Thứ Bảy, 31 tháng 5, 2025

CHIA TAY NGƯỜI BẠN NHỎ - Võ Hồng

Đó là một gia đình chim sẻ cư ngụ nơi mái hiên của một ngôi nhà yên tĩnh. Gia đình gồm một chim mẹ và ba chim con. Cha chúng bị tử nạn vì hòn đá ngu si của một cậu học trò lười biếng, nhác học bắn trúng. Sau tiếng 'rẹt" phát ra từ cái ná cao su, chim mẹ trở thành góa phụ, ba chim con thành mồ côi.

Một mình mẹ đặt tên cho con. Con chị là Nâu, vì cái đầu có lông màu nâu - thằng anh kế được gọi là Rằn, vì mình nó lông mọc rằn ri, còn con chim nhỏ nhất được gọi là "con Út". Thật tiện lợi. Đúng theo tinh thần của những bà mẹ quê.
 
Sáng nào cũng vậy, Má chỉ cần gọi "Nâu ơi! Rằn ơi! Út ơi! Dậy đi mấy con! Sáng rồi" là đã thành một tràng dài những tiếng chi chi chích chích.
 
Khi ba chị em bắt đầu có trí khôn, một hôm Má giảng:
 
- Đây là mái hiên của một ngôi nhà. Kia là phòng của ông chủ bà chủ. Kia là phòng khách. Chỗ cái cửa sổ sơn màu hồng, đó là phòng của hai đứa con.
 
Út nói: Con có thấy cái cửa sổ màu hồng. Trong cửa sổ có những cái dài dài.
 
- Đó là hai cái giường nhỏ cho hai đứa con, cái bàn nơi đứa lớn ngồi tập viết.
 
- Có những cái tròn màu đỏ.
 
- Đó là hoa hồng cắm trong lọ.
 
Út cúi đầu thấp xuống, cố gắng cho thật thấp nữa để dòm vào cửa sổ. Rồi reo lên:
 
- Con đã thấy hai đứa nhỏ rồi. Chúng nó ngồi trên hai cái thấp thấp.
 
- Đó là hai cái ghế.
 
- Đứa lớn tóc dài.
 
- Đó là con chị.
 
- Đứa nhỏ hơn đang cầm một cái gì trong tay chọc chọc vào một cái gì đặt trên bàn.
 
Má cúi thấp đầu xuống nhìn rồi quay lên nói:
 
- Nó cầm cái thìa múc vào tách nước.
 
Từ ngày biết rằng đây là một ngôi nhà và trong ngôi nhà có người ở, ba chị em hay chú ý nhìn xuống. Buổi sáng có một chị ra đứng quét sân xoèn xoẹt. Gặp một hòn đá hay một cái que chị hay to tiếng la lối, mặc dù quanh đó không có ai. Rồi chị ném vung hòn đá hay cái que ra đường một cách giận dữ. Mỗi lần thấy hòn đá bay vù thành vòng cung, ba chị em sợ quá nép vào nhau. Nếu hòn đá trúng ngay ổ thì... thì cái gì sẽ xảy ra, ba chị em không thể tưởng tượng tiếp được, chỉ biết sợ cái đã. Rằn có nhiều tưởng tượng nên sau khi nép lại còn né cái đầu nữa, làm như hòn đá đang nhắm cái đầu nó mà chạy tới.
 
Khi nắng lên, có ông làm vườn rảo qua một vòng. Ông lặng lẽ cắt những cành hoa, tỉa những lá sâu, uốn những nhánh cây manh mảnh. Ông có bộ râu rậm nơi cằm và cái ống điếu bự nơi miệng. Từ cái ống điếu, luôn luôn có khói bay lên.
 
Út chú ý đến cái vật lạ nơi cằm và nơi miệng của ông lão. Nó hỏi anh:
 
- Cái "người ta" lớn kia có cái mỏ dài. Nơi một đầu cái mỏ thì đen (chắc nó muốn chỉ bộ râu). Nơi một đầu cái mỏ thì trắng (chắc muốn chỉ đám khói). Cái "người ta" gì vậy?
 
- Chắc là cái... xe lửa. Bữa trước anh nghe Má nói khi Má bay lên cánh đồng thì gặp cái xe lửa. Đầu nó đen thui và nó phì phì khói trắng.
 
Ông chủ ít nói và cũng ít ra sân. Chỉ khi có khách tới thăm, ông ra hiên đứng tiếp, đứng ngay dưới cái ổ chim, ba chị em sợ quíu lưỡi. Hai đứa nhỏ thì mũm mĩm dễ thương. Da trắng và môi màu hồng. Con mắt tròn đen. Con chị hay dắt thằng em đi lững thững trong sân trong những buổi chiều. Con chị hay ngắt một cái lá trao cho em cầm rồi đi sục sạo vào góc sân, vào bụi cây tìm bắt những con vật nhỏ. Có khi nó đuổi theo một con bướm, đuổi từ bụi cây này sang bụi cây khác. Con bướm như đùa nghịch lại nó, cứ bay chập chờn rồi lại đậu xuống một nơi rất bất ngờ: một viên sỏi nhỏ hoặc một cái vành rổ cũ ai vất đâu đó. Khi con chị rón rén lại gần, thò hai ngón tay ngón tay nhỏ xíu lại bắt thì con bướm vỗ cánh nhẹ bay lên, bay đến đậu ở một cành gần đó. Con chị lại nhẫn nại rón rén đi tới, lại giơ hai ngón tay. Và con bướm lại bay lên. Khi con chị bị con bướm dẫn dụ đi xa, thằng em lẽo đẽo đi theo không kịp thì nó cất tiếng gọi chị. Tiếng gọi nhỏ và thanh. Có khi hai chị em ngồi kề nhau nơi bực thềm. Đứa em đong đưa đôi chân bụ bẫm. Con chị say sưa nói chuyện, - chắc là kể chuyện đời xưa, - và đứa em mở tròn đôi mắt ngây thơ.
 
Thấm thoát mà anh Rằn, chị Nâu lông cánh đã mọc đầy đủ, chỉ có Út gầy yếu, lông mọc lòi xòi. Má muốn tập bay cho hai đứa nhưng sợ Út buồn, Má chẳng biết nên tính sao. Một đêm khuya lắng nghe tiếng thở đều đều của Út, Má và anh chị nghĩ rằng Út đang ngủ say nên cả ba bàn chuyện tương lai. Má nói:
 
- Má muốn tập bay cho hai con...
 
Nâu:
 
- Nhưng tập bay được rồi, chẳng lẽ bỏ con Út lại một mình với Má?
 
Rằn:
 
- Dầu bay được, chúng ta vẫn cứ ở với Má. Đợi tới chừng Út bay được chúng ta sẽ chia tay.
 
Tiếng "chia tay" làm Má rơi nước mắt. Nuôi con lớn khôn, đủ lông đủ cánh thì mẹ con phải đành đoạn chia tay. Má quệt nước mắt vào lông cánh, thổn thức:
 
- Thương cho con Út, ốm yếu, òi ọp hoài. Cái chân trái của nó còn bị kiến bu nhọt cắn hồi nhỏ, đi dẹo một bên.
 
Út thức giấc từ nãy nhưng giả vờ ngủ say nằm lắng tai nghe. Nghe tiếng "chia tay" của anh Rằn nói, Út cũng bùi ngùi trong lòng. Út ít thấy thương thân phận mình mà thương Má nhiều hơn. Rồi tới thương chị và anh. Khi chia tay nhau rồi mỗi người đi về một xứ lạ, biết có dễ gặp nhau lại chăng?
 
Tiếng anh Rằn run run vì xúc cảm:
 
- Má tập bay cho chị Nâu và con. Chúng con sẽ bay tìm thức ăn phụ với Má. Má có thể nằm nhà chơi với Út.
 
Tiếng chị Nâu:
 
- Rằn nói phải đó. Hai đứa con đi kiếm thức ăn về nuôi Má và em, như vậy hợp lý hơn là một mình Má phải nuôi tới ba miệng ăn.
 
- Nhưng hai đứa con chưa có kinh nghiệm, dễ gặp tai nạn dọc đường. Lớp thì người ta giăng bẫy bắt, lớp thì người ta bắn ná trúng. Lại còn có lũ chim dữ bắt nạt dọc đường.
 
Rằn:
 
- Con sẽ học những kinh nghiệm của Má. Con sẽ...
 
Rằn lặng im không biết rõ mình nên sẽ làm gì.
 
Má thở dài:
 
- Thôi hai con ngủ đi, kẻo nói chuyện ồn em nó thức dậy, mất giấc ngủ của nó. Để rồi hãy hay.
 
Trong đêm tối, Út cảm thấy anh và chị rón rén trở mình. Cái lưng ấm áp của anh, cái cánh mềm mại của chị đang cạ vào lưng vào hông. Một ngày nào, Út sẽ không còn có nữa cái lưng đó, cái cánh đó nằm bên cạnh. Nghĩ đến  đây, Út thấy buồn quá, vội lắc đầu không muốn nghĩ tiếp.
 
Nhằm một buổi trời nắng đẹp, Út mở lời với Má:
 
- Bữa nay tốt trời, Má tập bay cho chị Nâu và anh Rằn đi Má.
 
Má nhìn Út, ngạc nhiên:
 
- Con nói... Ai bày con...
 
- Chị và anh đã lớn rồi, đã đến tuổi biết bay. Con thích được nhìn anh chị bay lượn.
 
- Để đợi con lớn rồi cùng tập một lượt.
 
- Con tập sau cũng được.
 
Má biết Út thành thật khi đề nghị như vậy nên Má gọi Nâu và Rằn hãy chuẩn bị đi theo Má ra vướn ổi sau nhà. Té ra Má đã sắp đặt đâu đó sẵn sàng, đã chọn lựa bài tập từ lâu mà các con không hề biết. Trước khi rời ổ, Má dặn Út:
 
- Con nằm yên trong ổ. Nửa giờ sau anh chị và Má về.
 
Bằng những bước nhảy ngắn, ba mẹ con chuyền thoăn thoắt trên những cành khế. Từ cành khế, họ vù một cái đáp sang cành mận. Thật dễ sợ! Một thước khoảng cách, một thước bay giữa khoảng không, và mặt đất thì sâu hun hút dưới kia. Nếu đuối cánh một chút, nếu hụt chân một cái thì... Không ai dám nghĩ tiếp. Chỉ mới nghĩ tới đó người ta đã muốn nhắm mắt.
 
Má đã đưa anh chị đến vườn ổi sau nhà. Nằm trong ổ, Út nghe những tiếp chích chích thật lớn của Má, những tiếp chíp chíp run run của anh chị. Chích chích nghĩa là "Bạo dạn lên con... Đập cánh mau thêm chút nữa... Đừng ngó lui ra sau... Coi chừng cái nhánh mãng cầu nằm ngang..." Chíp chíp nghĩa là "Con run chân quá Má ơi... Sao đập cánh mau mà người con nó không nhích lên được chút nào vậy... Má đứng xê ra để con bay về chỗ đó..."
 
Ở bài tập về, Rằn ngậm theo một trái ổi non xinh xinh để tặng em. Út hỏi:
 
- Có nhiều cây ổi không?
 
- Nhiều lắm, Chúng đứng gần nhau, cành của cây này đâm vào cành của cây kia.
 
Út cười:
 
- Như vậy là anh yên tâm, không sợ bay dở té xuống đất. Cây ổi nào cũng nở nhiều hoa phải không?
 
- Nhiều lắm. Hoa trắng đầy cành. Nhìn đâu cũng thấy có hoa nở sẵn đang đợi mình.
 
Chị Nâu tặng Út một cái kén trong có con nhộng nằm.
 
- Con "nhộng" là con gì, chị?
 
- Là con... Con sâu lớn lên biến thành con nhộng.
 
- Rồi con nhộng lớn lên biến thành con gì?
 
- Thành con bướm.
 
- Con bướm là cái con có cánh màu vàng như cái hoa phải không?
 
- Đúng đó.
 
Út nhớ đến con bé bắt bướm ngoài sân. Hôm đó Út chưa biết con bướm. Út tưởng là cái hoa lạ biết bay. Nhớ đến con bé, Út thò đầu nhìn xuống chiếc cửa sổ màu hồng. Không thấy có con bé, chỉ có thằng em nó ngồi ở mép giường. Bên cạnh, chị Năm đang dỗ dành (Út biết tên chị Năm do miệng hai đứa nhỏ thường kêu).
 
- Bé uống sữa đi. Uống xong, chị Năm dắt bé đi chơi. 
 
Mặt thằng nhỏ phụng phịu:
 
- Bé không uống sữa. Bé không đi chơi. Không có chị Ti, bé không uống sữa. (Chắc Ti là tên của chị nó).
 
- Chị Ti mắc đi học mà.
 
- Mặc kệ. Không biết.
 
- Lát nữa chị Ti về.
 
- Mặc kệ. Không biết. Có chị Ti, bé mới uống sữa.
 
- Nhưng đợi lúc nào chị Ti về thì bé đói
 
- Mặc kệ. Không biết. Không có chị Ti về thì bé không uống sữa.
 
Út thương cái mặt của thằng bé quá. Má nó trắng và môi nó đỏ. Nhìn cái mặt nó buồn, Út thấy tội nghiệp nó. Sao không uống sữa đi. Bé ơi! Không uống sữa. Bé sẽ đói. Bé sẽ gầy gò ốm yếu. Út sợ gầy gò ốm yếu. Út nghe lời Má, Út ăn hột gạo đó, thấy không?
 
Chị Năm lại ngồi cạnh thằng bé, cầm muỗng múc vào tách sữa để kề miệng nó. Bàn tay kia vuốt tóc nó và miệng nói dịu dàng:
 
- Bé "ùm" đi một miếng cho chị vui. Bé "ùm" một miếng nhỏ thôi.
 
Thằng bé đẩy cái thìa sữa ra.
 
- Bé không uống. Không có chị Ti...
 
- Bé không uống sữa thì chị buồn. Chị không ở đây nữa. Chị về quê. Chị đi ở nhà khác.
 
Thằng bé quay nhìn chị.
 
- Chị ở đây với bé chớ. Với chị Ti chớ.
 
- Tại bé không uống sữa, chị buồn, chị đi.
 
- Chị không buồn, chị có đi không?
 
- Không.
 
Thừa lúc thằng bé không đề phòng, chị đút thìa sữa, và nó ngoan ngoãn uống.
 
Sau mười lần tập, chị Nâu và anh Rằn đã bay xa được. Mỗi chuyến bay xa về, anh chị không quên mang quà về cho em và mang những chuyện kể về cho em nghe.
 
Chị Nâu ưa mang về món ăn. Chị có tài chọn lựa món ăn, nếm những trái cây lạ, mổ những hột lạ và chị sưu tầm về nhiều thức ăn mà chính Má không hề biết. Anh Rằn thì ưa kể chuyện. Anh kể rằng anh đã thấy con bò và anh bay lại đậu lên sừng nó mà không có sợ gì hết. Con bò cứ cúi xuống thản nhiên gặm cỏ, ngước mặt lên nhai cỏ và đi đi lại lại, huơ cái đuôi đập qua phải qua trái để đuổi ruồi muỗi. Có lúc ruồi muỗi đậu ngay vào mắt vào tai của bò khiến bò lúc lắc cái đầu làm Rằn ngả nghiêng muốn té. Nhưng Rằn khôn lắm. Rằn khẽ đập cánh, co chân lên và trong nháy mắt Rằn đã ung dung đứng trên lưng một con bò khác.
 
- Đừng đứng trên mông nó, nghe không? - Rằn nghiêm trang dạy em. - Đuôi nó có một cái chổi, quất trúng mình một cái thì đau lắm.
 
Những chuyện lạ do anh Rằn kể làm Út say mê. Tưởng tượng con bò như vậy đó, cánh đồng như vậy đó, con sông như vậy đó. Ờ, trên đời sao lại có cái vật gọi là "con sông" nhỉ? Nước ở đâu mà nhiều dữ vậy, nhiều đến nỗi muốn uống bao nhiêu cũng có, muốn tắm bao nhiêu cũng có, khỏi cần tranh giành nhau, khỏi cần lấy cất để dành. Sao lại có con cá ở trong "cái nước" đó, con cá hình thù ra sao mà nằm được trong nước không ướt mình và không bị lạnh?... Lại còn vườn xoài của ngôi chùa cổ! Cứ đứng ăn trái chín, vừa ngọt vừa thơm, đứng ăn tỉnh bơ, ông thầy ngó thấy cũng chỉ "ùi ùi" giơ tay đuổi chớ không biết ném đá.
 
Tâm hồn mơ mộng, Rằn thường, kèm với gié lúa ngậm về cho em, thỉnh thoảng Rằn khéo thu xếp để ngậm  thêm một nụ hoa xinh, một mảnh lá đẹp. Có lần anh ngậm về một cái hoa, cài lên thành ổ. Út reo lên:
 
- Hoa gì mà đẹp vậy anh? Sao nó không màu đỏ? Nó xanh xanh. Cái màu xanh sao mà... đẹp vậy anh?
 
Giọng Rằn chậm rãi:
 
- Anh đem nó từ núi xa về cho em đó. Nó tên là hoa Bìm.
 
- Ồ hoa Bìm! Nó không phải là hoa Lan hả?
 
Rằn lắc đầu:
 
- Anh không biết. Nó nở nhiều. Nở rực rỡ cả một sườn núi.
 
- Núi có xa không?
 
- Xa. Xa hơn cánh đồng.
 
- Anh bay lên đó một mình?
 
- Ừ. Nhưng đừng có méc Má.
 
- Hôm sau anh đừng bay xa như vậy nữa. Em sẽ buồn nếu anh gặp phải tai nạn.
 
- Ừ.
 
Út nhìn cái hoa Bìm. Tràng hoa mỏng, cuộn tròn hình chuông, màu xanh da trời, rực sáng như có chứa niềm vui trong đó. Cái hoa đẹp, Út không muốn thưởng thức một mình, Út muốn đem tặng hai chị em đứa nhỏ. Ờ, chắc chúng nó mừng lắm. Hoa Bìm mọc ở núi đồi xa chớ đâu có bán ngoài chợ mà chúng nó có, do chị Năm mua? Nhưng mà đem tặng bằng cách nào?
 
Út suy nghĩ cả buổi trưa, bỏ cả giấc ngủ trưa. Cuối cùng, nghĩ ra được một cách. Buổi xế, khi Má và anh chị đã bay đi, Út ngậm đóa hoa Bìm vào mỏ rồi ngồi đợi một cơn gió. Út đã biết phân biệt hướng gió thổi và lượng được sức mạnh yếu của gió. Út chong mắt nhìn sang tàu dừa trước sân và đúng lúc nó uốn cong mình theo sức gió thì Út buông đóa hoa. Gió mang hoa, hoa rơi xuống thấp nhẹ nhàng.
 
Tim Út hồi hộp. Gió đẩy lọt đóa hoa vào cửa sổ. Hoa rơi nhẹ trên chiếc khăn trải giường.
 
Thằng bé trông thấy trước. Nó reo lên:
 
- Chị ơi! Có cái hoa!
 
Chị nó chạy lại:
 
- Ờ! Cái hoa đẹp.
 
Chị nhặt cái hoa, âu yếm tựa kề bên má.
 
- Chị yêu cái hoa quá. Cánh nó mỏng hơn cánh một con bướm. Em có yêu nó không?
 
- Có. Màu nó giống màu áo của Mẹ.
 
- Em yêu thì chị tặng em.
 
Vừa nói, con chị vừa trao hoa cho em.
 
- Nhưng nó từ đâu bay tới, hở chị?
 
- Cũng chẳng biết nữa. Chẳng biết từ đâu.
 
Con chị nhìn ra cửa sổ, ngước nhìn trời cao.
 
- Ở đâu vậy hà? - miệng nó lẩm bẩm.
 
Út vội vã núp vào ổ. Lòng nó vui rộn ràng. Nó tự nhủ: Mình giữ cái hoa đẹp không thích bằng đem tặng nó cho một người hiền lành mà mình yêu mến. Như vậy là có hai người sung sướng... ưở không, có tới những ba người sung sướng.
 
Một hôm Út hỏi má:
 
- Má ơi, cái "người ta" không có má phải không?
 
Má hỏi lại:
 
- Ai bảo con vậy?
 
- Con thấy hai cái "người ta" nhỏ nơi cửa sổ màu hồng không có má.
 
- Ờ, Má chúng nó bệnh. Bệnh cả mấy tháng nay, hiện vẫn còn nằm ở nhà thương. Mỗi ngày ba chúng nó đưa chúng đi thăm một lần.
 
- Có má bệnh chắc là buồn lắm ?
 
- Phải. Có má đi giữa, cầm tay hai đứa con đi hai bên thì vui hơn là hai đứa con cầm tay nhau đi lúc thúc trong sân.
 
Ờ, nay Má có nói mình mới nghĩ ra. Cả ngay chị Năm cũng chưa thấy bao giờ cầm tay hai đứa. Chỉ thấy cầm cây chổi. Hay cầm một hòn đá, mắt láo liên kiếm chỗ để ném.
 
Đã quá tháng tám mà những nhánh phượng còn rực rỡ hoa đỏ. Đứng giữa rừng hoa màu đỏ như làm nóng rực cả người. Chắc cái mặt mình cũng đang đỏ. - Út nghĩ. (trời ơi, cái mặt phủ toàn lông thì còn chỗ đâu để mà đỏ!). Những cánh nhị đực của hoa bung lên manh mảnh. Những phiến lá nhỏ cắt vòng tròn thật tinh vi xếp cạnh nhau đều đặn. Những cành thấp quấn xuống, vươn ra xa, ra mãi ngoài lề đường. Ưở, có một hàng "người ta" đi thành hàng dài, màu sắc xanh, đỏ, vàng, tím loạn xạ. Đi đầu có mấy người tay bưng những cái vuông vuông tròn tròn màu đỏ.
 
Đang say mê nhìn, chợt một tràng tiếng nổ vang dội khiến Út hoảng hốt nhảy vội về ổ. Chiều về hỏi Má, anh Rằn giành trả lời:
 
- Đám cưới đó.
 
- Các "con người" có đứa giống màu lá chuối, có đứa giống màu hoa phượng, có đứa giống màu hoa cúc...
 
- Mặc áo dài đó. Loài chim mình cũng vậy. Nhà nghèo đồng phục rằn ri là lũ mình: Sẻ. Áo nâu thầy tu là chú Bìm bịp. Sặc sỡ như công chúa là Công. Màu xanh thanh nhã là chị Ngũ trảu. Đồng phục áo dài trắng quần trắng là Cò. Đồng phục áo dài đen quần đen là Quạ.
 
- Màu trắng chắc hiền lành, màu đen chắc hung dữ - Út rụt rè nói.
 
Tức thì anh Rằn ré lên:
 
- Trời ơi, đừng lầm. Bà Cò lưỡn thưỡn ngó như vô tâm, vậy mà thấy cá lội thong dong là lướt tới xớt luôn, nuốt gọn.
 
- Lúc nãy đám cưới em thấy cái "người ta" bưng những trái xanh xanh dính thành chùm. Chắc trái đó ăn ngọt như...
 
- Chát ngắt. Trái cau đó. Có cái cô đẹp đẹp ở xế nhà mình chuyên môn buôn cau đám cưới. Bữa nọ lăn rớt một trái, anh mừng quá nhảy tới mổ. Lật đật phun nước miếng không kịp.
 
Má cất tiếng:
 
- Thôi ngủ đi. Khuya rồi. Để nó lớn nó bay đó đây, nó khắc biết.
 
Lại chuyện bay! Nằm tưởng tượng thấy mình bay được, bay được để nhìn thấy tận mắt những cảnh lạ, những vật lạ, chớ chỉ nghe không chưa đủ, càng nghe càng thêm thèm. Út chợt có ý nghĩ: Mình thử lén tập bay một mình chớ xin phép Má thì Má chẳng đời nào cho. Trong con mắt của Má thì mình luôn luôn là yếu là ốm. Ừ, thì mình cứ tập lần lần chứ có sao đâu. Bắt đầu bay một đoạn thật ngắn bằng cái cọng lá dừa kia thôi. Rồi bằng hai cọng lá dừa. Rồi bằng cả cái tàu dừa.
 
Sáng hôm sau, khi Má và anh chị đi rồi, Út đem thực hành ý định. Út bước ra khỏi ổ. Nhảy nhảy mươi cái cho giãn xương. Chọn những cành nằm gần nhau để tập chuyền. Tưởng khó lắm nhưng không ngờ cũng chẳng đến nỗi. Nhờ lông cánh cà lông đuôi khi xòe ra nâng đỡ cái mình nhẹ hẫng lên. Út bay tới bay lui. Sau một buổi tập, Út đã có thể bay chuyền từ cành này sang cành khác của cây phượng.
 
Ngày hôm sau Út bay chuyền từ cành phượng sang cành cây vú sữa. Những trái vú sữa chín mọng đứng nhìn gần ngó thật dễ thương. Cái vỏ mỏng láng mướt. Cứ muốn mổ, muốn rỉa cho sướng mỏ. Nhưng Út phải nhìn gấp vào cái cửa màu hồng cái đã và Út thấy thấu suốt cả căn phòng. 
 
Căn phòng nhỏ mà xinh xắn biết bao. Nơi những cửa sổ đều treo màn màu xanh nhạt. Thằng bé đang ngồi bên cạnh chị nó. Chắc vừa mới ngủ dậy nên gương mặt buồn buồn. Con chị cầm một miếng vuông vuông (sau này anh Rằn nói nó là cuốn sách) có nhiều hình vẽ tô màu, ê a tập đọc. Cứ đọc một đoạn ngắn thì nó quay lại nói chuyện với em.
 
- Cái con bé đó nó quàng cái khăn đỏ.
 
Thằng em hỏi:
 
- Con bé nào?
 
Con chị chỉ ngón tay vào cuốn sách:
 
- Con bé này. Nó quàng cái khăn đỏ thấy không?
 
- Ờ... ờ... - thằng em gật đầu
 
Con chị cúi xuống đọc một lát rồi quay sang em:
 
- Bà nó bệnh. Má nó sai đem bánh sang cho bà.
 
- Bánh gì? Bánh su sê hả?
 
- Không. Cái bánh này.
 
Con chị chìa sách chỉ cho em coi rồi cúi xuống đọc tiếp. Trong khi đó thì thằng em nhìn vu vơ ra ngoài khung cửa. Nó thấy con chim. Nó đập vào tay chị:
 
- Chị ơi, có con chim con đứng kìa!
 
Con chị ngửng mặt lên nhìn theo ngón tay chỉ của em. Ngón tay nhỏ như cái mỏ của một loài chim lớn. Bốn con mắt đen nhìn chăm chăm vào Út. Út nhìn lại. Con chị giơ bàn tay vẫy Út:
 
- Vào trong này chơi đi, con chim nhỏ.
 
Thằng em bắt chước chị cũng giơ bàn tay lên rồi nắm lại mở ra liên tiếp. Nó chưa quen cách vẫy tay. Và miệng nó cũng nói:
 
- Vào đây chơi, chim nhỏ.
 
Út lắc đầu, chíp chíp mấy tiếng. Chíp chíp nghĩa là "Không, không dám. Sợ Má la".
 
Thằng em nói:
 
- Chắc chim nhỏ nó đói. Lấy cho nó cái bánh mì.
 
Con chị:
 
- Ờ. Lấy thêm cho nó trái cam. Chị Năm ơi, lấy dùm cho em trái cam và cái bánh mì.
 
Từ đằng sau chị Năm "oi" lên một tiếng thật to làm Út giật mình bay vút lên cành cây cao.
 
Từ ngày biết rõ tính nết dịu dàng của hai đứa nhỏ, Út hay nghĩ đến chúng mỗi khi phải nằm trong ổ một mình. Nhiều lúc Út muốn bay thẳng vào phòng đậu trên thành giường để nhìn hai chị em chúng nằm ngủ trưa. Hoặc là đậu trên cái ngón tay nhỏ trắng nõn của thằng em để nhìn lên đôi môi màu hồng của nó. Hoặc đậu lên cái vai nhỏ của con chị để nhìn vào cuốn sách có in hình, tô màu đỏ màu xanh. 
 
Một buổi sáng kia Út nghe có tiếng khóc nơi phòng của hai đứa nhỏ. Tiếng khóc của đứa em, Út nằm lắng nghe một lát, thấy thương nó quá. Út liền vùng ngồi dậy, bay vù một cái đứng ở cành ô-ma nhìn qua cửa sổ. Thằng bé đang ngồi ở giường khóc bệu bạo, nước mắt chảy đầm đìa trên hai má. Nó vừa khóc vừa gọi nho nhỏ "Chị Ti ơi! Chị Ti ơi!"
 
Trông đôi môi của nó méo xệch đi để khóc, trông những giọt nước mắt lăn tròn trên đôi má phúng phính, Út mủi lòng cũng muốn khóc theo. Út bay sà lại đậu ngay trên thành cửa sổ cất tiếng chíp chíp. Thằng bé nghe tiếng chim kêu quay mặt ngó ra. Thấy con chim, nó bệu bạo nói:
 
- Chị Ti đi nhổ răng.
 
- Chíp chíp chíp chíp.
 
Chị không cho bé đi theo.
 
- Chíp chíp chíp chíp.
 
- Bé không sợ ông Bác sĩ nhổ răng đâu. 
 
- Chíp chíp chíp chíp. 
 
- Bữa nào chị Ti cũng đi hoài. Bỏ bé ở nhà một mình.
 
- Chíp chíp chíp chíp.
 
Con chó Nina không thích nghe tiếng chíp chíp. Nó vẫy đuôi, miệng hực hực sục sạo đi tìm cái tiếng dễ ghét đó. Nó thấy liền chim Út nơi thành cửa sổ. Nó hực lên một tiếng thật to, nhảy chồm hai chân trước chống lên mặt tường. Nhưng vút như một mũi tên, Út bay vù lên cao.
 
Con Nina há mõm nhìn lên. Hàm răng trắng nhởn trông lởm chởm không ra hàng lối. Cái gì mà kỳ cục vậy? Sao không có một cái mỏ? Làm sao mổ một hột lúa với những cái răng bất tiện như vậy. Giỏi bay lên đây coi nào. Không có cái cánh mà. Còn cái đuôi gì lạ vậy? Làm sao xòe rộng ra được?
 
Chiều đó khi sắp đi ngủ, chị Nâu nói với Má:
 
- Độ rày Út ăn được nên nó mập ra. Má thấy không? 
 
- Ờ.
 
- Hôm nào Má dạy Út tập bay.
 
- Để hôm nào. Để coi nó có đủ sức bay không. Trông đôi bắp đùi còn gầy.
 
Rằn:
 
- Để cho em thật cứng cáp đã. Vội vàng gì?
 
Nâu:
 
- Chị sợ em phải nằm nhà một mình em buồn. Nhất là bữa nào Rằn về cũng kể cho em nghe những thú vị của cuộc bay.
 
Má giải quyết lửng lơ:
 
- Để bữa nào coi. Để bữa nào...
 
Nghe Má và anh chị lo lắng cho mình, Út cảm thấy hối hận. Mình đã lén Má tập bay không cho Má biết. Làm lén cũng là một cách dối trá, một cách nói láo. Đó nhất định là điều xấu. Bây giờ có nên thú tội không? Chà, khó nói quá. Thú tội Má lại còn sợ thêm. Má lại càng thêm âu lo mỗi lần Má đi vắng. Thiệt mệt. Thôi, tốt hơn hết là mình đừng có dối Má nữa. Còn lỗi đã phạm thì để hồi nào có dịp thuận tiện sẽ thú với Má sau.
 
Nhưng sự quyết tâm coi vậy mà quả thật khó thực hiện. Không được bay thì cánh và chân ngứa ngáy khó chịu lạ. Những cành cây như mời gọi. Cái khoảng không như thúc hối. Gió thổi lao xao nền lá, thổi phập phồng lông cánh, lông măng. Cứ nhắm mắt mà tưởng tượng mình nghiêng qua đập đập vài cái, nghiêng cánh lại đập đập vài cái và thân mình lượn qua lượn lại giữa thinh không. Nhẹ hơn một chiếc lá bay.
 
Có tiếng thằng bé bi bô dưới sân: "Con chim xanh xanh. Nó đậu trên cành. Con chim xanh xanh...". Út cúi đầu nhìn xuống: thằng bé đi thơ thẩn một mình. Nó mặc bộ quần áo trắng, đội cái két trắng và mang giày trắng, bít tất trắng. Trông nó nõn nà như một cục bông. Nó đi từng bước ngắn, miệng cứ bi bô nhắc lại: "Con chim xanh xanh. Nó đậu trên cành".
 
Út nghĩ thầm: Nếu thằng bé thấy mình thì nó sẽ không hát như vậy. Nó sẽ hát "Con chim xam xám. Nằm bám trong ổ". Tội nghiệp, nó lại ở nhà một mình. Chị nó chắc lại đi nhổ răng. Sao mà nó không về chơi với nó. Ngó bộ nó cô đơn ghê chưa! Y như mình.
 
Thằng bé đã lẫm dẫm đi khuất góc tường. Tiếng bi bô "Con chim xanh xanh" nhỏ dần rồi cũng lặng mất. Út muốn nhìn xem thằng bé đi đâu. Nó đứng nhòm dậy. Nhưng nó vội tự nhủ: "Không được. Mình không được lén Má nữa". Nó nằm xuống trở lại.
 
Gió thổi lao xao những chiếc lá mãng cầu để lộ cho Út thấy những trái nhỏ nhăn nheo trông ngộ nghĩnh ghê. Chưa thấy có thứ trái nào sần sùi xấu xí như vậy. Mà sao thằng bé chưa thấy trở lại? Nó đi đâu vậy, cô đơn trong một khoảng sân rộng dường đó? Út thương nó. Phải đi ra coi thử nó hiện làm gì. Chỉ đứng trên cành cây thôi. Không bay đâu. Không bay thì có gì mà nguy hiểm?
 
Vừa tự nhủ như vậy, Út vừa rón rén đứng dậy bước ra khỏi ổ. Cái chân trái khập khiễng. Thật giận cái cái chân trái, phải bước nhẹ nhẹ với nó. Út nhảy lên cành phượng. Út nhảy ra xa. Vẫn chưa thấy thằng bé. Út nhảy ra xa hơn. À, nó kia rồi. Nó đứng nhón chân khều một trái khế nhỏ. Chắc nó muốn rủ trái khế xuống chơi với nó.
 
Người nó nghiêng về đằng trước. Cái quần ngắn kéo xếch lên để lộ đôi bắp đùi trắng tròn. Bé ơi, sao da bé trắng nõn vậy? Chẳng bù da của Út xám xám rằn ri. Ờ, rán thêm chút nữa đi. Khều khều cái móc cầm bên tay trái đó. Ngón tay mặt gần tới cái trái rồi. Nhón chân thêm một chút nữa đi. Một chút nữa. Chút nữa. Chút... Thằng bé bỗng loạng choạng. Trong loáng mắt nó ngã nhào xuống đất. Nó hét to. Út hoảng kinh , bay vù xuống cứu nó.
 
Út thấy đau nhói nơi chân trái. Đáp xuống đất quá gấp, Út quên cái chân trái có tật của mình. Đáng lẽ phải để cái chân mặt chạm đất trước để chịu đựng sức va chạm. Cơn đau làm Út nhăn mặt. Út ngã chúi xuống. Vội vàng, Út đập cánh phành phạch trên mặt đất, cố nhỏm dậy. Nhưng cả cái đầu và cái ức cứ nhủi xuống. Út xòe cái đuôi để chống lấy điểm tựa, nhưng cái đuôi lửng lơ ở đâu. Út nhoài người tới lấy đà, nhưng đôi cánh như mất tiêu hết sức lực. Út kinh sợ muốn khóc. Khốn khó như vậy sao? Út lấy lại can đảm. Phải nằm nghiêng bên mặt và đẩy người tới bằng cái chân khỏe mạnh. Phải nhủi tới. Phải nhủi tới. Phải...
 
Chợt có một vật gì âm ấm phủ lên cả mình Út. Cả thân mình Út được nhấc bổng. Út đưa mắt nhìn lên: một bàn tay người. Nhìn lên nữa: một khuôn mặt người. "Trời ơi!", Út thét lên và ngất xỉu đi vì khiếp hãi.
 
............
 
Khi tỉnh lại, Út ngơ ngác không biết mình hiện giờ ở đâu. Cái hoa màu vàng trong lọ. Cái giường trải khăn trắng. Cái rèm cửa màu xanh nhạt. Ừ, đây là căn phòng cửa sổ màu hồng. Nhưng sao mình lại ở đây? Út cố nhớ lại... Má và anh chị bay đi... Mình nằm trong ổ... Gió thổi... Có tiếng thằng bé... À thôi, nhớ rồi. Cái cảm giác âm ấm còn choàng ấp trên lưng. Đúng rồi, mình còn nằm trong một bàn tay nữa. Phen này con chết rồi Má ơi! Má ơi! Anh Rằn ơi! Chị Nâu ơi!
 
Nước mắt Út chảy lặng lẽ. Nó nhìn cái ngục đang giam cầm nó: bàn tay. Nhưng mà...ưở, sao bàn tay này khác bàn tay hồi đó. Bàn tay này nhỏ. Mềm. Thơm thơm. Bàn tay hồi đó cứng hơn mà. Nhám hơn mà. Có những cái móng dữ tợn mà. Út len lén đưa mắt nhìn lên: thằng bé. Bé ơi! Thả Út ra đi cho Út về với Má. Út thương bé lắm mà. Út thấy bé ngã. Út bay xuống cứu bé mà. Sao bé lại bắt Út?
 
Thằng bé không có vẻ gì hiểu lời nói của Út. Có điều khi nghe Út chíp chíp thì nó mừng rằng Út còn sống và khi thấy Út mở mắt nhìn nó thì nó cúi xuống gần mặt Út. 
 
- Chim nhỏ ơi, chim nhỏ sống rồi hả? Thương chim nhỏ quá. Chim nhỏ có đói bụng không? Chim nhỏ ăn bánh kem với bé nghe? Lát nữa chị Ti đi học về, chị Ti mua sữa đậu nành cho chim nhỏ uống nữa. Bé không muốn uống sữa đậu nành. Chị Năm nói sữa đậu nành của lão đó chỉ toàn nước lạnh. Chị Năm nói hôm nào má mạnh má về chị sẽ méc má là chị Ti hay uống sữa đậu nành của lão đó. Uống bệnh liền. Hay là chim nhỏ ăn mứt? Lọ mứt mới mở hôm qua đó. Chim nhỏ ơi, thương chim nhỏ quá.
 
Thằng bé cầm Út đưa lên kề sát má. Đó là lối hôn của nó. Rồi nó bẻ một miếng bánh kem, rứt một mảnh nhỏ đút vào miệng Út. Nhưng Út nhằn nhằn nhả ra.
 
- Sao vậy chim nhỏ? Ăn bánh kem đi chớ. Bánh ngọt và béo mà. Mềm nữa. Hay là chim nhỏ thích ăn kem? Thôi để bé lấy thìa múc kem đút cho chim nhỏ ăn.
 
Thằng bé lấy thìa múc kem đút vào miệng chim nhưng chim cứ ngậm chặt cái mỏ. Bé loay hoay xoay trở cái thìa, tìm cách đút cho được. Kết quả là kem dính bẹt vào đầu, vào mỏ, vào mặt Út, trắng bệch như mặt thằng hề.
 
- Chắc chim nhỏ không thích ăn kem. Chắc chim nhỏ thích mứt hơn. Để bé lấy lọ mứt cho chim nhỏ ăn.
 
Và lần này cái thìa sau khi vục vào lọ mứt lại tìm cách lách vào miệng Út và cuối cùng mứt lại được quệt đầy lên đầu, lên mặt, lên cả cổ và cánh của Út. Vừa lúc ấy, có tiếng chuông gọi cổng và Ti đi học về.
 
Ti mở cửa phòng, chưa kịp bỏ cái cặp nặng trịch xuống bàn đã nghe bé méc lia lịa, nghe không kịp:
 
- Chị Ti ơi, bắt được chim nhỏ đây này. Chị Năm bắt. Chị Năm cho em. Chị Năm nói nó tập chuyền. Rồi nó té. Nó có mở con mắt. Em mới cho nó ăn bánh và cho ăn mứt.
 
Ti đã chạy lại đứng kề em từ khi nghe tiếng đầu tiên "bắt được chim nhỏ". Trẻ con đứa nào cũng thích những con chim. Đợi bé thôi nói mà bé cứ nói hoài. Ti ngắt lời:
 
- Đưa cho chị cầm một chút.
 
- Một chút thôi nghe. Rồi trả cho bé. Mà coi chừng, phải cầm cho chắc chớ chim nhỏ bay mất.
 
- Ừ.Bé trao chim cho chị.
 
- Mà sao mặt mày nó dính tùm lum những gì thế này? Cái gì trăng trắng, nâu nâu, dẻo dẻo thế này?
 
- Bé cho nó ăn kem đó. Rồi bé cho nó ăn mứt nữa.
 
- Nó có ăn không?
 
- Nó nhớ mẹ, không chịu ăn.
 
Ti lại cầm chim đặt lên kề má, nói nựng:
 
- Sao chim nhỏ không ăn? Chim nhỏ không thích mứt chớ gì. Chắc chim nhỏ khát nước. Để chị Ti lấy nước cho chim nhỏ uống.
 
Vừa lúc đó cửa phòng mở, chị Năm hiện ra:
 
- Bé và Ti xuống tắm. Nước pha sẵn rồi.
 
Bé:
 
- Bé không tắm. Bé mắc giữ con chim.
 
- Chim đâu mà giữ? Hai bàn tay không.
 
- Chị Ti cầm dùm.
 
- Chị Ti cũng xuống tắm luôn.
 
Ti chu mỏ:
 
- Không có. Ti mắc nắm con chim.
 
- Bộ nắm suốt ngày đêm vậy sao? Không đi tắm, lát nữa Ba về tôi mách.
 
- Ti mắc nắm con chim.
 
- Nói lỳ vậy hả? Tắm xong còn ăn cơm. Ăn cơm xong còn học bài.
 
Chị nhìn lên đồng hồ tường:
 
- Ba sắp về rồi đó.
 
Ti vẫn xịu mặt:
 
- Ngày nào cũng tắm, ăn cơm, học bài. Ti mắc nắm...
 
- Để chị đi lấy cái lồng nhốt nó cho.
 
Chị Năm đi ra. Năm phút sau, chị trở lại với cái bẫy chuột mặt lưới trên tay.
 
- Vậy mà kêu cái lồng? - Ti phản đối.
 
- Nhốt tạm. Mai hay. Đưa con chim đây.
 
Ti giấu lui ra sau lưng, không chịu đưa.
 
- A, trễ giờ rồi đó nghe. Xe Ba sắp về rồi.
 
Chị hạ giọng dỗ dành:
 
- Đưa đây chị nhốt cho. Đi tắm rồi vô chơi. Tí xíu, lâu la gì.
 
Thừa lúc Ti không để ý, chị nhảy tới chụp bàn tay Ti. Ti la lên:
 
- Không được. Không được.
 
Nhưng con chim đã nằm gọn trong bàn tay của chị. Và đến lượt chị la:
 
- Cái gì mà tèm lem tèm luốc như vầy?
 
Chị đưa lên mũi ngửi:
 
- Ưở, mứt cam và kem ga-tô ở đâu mà đầy mặt đầy mũi con chim như vầy?
 
- Bé nó cho ăn đó. Không phải Ti đâu.
 
- Chim gì lại ăn mứt với ăn kem? Nuôi kiểu này mai nó chết ngay đơ.
 
Bé vội vàng cãi:
 
- Nhưng mà nó không ăn.
 
- Hú vía cho nó. Nếu nó ăn thì chỉ có nước đem chôn. Thà đem đưa chị vặt lông, ướp nước mắm hành tiêu rồi đặt lên lò nướng.
 
Ti nhảy tới giành cái lồng:
 
- Không được. Không cho chị nướng con chim.
 
Chị Năm cười:
 
- Thôi chị nói chơi. Chị không nướng đâu. Để cho Ti và bé chơi. Đi ra tắm rồi vô chơi. Chị để cái lồng trên bàn đây.
 
Ti ngần ngừ không biết có nên tin lời chị không. Bé thì hết nhìn chị Năm đến nhìn chị Ti và nhìn lồng chim. Chị Năm giục:
 
- Nước nguội ngoài đó rồi.
 
Ti nhích tới một bước:
 
- Mà chị phải hứa là không nướng con chim.
 
- Ừ, chị hứa.
 
Chưa lần nào cuộc tắm diễn ra mau mắn như hôm nay. Những lần trước hai chị em cứ mải chơi với bọt xà bông, cứ nhảy giỡn hoặc bước đi chỗ khác, chớ không chịu ngồi im cho chị Năm kỳ cọ và dội nước cho đâu. Hôm nay thì ngược lại. Phải tắm thật mau để trở lại với con chim. Chắc nó đang buồn.
 
Vừa tắm xong chưa kịp lau, bé đã vội chạy về phòng. Chị Năm hỏi:
 
- Chớ chạy đi đâu vậy? Bộ không bận quần áo hả? Bộ ở truồng hả?
 
Thật là bực bội, những cái quần và những cái áo, - lần đầu tiên bé nghĩ - Bày chi tới hai cái ống quần và hai cái tay áo. Làm bé suýt té mấy lần vì cứ thọc hai chân vô một ống quần. Lại còn chải tóc nữa. Thôi, hôm nay khỏi phải thoa phấn rôm. Hai chị em xỏ dép vội vàng, chạy băng lên phòng. Mở cửa một cái ào. Tiếng cánh chim bay vù ra cửa sổ.
 
- Chết! Con chim bay mất rồi!
 
Cả hai chị em cùng la lên vừa chạy vội lại bàn. Trong lồng, Út vẫn còn đó. Út nhảy qua nhảy lại tới tấp bấu những vuốt nhọn lên mặt lưới. Đôi cánh lè phè, lông rụng xơ xác. Miệng kêu chíp chíp thảm thiết. 
 
Bên ngoài cửa sổ nơi cành mãng cầu, Má Út, chị Út, anh Út miệng kêu chạch chạch, nhảy nhót tơi bời. Út nghe tiếng kêu lại càng lồng lộn, nhảy xuống nhảy lên, thò đầu ra ngoài mắt lưới cố tìm lối thoát. Ti đứng cạnh lồng nói giọng vỗ về:
 
- Đừng sợ chim nhỏ ơi. Ở đây với chị, chị cho ăn chuối và ăn cơm. 
 
Bé cũng đặt tay lên mặt lồng, nói nho nhỏ:
 
- Chim nhỏ ơi, ở đây với bé. Rồi tối cho chim nhỏ coi tivi. 
 
Nhưng chim nhỏ không nghe, chim nhỏ cứ nhìn ra cây mãng cầu, chim nhỏ cứ nhảy điên cuồng. Nhảy mệt quá, đứng nghỉ một xíu rồi lại nhảy nữa. Ngoài kia ba con chim lớn cũng nhảy rối loạn, miệng kêu không ngớt.
 
Có tiếng xe ba về trên sân. ba con chim hoảng sợ bay vụt lên cành cao. Ba đi vòng ra ngả sau. Chị Năm nói huyên thuyên gì đó với Ba và Ba bước vào. Bé chỉ cái lồng, mách Ba:
 
- Con chim. Bắt được con chim.
 
- Chị Năm bắt cho con đó hả?
 
- Dạ nó muốn bay theo mẹ nó.
 
- Ờ.
 
- Mẹ nó đứng ngoài kia.
 
- Ờ.
 
Ti nối lời:
 
- Lúc nãy bé đút kem và mứt cho nó ăn.
 
- Chim sẻ đâu có ăn kem và mứt. Nó ăn gạo.
 
Ti:
 
- Vậy mình lấy gạo cho nó ăn.
 
- Nhưng có mẹ nó gọi ngoài kia, nó không chịu ăn đâu.
 
- Vậy thì làm sao hở Ba, - Ti hỏi - Nó không ăn, nó đói, nó sẽ chết.
 
- Chắc chắn là nó sẽ nhịn đói mà chết.
 
Bé:
 
- Tội nghiệp nó.
 
Ba cha con im lặng. Ti hỏi lại:
 
- Vậy bây giờ phải làm sao, Ba?
 
- Chỉ có một cách là hãy thả nó ra.
 
Bé gạt ngay:
 
- Không được. Không được. Không cho thả. Con chim của bé.
 
Vừa nói bé vừa kéo cái lồng ôm vào mình. Giọng Ba chậm rãi:
 
- Tối, nó phải ngủ với mẹ nó. Mẹ nó ấp cho nó khỏi lạnh.
 
- Tối nó ngủ trong giường với bé. bé đắp cái mền cho nó.
 
Ba cười:
 
- Con ngủ quên, lăn đè lên cái lồng và cái lồng sẽ bẹp xuống.
 
Bé không còn biết cãi sao. Đành nói lì:
 
- Nhưng mà con không cho thả con chim.
 
Ba bước lại gần, đặt tay lên vai bé:
 
- Con thương con chim nhiều lắm phải không?
 
- Thương nhiều lắm.
 
- Con muốn con chim sống, hát và bay nhảy vui vẻ, sung sướng phải không?
 
- Phải. 
 
- Con không muốn con chim nằm chết, mắt nhắm nghiền và đôi chân co quắp lại phải không? Con không muốn thấy những bầy kiến lửa sẽ dẫn nhau tới cắn xé cái xác của chim, đục khoét đôi mắt của chim phải không?
 
Bé vội vàng lắc đầu:
 
- Không. Không. Bé không chịu để con chim chết.
 
Tay Ba nhẹ xoa đầu bé:
 
- Nhưng Ba đã nói, nếu con cứ giữ nó trong lồng thì nó sẽ bỏ ăn mà chết. Bởi nó nhớ mẹ nó, nó không thể sống xa mẹ nó.
 
Bé ngước mắt chăm chăm nhìn Ba.
 
- Lúc đó thì dù không muốn con cũng phải mở cửa lồng bắt bỏ nó ra. Nhưng bỏ ra để làm gì nữa? Nó nằm im. Nó chết rồi.
 
Ti tỏ vẻ xúc động:
 
- Không có cách nào hết sao Ba?
 
Ba lắc đầu:
 
- Chịu.
 
Mọi người lại im lặng. Ti đi lại gần bé:
 
- Thôi, bé để cho Ba thả con chim ra.
 
- ...
 
Mắt bé có đọng hai giọt nước mắt. Giọng Ba nhẹ nhàng:
 
- Nhưng nếu để con nuôi, mai mốt nó chết thì con sẽ phải khóc nhiều hơn. Thôi, đưa cái lồng cho chị Ti.
 
Bé không trả lời. Chị Ti lại cầm cái lồng và gỡ từng ngón tay của bé đang bấu vào mắt lưới. Bé chỉ cưỡng lại yếu ớt. Chị Ti cầm cái lồng trao cho Ba. Ba nói:
 
- Con chim này của bé nên để cho bé thả.Bé sẽ mở cửa lồng, con chim sẽ bay đi và con chim nhớ mãi ơn bé. Chị Ti cầm cái lồng đem lại gần cửa sổ cho bé.
 
Ba cúi xuống bế bé lại gần cửa sổ:
 
- Con nói lời từ giã chim đi.
 
Bé không nói. Chị Ti đặt tay lên mặt lồng, kề miệng bảo chim:
 
- Giã từ chim nhỏ nghe! Chim nhỏ bay về với mẹ nghe.
 
Ba giục bé:
 
- Bé cũng nói giã từ đi...
 
Bé lí nhí một tiếng: "Giã..." rồi nghẹn ngào không nói thêm được.
 
- Bé đè cái chốt cửa này xuống.
 
Bé thẫn thờ đè ngón tay lên cái chốt một cách chậm chạp. Cánh cửa lồng mở toang. Con chim nhìn ngơ ngác. Rồi nó bay vụt qua cửa. Chị Ti vỗ tay:
 
- A! Chim bay rồi! Giã từ chim nhỏ nghe! Mừng nghe! Về với mẹ nghe!
 
Ba cúi xuống bé:
 
- Bé cười lên đi.
 
Bé gắng mỉm miệng cười nhưng hai vệt nước mắt còn long lanh nơi gò má. Trên cành mãng cầu, anh Rằn, chị Nâu và Má ngạc nhiên nhìn thấy Út bay vút đến đậu kề bên. Có thật hay là đang nằm chiêm bao? Cái lồng bằng lưới kẽm kiên cố vậy mà. Nhưng mà phải rảo cánh bay về ổ cho mau cái đã, xa gấp cái vùng nguy hiểm. Má nghĩ như vậy và Má bay trước. Ba chị em nối tiếp bay theo.
 
Về đến ổ, những tiếng chích chích vang lên loạn xạ. Ai cũng cất tiếng nói và Út không biết nghe ai. Đại khái đó là một màn chất vấn: "Tại sao bị lũ đó bắt? Lũ đó leo lên ổ chụp được Út phải không? Út bị bắt hồi nào? Lũ đó có đánh đập Út không? v.v... Út nhọc mệt trả lời những câu hỏi.
 
Nâu nói:
 
- Cái "người ta" nhỏ đó, nó xấu lắm mà Út lại bay xuống cứu nó khi nó bị té.
 
Út cãi liền:
 
- Không phải. Không phải. "Người ta" nhỏ không xấu.
 
- Không xấu mà nó ôm giữ cái lồng không cho "người ta" lớn thả Út ra.
 
- Tại nó thương Út. Nó muốn Út ở chơi với nó.
 
- Thương cái kiểu gì lạ vậy?
 
- Nó cho Út ăn nữa mà.
 
- Ăn cái gì?
 
- Nó lấy cái dài dài múc cho Út cái mềm mềm, nhão nhão.
 
Rằn hỏi:
 
- Thế Út có ăn không? Ăn ngon không?
 
- Út không ăn. Út sợ quá. Út không ăn.
 
- Thế bây giờ Út có đói bụng không?
 
- Sợ quá, Út cũng quên đói.
 
Rằn đưa mỏ sục sạo tìm kiếm gì đó nơi bờ ổ. Lát sau, nó ngậm một con sâu nhỏ trao cho em:
 
- Út ăn đi. Hồi nãy anh tìm được con sâu này đem về cho Út. Da nó nõn màu vàng lợt, ngó là lạ. Đinh ninh Út sẽ thích. Ai ngờ bay về thấy cái ổ vắng ngắt.
 
Chợt Má hỏi:
 
- Mà ai dạy cho con bay vậy?
 
Từ nãy tới giờ mải vui mừng vi tai qua nạn khỏi, không ai chú ý đến việc Út đã biết bay. Giờ nghe Má hỏi, anh chị mới chợt nhớ ra. Út ngượng ngập trả lời:
 
- Con tự tập lấy.
 
- Cái chân trái con khập khểnh mà.
 
- Con liệu thế để ít chạm đến nó.
 
- Vậy là hú vía cho con. Má đã dặn bao nhiêu lần, phải luôn luôn giữ mình cẩn thận. Kẻ thù của chúng ta nhiều lắm. Có kẻ thù lập tâm cố ý dùng ná bắn ta để ăn thịt. Có kẻ thù vô tình như cái cây ngã đè, như hòn gạch rớt trúng. Má đã chọn cái mái hiên này để lót ổ vì cái "người ta" ở đây hiền lành. Nếu gặp phải kẻ dữ thì...
 
Má không nói hết câu nhưng Út đã hiểu rằng nếu gặp kẻ dữ thì sự việc gì đã xảy ra cho Út. Giọng Má chợt ngậm ngùi:
 
- Hồi còn mồ ma Ba các con, Ba các con cũng hay mơ mộng và cả tin. Thích lót ổ ở giữa đồng hoang để nhìn hoa nhìn lá. Có ruộng lúa chín để vừa cắn hột lúa vừa nghe tiếng sơn ca.
 
- Đó là sự thật. Ai lại chẳng thích? - Rằn ngắt lời.
 
- Nhưng lúa chỉ chín vào tháng Ba, tháng Tám. Phải bay mãi lên miệt đồng khô mới có lúa tháng Giêng. Chẳng lẽ mấy tháng khác chỉ nghe tiếng sơn ca mà no?
 
- Thì có chuối, có ổi. - lời chị Nâu.
 
- Quả đúng như vậy. Có xoài, có mít, có trái thơm, có trái thị, trái sim... Nhiều trái lắm. Nhưng đang mê ăn trái, có con chim cắt nó bay xớt qua, nó kẹp luôn mình, ôm về ổ nó.
 
- Thì mình đậu thấp thấp, núp trong lùm bụi, cũng có trái cây mà ăn.
 
- Ở dưới thấp có con rắn. Rắn hổ mang, rắn hổ lửa, rắn ráo, rắn cạp nong...
 
Rằn và Nâu lặng lẽ thở dài. Giọng Má nhẹ nhàng:
 
- Ba các con đành giã từ hương lúa và gió mát để dọn về thành phố. Nơi này người ta không thèm để ý đén loài sẻ nghèo nàn chúng mình. Họ chơi với hoàng anh, bạch yến, họa mi. Để ăn thịt thì có gà thiến, vịt áo lá. Chớ trẻ nhà quê thì một con chim sẻ nhỏ xíu cũng đem ướp đem nướng.
 
Út ngậm ngùi thương cho bà con của mình. Giọng Má vẫn đều đều:
 
- Xuống thành phố, Ba các con chọn làm ổ nơi trần nhà của một bệnh viện. Lý luận nghe quá đúng: Đã đi bệnh viện thì chỉ toàn là những con người đang đau khổ. Lo cái khổ của mình chưa hết, còn tâm tư đâu nghĩ cách làm khổ kẻ khác. Nhưng báo hại, một đêm kia có kẻ bắc thang leo lên trần nhà rồi dùng đèn rọi chụp bắt các ổ chim. Đèn sáng chói mắt, không biết đàng nào mà bay. Nhưng không hiểu do vận may rủi làm sao mà Ba con và Má thoát nạn. Dọn về ở nơi chái hiên này. Kiếm ăn ở cái chợ nơi cuối đường.
 
Nhưng Ba vẫn bị tai nạn. - giọng Nâu bùi ngùi, nửa như than, nửa như chất vấn.
 
- Đã nói Ba các con có tính mơ mộng. Ăn xong là thích bay đó đây để nhìn. Bay xuống bờ biển. Bay lên tháp chuông. Bay lại trường học. Thích nhìn học trò ngồi vòng tay nghe thầy giáo giảng bài. Kỳ đó Ba các con còn rủ một ông bạn láng giềng là ông Sẻ Trụi cùng tới thăm lớp (Ông này có cái đầu trụi lủi do bà vợ ghen mổ rứt rụng hết lông). Cô giáo bỏ lớp ra đứng nói chuyện với bà Cai ở hành lang, để học trò ngồi làm bài. Nhưng nhiều đứa nói chuyện. Nhiều đứa thụi nhau. Nhiều đứa nằm dài trên băng. Nhiều đứa moi bánh mì, lục trái ổi ra ăn. Ông Sẻ Trụi tính ba hòa liền lạch chạch một tràng, ý muốn lên tiếng phê phán cho Ba con nghe. Dè đâu một đứa học trò có thủ sẵn ná cao su liền gài viên đá nhắm bắn một phát. Trật ông Sẻ Trụi mà trúng ngay Ba con.
 
Má ngưng nói. Hai giọt nước mắt long lanh nơi khóe mắt Má. Xung quanh im lặng. Tiếng gió vi vu len lỏi giữa những cành phi lao đứng bên kia đường. Tiếng một cái xe gắn máy rồ lên rồi mất hút nơi xa. Má nghẹn ngào thở dài.
 
- Thôi, các con ngủ.
 
Hai ngày sau, Sẻ mẹ cho các con biết là mình đã quyết định dọn ổ đi nơi khác. Tim Út nhói lên khi nghe Má nói như vậy. Út không muốn đi ở chỗ khác. Anh Rằn và chị Nâu thì im lặng. Quyết định đột ngột quá làm hai người chưa kịp có ý kiến. Mãi lâu anh Rằn mới nói:
 
- Má định đi đâu? Má nói đã chọn nơi này hiền lành.
 
Giọng Má buồn buồn:
 
- Quả như lời con: nơi này hiền lành. Thằng em nhỏ, con chị nó, Ba nó, Má nó đều là những người người tốt. Nhưng còn chị... chị...
 
Nâu nhắc:
 
- Chị Năm.
 
- Má không nghĩ rằng chị ấy xấu, nhưng Má chưa dám nói là chị ấy hiền lành. Chị ấy đã biết rằng chúng ta lót ổ gần đây và có thể một ngày nào chị ấy lưu ý tìm tòi và chị ấy sẽ tìm ra.
 
- Còn cái chỗ sẽ tới?
 
- Gần đây thôi. Ở nơi mái lầu kia. Chủ nhà là một ông hay mang gương ngồi trước một cuốn sách. Có một bà chị tóc bạc phơ và mấy cô con gái dịu dàng. Nhà không có trẻ con nghịch phá.
 
- Rồi phải xây một cái ổ mới?
 
- Có một cái ổ cũ bỏ nằm gần đó. Rơm rác còn đó. Má sẽ lượm lặt sắp xếp làm tạm cái ổ cho bốn mẹ con mình.
 
Nhìn nét mặt buồn của Út, Má nói:
 
- Qua đó ở tạm một thời gian, tránh con mắt dòm ngó của chị...
 
Nâu lại nhắc:
 
- Chị Năm.
 
- Bên đó gần mà. Khi nào con muốn, con đi vòng qua góc nhà thì có thể nhìn thấy cái "người ta" nhỏ của con.
 
Út gượng mỉm cười. Má nói tiếp:
 
- Rồi khi tình hình không có gì xấu hơn thì chúng ta có thể dọn về trở lại bên này.
 
Út thầm nói trong lòng: "Cám ơn Má".
 
Bữa dọn nhà không có gì nhọc mệt. Chẳng có gì phải mang theo. Má bay trước, bay chậm dẫn đường. Anh Rằn chị Nâu có bổn phận bay kèm theo Út. Út nói:
 
- Để cho em đứng nhìn cái cửa sổ màu hồng một chút.
 
Chị Nâu vùng vằng:
 
- Má đang đợi kìa.
 
Anh Rằn bảo chị:
 
- Thôi để cho Út nó nhìn một chút.
 
Rồi quay sang Út:
 
- Một chút thôi, nghe.
 
Út gật đầu. Út đứng lại ở cành ô-ma nhìn qua cửa sổ. Cái lọ cắm toàn hoa cúc trắng trên bàn. Cái giường trải khăn trắng. Cái "người ta" nhỏ đang ngồi  bên cạnh chị. Đôi mắt đen như hai hột nhãn. Đôi môi nhỏ màu hồng đang mím chặt, nghiêm trang.
 
Tiếng anh Rằn đập cánh thúc giục sau lưng. Chị Nâu chắc đang sốt ruột. Út chăm chăm nhìn vào căn phòng, miệng thẫn thờ nói:
 
- Giã từ cái "người ta" nhỏ. Giã từ cái...
 
Út bật òa khóc, không nói trọn được hết câu. 
 
VÕ HỒNG    
 

Thứ Ba, 27 tháng 5, 2025

NHỮNG NGÀY GẦN NGHỈ HÈ - Minh Nguyễn


THỨ BA, HAI MƯƠI LĂM
 
Bích Chi đèo em đi học bằng chiếc xe đạp cũ kỹ. Dạo này đường vắng hoe áo trắng. Hai giờ hơn rồi mà hai đứa vẫn còn nhong nhong dạo chơi. Bích Chi bảo: gần nghỉ hè rồi đi học làm chi cho sớm, tụi mình giả bộ làm kiểu một bữa đi, chứ suốt năm cứ đi phản lực hoài mệt lắm. Em phá ra cười làm chiếc xe rung rinh và mặt Bích Chi thoáng nét nhăn nhó, tội nghiệp.
 
Ngang căn nhà gỗ, em thoáng thấy bóng anh chàng thường ngày ngồi đợi, nhìn em và Bích Chi rồi mỉm cười. Em đỏ mặt bấm tay Bích Chi, con nhỏ cười: a, hôm ni số xe 4511 có ở nhà mi hỉ. Suốt nửa năm học nay, ngày nào em và Bích Chi đi ngang đây cũng thấy dáng anh chàng ngồi đợi. Hai đứa thuộc luôn số xe của anh chàng.
 
Bích Chi đang đạp ngon trớn, em bỗng cấu vào lưng nó mấy phát.
 
- Chi ơi tụi con Hòa bên ni tề, qua nhập bọn hắn đi chơi hỉ.
 
Hai đứa băng qua đường đạp theo tụi nó về Cồn ăn chè. Gió mát ghê, em ngồi sau sung sướng chỉ tội con nhỏ Chi, tài xế lý tưởng của em phải cong lưng đạp. Mùa này về Cồn ăn chè bắp là nhất, chỉ "nghiệt" một nỗi là khó nuốt quá. Mấy anh con trai cứ ngồi "dòm" hoài dị ghê. Ăn xong tụi em thong thả đạp lên trường. Đường Lê Lợi vắng người thật dễ thương. Năm ni hè tới báo hiệu bằng phượng nở nhiều ghê, tụi em ngồi học không yên cứ vơ vẩn nhìn ra mấy cây phượng hoài. Đến trường tụi em chí đứng ngoài cổng chơi. Phòng học nào cũng buồn bã với những cánh cửa sổ khép hờ. Mấy tụi bạn châu đầu vào nhau hỏi xem đã viết lưu bút đầy đủ chưa, lớp em đứa nào cũng có quyển sổ dầy cộm để viết kỷ niệm, tụi nó viết thật ngô nghê, và nghịch như quỷ. Chẳng hạn muốn viết cho em Phương Khanh người hoàng phái tụi nó ghi "Mụ Khanh", cho con nhỏ Phiệt thì ghi "thước mốt".
 
Em đáng dứng chơi vớ vẩn trước cổng trường thì "anh chàng nhà gỗ" lướt xe ngang mỉm cười, anh chàng có xe số 4511 đó mà. Em thì thầm với Bích Chi: Mi xem bữa ni hắn gan chưa tề, dám lướt xe ngang Đ.K mà không sợ rụng tim. Chơi một lát tụi em đi về, hẹn ngày mai tái ngộ và đi chơi nữa.
 
 
THỨ TƯ, HAI MƯƠI SÁU, BUỔI SÁNG
 
Tất cả gồm mười bốn đứa, bảy chiếc xe đạp rủ nhau đi lang thang. Thúy bảo: tụi mình "trực chỉ" đi, hết đường Lê Lợi, xuống đập đá, qua Vỹ Dạ về luôn biển Thuận An chơi. Cả bọn gật đầu tán thành dù biết rằng không thể giang hồ tới đích được. Xui cho em và Bích Chi mới đèo nhau đi một đoạn đường gặp phải hai chàng đi honda kè kè theo một bên. Cáu quá em thọt vào lưng Bích Chi, nói nhỏ:
 
- Hai thằng hôm qua mình gặp dưới cồn đó Chi ơi.
 
Hai đứa lúng túng. Chi cố đạp thật mau, em thì bỏ nón xuống che mặt lại nhưng vẫn không thoát khỏi hai cặp mắt cú vọ. Anh ngồi sau bảo:
 
- Về Cồn ăn chè hả? Cho anh đi với.
 
- ...
 
- Răng lại im rứa, trả lời đi.
 
Em tức cười ghê không biết làm chi cả, mặt thì đỏ bừng. Em nói nhỏ:
 
- Đem bông về cho mẹ cắm không bị la chừ.
 
Anh ngồi sau cười:
 
- Nhà anh ở Đà Nẵng mạ anh không la mô, vài bữa vô Đà Nẵng chơi nghe.
 
Bích Chi cáu:
 
- Đi theo làm chi dị rứa, đi chỗ khác đi.
 
Một lát em và Bích Chi cũng thoát nợ nhưng bị tụi bạn bỏ rơi một khúc đường xa. Bích chi phải gò lưng đạp rút vừa rủa thầm hai chàng quỷ. Đường về đập đá dễ đi, cả bọn đạp mau ơi là mau. Nhìn một hàng xe đạp màu trắng đi, dễ thương chi lạ. Càng về xa đường càng đẹp và nên thơ. Có dòng sông nhỏ uốn mình theo con đường, hai bên dừa rũ. Nhịp cầu cảm thông nối liền hai miền xinh làm sao. Ngang Nam Phổ, quê của Bích Chi em giả vờ hỏi: Gái Nam Phổ làm sao hở Bích Chi? Con nhỏ dị đỏ mặt: Làm sao thì làm sao, mi hỏi chi rứa? Em khúc khích cười khiến Bích Chi cáu quá đòi bỏ em giữa đường. Đây về Thuận An còn đến bảy, tám cây số nữa tụi bây dám đi không?
 
Chẳng đứa nào dám trả lời hăng hái như lúc đầu, có lẽ mệt và mất nhiều "ca-lo-ri" rồi đó. Cuối cùng cả bọn quay trở lui và chia tay ở nhà Bích Chi.
 
Em dặn hờ:
 
- Khi mô đi học ra bờ sông đứng gọi tau với nghe Bích Chi.
 
Em đạp xe qua đập đá mệt đứt hơi, về nhà phịa với chị Tùy:
 
- Em mới về Thuận An chơi, vui ghê.
 
Chị trố mắt ngạc nhiên: đi xe đạp, mặc áo dài? Em cười: chứ sao, hè rồi phải thể thao một tí.
 
 
THỨ TƯ, BUỔI CHIỀU
 
Lớp học vắng vẻ, chỉ có em, Chi và Hòa. Mấy đứa kia rủ nhau nghỉ hết. Có lẽ đây là buổi học cuối cùng trong năm của ba đứa. Ban tam ca lên lớp ngồi hát ỏm tỏi. Em lén hái chùm lá phượng lên lớp ngồi bói. Mỗi đứa ngắt một chùm lá rồi đếm: may mắn, thành công, thất bại, hoàn toàn. Chiếc lá cuối cùng của em là chiếc lá thành công, mà thành công chuyện gì kia hỉ, em ngồi bói vớ vẩn ghê.
 
Tự nhiên thấy buồn kinh khủng. Nhìn quanh trường toàn một màu đỏ ối. Năm nay phượng nở nhiều, các chị đi thi chắc gặp nhiều may mắn. Ôi, Đồng Khánh thương yêu, sắp xa mi rồi đó mặc dù chỉ ba tháng hè ngắn ngủi. Những ngày cuối một năm học, thật mong manh, buồn bã. Nghỉ hè rồi, con đường em thường đến trường hết gọi là con đường trắng. Bích Chi nói với em: Nữ sinh Đồng Khánh nghỉ học đường Lê Lợi hết dễ thương. Em mỉm cười bằng lòng với nó. Nghỉ hè rồi, chắc em buồn lắm, nhất là mỗi buổi chiều ngồi nhìn ra sông, những sáng thức dậy không biết phải làm gì. Nhớ nhất là những ngày cuối cùng, những ngày "mong manh như nắng hạ".
 
Biệt ly, nhớ nhung từ đây nhé, Đồng Khánh thân yêu, dù chỉ ba tháng hè ngắn ngủi.
 
 
MINH NGUYỄN     
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 49, tuần lễ từ 4-5 đến 11-5-1972)
 

Thứ Bảy, 24 tháng 5, 2025

THÁNG NĂM MÙA HẠ - Hoàng Hải Thủy


Mùa hạ sáng choang. Buổi sáng tinh sương trời còn mát và trong như ngọc, hứa hẹn một ngày dài, vui, không biết bao nhiêu là trò vui : đi bắn chim, bẫy chim, câu cá, tắm sông. Chú thiếu nhi mười ba, mười bốn tuổi là tôi những ngày hè năm ấy ở Hà Đông đang tuổi nghịch ngợm. Giường tôi ngủ có cánh cửa sổ mở ra vườn. Ngoài vườn, ngay cửa sổ là một cây ngọc lan. Mùa hè, hoa lan nở thơm ngát những buổi sáng khi tôi mới thức, còn nằm mơ màng. Và tiếng chim kêu ríu rít. Chim sẻ, chim sáo. Chúng trở dậy trước tôi, chúng đã ra khỏi tổ và sắp kéo nhau đi về cánh đồng sau nhà kiếm mồi.
 
Những năm trước 1946, trước cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi sống trong một tòa nhà lớn. Nhà của thầy tôi xây dựng lên sau gần nửa đời làm việc nhà nước ở tỉnh lỵ nhỏ bé này. Nhà có lầu, có vườn rộng bao quanh. Những năm ấy, gia đình tôi lại ít người. Tha hồ rộng rãi. Mùa hè, tôi có trò chơi hấp dẫn nhất là leo lên trần nhà bắt chim sáo. Ở hai đầu hồi dễ có tới vài chục tổ chim sáo. Mùa hè, sáo đẻ trứng và nở con. Khi nghe tiếng sáo non kêu chim chíp và đứng dưới sân nhìn thấy sáo mẹ tha mồi về tổ là anh em tôi biết trên mái có sáo non, trèo lên trần nhà thò tay vào ổ bắt sáo. Mỗi ổ có chừng ba bốn con sáo non mới nở. Sáo nở chừng bẩy tám ngày là có thể bắt xuống. Bắt sớm quá sáo chết. Những con sáo mẹ mất con la quang quác một lúc, náo loạn chừng năm phút rồi thôi. Chúng như quên ngay là bầy con của chúng vừa bị bắt. Chúng lại tiếp tục sống như không có chuyện gì xẩy ra cả và có thể trong một mùa hè, sáo mẹ đẻ và ấp trứng, nở con tới hai lần. Thời ấy còn nhỏ quá, tôi không chú ý mấy đến chuyện sáo mẹ đẻ trứng mấy lần trong một mùa hè.
 
Tôi chỉ biết bắt sáo non. Mép sáo non có một đường viền vàng. Mỗi lần bắt đầu nuôi một con sáo là tôi lại tràn đầy niềm tin con sáo của tôi sẽ sống, sẽ già, tôi sẽ tuốt lưỡi nó và dạy nó nói tiếng người. Nhưng không con sáo non nào sống được quá một tháng. Sáo non dễ nuôi. Cho nó ăn chuối chín và nếu chăm chỉ, đi ra đồng bắt châu chấu về cho nó ăn. Phải vặt càng và cánh châu chấu đi. Sáo non ăn phải châu chấu còn càng có thể chết hóc. Nếu nuôi được con sáo nào hơi lớn, mép nó tự nhiên biến mất viền vàng. Phải tỉa cánh nó kẻo nó bay mất. Sáo được người nuôi trở thành quen người. Thả ra khỏi lồng, nó chạy theo người, lon ton thật dễ thương.
 
Có năm, mẹ tôi làm thêm nghề dệt màn cung cấp cho nhà binh Pháp. Sau 1940, đường giao thông từ Pháp sang Đông Dương không đi lại được dễ dàng, mẫu quốc lại bị Đức Quốc Xã chiếm đóng, quân trang, quân dụng của nhà binh Pháp ở Đông Dương không được tiếp tế nên họ phải đặt mua ở bản xứ. Nhờ nghề dệt màn, nhà tôi trở thành đông vui trong mấy năm. Mấy dẫy nhà tranh được dựng lên ở cuối vườn, những khung cửi dệt màn được đặt ở đó. Tiếng khung cửi lách cách vang lên suốt ngày. Có những anh thợ dệt nuôi chim sáo thật cừ. Sáo của các anh nuôi thì sống, sáo của tôi thì chuyên môn èo uột rồi chết ngủm củ tỉ. Tôi còn nhớ có anh thợ dệt nuôi được một con sáo thật già. Anh hy vọng sẽ tuốt lưỡi nó và dạy nó nói. Một hôm bỗng dưng con sáo lăn cổ ra chết. Anh thợ cay cú lắm. Anh bảo tôi bằng giọng bí mật là có thằng giết con sáo của anh. Buổi trưa khi khung cửi nghỉ chạy, anh gọi tôi ra góc vườn, dùng dao mổ bụng con sáo của anh ra khám nghiệm. Trước sự ngạc nhiên của tôi, trong dạ dày con sáo chết có một viên sỏi tròn xoe. Có kẻ nào đó đã cho con sáo ăn một viên sỏi. Sáo được người cho ăn nên rất tin người. Khi nó đói, nó kêu và há mỏ ra, người bỏ gì vào mỏ nó nó cũng nuốt. Anh thợ cho tôi biết anh sẽ tìm ra kẻ giết con sáo và trả thù cho con sáo. Thủ phạm chắc chắn là một anh thợ dệt khác. Vụ án mạng rồi trôi qua, chỉ có con sáo chết oan uổng và chủ nó hậm hực ít ngày. Bây giờ tôi hiểu vì sao người ta có thể giết nhau được vì những lý do không đâu, như vì một con sáo bị chết.
 
Tôi bắn súng cao su vào hạng gần bét. Tập mãi mà vẫn không khá được. Nhưng mùa hè, lúc nào tôi cũng có cây súng cao su cầm tay, hay giắt ở cạp quần. Một bà bạn của mẹ tôi mới đây, khi nhắc đến những ngày ở Hà Đông, còn nói: "Từ những năm anh còn nhỏ, tôi đã biết thể nào anh cũng trở thành văn sĩ. Lúc nào tôi cũng thấy anh cầm cái súng cao su, hay cái kèn harmonica và quyển tiểu thuyết..." . Bà nhớ hình ảnh tôi trong những ngày hè năm xưa.
 
Cả một mùa hè, tôi chỉ bắn được một con chào mào. Bắn loạng quạng mà không ngờ trúng. Con chào mào ấy đến ngày chết. Khi thấy con chim rớt xuống và tôi chui vào bụi cây để lượm nó, tôi run lên vì cảm động. Tôi đem xác con chim chết cứng về nhà như một chiến lợi phẩm, treo nó đến mấy ngày trên  cửa sổ, gặp ai cũng khoe.
 
Mùa hè là mùa của chim vành khuyên và chim di. Những con di đá ăn thóc, khỏe, dễ nuôi nhưng lì lì không hót hoặc chỉ hót rất ít. Vành khuyên nhẩy nhót hơn, hót nhiều hơn nhưng yếu và khó nuôi. Vành khuyên chỉ ăn chuối chín, phải hái hoa dâm bụt gài vào lồng cho nó rỉa. Những lồng chim khuyên đan bằng tre, hình vuông, trên có hai cái bẫy sập. Giá chừng một hào. Cũng chừng một hào một con chim khuyên, mua ở chợ Hà Đông, dẫy hàng chim.
 
Cứ năm ngày lại có một phiên chợ. Mùng một, mùng năm, mùng mười, ngày rằm v.v. Những sáng mùa hè, từ tảng sáng người từ vùng quê gồng gánh đi vào họp chợ như nước chảy. Từ La Khê, Bông Đỏ vào, đồng bào họp chợ đi qua cửa nhà tôi. Những gánh ổi chín vàng, ruột đỏ ối gọi là ổi đào. Mùi ổi ta chín thơm lạ thường. Miền Nam nhiều ổi nhưng không biết vì sao không thấy có giống ổi ta trái nhỏ, chín vàng, mềm đến bóp vỡ đôi ra được như thế.
 
Và hoa sen. Vào dịp hè mỗi năm, mẹ tôi thường mua hoa sen lấy nhụy ướp trà. Người quen gánh từng gánh hoa sen tới tận nhà. Anh em tôi xúm vào bóc hoa sen lấy nhụy. Buổi trưa, một góc nhà đầy hoa sen. Tôi nghịch trải những cánh hoa lên gạch, cởi trần nằm lên đó ngủ, mát lạnh cả lưng.
 
Mùa hè, tôi đi hớt tóc húi cua. Kiểu tóc ngắn thời đó có những cái tên là bàn chải, móng lừa, đờ-mi ca-rê. Chỉ có một cụm tóc ngắn dựng đứng lên đằng trước. Mẹ tôi nói: "Sao mày cứ thích cắt tóc ngắn cũn cỡn như thế. Trông nghênh ngáo như thằng ăn cướp..." Bây giờ thì khác rồi. Những thằng con tôi thích tóc dài, mỗi lần bắt buộc đi cắt tóc là một lần chúng khổ sở. Nếu bắt chúng cắt kiểu đờ-mi ca-rê như bố chúng ngày xưa chắc chúng khóc thét lên ấy và tôi chỉ mới dám cắt có đờ-mi ca-rê thôi đấy.
 
Tóc ngắn mới khỏe. Thời ấy thằng nào để tóc dài là thằng cù lần. Thằng nào không biết bơi, không dám đi bơi cũng là thằng cù lần chúa. Mùa hè, trò hấp dẫn nhất của tôi và bọn thiếu niên cùng tuổi ở Hà Đông là trò đi tắm sông. Hà Đông có sông Nhuệ Giang chảy qua tỉnh thật lý tưởng cho trò tắm sông mùa hè. Hai cây cầu và một bãi sỏi. Người ta chở sỏi không biết ở đâu bằng thuyền về đổ ở đó, ai muốn mua sỏi tới đó mua. Sông có sỏi nên bùn không vẩn lên, không bẩn chân, buổi chiều từ ba giờ cho đến tối, bãi sỏi đầy người. Bãi sỏi là pít-xin của bọn tôi.
 
Tôi bị cấm không được tắm sông, sợ chết đuối. Tôi lèn theo các bạn đi tắm, học bơi một mình. Đầu tiên bơi chó, rồi bắt chước các đàn anh bơi brasse, bơi crawl. Bơi cờ-run được hách lắm, dù chỉ bơi được vài thước. Một lần tôi lén đi tắm sông về đến nhà đầu hãy còn ướt. Mẹ tôi gọi lại sờ tóc tôi thấy ướt: "Chết thật thôi, thằng này lại đi tắm sông, không đánh cho mày một trận què lê, kéo liệt mày không sợ..." Tôi bị đánh một trận vì tội lén đi tắm sông. Tôi lăn lộn dưới đất bẩn hết cả quần áo. Đợi cho thầy tôi đi làm về, kể tội tôi xong, mẹ tôi mới cho dậy đi tắm, thay quần áo để ăn cơm. Mẹ tôi gọi anh xe...: "Múc cho nó thau nước đầy cho nó tha hồ vùng vẫy..." Tôi cay cú lắm nhưng không dám cãi... Thau nước toen hoẻn ngồi vào chưa ngập chim thì vùng vẫy cái nỗi gì? Sau đó tôi vẫn lén đi tắm sông đều đều nhưng tôi cẩn thận tắm xong rủ tóc hong cho thật khô mới về nhà. Tóc dài tai hại như thế. Húi cua thì tắm xong tóc khô ngay, sức mấy mà bị khám phá.
 
Muốn đi bơi ở Sàigòn, người ta chỉ có thể vào những piscine. Nhưng piscine Sàigòn mùa hè đầy nhóc những người. Quang cảnh như một bát ếch. Và đa số là Tầu Chợ Lớn. Tầu đi tắm piscine đông hơn Việt Nam nhiều. Miền Nam nóng nực và nắng quanh năm, đi bơi thật tốt nhưng người bình dân lại không có chỗ tốt để có thể đi bơi.
 
Qua việc bị cấm đi tắm sông ngày xưa nhưng vẫn cứ lén đi của tôi, tôi rút được một kinh nghiệm: biết bơi là một sự cần thiết, cha mẹ không nên cấm đoán con tập bơi, trái lại nên khuyến khích con mình tập bơi. Nếu cha mẹ không tự dắt con đi dạy nó bơi được, nên nhờ người khác. Cấm đoán để trẻ con lén đi một mình, không người lớn trông nom chỉ bảo, trẻ con có thể chết oan.
 
Buổi chiều tháng năm nắng như đổ lửa ở Sàigòn, tôi đứng trên phòng tập thể dục Golden Health club ở từng 10 của bin đinh Catinat nhìn xuống hồ bơi Neptuna. Ở đó có người thiếu phụ trẻ bận bộ bikini thật đẹp đưa đứa con nhỏ của nàng đến bơi. Tôi nghĩ đến Kiều Giang, con gái tôi, ngày nào nó cũng sẽ dắt con nó đi dạy bơi như người thiếu phụ kia, như tôi từng dắt nó đi dạy bơi ngày nó còn nhỏ. Tôi bỗng thấy hiện ra trước mắt khoảng thời gian ba mươi năm trôi qua : hình ảnh tôi thời nhỏ, mùa hạ, đi tắm sông ở Hà Đông, hình ảnh tôi, người bố trẻ, dắt con đi bơi ở những piscine Sàigòn. Và như mới hôm qua đây tôi còn nghĩ bao giờ mình có con mình sẽ dắt nó đi dạy bơi. Như trong một thoáng, tất cả đã qua. Tôi đã gần già...
 
 
HOÀNG HẢI THỦY     
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 55, tuần lễ từ 15-6 đến 22-6-1972)
 
 
 

Thứ Tư, 21 tháng 5, 2025

NHỚ CON VE SẦU - Hoàng Lâm Viên


Mến tặng tất cả những học sinh của tôi
 
Mấy buổi trưa nay trong người tôi thấy có một cái gì khác lạ... Một cảm giác náo nức nhưng cũng rất nhẹ nhàng dâng lên trong lòng tôi. Cái gì nhỉ? À, phải rồi! Tôi nghe tiếng ve kêu. Tiếng ve quen thuộc từ bao lâu đã trở lại để cùng tâm hồn tôi hòa tấu khúc hát bất tuyệt của trời đất. Tôi ngửng đầu lên ánh nắng xuân vẫn dịu dàng xuyên qua các cành lá nhưng cao hơn nữa, những đám mây trắng đang chia nhau cố che kín cả bầu trời xanh. Vào hè rồi còn gì!
 
Tôi không biết tiếng cuốc kêu thê thảm như thế nào nhưng cứ mỗi lần nghe tiếng ve kêu là trong lòng tôi lại gợn lên rất nhiều nỗi thiết tha. Đã bao lần rồi tôi nằm nghe tiếng ve kêu trong hàng cây trước hiên nhà mà không biết chán. Ôi, làm sao tôi quên được những buổi trưa hè nóng bức nhưng vô cùng êm ả đó? Tất cả trời đất như ngừng lại, người ta chỉ còn nghe thấy tiếng ve... Tiếng ve không du dương trầm bổng nhưng có mãnh lực đưa tôi về quá khứ, giúp tôi sống lại hình ảnh thân ái của những ngày xưa... Ngày xưa! Mới đó mà phút chốc đã hơn những mười năm... Phải, hơn mười năm về trước có một cậu học trò nhỏ cứ những buổi trưa hè thường hay đi học về sớm để lang thang dưới những hàng cây. Con đường rộng thênh thang còn hàng cây thì cao vời vợi và trên cùng là bầu trời chan hòa ánh nắng. Và trong những tàn lá cây dịu dàng kia, hàng trăm ngàn con ve cùng cất tiếng hát để giúp vui cho cậu trong suốt cuộc hành trình. Không gian yên tĩnh quá, cậu tưởng chừng như tiếng ve đã có từ đời kiếp nào rồi và bây giờ còn âm thầm vọng lại. Khúc ca êm đềm đó được những cơn gió mát phụ họa thêm vào đã nhiều lần quyến rũ cậu bé ngồi lại dưới gốc cây mà mơ mộng. Cậu muốn lánh xa cái lớp học nóng bức và buồn nản với một ông giáo già đạo mạo lúc nào cũng lăm lăm cái thước kẻ trên tay. Ve kêu... Gió thổi... Và mây trắng nhẹ nhàng trôi trên bầu trời. Biết bao hình ảnh đẹp đã hiện lên trong trí cậu trong những giờ phút thần tiên đó! Mây trắng càng bay những ý nghĩ của cậu càng trở nên mơ hồ huyền ảo... Rồi một ngày kia cậu sẽ lớn... tương lai có phải bao giờ cũng rộng rãi và tươi sáng như con đường cậu đang đi trước mặt nầy không? Ôi, còn biết bao nhiêu cái bí mật phong kính lấy cái số mạng của một kiếp người mà con ve kia, dù thóc mách đến đâu cũng không làm sao hé mở ra được! Tiếng ve chỉ có thể làm bật lên vài nốt nhạc trong cả bản đàn đang bắt đầu xôn xao trong lòng cậu cũng như trong lòng bất cứ người trẻ tuổi nào khác. Gió vẫn thổi, ve vẫn kêu đều đều và mây trắng trên trời vẫn tha hồ bay tản mạn... Cậu bé vào lớp học mang theo trong lòng bao nhiêu là mơ ước. Cuộc đời của ve đã gắn liền với cuộc đời học sinh của cậu từ đó và mối cảm tình thắm thiết nầy cho đến nay vẫn không có gì thay đổi. Có ai còn đang đi học, nghe tiếng ve kêu mà trong lòng không thấy náo nức bao giờ!
 
Người ta cứ hay cho phượng là loại hoa có công báo hiệu hè sang mà không nhắc nhở gì đến ve trong khi ve mới chính là vị sứ giả mau mắn và trung thành hơn cả. Phượng phải do tay người trồng mới có và trồng xong chưa chắc đã có hoa còn ve thì hiện diện khắp nơi và dường như suốt ngày lúc nào cũng lo làm tròn bổn phận của mình. Phượng lười biếng và kiêu hãnh bao nhiêu thì ve âm thầm và kiên nhẫn bấy nhiêu... Tự phụ là đứng đầu muôn vật mà loài người không hiểu cho điều đó. Bên cạnh sự bất công con người còn tỏ ra mình dại dột nữa!
 
Nhưng dù loài người đối xử thế nào ve cũng vẫn điềm nhiên ca hát suốt mùa hè. Mãi mãi ve vẫn là người bạn không bao giờ lỗi hẹn của các cô các cậu học trò, luôn luôn tái ngộ với họ sau chín tháng trời miệt mài sách vở. Mang trong lòng mộng đẹp như trời xanh, tinh khôi như mây trắng, họ ngẩn ngơ nhìn những đốm hoa phượng nở khắp đó đây (Màu đỏ của hoa có khác gì tấm lòng son trong người họ?) Rồi tiếng ve cất lên càng làm cho họ thêm phần luyến tiếc... Luyến tiếc gì đây? Họ không biết nữa. Họ chỉ thấy những ngày cuối năm phảng phất một hương vị lạ lùng, vừa buồn vừa đẹp một cách xa xôi... Những ông thầy khó tánh nhất cũng thành ra dễ dãi còn bạn bè thì không còn ai làm cho họ ghét nữa. Những ngày cuối cùng đó quý báu làm sao, họ cố giữ lại nhưng nào được. Từng ngày, từng ngày cứ lọt qua kẽ hở của hai bàn tay đong đầy thiết tha. Rồi đến một lúc nào đó chân họ ngập ngừng khi phải rời xa mái trường thân yêu... Ve, ve ơi, kêu làm chi nhiều thế? Xin hãy ngừng tiếng để trả lại cho ta những ngày xưa đã mất, những giờ phút được sum họp bên thầy, bên bạn! Ôi, còn đâu những sáng đi học, từng lớp lũ lượt vào trường, tiếng hát vang rền trong nắng. Ôi, còn đâu những chiều tan lớp, những tà áo trắng chạy ùa ra cửa, cười nói rộn ràng như tiếng chim non! Xin hãy trả lại cho ta những kỷ niệm vui cũng như buồn, những nụ cười cũng như những tiếng khóc. Xin hãy trả lại cho ta những lá thư xanh, những lời hò hẹn cũng như những ngày nghỉ học chan chứa ân tình...
 
Biết là không được mà vẫn mong ước chỉ vì ham muốn thì nhiều nên miệng mới nhủ lòng như thế thôi. Nếu con nhộng không phá vỡ cái kén thì làm sao hóa thân thành bướm để tung bay khắp bốn phương trời rộng rãi? Chính vì thế mắt kia tuy có nhìn trường nhưng chân này cứ phải rời xa... Vả chăng, hoa nở để mà tàn bèo hợp để mà tan, vạn vật mà còn phải phôi pha như thế thì loài người cũng không nên có nhiều than thở...
 
Cậu bé ngày xưa bây giờ đã lớn. Cậu vẫn còn có dịp đi dưới hai hàng cây rợp tiếng ve trong một không gian đầy ánh nắng nhưng những mộng đẹp ngày xưa đã không còn trở lại. Hoa bướm ngày xưa đã bỏ cậu để tìm đến những tâm hồn son trẻ khác. Cậu đành đứng lại một bên đường nhìn từng lớp người môi hồng, mắt biếc đi qua mà trong lòng không khỏi xao xuyến ngậm ngùi... Nhưng, dù sao đi nữa, con ve sầu mãi mãi vẫn là một hình ảnh đáng yêu trong tâm hồn cậu. Và bây giờ, cứ mỗi lần hè đến, tiếng ve kêu dù ở đâu cũng được cậu thưởng thức bằng cả tấm lòng để mơ hồ nhớ lại rằng ngày xưa đã có một thời mình còn đi học.
 
 
HOÀNG LÂM VIÊN      
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 55, tuần lễ từ 15-6 đến 22-6-1972)