vô ngần. Tôi biết bố đã phải gian nan ghê gớm để nuôi sống gia đình.
 
Sau lần chú tôi nói thế, bố tôi suy nghĩ, điều cần thiết là phải có được căn nhà riêng để ở. Bố tôi xông xáo đi tìm nhà. Có một người đồng hương bằng lòng để lại cho bố tôi ngôi nhà ở ngã ba Ông Tạ, với giá rẻ. Hồi đó ngã ba Ông Tạ là một bãi đất gần như hoang vu, với nhiều nghĩa địa, chỉ một số nhà ít ỏi. và trộm cướp, du đãng đầy đường.
 
Bố tôi kiểm điểm lại tiền. Chỉ có được bằng phân nửa giá tiền ngôi nhà. Mượn chú thì bố tự ái. Nên bố tôi mới gặp một người bà con vai chú của bố (mà tôi gọi bằng ông) để mượn. Sau khi để bố tôi năn nỉ hết nước miếng, người bà con này mới cho bố tôi mượn ít tiền. Nhưng với điều kiện: Bắt bố tôi phải làm giấy nợ, có lời. Và sau một năm, nếu bố tôi không trả được, ông ta sẽ siết nhà.
 
Bố tôi cay đắng nhìn người bà con, đành chấp thuận, cám ơn rồi mang tiền ra về. Bố tôi nghĩ, dầu sao ở nhà mình, cho dù ăn uống thiếu thốn, vẫn thấy thoải mái và sung sướng hơn là ở nhà người ta để chịu nhiều nhục nhã. Điều mà bố tôi sợ nhất là tâm hồn của các đứa bé con bố phải hoen ố, mặc cảm.
 
Dẫu bố cố tránh, cũng muộn mất rồi. Tuổi thơ của thằng con bố đã sớm biết hận người. Nó không còn nhìn Saigon bằng hình ảnh đẹp đẽ nữa, sự nghèo khổ của bố mẹ làm nó lớn hẳn ra. Nó mong cho chóng lớn, để kiếm được thật nhiều tiền, và ném vào mặt những người bà con quá tốt của nó. (Sau này lớn lên và mãi mãi, thằng bé thuở đó đã không thực hiện được giấc mộng con nít đó).
 
Sau khi đã định cư, bố sạch tiền. Chú tôi biết chuyện, nên lén bà vợ giúp bố một ít vật liệu để buôn bán. Một mình, một xe đạp, bố tôi rong chạy suốt từ Saigon, Gia Định vào Chợ lớn rồi ngược lên Gò vấp để kiếm hàng, tìm mối buôn bán.
 
Trời Phật không phụ lòng trông cậy của bố mẹ tôi. Do sự chịu khó của bố mẹ và của chúng tôi, cuối năm bố mẹ tôi gom góp được đủ số tiền để trả nợ cho ông tôi, cộng thêm tiền lời. Gia đình lại trở nên thiếu hụt. Ngược lại bố mẹ tôi không còn lo sợ mất chỗ ở nữa. Cuộc sống lại bắt đầu bằng con số không.
 
Riêng tôi, tuổi nhỏ nào mà chẳng ham có bạn. Tôi làm quen được vài đứa bé cùng trang lứa. Nhưng chúng nó hay đem giọng nói miền Trung đặc sệt của tôi ra làm để tài chế riễu, tôi xấu hổ và mặc cảm nên "chẳng dám" giao thiệp với chúng, không có gì buồn hơn cho một đứa bé không có bạn.
 
Đừng ai ngạc nhiên khi thấy một đứa bé V.N "lỏi đời" hơn bất cứ một đứa bé thuộc dân tộc khác. Chúng nó sớm biết đau buồn, dĩ nhiên nó phải sớm khôn lớn. Chúng không tìm thấy trong tuổi nhỏ của chúng những thiên đường thật sự, chúng phải tạo ra một thiên đường khác, một thiên đường trong tưởng tượng. Rồi ngụp lặn, đắm chìm, say mê với thiên đường do mình tạo ra đó.
 
Mỗi người, ai cũng có một thời để nhớ. Tùy theo hoàn cảnh. Với tôi, tuổi nhỏ của tôi là cả một thời, mà có lẽ suốt đời tôi không bao giờ quên được.
 
 
HUỲNH BÁ HỮU MINH      
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 146, phát hành ngày 20-10-1974)