Thứ Ba, 17 tháng 9, 2024

HƯƠNG HÀNH KHO - Bình Nguyên Lộc

 

Hồi bốn giờ rưỡi, bà Vĩnh Xương nói lớn lên nỗi lo lắng của bà:

- Hay là họ tìm nhà mới nầy không được?

Ông Vĩnh Xương đang khuấy xi-rô trong ly rôm nguyên chất, cười ha hả mà rằng:

- Bộ bà tưởng họ khù khờ như người "khuê môn bất xuất" là bà hay sao? Một thằng ở bên Tây về, còn một thằng từ bên Xiêm qua...

Ông Vĩnh Xương không theo dõi chánh trị, cứ quen miệng gọi Thái lan là Xiêm.

Đến lượt bà Vĩnh Xương bật cười:

- Ừ, thằng ấy từ bên Xiêm qua, nhưng nó về xứ hồi bốn tuổi thì cũng không phải là tay giang hồ dọc ngang trời biển gì đâu mà thạo đường.

Biệt thự mới của nhà thầu khoán Vĩnh Xương cất ở một nơi hẻo lánh, dựa thôn lộ số 22 của tỉnh Gia định, dẫn từ ngã năm Cây Quéo vô Gò vấp. Đó là một con đường vô danh đối với người Sài gòn mà cho đến cả một số tài xế tắc-xi cũng không biết.

Nhưng ông Vĩnh Xương tin chắc rằng họ sẽ tìm được, vì họ là hai kẻ rấp ranh lượm cầu mà cô Thúy, con gái độc nhứt của ông, đang gieo cầu. Ông giàu, còn Thúy là hoa hậu, thì ông mà có xây cất nhà cửa ở trên Cheo reo, họ cũng tìm được.

Họ đã đến chơi nhà ông trên mười lăm lần rồi, lần nào họ cũng được mời tới cùng một lúc với nhau. Ông bà Vĩnh Xương tiếp đãi niềm nở cả hai người, cho con gái ra đàm thoại với họ, nhưng ông cứ làm như quên rằng họ đã cầu hôn, không hề đá động đến vấn đề đó, chớ đừng nói là không chịu trả lời dứt khoát.

Bà thường hỏi nhỏ ông trong phòng the:

- Đến mấy thế kỷ nữa ông mới quyết định?

- Khó liệu quá!

- Quả khó thật! Cả hai đứa đều là kỹ sư điện, đều bảnh trai và có giáo dục, nhưng tôi nghĩ đó là quyền hạn của con Thúy, nó chọn ai tùy lòng nó, sao ông không hỏi nó để cho một đứa khỏi mất công đeo đuổi?

- Cả hai đứa đều có khuyết điểm, tôi do dự vì khuyết điểm của chúng nó chớ không phải bối rối không biết chọn đứa nào đức tính nhiều hơn.

- Thằng Côn học ở đây, chắc phải dở hơn thằng Tập học bên Tây, có phải như vậy không ông?

- Không, trường nào cũng có thể sản xuất nhơn tài.

- Chớ còn...

- Như thế nầy: thằng Tập là con nhà thợ thuyền lao động.

- Nghe nói ông già nó làm ông gì lớn lắm bên ấy mà!

- Đâu có! Cha nó hồi chiến tranh được mộ làm thợ không chuyên (O.N.S.) cho Pháp. Tại Ba-lê, ba nó gặp má nó làm bồi cho một ông quan thuộc địa về hưu. Nó sanh đẻ ở Ba-lê.

- Như vậy thì rất dễ tính vì thằng Côn là con của cai tổng.

- Cũng không phải. Chỉ là con nuôi thôi. Nó là người Xiêm.

- Thật à? Tôi ngỡ ông nói cà rỡn chớ?

- Ba nó là một sĩ quan Xiêm, đảo chánh hụt năm 1941, tị nạn ở đây. Má nó bỏ mình trong cuộc đảo chánh, ba nó thương nó quá, mang nó theo hồi nó bốn tuổi. Mấy năm sau ông ấy mới cho nó cho ông cai tổng Lành trên Bình dương nuôi làm dưỡng tử.

- Thì nó là con quan võ rồi, còn gì hơn!

- Nhưng nó mang máu phiêu lưu, sẽ rắc rối về sau lắm. Cái thứ phiêu lưu, nó sẽ làm xằng cả đời thì khổ cho con mình.

Rồi ông Vĩnh Xương thở dài mà thêm:

- Ông vua Hùng Vương ổng nhẹ trách nhiệm hơn tôi không biết bao nhiêu! Sơn Tinh và Thủy Tinh bằng tài nhau, hai anh kỹ sư này cũng vậy. Nhưng đời nay không thể đưa cái điều kiện nạp sính lễ sớm như đời xưa.

- Hay là không gả cho thằng nào hết. Con mình thiếu gì đám gắm ghé!

- Nó cũng đã tới tuổi rồi, gặp nơi phải chỗ, nên tính cho xong.

Trong khi ấy thì ở buồng cạnh sân thượng, nơi ông bà Vĩnh Xương đang giải khát và hứng gió, cô Thúy mở cửa sổ trông xuống đường nhìn về Ngã Năm Cây Quéo.

Thúy không ngóng chồng mà chỉ mong đợi người con trai đã làm cho tim dại của cô bắt đầu rung động.

Cách đây ba tháng, khi nghe cha kể lai lịch của hai thanh niên cử tử, Thúy buồn cười quá mà hình dung ra một người Thái lan trẻ tuổi, mập và lùn, đi cà nơ như một con vịt Xiêm. Ừ, loại vịt Xiêm đi như vậy và danh từ xưa "Xiêm" mà ông cụ đã dùng, khiến cho nàng liên tưởng ngay đến một con vịt Xiêm.

Nhưng lần đầu hai người khách trẻ tuổi ấy được mời đến ăn cơm tối, hồi gia đình còn ở tại trung tâm thành phố, Thúy đã kinh ngạc mà thấy cả hai đều mảnh khảnh, người nào cũng trái hẳn hình ảnh mà nàng đã vẽ vời ra trong trí.

Riêng một trong hai người đó, đã làm nàng bối rối, lúc hắn hỏi nàng một câu đầu, trong buổi gặp mặt đó.

Đến giữa bữa ăn, Thúy mới biết chàng là Côn, mà Côn là người thanh niên Việt gốc Thái lan mà ông cụ nàng đã nói đến.

Tập tương đối đẹp trai hơn, "mông-đen" hơn - sanh trưởng ở Ba-lê mà lại! - biết nịnh đầm hơn, nhưng không hiểu sao Thúy lại bị xúc động trước Côn trong khi đó thì nàng không nghe gì khác lạ khi trò chuyện với Tập, mà nàng chỉ xem như một người bạn trai thường.

Từ ấy những nay, nàng cứ mong Côn đến chơi. Câu chuyện chồng con là ông cụ bày vẽ ra thôi chớ riêng Thúy, nàng không nôn nao về vấn đề đó lắm. Nàng chỉ nghe rạo rực yêu đương mà Côn là ông hoàng đẹp trai của mộng gái thơ, đến rất đúng lúc, cái lúc mà mộng đang lớn mạnh.

Năm giờ kém năm. Thúy xem đồng hồ tay rồi bứt rứt, và như mẹ, nàng thầm lo họ tìm không được ngôi nhà mới nầy.

Nhưng mà kia, họ đến: chiếc Simca l.000 của Tập chạy trước, chiếc 203 cũ mèm của Côn theo sau.

Hai anh chàng nầy thật là dị kỳ. Không hẹn nhau, hơn thế, còn muốn lẩn tránh nhau là khác, họ lại cứ bị đụng đầu với nhau mãi, ngay từ lúc sơ giao giữa họ với gia đình nàng đến giờ. Ban đầu họ ganh tị nhau, có vẻ thù nghịch nhau, nhưng thấy ông cụ cầm cân đúng mực, họ đành phải hòa với nhau cho đúng tinh thần thể thao. Hai người cùng làm điện cả và Thúy tự hỏi về sau, anh chàng hỏng giò sẽ tấn công trả thù anh chàng tốt phúc bằng thứ khí giới nào? Chớ kỹ sư điện khó lòng mà gây thủy tai như con tinh ở biển ngày xưa.

Cả hai xe đều vào sân, và hai người khách được quản gia mời lên lầu ngay.

Thúy hồi hộp lắng nghe tiếng bước của bốn chiếc giày, cố truy tầm căn cước của nhịp bước bạn, nhưng chịu là không phân biệt được vì họ bước mạnh y như nhau.

Nàng còn phải đợi hơn nửa tiếng đồng hồ nữa mới được ra mặt. Ông cụ bà cụ nàng muốn dung hòa Âu Á, cho phép nàng tiếp họ, nhưng hạn chế thời gian gặp mặt. Lần nào cũng thế cả, và sau bữa ăn là nàng phải xin phép rút vào phòng liền.

Cô con gái của ông Vĩnh Xương lấy truyện trinh thám ra đọc, mong một đoạn hấp dẫn nào lôi cuốn cô vào câu chuyện để quên những phút giây chờ đợi dài như hàng thế kỷ. Nhưng không thể được. Nàng cứ muốn gặp mặt ngay người con trai ít nói, có gương mặt thật thà nhưng giọng đượm một âm sắc chân thành, mắt mãnh liệt sống tất cả những tình cảm đang sôi nổi một cách lặng lẽ nơi lòng chàng như canh hầm trong một cái nồi đậy vung thật kín.

Thúy đợi đến muốn rã cả lòng mới nghe mẹ gọi:

- Thúy a! Ra đây, con.

Đây là giây phút khổ sở nhứt của người thừa tự độc nhứt của nhà Vĩnh Xương.

Mối cảm kích, nỗi cuồng hỷ của nàng khi thấy mặt Côn, nàng phải cố mà che giấu, không phải sợ mẹ cha mắng khi khách về rồi, mà vì không thể ban cho cả hai, cảm tình bồng bột của nàng, mà chỉ một người được ân huệ thì người kia sẽ buồn, mất lịch sự quá.

Thúy phải chia đều ân cần, thành thử không nồng nhiệt với người lý tưởng của nàng được.

- À, hai anh!

- Cô Thúy!

Cả hai đều đứng dậy và Thúy hỏi:

- Hai anh tìm nhà có khó lắm không?

Mỗi người trả lời bằng một lối văn khác, nhưng đại ý là như vầy: "Tôi phải đến sở đạc điền tìm địa đồ làng Bình hòa xã đấy. Nhưng được cái là đến đây, gặp hai cụ với cô thì bao nhiêu mất công đều được đền bù xứng đáng".

- Hai anh thấy nhà mới như thế nào?

- Kiến trúc hết sức tân thời, Tập đáp.

- Khung cảnh quanh đây nên thơ lắm, đó là câu trả lời hơi lạc đề của Côn.

Bà Vĩnh Xương hơi phật ý. Người ta hỏi nhà mới thế nào? Cái anh lù khù lại đưa ý kiến về phong cảnh chung quanh, làm như ngôi nhà bảy triệu của bà không đáng kể.

Không bảo nhau mà cả bốn người, trừ bà Vĩnh Xương, đều đưa mắt một vòng ra ngoài.

Bên kia đường, một kiểng chùa cổ với mấy cây phù đồ rêu phủ, vây quanh vị lãnh tụ tinh thần ấy là mấy mươi nếp nhà lá cất giữa những miếng vườn con con. Sau lưng xóm, đồng trống trải ra xanh nõn, cho tới một con rạch nhỏ uốn khúc quanh co, rồi một bức tường cây cối hình bán nguyệt, đóng khung tất cả lại, nơi chân trời.

Khói thổi cơm chiều, một buổi chiều gió nín, mọc lên từ các mái lá xám xịt, giống như khói của những nén hương khổng lồ, mà Phật tử trong vùng thắp lên để tỏ lòng sùng bái đấng Từ Bi.

Bỗng ông Vĩnh Xương và người thanh niên tên là Côn, cả hai đều hỉnh mũi, ngước lên đó đón gió, một ngọn gió vắng mặt, cố tìm thêm trong không khí một cái mùi vừa thoang thoảng bay lên tận sân thượng nầy.

Đó là mùi đặc biệt của hương hành lá pha với mùi nước mắm của một trách cá kho nào vừa sôi.

Ông Vĩnh Xương xoay lại nhìn Côn rồi mỉm cười như để phân trần: "Ấy, thuở bé tôi ở nhà quê nên mùi của món ăn thôn dã nầy rất quen thuộc với tôi... anh khó chịu lắm hả?"

Côn không đáp mà giựt mình dáo dác nghe ngóng! Tiếng chuông chùa vừa nổi lên, ngân nga trong gió chiều mới thổi. Nhưng hình như là hắn không phải lắng nghe tiếng chuông chùa, gần quá, rõ quá, mà trông về đằng xa, nghe một thứ tiếng bí mật thì thầm nào.

Trong khi đó thì Tập chỉ một ngôi chùa bằng sứ cất cheo leo trên sườn đồi núi ở bộ giả sơn mà ông Vĩnh Xương đã cho xây giữa sân thượng, rồi hỏi Thúy:

- Mái nhà sao lại cong quớt lên như vậy, cô Thúy?

- Đó là mái nhà của người Tàu họ kiến trúc như vậy. Chớ anh không thấy nhà chùa vẽ trên các bao nhang sao?

- Không, tôi mới thấy lần đầu trong đời tôi loại mái nhà kỳ dị nầy.

- Mái chùa dưới kia cũng cong cong.

- À, tôi không có nhìn xuống dưới ấy.

Chỉ có bốn người mà họ chia thành hai nhóm một cách vô tình, nói chuyện riêng rẽ với nhau. Bà Vĩnh Xương hơi bực mình trước cảnh bị bỏ rơi của bà.

- Anh khó chịu lắm à? Ông Vĩnh Xương hỏi lên câu hỏi thầm lặng của ông.

- Không, thưa bác. Trái lại nữa. Những sợi khói trắng mỏng, tiếng chuông chùa và nhứt là mùi hành kho, ba thứ ấy xuất hiện cùng một lúc gợi cho cháu nhớ thời thơ ấu của cháu quá Thời ấy, sau nhà dưỡng phụ của cháu cũng là một xóm nghèo, ở dưới trũng, với ngôi chùa cổ danh tiếng là chùa Hội Khanh.

Thưa bác, năm ngoái, đi tu nghiệp bên Tây Đức, cháu vào làng Leonberg Eltingen để thăm một người đàn bà Việt lấy chồng Đức và theo chồng sống ở đó. Bà ấy để dành được một ve nước mắm, và hôm ấy bà ta đã đãi cháu món cá kho, kho bằng thứ nước xốt của quê nhà giấu kín gần mười năm rồi,với một thứ rau có mùi tương tự như hương hành ta. Đó rồi bà ấy với cháu, cả hai cùng ngồi trong nhà bếp để nhớ nhà và thương mến quê hương (bên Âu châu các gia đình khiêm tốn tiếp khách tại nhà bếp, vì nhà bếp của họ là nơi sạch sẽ nhứt trong nhà).

Mắt ông Vĩnh Xương bỗng sáng lên rồi ông đâm ra bối rối, vì phấn khởi hơn là vì một bài toán bể đầu nào. Ông hối người nhà đưa đồ nhắm lên để khách uống khai vị cho ngon, và săn sóc hai thanh niên nầy như là thượng khách.

Bà Vĩnh Xương và Thúy quan sát người gia trưởng thì thấy ông ấy hôm nay vô cớ bộc lộ tất cả vui sướng y hệt như là ông vừa đại thắng trong một cuộc doanh thương nào.

Nhưng lạ lùng hết sức, vào đầu bữa ăn, ông tuyên bố với khách rằng cả gia đình ông đều có hẹn gặp mặt một gia đình bạn, ngoài Sài gòn, hồi bảy giờ rưỡi. Bà Vĩnh Xương và Thúy không hề được báo tin nầy, trước đó. Bữa cơm thật vui, nhưng không kéo dài. Khách biết điều, quyết trả tự do cho ông vào giờ ông cần ra đi, nên họ xin phép rút lui ngay sau bữa ăn gần như là tốc hành nầy. Thúy không phải lánh mặt sớm nữa, nên đưa khách xuống dưới nhà rồi tiển họ ra tận cổng.

Khi nàng trở lên lầu, toan vào buồng mình thì nghe được câu đối thoại sau đây của cha:

- Tôi đã quyết định được rồi đó! Tôi gả Thúy cho thằng Việt nam!

Thúy rụng rời, nghe choáng váng cả người, rồi lảo đảo, nàng té quị xuống.

Nghe tiếng động, ông bà Vĩnh Xương day lại và hoảng hốt, bà kêu rú lên:

- Con tôi, trời ơi, con tôi chết rồi ?

Hai vợ chồng khiêng con vào buồng của cô ấy. Thúy toát mồ hôi dầm dề.

- Con ơi, sao con thế này, con?

- Con chóng mặt quá à! Con mệt lắm.

- Con tôi đau tim, ông ơi, gọi đốc-tơ mau lên!

Ông Vĩnh Xương không gọi ai cả mà chỉ chạy tìm nước lạnh thôi.

Thúy ôm mẹ khóc òa.
- Làm sao con? Lát nữa có thầy thuốc, con ráng sống thêm để đợi ông ấy.

- Chắc con chết, má ơi!

Bà Vĩnh Xương khóc hu hu, vừa khóc vừa réo chồng.

- Má ơi, con không thể lấy ông kỹ sư Tập được, con không chịu đâu, ba gả con cho ông ấy, chắc con phải chết.

- Trời, té ra như vậy? Mầy làm tao hết cả hồn vía. Được, để tao nói với ba mầy liệu lại.

Bấy giờ ông Vĩnh Xương bưng ly nước, thần tốc phóng vào buồng. Ông ngạc nhiên mà thấy hai mẹ con Thúy tỉnh ru, hơn thế, bà Vĩnh Xương sẵn sàng khiêu khích để gây sự:

- Tôi nhứt đinh không nhận thằng Việt nam, bà Vĩnh Xương nói bằng một giọng cương quyết, không tha thứ cuộc thảo luận nào hết.

Thấy con đã hồng hào da mặt trở lại, ông Vĩnh Xương hết lo, đặt ly nước lên đầu tủ đầu giường của Thúy, cười ha hả rồi nói:

- Bà có biết thằng Việt nam là thằng nào hay không mà bà làm dữ như vậy?

- Thằng Việt nam là cái thằng..., cái thằng không phải là Xiêm đó, chớ ai?

- Ấy, bà không biết mà! Chính cái thằng Xiêm ấy mới là Việt nam.

- Sao lạ vậy? Ông điều tra lộn hử?

- Không. Nhưng nó có một quê hương nhỏ để mà thương, mà nhớ. Quê hương nhỏ của nó lại nằm trong quê hương lớn là nước Việt nam. Vậy nó sẽ thương quê hương lớn bao bọc quê hương nhỏ thân mến của nó.

Còn quê hương nhỏ, với chơn trời quen thuộc, thân yêu, của thằng Tập là một xóm ở Ba-lê. Thằng Tập sẽ yêu nước Việt nam đúng y theo sách vở nói, chớ không yêu bằng tấm lòng như thằng Xiêm đâu.

Thúy ôm mẹ rồi cũng khóc òa như khi nãy, nhưng đấy là những giọt lệ sung sướng. Nàng vừa khóc vừa nói:

- Ba nghĩ đúng, cái thằng Việt nam Tập, thật ra một người Pháp-lăng-sa.

- Ừ, xa lắc! - Bà Vĩnh Xương tiếp theo ý nghĩ của con, bất chấp ý thiệt của danh từ.

 
(Trích từ tập truyện ngắn Cuống Rún Chưa Lìa) 
 
 

Thứ Sáu, 6 tháng 9, 2024

CÔ HÀNG NƯỚC - Khái Hưng

 

Một ngày trong những ngày đông m­ưa phùn gió lạnh.

Ban đi xe tay từ phủ về thăm ng­ười bạn ở một làng ven bể.

Trên con đ­ường đất ngòng ngoèo bò giữa một vùng bằng phẳng, anh phu xe mập mạp, lực lưỡng phải nằm rạp xuống càng xe mới khiến được đôi bánh cao su, nặng nề, lép bép lăn trong đất bùn xám lầy lội.

Hai bên những ruộng còn gốc rạ thẳng tắp chạy dài về nơi chân trời trắng đục. Nh­ư những cù lao trong biển đầy sư­ơng mù buổi sáng, lô nhô nổi lên những lũy tre bao bọc các làng lớn nhỏ. V­ượt hẳn lên cao, những ngọn cau mầu đen nhạt treo lơ lửng trên không, vì thân cây chìm lẫn trong màn m­ưa phùn mờ xám.

- Ði đã gần đến nơi chư­a ?

Anh phu xe trỏ phía tr­ước mặt, đáp :

- Kia rồi.

Ban trông theo chỉ thấy ở giữa khoảng đồng xanh lúp ló trong khóm chuối um tùm, một túp nhà tre lợp cói đứng xây lư­ng con sông, bên cạnh một cái cầu gạch đổ nát.

Bên cầu, một cụm tre già, với những thân cây khô xác lá vàng, nghiêng soi hình trên giòng nư­ớc.

Ban bật buồn c­ười :

- Có một cái quán tranh kia mà anh bảo làng Hàm đó­ ?

- Ấy thư­a thầy xe phải đổ đây, rồi thầy đi bộ vào làng chứ.

- Ði bộ vào làng ? Xa hay gần ?

- Thư­a thầy chỉ độ hơn một thôi.

Ban nhăn nhó, khó chịu vì nỗi sắp phải đi bộ qua những bờ ruộng nhỏ, ­ướt át, qua những mồ mả, gò đống rải rác khắp đồng. Khó chịu về câu trả lời lờ mờ của anh xe : một thôi ? Còn biết một thôi là bao nhiêu ?

Càng xe vừa đặt lên nền nhà, dư­ới cái mái phên liếp chống để che mư­a, nắng, thì một câu mời, giọng trong trẻo, khiến Ban thò vội đầu nhìn vào hàng.

Trên cái chõng tre cao dùng làm bàn, úp đầy những bát sành lỏng chỏng. Sau chõng, một ngư­ời đàn bà y phục kiểu quê, như­ng rất gọn gàng, dễ coi, không lôi thôi hay cộc lốc như­ phần nhiều các bà, các cô mà Ban vừa gặp trên đ­ường. Ban còn đư­ơng mải ngắm nghía đôi mắt long lanh hơi xếch trong khổ mặt trái soạn da bánh mật, thì cô hàng đã nhếch đôi môi cắn chỉ, phô hai hàm răng đen, đều đặn, nhắc lại câu mời :

- Th­ưa ông hãy vào xơi chén trà nóng cho ấm bụng ?

Lời nói kiểu cách của cô hàng khiến ông khách không giữ nổi cái mỉm c­ười chế nhạo.

Chàng nghĩ thầm "Nếu những bát kia, cô gọi là chén thì chắc hẳn đó là chén uống nư­ớc của Tr­ương Phi".

Vui vẻ với cái ý so sánh vừa tìm ra đư­ợc, Ban nhanh nhẹn xuống xe, bư­ớc vào hàng.

Cái nụ c­ười hãy còn đứng ở cặp môi cô hàng trong khi cô tò mò nhìn Ban phủi những hạt nư­ớc mư­a bám vào áo tơi da màu cỏ úa.

Anh phu xe đã ngồi xuống cái ghế dài làm bằng gỗ có đóng bốn chân tre vừa thở hổn hển vừa ngửa bát bảo cô hàng múc nư­ớc trà. Rồi hai tay b­ưng bát nư­ớc đầy khói nóng bốc lên nghi ngút, anh ta uống sùm sụp rất kêu nghe ngon lành lắm.

Ban muốn tìm một chỗ để ngồi : Mấy cái ghế đều ư­ớt và lấm. Cô hàng rất nhanh trí, đoán ngay đư­ợc ý muốn của ông khách quý, đứng dậy kéo vội chiếc chiếu ở buồng trong rồi vừa giải lên cái bệ đất gian bên, vừa đon đả mời chào:

- R­ước ông ngồi nghỉ.

- Cám ơn cô.

Giữa lúc ấy, một bọn năm ng­ười đàn bà, vào hàng, đặt phịch gồng gánh xuống đất rồi huyên thuyên cùng nhau trò chuyện. Tiếng nói vùng bể giọng rất nặng và đầy những chữ vần ngang, khiến Ban phải mỉm c­ười. Rồi chàng đư­a mắt so sánh mấy ng­ười ấy với cô hàng. Từ dáng điệu cho chí y phục, Ban đều thấy khác nhau xa lắm.

Ai nấy uống cạn bát nư­ớc, năm ng­ười đàn bà lại cất gánh ra đi. Cả đến anh phu xe, khi đã nhận đ­ược tiền trả cũng kéo xe không, đi ng­ược về phía Phủ Lý.

Lúc đó, Ban thấy nụ c­ười không còn nở trên môi cô hàng nữa. Chẳng biết cô đăm đăm ngồi suy nghĩ điều gì viển vông mà mắt cô ban nãy rất sắc sảo, nhanh nhẹn, bây giờ bỗng trở nên lờ đờ, mơ mộng, xa xăm.

Lặng lẽ, Ban ra đ­ường nhìn trời. Mư­a phùn vẫn lờ mờ bao phủ, gió lạnh vẫn thổi lạt sạt trong đám lá chuối rách, kẽo kẹt trong khóm thân tre già, đ­ường vắng ngắt, không ng­ười qua lại.

- Mời ông hãy ngồi nghỉ, đợi ngớt mư­a đã.

Ban quay vào trong hàng :

- Từ đây vào làng Hàm, đ­ường đất bao xa cô nhỉ ?

- Ðộ ba cây số, ông vào làng Hàm làm gì vậy ?

- Tôi đến thăm một ng­ười bạn.

Nụ c­ười ở môi cô hàng lại bắt đầu t­ươi nở :

- Bạn trai hay bạn gái thế, th­ưa ông ?

Ban kinh ngạc : con gái quê cũng biết bỡn cợt đàn ông như­ thế, chàng chư­a từng gặp.

- Bạn trai.

Ban càng để ý nhận xét cô hàng, và thấy cô ta có vẻ mặt rất linh hoạt, thông minh, chàng nghĩ thầm : Nếu ta đoán không sai thì hẳn cô không phải ng­ười vùng này. Liền hỏi :

- Cô ng­ười ở đâu về đây bán hàng ?

Cô hàng láu lỉnh, bắt ch­ước tiếng mấy ng­ười đàn bà này, đáp lại :

- Th­ưa ông, tôi sinh trư­ởng ở đây "đấy rì à".

Ban không nhịn đ­ược c­ười. Cô hàng nói luôn :

- Ðàn bà nhà quê vùng này hẳn chẳng bao giờ đòi bình quyền, giải phóng.

Ban trố mắt nhìn, thì cô hàng n­ước lại tiếp :

- Họ chẳng có một chút học vấn gì. Trừ những ng­ười hoặc theo cha mẹ, hoặc đi làm, đi buôn xa không kể, còn rặt một loại dốt nát, dễ đến quốc ngữ cũng không đánh vần thông chứ đừng nói học thức nữa.

Ban vội hỏi :

- Cô thì chắc là thông quốc ngữ ?

- Thư­a ông, cũng đủ dùng... Kìa, chào ông Lý.

Một ng­ười đàn ông vào trạc bốn m­ơi tuổi, nách cắp cái ô đen và đôi giầy da cứng, đứng ở hiên giậm mạnh chân cho đất bùn trôi đi.

- Mời ông vào xơi nư­ớc.

- Tôi chả dám, chào cô Tú. Tôi có giấy đòi lên phủ đây, m­ưa gió thế này mà phải lên phủ có cực không ? Xe cáng lại chẳng có.

Cô hàng đư­a mắt sẽ nháy Ban :

- Ấy vừa có cái xe kéo ông này về, anh xe mới dắt xe đi đ­ược vài phút, có lẽ chư­a xa đâu ông Lý ạ.

Ông Lý vội vã chạy ra đ­ường :

- Thế thì may quá, vậy để tôi đuổi theo ngay mới kịp. Xe hồi chắc rẻ lắm đấy.

Rồi ông ta vừa rảo b­ước, vừa ngoái cổ lại c­ười nói :

- Thôi, chào cô Tú nhé !

Ban nhìn cô hàng, thấy cô đang vuốt lại món tóc mai và sửa lại cái khăn vuông thêu hoa.

- Cô Tú lấy ông Tú ?

Ðiềm nhiên cô hàng đáp :

- Nếu thế thì phải gọi là bà Tú chứ ?

- Hay cô... đỗ ?

- Ðỗ "bắc" ?

Sự kinh ngạc của Ban lên tột điểm. Mơ màng, vì chàng có một tâm hồn lãng mạn. Ban t­ưởng t­ượng sống trong cảnh huyền ảo thần tiên n­hư nhân vật trong truyện Liêu Trai Chí Dị. Một cô hàng nư­ớc có học thức ? Một cô gái quê có Tây học ?

Lúc đó chàng ngắm cô Hàng, sắc đẹp tăng bội phần, n­ước da bánh mật đã hây hây nhuốm màu hồng và cặp mắt, cặp môi cho chí hai đồng tiền bên má, chàng cảm thấy đều có giấu cái thông minh kín đáo mà tinh quái ở trong.

Như­ng cô hàng đã nói tiếp :

- Ðỗ "bắc" thì quả không; ở đây, họ cho tôi là một con chim lạ, vì tôi biết quốc ngữ, nên họ gọi đùa tôi là cô Tú đó đấy thôi. Nh­ưng ông thì chắc là... ông Tú ?

- Sao cô biết ?

- Ðoán có đúng không, thư­a ông ?

- Ðúng lắm, thư­a cô Tú.

Cô hàng vờ nghiêm trang :

- Ấy chết ! Ai lại thế !

Một lát sau, hai ng­ười đã đem chuyện riêng kể cho nhau nghe.

Ban nói cho cô hàng biết mình đư­ơng học tr­ường sư­ phạm, cô hàng thuật với Ban rằng tên cô là Tuất, cô mồ côi cha mẹ đã hai năm nay ở đây bán hàng nư­ớc. Giúp việc trong nhà duy có một bà lão góa với đứa cháu gái bà ta, như­ng hai bà cháu vừa vào làng cúng giỗ.

- Cô ở đây giữa cánh đồng không mông quạnh mà cô không sợ ?

- Chà ! Ông tính tôi thì còn sợ ai nữa ?

Lời nói cứng cáp khiến Ban đăm đăm nhìn cô hàng và càng lấy làm lạ không hiểu cô là hạng ng­ười gì.

Ngồi lâu cũng ngư­ợng. Ban buồn rầu hỏi thăm đường rồi từ giã cô hàng ra đi. Cô ái ngại bảo chàng :

- Trời mư­a gió thế này mà ông cũng đi ­?

- Phải đi chứ ?

Câu trả lời hình như­ gợi trong trí óc cô hàng bỗng trở nên quả quyết, có thể cho là dữ tợn đư­ợc.

- Phải, khi đã định làm một việc thì phải mạnh bạo mà tiến hành, có nề gì mư­a gió.

 
*

Buổi chiều, Ban lại trở về hàng nư­ớc. Cô Tuất vui c­ười bảo chàng :

- Tôi đã biết ngay rằng thế nào cũng phải thế mà !

- Sao vậy ?

- Vì tôi muốn thế. Lúc ông hỏi đ­ường tôi đã toan trả lời: Эường nào cũng sẽ đưa ông tới thành La Mã.

Câu nói vừa có ý nghĩa huyền bí vừa là lời bỡn cợt của một cô tân học. Ban lo sợ vẩn vơ. Chàng coi cô hàng như­ một con yêu tinh hiện lên để trêu ghẹo khách qua đ­ường.

Lẩn thẩn chàng đứng nói một mình : Rõ chán quá có một ông bạn thì đi vắng, trời gần tối rồi mà ở đây không quen một ai...

- Không quen một ai ? Chả tôi là gì ?

- Nh­ưng ở đây không tiện tý nào, cô có một mình.

- Tiện lắm chứ !

Cô hàng đứng dậy dọn cơm thết bạn.

Ban mỉm c­ười :

- Sao cô biết tôi trở lại ?

- Biết lắm, biết một cách chắn chắn. Tôi đã bảo ông rằng tôi muốn thế.

Ðêm hôm ấy bà lão và ng­ười cháu gái vẫn không trở về hàng.

Mấy tháng sau : Ban và Tuất thuê một căn phòng ở Hà Nội. Hai ng­ười đã tự do lấy nhau. Tình lãng mạn của Ban rất hợp với tính ngộ nghĩnh và đời huyền bí của Tuất. 


(Trích từ tập truyện ngắn Dọc Đường Gió Bụi)

Thứ Ba, 3 tháng 9, 2024

BƠ VƠ - Bình Nguyên Lộc

 

Hảo đưa tiền rồi căn dặn:

- Bà có quên gì thì quên, chớ đừng có quên xà bông đánh răng nghen. Dây nhựa màu để thắt giỏ cũng cần lắm. Quyển "Văn Nôm" cũng nhớ mua...

- Nghĩa là không được quên món nào hết. Thì cứ nói trắng ra như vậy đi, tội gì phải kể từng thứ cho mệt.

- À nè, xà bông đánh răng nên mua hiệu nào có chất lục diệp é nha !

- Nhưng sao bà lại không ra chơi chúa nhựt nầy ? Bị phạt hả ?

- Không.

- Nhưng sao lại...

Loan bổng thấy sắc mặt của bạn đổi khác đi. Cô gái vui tươi ấy vụt buồn dàu dàu rồi day qua hướng khác.

Trống trường đánh lên bốn tiếng, báo hiệu cho giờ học thứ nhì của buổi chiều. Cả trường Gia Long đều chộn rộn trước khi sắp hàng vào lớp...

Hai phút sau, đâu đó lặng trang, và Hảo với Loan ngồi kế nhau ở cuối lớp Đệ tam C, chị Ngọc xem đồng hồ tay rồi nói to lên:"Quái sao đã năm phút rồi mà cô Tuyền không đến ?".

- Cô Tuyền có việc phải ở nhà ! - Chị Hài la cà rỡn như vậy.

- Hoan hô cô Tuyền ! - Cả lớp đều reo mừng, ngỡ chị Hài nói thật.

Dân ban C không ưa khoa học, nên rất sợ cô dạy Lý Hóa ấy.

Nhưng một bà giám thị già đeo kiếng trắng, đi ngang qua đó, lại xác nhận tin vịt của chị Hài. Bà nói:

- Chiều nay cô Tuyền không đến. Các em không có lên bảng trên văn phòng mà xem à ?

- Hoan hô ! Hoan hô !

Lớp Đệ tam C rần rần đứng dậy đi ta ngoài. Họ chia làm ba tốp. Một tốp lớn lên thư viện để đọc sách. Tốp thứ nhì ra sân Judo chơi bóng bàn và chạy giỡn.

Tốp thứ ba lưa thưa vài chị, len lén xuống bịnh thất là nơi cấm ngặt. Đó là những chị hay nhỏ to tâm sự với nhau nên họ chọn chỗ vắng ấy. Thường thì họ làm bộ đi thăm bạn, nên cô nữ y tá không nỡ cấm cửa họ.

Hảo và Loan cũng trong tốp đi lậu ấy. Loan đã đoán bạn có cái gì không ổn trong đời nên cố kéo Hảo xuống đó.

Loan là học sinh ngoại trú nên không thạo phong tục trong trường, hỏi Hảo:

- Sao lại cấm xuống bịnh thất ?

- Không cấm thì mấy chị bịnh sẽ chết mất. Số người đi thăm thật cũng đã đông lắm rồi, thêm vào đó số người trốn học nữa, họ bu quanh mấy giường bịnh mà nói chuyện cà kê dê ngỗng, ai mà chịu cho thấu.

Hảo và Loan không quen với một chị nào trong bịnh thất cả. Tuy thế họ cũng hỏi thăm xã giao mấy chị lạ vài tiếng rồi kéo nhau vào một góc buồng.

Khi cả hai ngồi xong trên một chiếc giường trống, Loan nói:

- Tôi quên hỏi coi bà ở tỉnh nào. Lạ quá, thân với nhau đã sáu tháng rồi mà tôi còn chưa biết điều đó.

Hảo hãnh diện đáp:

- Tôi là dân Saigon bảy mươi hai phần dầu mà. Tôi sanh đẻ ở Đất Hộ.

- Dân Sàigon ? - Loan ngạc nhiên, nhìn bạn trừng trừng.

Hảo chợt nhớ đến câu hỏi của bạn lúc sắp vào lớp và biết chi tiết và sinh quán của nàng sẽ đưa trở lại câu hỏi ấy nên đánh trống lãng:

- Còn bà ở tỉnh nào ?

- Tôi cũng ở Saigon, tuy sanh tại tỉnh. Sao là dân Saigon mà bà xin vào nội trú được ?

- Ấy, vì... tại... bị...

Hảo khó nghĩ quá. Nàng đã bị bạn đẩy vào chỗ phải thú nhận, nhưng nàng không muốn khai chuyện nhà chút nào.

Giận Loan và mắng nó vì tánh tò mò của nó chăng ? Không được. Đã xem nhau là bạn thân kia mà.

- Thôi, nếu không tiện nói thì thôi vậy...

Loan cầm tay bạn mà siết chặt lại. Hảo nghe như tình bằng hữu của đôi bên biến thành một dòng nước, giao lưu với nhau qua cánh tay, hai bàn tay ấy.

- ... Nhưng Hảo ơi, Loan thật muốn sớt bớt với...

Hảo nấc lên một tiếng ngắn rồi cắn môi, mắt lòa vì lệ nóng.

Loan choàng tay qua vai bạn rồi ôm chặt lấy Hảo. Cô nữ sinh nội trú bấy giờ mới òa lên khóc, chui đầu vào vai bạn như bé con khóc với mẹ.

Để cho bạn khóc thật hả hơi, giây lát, Loan thỏ thẻ hỏi:

- Có chuyện đau buồn lắm hả bạn ? Loan có làm phiền bạn lắm không ?

Hảo lau lệ đáp:

- Buồn đứt ruột đi Loan ơi ! Bạn gần giường ở nội trú mà Hảo còn chưa gởi gắm niềm riêng vì Hảo thấy chỉ vô ích thôi. Họ, rất nhiều chị cùng một tình cảnh với Hảo, nhưng nói ra với nhau rồi chỉ biết ôm nhau mà khóc chớ có hơn gì.

- Có phải là Hảo không còn mẹ hay không ?

- Loan đoán đúng quá. Mà cũng dễ đoán thật. Kế mẫu của Hảo chắc cũng không ác lắm đâu. Nhưng bà không thương Hảo được nên ba Hảo cho Hảo vào đây để Hảo khỏi tủi thân.

Cô nữ nội trú nín lặng một lát rồi thêm:

- Hảo nói ra điều nầy, Loan đừng khinh Hảo đã nói xấu ba Hảo nhé. Sở dĩ Hảo bị bỏ tù vào nội trú mấy năm nay, chắc cũng vì ba Hảo muốn hưởng trọn vẹn hạnh phúc với bà vợ mới.

- Sao lại phải xô Hảo ra mới được hưởng trọn vẹn...

- Ấy, thì sự có mặt của Hảo làm sao khỏi nhắc nhở bà ấy nhớ mãi rằng bả lấy một người chết vợ. Như thế bả sẽ buồn, sẽ bớt yêu ba Hảo, hạnh phúc của ổng bả như bị mây án đi.

Nói tới đây Hảo như trợn trạo nuốt cái gì, lâu lắm nàng mới nói được:

- Mà Loan ơi, ba Hảo thương Hảo lắm, Hảo cũng thương ba Hảo quá chừng. Ba Hảo có thể tạm thay thế phần nào cho má Hảo mà Hảo rất cần.

Hảo lại òa lên khóc, mắt Loan cũng đỏ lòm như mắt tôm, và lóng lánh lệ.

Đôi bạn đều rút khăn ra, để hỉ mũi, đoạn Loan hỏi:

- Nhưng một tuần, Hảo về nhà một lần, cũng không cho nữa sao ?

- Không bao giờ ba Hảo rước Hảo ra cả.

- À quên, sao Hảo lại xin vào nội trú được.

- Có khó khăn gì. Lúc xin cho Hảo vào đây, ba Hảo khai ở tỉnh.

- À ra vậy, Hảo nè, Hảo có muốn ra lắm không ?

- Khỏi hỏi. Nhưng bà đừng có can thiệp, ba Hảo có thể giận lây bà.

- Không. Loan có ý nghĩ khác. Hảo có "cát" rước ra chớ ?

- Có.

- Mau mau lên lầu ngủ lấy xuống đưa cho Loan đi.

- Bộ Loan định...

- Ừ, Loan có anh. Mai nầy anh Phước của Loan sẽ cầm thẻ đưa vào đây rước Hảo.

Hảo mừng quá, đứng lên chụp lấy vai bạn mà reo:

- Sướng a ! Rồi tụi mình đi xi-nê. Trong nầy chiếu mãi phim đời ông Nhạc, xem chán phèo.

- Nhưng được cái là nhà trường chỉ lấy có ba đồng một buổi chiếu thôi.

- Ba đồng còn mắc chớ. Đáng lý chỉ nên lấy năm cắc mới phải.

Bỗng Hảo lo lắng hỏi:

- Nhưng Hảo lại không biết mặt anh Phước, mà anh Phước cũng chẳng biết mặt Hảo thì làm sao ?

- Khỏi lo. Anh Phước đeo kiếng cận thị và đội kết trông giống hệt như Nhựt Bổn.

- Sao bà lại không vào rước Hảo.

- Lúc trước nhiều chị trong nầy sáng chủ nhật tự đưa thẻ để tự rước mình ra. Nhà trường đã siết chặt sự kiểm soát lại, bà ở nội trú mà còn hỏi tôi điều đó.

Nếu tôi vào rước bà, thấy tôi trẻ, nhà trường sẽ nghi ngờ ngay chính Hảo là tôi. Như thế họ sẽ điều tra gắt rồi lòi vụ rước giả của ta ra.

Sáng nay khi máy vi âm kêu tên bà, bà cứ đi ngay lại nhìn anh Phước, đừng bợ ngợ gì cả, không có một anh Nhựt Bổn thứ hai đâu mà lo.

Anh Phước cũng sẽ được chỉ thị của tôi nên không bợ ngợ. Hai người phải "ăn rơ" với nhau mới được.

- Bà đợi tôi ở đây nha, tôi chạy lên lầu một lát để lấy thẻ.

- Không, ở đây lâu nguy hiểm lắm. Tôi cũng xuống với bà rồi đợi bà ở sân Judo.

Một lát sau Hảo bắt gặp Loan đang chơi bóng bàn với Mỹ, rồi liền đó trống đánh trở giờ.

Cô nội trú trao thẻ cho bạn rồi cả sân vội vã chạy về lớp để kịp giờ học Anh-văn.

Vừa chạy Hảo vừa hổn hển nói:

- Thẻ nầy đáng lý do ba Hảo cất. Nhưng ổng cũng chẳng đếm xỉa gì tới nó cả.

Đã hơn bốn giờ chiều rồi. Những nữ sinh nội trú học sáng nghỉ chiều, đã thay đồ ngắn và đổ xuống sân trường. Chị nào thể thao thì đi qua đi lại ngoài trời, còn chị nào sợ nắng thì núp bóng mấy cây dé ngựa trước dãy lầu.

Hảo nhìn qua cửa sổ hôm nay sao lại bớt tủi thân hơn mọi ngày. Nữ sinh khác hẳn với nam sinh ở lối ra chơi chiều. Trong khi nam sinh tùng tam tụ ngũ thì nữ sinh lại chỉ bắt cặp từng đôi một thôi. Họ chơi với nhau vì tình cảm mà tình cảm thì không thể phung phí, tung khắp mọi nơi được.

Mọi ngày Hảo chỉ trơ trọi một thân vì không tìm được bồ. Đã bơ vơ ở nhà, vào trường cũng không tìm được chỗ dựa cho tâm hồn, nên không chiều nào nhìn bạn xuống sân mà Hảo không rưng rưng nước mắt.

Nhưng chiều hôm nay... A, sao nắng lại trông như đẹp hơn lên ? Lá dé ngựa rụng, không gợi ý buồn mà trái lại khiến Hảo tưởng như là bướm bay buổi sáng ngoài đồng.

Loan, người bạn gái ngoại trú, từ thuở giờ cũng dễ thương thật, nhưng quả nàng không dè là nó tốt bụng đến như thế. Tuy Loan không nói rõ điều kiện rước ra, nhưng Hảo ngầm hiểu rằng bạn sẽ tiếp nàng trong gia đình ít lắm cũng một ngày chúa nhựt. Những vụ tiếp bạn nội trú không người thân như nàng đã xảy ra thường và luôn luôn là xảy ra như vậy.

Gia đình ! Hảo chưa nguôi tình thương mẹ mặc dầu bà cụ đã qua đời từ bốn năm rồi, và đã quơ níu người cha hiền hậu của nàng. Nhưng rồi nàng cũng phải hụt tay vì có người thứ ba hất nàng ra.

Tình gia đình, nàng khát như kẻ đi nắng ngoài sa mạc thèm nước dừa. Những bữa cơm tối dưới ánh đèn, những trận cười chung bên máy ra dô trong một buổi phát thanh kịch pha trò, và cho đến cả nước mắt chung, khóc một người cô họ qua đời, tất cả những thứ ấy từ lâu rồi Hảo không được hưởng.

Tết vừa qua, cha nàng vừa rước nàng ra khỏi trường là đưa nàng ngay về ngoại, ở đó chỉ còn một người mợ dâu thôi.

Gia đình ! Gia đình của Loan không biết sẽ tiếp đón nàng như thế nào. Dầu sao không khí thân mật ở đó chắc cũng nồng đậm hơn là không khí của những bức tường trống trơn ở đây.

Thế là nàng đã có chỗ bám níu tinh thần, Hảo liếc nhìn bạn đang ngồi bên cạnh, muốn ôm bạn và hôn một cái như người Tây phương để tỏ lòng biết ơn của nàng.

Đây là đêm thứ bảy nội trú đầu tiên mà Hảo không khóc thút thít. Lúc mới lên lầu, nàng hãnh diện mà sắp đặt áo xống để ra ngày hôm sau. Hảo ngó mấy người bạn như nói thầm: "Mấy chị ra thì tôi cũng ra, nào có kém ai đâu".

Không khóc, nàng lại lắng tai nghe người khác khóc.

Thảm kịch con mồ côi mẹ bị nhốt trong nội trú không phải là hiếm hoi lắm đâu. Hảo vừa sung sướng thì sực nhớ lại một bài thơ La-Tinh nên xấu hổ thầm rồi tự trách mình dữ lắm.

Bài thơ ấy tả nỗi sung sướng tàn nhẫn của kẻ đứng trong bờ, dòm ra khơi thấy một chiếc thuyền sắp đắm.

Hảo cũng bị đắm thuyền và vừa được vớt lên, áo chưa ráo nước đã có cái sung sướng tàn nhẫn ấy rồi.

"Mầy đáng khinh lắm đó nhé !" Nàng tự mắng mình rồi không dám nghe tiếng thút thít của bạn nữa, nàng tưởng tượng cuộc sống của ngày hôm sau.

Qua nhiều câu chuyện với bạn lỏm bỏm biết được những chi tiết về gia đình bạn, nay ráp lại thì thấy gia đình ấy như thế nầy: một ông cha công chức, một người mẹ hiền từ, người anh cả học trường luật. Nhà đầm ấm lắm. Phước sắp cưới vợ và Loan cũng đã có vị hôn phu.

Loan là con cưng, được cha mẹ và anh chiều chuộng lắm.

Hảo thấy Loan có phước quá. Tại cái số của con người mà ! Rồi đây Loan lại được chồng chiều chuộng nữa.

Bỗng Hảo bớt vui đi. Loan sẽ lấy chồng. Tình bè bạn sẽ phai lợt trong lòng Loan. Hạnh phúc mà nàng muốn ké, nàng không được hưởng bao lâu. Chỗ dựa tinh thần vừa tìm được, Hảo thấy trước là nó sẽ dang ra xa. Tương lai thật xám xịt.

Hảo nhắm mắt lại hình dung trong trí một thanh niên Nhựt Bổn đứng cạnh máy vi âm để đợi nàng. Anh Phước chắc giống Loan thì cũng dễ nhìn.

Nàng sẽ reo mừng mà kêu: "Anh Phước !" cho họ khỏi nghi. Chà, mà nếu lầm thì xấu hổ quá và sự giả mạo sẽ lòi chành ra.

Có nên về nhà mình hay không ? Hảo tự hỏi thế rồi quyết định ngay là không nên, vì về đó "quần thần sẽ lơ láo, rồi phận mình ra sao ?". Vả lại biết đâu cha nàng không mét với nhà trường để tuyệt đường tới lui của nàng ?

Bên Loan chắc đêm nay biết rõ tình cảnh nàng, vì thế nào Loan cũng kể lại cho họ nghe. Có cha ngay ở Saigon mà đi chơi thép thế nầy thì mắc cỡ quá.

Nghĩ tới đó Hảo muốn đổi ý, không ra ngày mai nầy. Nhưng mà nàng thèm thành phố hơn sáu tháng nay rồi ! Chắc họ thương hại mình, nàng tự nhủ, chớ chẳng chê cười gì đâu.

Trương - Thị - Chi !... Mạc - Liên - Thanh !... Bùi - Mỹ - Huệ... Ống loa lần lượt điểm tên từng chị nội trú được rước ra. Đám nữ sinh đứng đợi cứ mỗi lúc một thưa dần.

Hảo sốt ruột đưa mắt tìm mãi mà không thấy anh chàng Nhựt Bổn đâu cả. Bỗng nàng giựt nẩy mình mà nghe kêu lớn tên mình. Cô giám thị kê miệng sát máy vi âm quá nên tiếng kêu của cô nghe chát chúa càng khiến Hảo hoảng thêm.

Nàng bối rối vài giây rồi chen lấn để vượt ra khỏi đám đông. Hảo hồi hộp quá, không biết ai là anh Phước để chạy lại.

Thình lình nàng nghe ai kêu mình. Lần nầy tiếng kêu là tiếng người trực tiếp chớ không phải tiếng bị máy vi âm biến đổi, mà là giọng đờn ông:

- Anh đây Hảo !

Hảo ngước lên thấy một người đàn ông đứng tuổi, đeo kiếng trắng, mà đưa một tay lên trời. Người ấy không có đội nón kết, nhưng mặt giống Loan lắm.

Hảo cứ lo anh Phước còn trẻ mà phải e lệ. Giờ thấy anh ấy già hơn ba mươi, nên tự nhiên được ngay mà mừng người anh giả mạo đó.

Trên tắc-xi, Hảo hỏi:

- Làm sao anh nhìn ra em trước được ?

- Không cần tài thánh cũng thấy em. Hễ kêu tên Hảo mà cô nào chạy ra tức Hảo là cô đó.

- À, hèn chi ! em thì em cứ lo tìm người đội kết.

- Con Loan nó nói điên, ai vào đây lại đội kết. Anh chỉ đội thứ mũ đó là khi nào đi mô tô thôi.

Không biết vì lịch sự hay vì tình thương chân thật mà cả nhà Loan tiếp Hảo như một đứa con du học mới về. Ông cụ kêu Hảo bằng con ngọt xớt, còn bà cụ thì ôm Hảo vào lòng mà hôn.

- Hảo với Loan có đi xi-nê hay không, anh đưa đi.

Nghe người con trai cả bày điều, bà cụ nói:

- Mầy đừng có nhiều chuyện, để em nó ở nhà với tao. Hai giờ trưa là nó phải sửa soạn trở vô trường rồi.

Hảo quên đem đồ mát ra. Bà cụ hối Loan lấy y phục ngắn của nàng cho Hảo mặc. Mới có mười lăm phút đồng hồ qua mà Hảo đã hòa mình được với đời sống thân mật trong gia đình nầy rồi, vì sự cởi mở của gia đình ấy.

Phước nói ba điều bốn chuyện rồi đẩy mô-tô đi làm rể. Anh ta gần cưới vợ nên đi làm rể xôm lắm.

Bà cụ kéo Hảo và Loan lên lầu, không quên căn dặn đầy tớ:

- Ai có hỏi tao, cứ nói tao đi vắng.

Ba mẹ con nằm chung một giường với nhau. Phải, đó là ba mẹ con vì xem ra họ thương yêu thật sự. Bà cụ hỏi:

- Hảo tuổi gì đó con ?

- Thưa con tuổi Thìn, con Rồng.

- Con Loan tuổi Mẹo. Thuận quá. Má không phải muốn bắt con làm em, nhưng mà thế nầy...

Vừa hỏi bà cụ vừa vuốt lên tóc Hảo khiến nàng cảm động đến chảy nước mắt.

- ... Như thế nầy: con Loan sớm muộn gì họ cũng rước đi. Thằng Phước thì nay mai gì nó cưới vợ rồi nó ra riêng mất. Vậy con sẽ còn lại với má, má xem con như con út. Có phải không, con nhỏ tuổi hơn con Loan là thuận ?

Loan làm bộ xô Hảo ra, nũng nịu nói:

- Mầy giành hết má của tao, mầy nhỏ !

- Thôi, đừng có làm bộ thương má, cô à. Rồi cô theo chồng cô, cô quên mất má cho mà coi.

Bà cụ nói thế nhưng vẫn kéo đầu Loan lại mà hun.

Hảo nghe như mình sống hằng mười năm trong gia đình. Tình thương thiếu thốn thuở giờ nàng nghe như nó được rót vào nàng bằng một cái quặng. Nó chảy vào ùn ụt, không khí bên trong bị đuổi mạnh ra chực đẩy văng chiếc quặng lên.

Nhưng mười năm hạnh phúc thật kia mà còn qua mau như nháy mắt huống hồ gì mười năm ảo tưởng. Qua bữa cơm trưa, cả nhà chưa kịp nghỉ nắng thì Hảo đã thấy đồng hồ chỉ một giờ rưỡi rồi.

Ba giờ phải có mặt tại trường, hai giờ mười lăm phải đi rồi. Nàng tắm rửa để kịp giờ nhập trường, khi Hảo xong cả, bà cụ căn dặn:

- Tuần sau con phải ra nữa, mà tuần nào con cũng phải ra hết, kẻo má nhớ nghe con.

Hảo nghẹn ngào vì sung sướng, ra xe mà phải nhìn mãi mái nhà, quyến luyến nó như học trò xứ quê bận bịu mái tranh quyện khói lúc sắp sửa lên đường đi Saigon.

Sáng chủ nhựt sau, anh Phước lại đến. Lần nầy anh Phước hân hoan lắm. Anh cho hay rằng anh đã đỗ chứng chỉ thứ ba, tức là đỗ cử nhân luật toàn phần.

Gia đình Loan có phước quá ! Hảo nghĩ. Mình ké hạnh phúc thừa của họ mà cũng đã phủ phê lắm rồi.

Sự tiếp đón hôm nay không kém tuần trước một tí nào cả. Bà cụ có may cho Hảo một bộ đồ mát, để Hảo khỏi đùm đề mang y phục ra khỏi trường.

Bà sửa soạn đưa hai con đi chùa vì hôm ấy là ngày vía Phật thì Thanh đến.

Vị hôn phu của Loan dạy học một trường tư thục ở tỉnh, mặc dầu nhà cửa cũng ở Saigon, nên ít khi làm rể. Bà cụ đành phải bỏ hai con lại.

- Hảo, người tình của em đó. Loan liếng thoắng giới thiệu bạn với chồng chưa cưới của nàng.

- Thế à ? Tôi có nên ghen hay không ? - Thanh hỏi cà rỡn.

- Anh khỏi phải ghen - Hảo đáp - Tình đây là tình văn chương của ban C của chúng em thôi.

Thanh là một người con trai lịch thiệp. Anh vồn vã với vị hôn thê mà không để cho cô bạn nội trú của Loan buồn. Nghĩa là anh vui câu chuyện với cả hai.

Hảo lại thấy là anh ta niềm nở với mình quá mức nữa là khác. Nàng hơi ngại vì thoáng thấy cái gì bất chánh trong mắt anh ta.

Giữa lúc ấy thì Phước về:

- À, Thanh - Anh nói to rồi bắt tay em rể - Ở tỉnh có gì lạ không ?

- Người ta đồn anh đậu cử nhân.

- Dóc, làm gì mà đồn xa dữ vậy.

- Và có người muốn gả con cho ông cử mới.

- Rất tiếc thuyền đã cặm sào rồi.

- Kéo neo lên rồi gieo bến khác không được à ?

Cả bốn cười xòa.

Chúa nhựt ấy cũng vui như chúa nhựt trước, mặc dù thiếu bà cụ cho đến bữa cơm trưa mà cả nhà đều ăn chay.

Kỳ ra thứ ba, Hảo vào nhà thấy Thanh chực sẵn ở đó. Không ai khảo mà Thanh trưng ra đủ thứ lý lẽ để cắt nghĩa sự về thủ đô bất thường của anh ta. Thường thì anh ta mệt, mỗi tháng mới về một lần. Nhưng lóng rày có nhiều giáo sư ngoại quốc sang diễn thuyết nên anh ta không muốn bỏ lỡ dịp học hỏi.

Lần nầy anh ta trắng trợn nịnh đầm mà cô đầm đáng nịnh nhứt lại không nịnh, để chỉ săn đón Hảo thôi.

Hảo khó chịu quá, phần sợ bạn ganh tị và hiểu lầm nên bối rối hết sức.

Trong bữa cơm trưa hôm ấy, Phước đưa vấn đề nầy ra:

- Còn hai tuần nữa là tôi cưới vợ, bận lắm. Cưới vợ xong lại ra riêng, Không biết làm sao để rước Hảo ra nữa.

- Ngỡ gì. Để tôi rước giùm cho - Thanh sốt sắn lãnh sứ mạng.

- Nhưng dượng lại không về thường được, lại đến sáng chúa nhựt mới về.

- Từ đây mỗi tuần tôi mỗi về, mà về tối thứ bảy.

Tuần sau quả nhiên Thanh đến rước Hảo. Hảo do dự, nhưng rốt cuộc cũng theo anh ta mà ra. Thiên hạ đông quá nên họ phải đi bộ để tìm xe. Khi đi ngang qua chùa Xá Lợi, Thanh rủ Hảo vào xem ngôi chùa đồ sộ vừa cất xong ấy.

Học sát bên đó nhưng Hảo chưa biết chùa lần nào, nên nàng hoan nghinh ý của Thanh ngay. Thanh vẫn đứng đắn khi hai người quan sát bên trong chùa. Nhưng khi ra sân xem hai cây kiểng uốn theo hình dáng nóc chùa xưa với mái ngói cong cong, Thanh nói:

- Hảo làm sao không biết chớ tôi mỗi lần chơi chùa là nghe lòng lâng lâng chỉ muốn đi tu thôi.

- Em chưa thích tu, buồn lắm.

- Buồn gì mà buồn. Nếu ta tu được bên cạnh một người bạn chí thân, thì thế giới bên ngoài không còn nghĩa gì cả.

Nín lặng giây lâu, hắn nói hạ giọng xuống và cố du dương:

- Hảo ơi, tại sao mà tôi gặp Hảo quá trễ như vầy ?

Hảo tức giận muốn mắng cho hắn một thôi, nhưng nghĩ mình chịu ơn nhà Loan nhiều nên ráng dằn xuống và chỉ nói:

- Anh không nên thế. Chị Loan là bạn thân của em, hơn nữa, em xem chỉ như chị ruột...

Thanh lui bước ngay vì khôn ngoan biết rằng chưa đến lúc, nhưng thấy rõ là hắn không chịu thua đâu.

Về nhà hôm đó, Hảo cố làm mặt vui nhưng sự ấm ách chứa đầy trong lòng nàng cứ muốn nổ bùng ra. Mặt nàng như mặt chiếc đồng hồ áp lực độ, Loan nhìn vào đó thì biết ngay. Nàng lại biết vì sao mà bạn uất ức, vì anh chàng Thanh cứ cười duyên với Hảo mãi.

Đến trưa, Thanh ăn cơm xong xin về. Cả nhà nghỉ cả, Hảo cầm tay bạn rưng rưng nước mắt mà nói:

- Hảo cám ơn Loan lắm. Loan không hề hiểu lầm Hảo suốt hai tuần nay.

- Loan hiểu cả. Tình bạn của ta vẫn nguyên vẹn như xưa.

- Hảo cứ sợ là không được như Loan đoán. Thôi từ đây Hảo không ra nữa nhé.

- Sao lạ vậy, bậy nà ! Loan hiểu biết lắm mà.

- Loan hiểu biết, nhưng anh ấy lại không biết điều. Hảo tự tin Hảo, nhưng Hảo sợ anh ấy đổi lòng với Loan.

Thôi nhá, dầu sao Hảo cũng nhớ ơn Loan trọn đời. Nếm hạnh phúc bốn tuần ở nhà Loan. Hảo như kẻ chết đói được cầm thực bằng một chén cháo. Không cháo, kẻ ấy chết mất trong héo hon rồi.

Đôi bạn ôm nhau òa khóc.

Đêm đó trên lầu ngủ nội trú trường Gia Long, có thêm được một người thút thít trong chăn. Người ấy bơ vơ vẫn hoàn bơ vơ, và đau khổ hơn bao giờ cả.

"Kéo neo rồi gieo nơi bến khác không được à ?" Hảo như nghe văng vẳng câu pha trò của Thanh ở nhà Loan, lời nói đùa, nhưng tố giác một căn tính bất thỉ chung của một người con trai nông dạ.

Trời ơi ! - Nàng than - số phận ta sao mà hẩm hiu quá như thế này ? Nếu Thanh mà đứng đắn thì có đâu mình phải mất nơi trú ẩn tinh thần dễ chịu là nhà Loan ?

Từ đây không mong gì có một dịp thứ hai được ai thò tay xuống bể hiu quạnh để vớt mình nữa.

Học xong ban tú tài, chắc mình phải vào ngay Nữ đại học xá ở đường Trần Quý Cáp, hay vào một tu viện cũng không biết chừng.

Gối chăn Hảo bấy giờ đã ướt như mưa dột nóc trường.

Tạp chí Nhân Loại, 1957 

(Trích từ tập truyện ngắn Nụ Cười Nước Mắt Học Trò)