Thứ Hai, 27 tháng 5, 2024
MÙA PHƯỢNG HỒNG - Phạm Cao Hoàng
Thứ Sáu, 24 tháng 5, 2024
BA CON CÁO - Bình Nguyên Lộc
BA CON CÁO *
* Câu chuyện xảy ra năm 1954.
Truyện Ba Con
Cáo đã được dịch ra Anh văn do nhà văn Lê Văn Hoàn ở San Francisco dịch
để dự thi Truyện Ngắn Quốc Tế ở Manila và đã được giải nhất.
Mặc dầu là tay "bán trời không mời thiên lôi", Sáu Sửu vẫn nghe rờn rợn khi nhìn ra ngoài.
Thánh giá trắng đứng mơ hồ trong ánh sáng lờ mờ của nghĩa địa, sắp
thành hàng ngũ đông đúc, nhánh ngang của thánh giá trông mường tượng như
những cánh tay người giăng ra để đón bắt ai.
Xa xa, một trụ vôi có dáng một người đàn bà đội khăn tang trắng, đứng nhìn đám mồ trước mặt bà ta.
Gió đêm, cùng với dế, trùn, họp nhau mà than vãn bên hàng nghìn mồ
hoang mả lạnh, và thỉnh thoảng, anh Sáu vẳng nghe như có tiếng người rên
rỉ đâu đây.
Từ một ngôi mả cũ đằng xa, một ánh lửa lóe lên,
nhỏ bằng ngón tay, từ từ bay lên cao rồi đi bơ vơ qua các hàng thánh
giá. Lửa ma trơi hay là đèn của một người đi soi ếch nào đó?
Mưa dầm tháng tám rơi trên nước ao tù khiến anh Sáu có cảm giác rằng mình đang ngủ trên một chiếc thuyền, giữa dòng nước.
Lạnh quá, lạnh ngoài da, mà lạnh cả đến trong lòng.
Người sống, một khi xâm nhập vào địa hạt của người chết, mới nhận được
rằng cuộc đời bên ngoài dầu đau khổ bao nhiêu cũng còn ấm chán.
*
Tại phố Phát Diệm, khúc phía trên này, họ Cầu Kho có một đất thánh mà từ vài năm nay nhà thờ không cho chôn trong đó nữa.
Dân số nghĩa địa cứ mỗi ngày một tăng lên, mà không có một ai chết lần
thứ nhì cả để cho số sanh và số tử bù trừ nhau hầu đất đai trống bớt
chỗ.
Ngoài thành phố, người ta đẻ con, nhưng người ta lại chôn
ông, nhà cửa thành thử không chật thêm được. Ở đây mồ mả sanh ra rồi già
cỗi dưới rêu xanh của sương gió, nhưng vẫn nằm lì đó đến muôn thu.
Vì vậy nghĩa địa phải chịu nạn nhơn mãn. Nhà thờ không cho chôn xác
thêm vào đó, rồi cũng chểnh mảng việc trông nom đất thánh nên người sống
đang thiếu đất, bèn ùa đến mà lấn người chết.
Nghĩa địa không
có vách thành. Ban đầu vài người mạo hiểm cất nhà ngay trên ranh đất
thánh. Thấy không ai nói gì, một số người khác lách qua khỏi mấy cái nhà
vừa cất lên, để vô trong mà xây cất.
Họ cất vây tứ phía ngôi
đất thánh và vòng vây cứ càng ngày càng siết chặt lại, người chết không
còn lối nào để thoát ra được nữa cả.
Khi vòng vây siết đến lằn mức chót, nghĩa là những ngôi mộ ở bìa, thì cuộc xô lấn bắt đầu diễn ra một cách đau thương.
Người sống cũng biết đau lòng khi phải dẫm lên những gò mả còn mới
rành rành (nhiều mộ bia, thánh giá, đề năm chôn là 1951) nhưng họ, ác
thay, lại cũng biết lạnh. Cho nên họ cứ cất nhà trên những nấm đất ấy,
xin người chết thứ lỗi, miễn là có chỗ núp mưa thì thôi.
Không
bao giờ kẻ sống và người chết lại sát cánh nhau đến thế. Ông đã chết
rồi, ông choán đất làm chi cho nhiều, trong khi tôi không có lấy một
vuông nhỏ để mà cắm cây cột gỗ; vậy ông thứ lỗi nhé! Rồi ngày sau tôi
cũng hoàn lại đất như ông vậy mà; trần gian nầy chỉ là cõi tạm thôi,
tranh nhau làm gì!
Cuộc xâm lăng lặng lẽ để tranh sống với người chết, gây ra một tai hại lạ kỳ.
Vùng đất ấy ngày xưa tuy cũng thấp mà vẫn khô ráo, nhờ con rạch Bần
tháo nước ra sông Ông Lãnh. Nhưng từ khi đô thành cho đắp đại lộ Trần
Hưng Đạo, cách đây mấy mươi năm, thì ngọn rạch Bần bị lấp, và nước mưa
trên nầy bị bỏ tù lại đến chung thân khổ sai, vì khu ấy đất trũng mà!
Đất thánh không phải ở giữa rún đất nên không đọng nước. Nhưng vòng
vây tai hại kia lại biến thành con đê ngăn nước đất thánh đổ xuống chỗ
trũng hơn.
Thành thử phần nhiều ngôi mộ đã biến thành cù lao,
có cù lao rời rạc, có mớ họp thành quần đảo, không còn làm sao ra đó
được nữa. Nước tù mang một màu khó tả và một mùi cũng khôn tả. Đáy ao
biến thành bùn non, đi thì lún đến ống quyển.
Lau, sậy, đế tha hồ mà mọc như ở bưng miền xa.
Giữa đất thánh còn sót lại một ngôi mộ cổ kiến trúc theo bên lương mà
có lẽ nhà thờ không nỡ phá đi lúc lập ra đất thánh cho giáo dân nầy.
Ngôi mộ ấy đồ sộ nhứt nghĩa địa, xây bằng vôi và ô đước, xanh đặc
những rêu phủ. Lối kiến trúc rất rắc rối như một lâu đài, đầy rẫy ngăn
nắp với nào là đường vào lối ra quanh co và hóc hiểm.
Hôm ấy những người của vòng vây đều ngạc nhiên mà thấy một mái nhà lá dựng ngay trên ngôi mộ cổ ấy.
Nhà dựng đâu từ sớm mai đến trưa là xong cả. Họ cứ tự hỏi, và hỏi nhau
làm thế nào mà chủ nếp nhà ấy lội sình để ra ngoài đó được. Đi tay
không đã không được rồi, mà làm sao hắn ta lại mang cả gỗ, tre và lá ra
đó để cất nhà?
Hỏi nhau không ai đáp được, mà cũng chẳng mong
phỏng vấn thằng cha dị hợm kia, họ đành thôi. Thét rồi mắt họ quen đi,
nếp nhà ăn vào chân trời quen thuộc của họ, họ nhận cho nó ở đó mà
không bàn tới bàn lui gì nữa cả.
*
Sáu Sửu ngày trước có ở xóm Phát Diệm. Năm ấy có
người treo cổ trong nhà mồ ở bìa đất thánh. Anh đã vào đó với nhiều kẻ
hiếu kỳ khác để xem kẻ chết treo, nên được dịp biết rõ nghĩa địa.
Hôm tháng rồi anh bị truy nã ráo riết nên cố tìm một chỗ ẩn nấp thật
kín. Nhớ lại xóm cũ với cái nghĩa địa kia, anh về qua đó và rất hài lòng
mà gặp hòn đảo nầy.
Không một viên cảnh sát nào đủ can đảm lội
sình nhứt là dầm chơn trong một thứ nước nhơn nhớt để ra ngoài đảo Lỗ
Bình Sơn của anh.
Nếu có cuộc bố ráp đại qui mô như hồi còn Tây
thì bất quá họ cũng đứng ngoài mà nhìn vào, hú bậy vài tiếng như hú đò
bên kia sông, rồi đò không qua thì thôi. Họ nghĩ sót một con cá cũng
chưa chết ai, mà biết đâu cá đó lại không phải cá hiền, một tên ăn mày
nào đó chớ gì.
*
Từ vòng vây ở ngoài, leo lét vài ngọn đèn dầu
của những kẻ lấn đất người chết. Xa thật xa ngoài kia, ánh sáng đô thành
làm nổi bật lên, đen thui, những ngôi nhà lầu, những ngọn cây cao. Các
thứ nầy giống hệt những hình bằng giấy đen, người ta cắt rồi dán lên nền
trời.
Bỗng anh Sáu nghe rục rịch dưới sàn ván. Hôm cất nhà
xong, anh lót ván lên mộ, vừa để làm nền nhà, vừa để làm giường ngủ.
Dưới ván rầm ấy, lau sậy bị đè đầu xuống, và sẽ chết lần mòn vì thiếu
ánh sáng.
Anh Sáu quên, một thứ khác, cũng giống như lau sậy,
mà biết cục cựa nữa kia. Vì thế đêm nay trời có trăng, anh ngồi ngó một
ra đám rừng thánh giá trắng thì anh phải một phen hết hồn trước sự hiện
ra của một chú chồn to bằng con chó ta.
Chồn khua lau sậy sột
soạt, rồi chui ra khỏi mộ, ngoái cổ lại dòm cái nhà mà đêm hôm qua đây
chưa có. Suốt ngày hôm ấy nó nằm trong hang, không dám ló ra nên không
biết ngoài này loài người làm gì mà lục đục mãi.
Đôi mắt nó lóng lánh dưới ánh trăng, ngạc nhiên giây lát rồi bỏ đi. Nó đã quen với con người rồi nên không có vẻ gì sợ sệt cả.
Nhưng anh Sáu lại sợ. Anh có đọc truyện Phong Thần nói chuyện mả Huỳnh
Đế có một bầy hồ ly mà một con đã nổi danh trong lịch sử, là cái con đã
biến thành nàng Tô Đắc Kỷ; đến nay thấy chồn trong mộ chui ra, anh liên
tưởng ngay đến tích cũ rồi rợn người lên.
Nhưng anh trấn tĩnh
lại được. Trong dân chúng người ta tin chắc như đinh đóng cột rằng tóc
người chết hóa thành con lươn, rồi con lươn hóa thành con chồn. Con chồn
mà anh thấy, có lẽ chỉ là thối thân của tóc người nằm dưới nhà mồ, chớ
không phải yêu quái gì đâu.
Độ nửa tiếng đồng hồ sau, anh Sáu thấy chồn về, mõm ngậm một con vịt.
- A ha, đồng đạo đây mà! - Anh Sáu cười mà nói thầm như vậy rồi cảm tình ngay với con thú nầy.
Cái đạo mà anh nói đó là đạo ... chích; trước kia, trước khi lường gạt
và cướp giựt, anh cũng đã đi ăn cắp gà như chú chồn nầy vậy.
Ngày nay anh thôi ăn cắp, nhưng lại biến thành con cáo già chuyên môn gạt gẫm thiên hạ.
- Mầy cáo thì tao đây cũng cáo, vậy thì là bồ rồi.
Từ đó, hai con cáo chung đụng với nhau mà không xích mích bao giờ cả.
*
Nghe động dưới sàn, anh Sáu mỉm cười lẩm bẩm:
- Đồng nghiệp xuất quân đó đa!
Anh Sáu nhờ cậy con chồn nầy lắm. Có nó ở dưới ấy thì không còn lo rắn
rít nữa. Anh mong có dịp trả ơn nó, nhưng nó có đói bao giờ đâu để anh
ra tay hào phóng mua cho nó một con gà. Xóm lao động vây quanh nghĩa
địa, người ta nuôi gà vịt cả bầy, nó ăn đến già cũng chưa hết.
Bỗng anh Sáu nghe có tiếng chó sủa vang dậy lên. Tiếng sủa to lắm và oai vệ lắm, có lẽ đó là tiếng chó bẹc-giê.
Rồi lại nghe nước khua lũm chũm, với tiếng chó càng lúc càng đến gần
anh. Anh Sáu bước ra dòm thì thấy bạn của anh đang chạy bán sống bán
chết trước một con chó to thấy mà bắt ớn.
Anh Sáu thò tay vào
trong rút cây chĩa ba ra, cây chĩa anh sắm để chĩa ếch dưới nước, rồi lẹ
như chớp, anh chìa mũi chĩa đón đầu chó cho chồn đủ ngày giờ chui vào
mả.
Chó bẹc-giê chạy quá đà, bị mũi chĩa đâm vào mõm đau điếng,
rống lên vài tiếng rồi trở bước, vừa đi vừa day lại, sủa om như chửi
thề.
Anh Sáu cười ha hả rồi cúi xuống sàn mà nói:
-
Đêm nay tổ trác rồi đó phải không em! Anh đây cũng bị rượt thường lắm,
nhưng đều thoát khỏi cả. Bây giờ thì đố ai mà dám theo anh vào chốn nầy.
Chỗ ở tụi mình kín số dách.
*
Sáng hôm ấy, anh Sáu đi uống cà-phê, về tới nhà
thì ngạc nhiên hết sức. Trên một ngôi mô. cận mộ anh, một chòi lá đã
dựng lên rồi.
Ngộ quá, nhà cửa sao mà mọc mau lẹ như nấm mối.
Uống xong tách cà-phê, đọc xong trang nhứt một tờ nhựt báo là một túp
lều cũng vừa dựng xong. Phải mà, chỉ có bốn cây cột thôi thì chậm sao
được!
Anh Sáu ngạc nhiên mà thấy có một người thứ nhì lại biết
con đường bí mật đưa vào đó! Anh lại tức vì túp lều ấy chặn ngay đầu
đường bí mật của anh.
Số là anh Sáu biết lợi dụng mấy ngôi mộ
chung quanh nên mới vào đây được. Anh phải đi quanh co nhiều nơi, nhảy
từ ngôi mộ nầy qua ngôi mộ khác, ra cửa nhà thì đi hướng đông, nhưng ra
khỏi nghĩa địa lại ra hướng tây, nghĩa là anh phải đánh một cái vòng rất
lớn và rất cong quẹo.
Túp lều tranh ấy cất ngay trên ngôi mộ
anh dùng làm đầu cầu cuối cùng để nhảy vào nhà anh, thì anh còn làm sao
mà về nhà được, nếu hắn không cho anh nhảy ngang qua nhà hắn?
Anh tức giận lắm toan vào lều mần thằng cha nầy một mách cho nó phải giải tỏa hiểm đạo của anh, anh mới nghe cho.
Anh Sáu vỗ đùi nhảy một cái như bay đi và rơi xuống phiến mộ bia đặt nằm theo lối Châu Âu, trên có khắc mấy giòng chữ như sau:
Ci-git:
Alphonse Thomas Nguyễn-Văn-Nở
décédé en sa 78è année
Priez pour lui 1
Phiến đá lớn bằng bộ ván hai, và thằng cha chủ
nhà nầy dùng phiến đá ấy để làm bộ ván luôn, nên không thấy nó lót gì
trên ấy cả mà lại để lên đó nào là va-ly, dép... à... mà sao lại dép
đàn bà?
Túp lều che có phân nửa tấm bia thôi; cửa lều là một
bức màn bằng vải bông cũ. Anh Sáu bước tới vén màn lên thì ô nầy lạ, chủ
nhơn bà (chớ không phải chủ nhơn ông) là một thiếu phụ tóc quăn.
Chủ nhơn bà bình tĩnh chào anh Sáu bằng một mỉm cười yên lặng.
Có lẽ chồng chị ta đi làm rồi chăng? Nhưng vẫn lạ là chị không có vẻ
lao động chút xíu nào hết. Móng tay chị đỏ choét và nhọn hoắt, nước da
mặt của chị bị phấn ăn, chỗ thì mét chằng, chỗ thì thâm đen sì, mắt chị
mệt đừ và sâu hóm như mắt cô đào hát bội.
Y phục của chị cũng
không phải y phục của những kẻ đầu tắt mặt tối: lai quần gắn ren, áo cổ
bà lai thêu rằn rịt xanh đỏ, tóc thì kẹp thành đuôi ngựa, cột bằng
ruy-băng màu.
Chị ngồi trên chiếc rương thiếc nhỏ, món đồ từ khí độc nhứt trong chòi, mỉm cười rồi giây lát hất hàm hỏi anh:
- Có tiền mãi lộ không? Nếu không, mỗ không cho đi ngang qua đây. Mỗ đóng đồn ở đây rồi, ai bước qua phải đóng thuế.
Anh Sáu thọc tay vào túi quần tây cũ của anh đứng thẳng lên coi oai vệ
như một tướng cướp trong xi-nê-ma, cười gằn rồi ngạo nghễ đáp:
- Hỡi cô nữ tướng mã thượng giang hồ, nữ tướng không có lâu la thì đòi
tiền mã lộ ai được. Nữ tướng có giỏi thì bước ra ngoài đánh với ta vài
mươi hiệp cho rõ tài cao thấp.
Nữ tướng cười xòa vì nghe giọng
điệu thì biết đã gặp tay đồng điệu. Tuy bắt nạt hắn không được nhưng bắt
bồ với hắn có thể có lợi.
Anh Sáu xem qua thì biết nữ tướng
thuộc vào hạng người nào trong xã hội rồi. Đây cũng là một kẻ trốn chui
như anh, như con cáo dưới giường anh. Cả ba đều là chồn, nhưng con chồn
cái này đã tu luyện nhiều năm nên mang được hình người. Đây là một thứ
hồ ly không hớp hồn nho sĩ mà chỉ hốt bạc cắc của mấy anh lao động thôi.
Đầu anh Sáu đụng nóc chòi, anh khó chịu quá nên ngồi xuống:
- Ở đây không sợ mang tội à? - Anh hỏi đùa.
- Chớ còn anh?
- Tôi thì khác. Ngôi mả của tôi cũ lắm rồi.
Đó là một cái nhà của một người chết đã đi đầu thai kiếp khác rồi.
Con chồn cái bỗng bỏ cái cười, buồn nét mặt lại rồi chỉ ra ngôi giáo đường trước nghĩa địa.
Tiểu giáo đường tuy chỉ để làm lễ mỗi khi đám xác nào tới đây thôi,
nhưng cũng đồ sộ bằng một nhà thờ ở thôn quê. Tuy ngói đã bị tốc nhiều
nơi, gạch, đá trên tường nhiều viên đã rã và rớt xuống, cửa sổ gỗ đã
bung hết, cửa kính màu đã bể nát, nhưng toàn thể công trình kiến trúc
gô-tích ấy vẫn còn mang cái phong độ vĩ đại của thời Trung Cổ Châu Âu.
- Anh thấy không? - Chị ta nói - Nếu mình dám vào trong đó mà ở thì đâu có phạm tội như vầy.
Anh Sáu thở dài rồi không thèm chào hỏi gì cả vỗ đùi nhảy bay qua nhà anh.
Từ đó bộ ba chịu đựng nhau để sống chung nhau.
Họ khác nhau ý tứ, phong tục, thói quen, lối sống, nhưng cả ba con cáo
đều có một nỗi băn khoăn chung là cả ba đều sợ: Con cáo chánh hiệu con
... cáo thì sợ chó bẹc-giê, con cáo già sợ Công An, còn con hồ ly cáo
cái thì sợ lính kiểm tục.
Trong cảnh khổ giống nhau, tuy họ
không tương đắc với nhau được và vẫn phải tương thân để bảo vệ nhau, khi
cần. Mà nhứt là để an ủi lẫn nhau.
Anh Sáu không thích đờn bà
lắm. Hay nói cho đúng ra, anh đã chán chê đờn bà, nhứt là chán những
hạng đờn bà như con hồ ly không bao giờ chịu xưng tên nầy.
Nhưng mà những đêm mưa dầm buồn quá, nằm giữa cánh đồng ma mà được có người để trò chuyện với nó thì ấm biết bao!
Những đêm mưa như vậy, con hồ ly không đi kiếm ăn được, mà cũng không
đủ sức mạnh để nhảy qua nhà anh Sáu vì hòn đảo của anh ở xa mãi ngoài
giữa dòng nước, nên hồ ly ta thắp lên một ngọn nến rồi ngồi bó gối mà ca
trật lất bản nhạc "Đêm đông".
"Đêm đông, ca nhi đối gương ôm sầu riêng bóng".
Gió đâm sầm vào tiểu giáo đường đằng trước kia, tung hoành giữa gian
phòng trống mênh mông rồi vừa hú vừa chui ra khỏi các cửa sổ nghe bắt
lạnh mình.
Mấy cây thùy liễu hiếm hoi đã kháng cự được với lau
sậy để sống sót, đứng cúi đầu khóc sướt mướt dưới trận mưa dầm, trong
ánh trăng mờ.
Mộ hàng hàng như bầy cừu nằm nghỉ, gặm cỏ héo hon và vô vị, hút đắng cay trên miếng đất mồ côi 2.
Đây là chốn mà mộng đời bị cắt đứt nửa chừng, kẻ chết yên nghỉ thiên
thu, mà người sống cũng khó mong trở về với xã hội loài người.
Anh Sáu nhảy bay qua nhà hồ ly, như một tay kiếm khách phi dạ hành, rồi hai kẻ ở ngoài vòng pháp luật ấy mới cùng nhau tâm sự.
Không phải kể chuyện cho khách nghe, hồ ly khỏi phải thi vị hóa buổi
thiếu thời của mình, không cần lòe ai, con cáo già cũng khỏi anh hùng
hóa bước giang hồ của hắn. Họ đánh bài, mà hạ bài cho nhau thấy. Bao
nhiêu thúi tha nhơ nhớp trong đời họ, họ phơi cả ra như sau đêm mưa, họ
phơi gối trên mồ cho nó bớt âm ẩm khó chịu.
Trời mưa cuối mùa
cứ dai dẳng từ ngày nầy qua ngày khác. Con hồ ly ban đầu ăn xôi, ăn bánh
mì chả lụa trừ cơm. Mãi rồi nó cũng không còn tiền để mua xôi nữa. Đất
Sài Gòn, những ngày cuối tháng mà mưa dầm, thì tiền bạc nó cũng sợ lạnh,
không hề dám ló ra ngoài. Nó có ló ra, con hồ ly mới ăn nem nướng được,
còn nó mà trùm chăn thì chồn cái cũng đành trùm mền mà nhịn đói.
Anh Sáu cũng chẳng thấy đi uống cà-phê sáng cho ấm bụng. Cũng chẳng
thấy khói thuốc bay ra khỏi mái lều của anh như mọi ngày, và lâu lâu
cũng không còn nghe mẩu thuốc vứt xuống ao, tắt kêu xèo một cái.
Cả hai, vì tự ái hão, đều giả đau để nằm nhà. Anh Sáu yên thân hơn,
còn dám ngồi dậy lết ra lết vô. Còn con hồ ly thì sợ anh Sáu đi ngang
qua đó biết mình giả đò chăng, nên cứ trùm chiếu mãi từ sáng đến chiều.
Khó chịu quá, ngộp quá, mà anh Sáu không đi ngang qua lần nào để thấy là nàng ta đang đau ốm thì có tức hay không chớ?
Hết mưa rồi nắng. Anh Sáu ra đi. Ngang qua nhà hồ ly, anh lấy chơn lật
chiếu ra thì thấy hồ ly nằm xụi lơ. Nàng đau ốm thật đó, đau một chứng
bịnh cổ điển của loài người, là bịnh ... đói.
Anh Sáu mau bước nhảy như con khỉ từ ngôi mộ nầy đến ngôi mộ khác và rốt cuộc ra tới đầu ngõ hẻm trổ ra phố.
Thiên hạ cứ mỗi ngày một khôn ra, cho nên, mặc dầu là cáo già, anh Sáu không còn gạt gẫm ai được nữa.
Anh buồn hiu trở lại đào viên mà ba người bạn đã mặc lặng kết nghĩa với nhau hôm mấy tháng trước.
- Chị đỡ bớt hay chưa? - Anh hỏi bậy cho có chuyện.
- Có uống mẹ gì đâu mà đỡ bớt.
- Chị nghe trong mình làm sao?
- Không biết. Nhưng nếu ăn được một chén cháo thì khỏe.
Anh Sáu hiểu ngay. Anh lại thở ra, ngồi bó gối bên cạnh một người mà
anh sẽ chịu đồng cảnh vài ngày nữa đây. Sở dĩ anh còn đi đứng được là
nhờ anh mạnh sức, lây lất nổi thêm vài ngày.
Chiều xuống sớm và
mây kéo đen nghịt trời. Ngoài kia vịt vào chuồng kêu cạp cạp. Nghe
tiếng vịt kêu, anh Sáu nhớ lại người bạn thứ ba.
- Hừ, nó coi vậy mà no đó.
Bỗng một ý nghĩ nảy ra. Anh vừa mừng thì lại nghe như ai xát ớt trong ruột anh.
Nhưng biết làm sao: Đi ăn trộm vịt, không đáng gì cả, mà rủi ro thì
khổ. Trong lúc mình đang trốn mà dại gì làm những chuyện xằng nho nhỏ.
Anh Sáu đứng lên nhảy bay qua nhà anh, rồi ngồi nhìn mưa bắt đầu rơi lũm chũm trên mặt ao tù.
Một con nhái hay con gì không rõ, nhảy xuống nước lội róc rách đi về
đâu không biết. Gió hú trong tiểu giáo đường, gió than vãn ở các nhà mồ.
Xa xa tiếng động cơ xe nổ lên, nhắc nhở rằng cuộc sống ở bãi tha ma nầy
thầm lặng quá!
Anh Sáu rút cây chĩa ba, lết ra tới trước mả mà ngồi. Anh cúi mặt xuống miếng đất đọng nước, mắt lom lom rình.
Bỗng có tiếng sột soạt do con chồn khua lau sậy, nay đã chết khô rồi.
Anh Sáu hồi hộp nghe tim anh đập thình thình trong lồng ngực anh. Lạ!
Anh đã giết người, mà nhớ ra là anh đã không nghe mảy may sợ hãi. Cớ sao
đêm nay...
Kìa một cục đen đen thò ra khỏi sàn ván. Anh Sáu
cầm chĩa ba mà nhắm rồi sực một cái, mũi chĩa đâm chúi xuống trúng ngay
cổ con chồn. Chồn thét lên một tiếng kêu đau, kinh sợ, rồi thôi. Trong
bãi tha ma hoang vắng, không một tiếng vang lặp lại tiếng kêu thương
của con vật vừa bị bạn phản bội nầy.
*
Dân lưu manh vẫn thế. Họ cũng biết xúc cảm, nhưng
chỉ xúc cảm vậy vậy thôi. Họ nhỏ trên máu con chồn vài giọt nước mắt
rồi thịt nó liền mà không nghe nhờm răng.
Thế là đêm đó hai con chồn đói xơi một con chồn no.
Họ chỉ ân hận một vài giây thôi, vì dầu sao, người bạn xấu số ấy cũng
chỉ là một con chồn. Ai dư nước mắt mà khóc thú vật cho lâu!
Trời cứ mưa, mưa như cầm chĩnh mà đổ, mưa như một oanh tạc cơ định về
căn cứ, đổ rốc hết bao nhiêu bom còn sót lại trên tàu, mưa cho hết ráo
nước để rồi khô hạn được trong sáu tháng dài, mưa đêm chưa phỉ lại mưa
ngày, mưa cho đến xương kẻ dưới mồ chắc cũng lạnh thấu tủy khô.
Ăn được bữa cháo chồn, hồ ly nghe khỏe như chị đã đoán. Sáng hôm ấy chị
ra đi, căn dặn anh Sáu ở nhà, chị sẽ có tiền, một món tiền khá to, đâu
như năm trăm, do một anh tình nhơn hứa biếu và hẹn hôm ấy trao cho vì
hôm trước là ngày lương.
Anh Sáu thích quá, muốn ôm lấy hồ ly mà hôn một cái. Nhưng hồ ly dơ thấy mà bắt nôn, nên anh thôi.
Độ lối chín giờ sáng, anh Sáu đang nằm ca sáu câu mùi mẫn:
Cảnh vị nhân sầu, xơ xác ngọn vi lau, nước triều mênh mông chảy...
thì
bỗng nghe tiếng tu hít thổi hoen hoét ở cùng tứ phía, quanh nghĩa địa
rồi giây lát sau hồ ly nhảy như khỉ qua các nấm mồ, theo sau chị là hai
người đàn ông còn trẻ.
- Trời ơi - anh Sáu kêu - mình đã dại, kể
cho nó nghe duyên cớ trốn tránh của mình; nó bán mình mà ăn đây! Chồn
ơi, hồn mi có thiêng chăng, về mà xem kẻ phản bội mi sắp bị trừng phạt
đây.
Anh Sáu bó tay không chống cự. Anh nhìn hồ ly, không oán
giận mà chỉ tội nghiệp thôi. Hồ ly trốn cái nhìn của anh, ngồi day mặt
vô vách lá mà đếm tiền.
*
Đêm nay, gió sao mà hú ghê rợn hơn đêm nào cả.
Hồ ly giật nẩy mình, dáo dác nghe ngóng. Gì mà như anh Sáu ho bên ấy!
Chị đánh diêm lên để thắp nến. Trời ơi, mới hôm qua đây, anh Sáu còn nằm
bên đèn kể lại những bước phiêu lưu của anh! Hơi thở của anh, chị còn
nghe như văng vẳng. Cái mặt xương của anh đậm nét lên dưới ánh đèn, như
là còn ẩn hiện mơ hồ trên tấm mộ bia!
Trời ơi! Kéo cuộc đời nhơ
nhớp nầy biết đến bao giờ mới thôi? Đã nhơ nhớp lại đê hèn, bước từ
phản bội này qua phản bội khác cho đến một khi kia thì mình chỉ còn phản
bội được chính mình.
Hồ ly rùn mình một cái, không phải vì
lạnh, cũng không phải vì sợ ma, mà vì chị bỗng sợ hãi chính mình, sợ hãi
con người đã vơi cạn hết chất người.
Chị ôm mặt khóc òa, rồi lẩm bẩm van vái lầm thầm:
- Trời Phật ơi, Chúa ơi, tha tội cho tôi, ngày mai tôi sẽ ra khỏi chốn nầy và ra khỏi vực đen của đời tôi nữa!
--------------------------------
1 | Nơi đây yên nghỉ: Ông An-Phông Tô Ma Nguyễn Văn Nở, thất lộc năm 78 tuổi. Hãy cầu nguyện cho ông. | ||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||||
2 | Ý nầy của P.S. và X.V. |
Chủ Nhật, 19 tháng 5, 2024
CÓ MỘT THỜI MƯA BAY - Nguyễn Hồng Giang
Thứ Năm, 16 tháng 5, 2024
CÔ BẮC KỲ NHO NHỎ - Nguyễn Tất Nhiên
Cô đã nhìn anh rất... Bắc Kỳ
Anh vái trời cho cô dễ dạy
Để anh đừng uổng mớ tình si
Anh vái trời cho cô thích mộng
Để anh ngồi kể chuyện nằm mơ:
"Đêm qua có một chàng bươm bướm
Nguyện chết khô trên giấy học trò..."
Anh chắc rằng cô sinh trong Nam
Cảnh tượng di cư chắc lạ lùng?
Khi nghe ai luyến thương Hà Nội
Chắc cô nghe bằng tim dửng dưng
Anh vái trời cho cô dửng dưng
Coi như Hà Nội : xứ hoang đường
Để anh còn dắt cô đi dạo
Còn rủ cô vào rạp cải lương!
Anh vái trời cô thích cải lương
Thích "kẻ hùng anh diệt bạo tàn"
Mai mốt,chạy vùi quanh đời sống
Cô sẽ còn đôi chút lạc quan
Đôi mắt tròn, đen, như búp bế
Cô chớ nhìn thiên hạ lận lường
Mà, hãy nhìn anh cay lắm chuyện
Nhưng còn con trẻ chuyện yêu đương!
NGUYỄN TẤT NHIÊN
Thứ Hai, 13 tháng 5, 2024
NẮNG CHIỀU - Bình Nguyên Lộc
Nếu chị Nguyệt không đến nơi, thì chắc hai người đã
đánh nhau hay ít ra, họ cũng trao đổi nhau những tiếng nặng, khó lòng
lấy lại được, rồi thì anh em sẽ tuyệt giao với nhau.
Cái anh Vinh ấy có một tật đánh chết không chừa, là hay đùa
những cái lố bịch của người khác. Anh ta có tài nhận xét những tật nho
nhỏ của mọi người, có tài phóng to những điểm kỳ cục ấy lên, nắn cho nó
biến thành những hình thù kỳ dị hơn, rồi lại có duyên thầm, trình bày
những điều buồn cười ấy một cách ngây thơ như là vô tình mà nói đến, chớ
không cố ý trêu người nào, không cố ý chọc cười ai. Chính cái ngây thơ
ác hiểm ấy, cù người ta bất ngờ quá, nên không ai nín cười được.
Nhưng hôm đó, chị Nguyệt đến đúng vào lúc mà anh Cần bị làm nạn
nhơn của anh Vinh, và không muốn để chị nầy thấy bộ mặt nhăn nhăn của
mình, anh Cần vui tươi lên như là không giận bạn vậy.
Chị Nguyệt xem lại đồng hồ rồi hỏi:
- Sao, giờ nầy mấy anh chưa về?
- Thì đợi chị nãy giờ, đi sao được. Thôi ta đi nè!
Bình đáp, rồi giục tất cả mọi người.
Cả năm đồng đứng lên.
Ra đến cửa ngõ, muốn làm lành lại với Cần, Vinh hỏi:
- Thầy Mười Sáng là người thế nào, anh Cần?
Như chợt nghĩ ra điều gì, Cần không đáp, mà chụp lấy vai Vinh, rồi nói:
- Ừ, cậu có giỏi thì làm cái nầy. Tôi thách cậu đó. Cậu làm thế
nào mà đùa thầy Mười Sáng cho anh em cười ngả nghiêng, ngả ngửa một bữa
chơi. Cậu làm được thì tôi phục lăn tài pha trò của cậu. Thầy Mười Sáng
là người thế nào à? Cậu hỏi anh Bình thì rõ.
Nói xong, Cần hóm hỉnh cười, bụng nghĩ: "Phen nầy, thì cậu chết
nhé! Làm thế nào mà đùa được con người đứng đắn ấy! Thế mới biết tài cậu
chưa vững đâu nhé, cậu bé ơi, đừng có làm phách".
Bình, vốn là một thanh niên rất thạo về tôn giáo, về các phong
trào thần học. Chính anh ta đã rủ anh em đến nhà thầy Mười Sáng hôm nay.
Thầy Mười Sáng! Cả bọn không ai biết rõ thầy ta, trừ Bình. Để
trả lời câu hỏi chưa thốt ra, mà thế nào cũng phải có của Vinh, Bình kể:
- Thầy Mười Sáng, trước kia, có theo học ở một trường trung học
công lập tại Sài gòn. Không rõ, vì lẽ gì, thầy ta bị đuổi vào năm thứ
ba. Trở về tỉnh nầy nghỉ vài năm, thầy ta đi làm khán hộ. Chính trong
thời kỳ thầy làm khán hộ ấy, mà tôi được quen biết thầy. Thầy đọc sách
nhiều lắm, biết rất nhiều việc và rất băn khoăn về nhiều vấn đề. Thầy
thường gởi gắm với tôi: "Tôi không hoàn toàn tin nơi khoa học được, vì
khoa học chưa giải quyết được những vấn đề lớn, cho đến những bí mật vừa
vừa của thiên nhiên, mà nó còn chưa khám phá ra nổi. Lấy ngay một thí
dụ, trong nghề của tôi mà nói, cũng đủ thấy khoa học còn bối rối lắm.
Bịnh truyền nhiễm, khoa học cho là do vi trùng gây ra. Vâng. Nhưng còn
"dịch" của các bệnh truyền nhiễm? Ừ, con vi trùng nó truyền bịnh và lắm
khi gây ra dịch. Nhưng trước khi có dịch, nó trốn ở đâu mà không tác
hại? Mà vì sao, tác hại trong một thời gian, nó lại thôi? Ngày xưa, khi
loài người chưa biết trừ dịch, dịch vẫn tự nhiên lui như thường, sau vài
tháng hoành hành.
Thầy Mười làm khán hộ được ít năm rồi thôi, thí phát đi tu. Nghe
nói là thầy ẩn tu ở núi nào đó đâu được ba năm, rồi hạ san, xuống Sài
gòn, xin giấy thông hành đi ấn Độ. "Đi nghiên cứu đạo Phật tận gốc",
thầy nói thế với những người quen biết.
Cái năm ấy, thầy được hăm bảy buổi, và năm nay về là năm lăm đúng.
- Thầy nghiên cứu được gì?
- Số là thầy ta dốt về đạo Phật, không biết nguồn gốc đạo ở đâu, nên qua đến nơi rồi nghe người xúi biểu, thầy ta lên Tây Tạng.
- Tây Tạng không phải là nhao rún của đạo Phật à?
- Đâu có phải. Tây Tạng chỉ là một tôn phái của đạo Phật thôi.
- Nhưng biết đâu, tôn phái ấy không quan niệm đúng hơn bọn chánh thống.
- Đúng thế! Thành ra, đi lạc đường, mà thầy ta vẫn học được
nhiêu điều hay. Tôi rủ các anh lại thăm thầy ta hôm nay là để xem thầy
biểu diễn phép lạ.
*
Thầy Mười Sáng sống biệt tịch trong một cái am nhỏ ở khu Bà Lụa, một ngoại ô tỉnh lỵ của tỉnh Bình Dương.
Am cất trên đồi, giữa một vườn cây cổ thụ sầm uất, trông xuống
sông, nước xanh lơ, khiến khách viếng am không khỏi nghĩ đến những vân
am của đạo sĩ trong truyện Tàu nào.
Thầy Mười Sáng gầy khô đét như một ông lão bảy mươi. Tuy nhiên thầy ta vẫn nhanh nhẹn và có đôi mắt sáng quắc.
Chủ am tiếp khách rất niềm nở, chú ý đến từng người, cả đến cái
cậu Vinh liếng thoắng làm huyên náo am tiên kia, và làm bận rộn con
người trầm lặng đã học đạo từ Tây Tạng huyền bí về.
Sau những câu khách sáo xã giao, bọn trẻ bàn về khoa học và tôn giáo. Thầy Mười nói:
- Khoa học sai be bét hết và còn dốt lắm. Tôi đã thấy tận mắt
những thầy Fa-Kia bên Ấn Độ, tự chôn sống hàng tháng mà không chết, tôi
thấy họ đâm dao vào thịt mà không làm chảy máu; riêng ở Tây Tạng là nơi
tu hành, những thầy tu tay mơ cũng có thể ngồi trần truồng trên tuyết
hàng tuần, mà không bị cảm lạnh bao giờ. Thật là trái với những luật mà
khoa học đã nêu ra.
- Thưa thầy, họ có phép tiên chắc?
- Đúng, họ luyện phép và chính tôi, cũng đã học được vài môn.
Đức nói:
- Hay đó cũng là khoa học; nhưng khác với khoa học của ta. Ta
thử đặt tên khoa học của ta là khoa học A..., còn của họ là khoa học B.
Cả hai đều đi tìm sự thật, mà đi hai nẻo khác nhau, ngày sau A và B sẽ
gặp nhau chăng?
- Tôi không đáp được. Điều tôi biết chắc là họ và tôi đã làm
được những điều mà cái khoa học A của cậu cho là không được. Nể lời chú
Bình, tôi biểu diễn phép tị hỏa cho các cậu xem.
Bây giờ, bọn khách trẻ mới hiểu được sự có mặt của cả một cái lò rèn giữa am thầy Mười.
Thầy Mười Sáng nhúm lửa ở đống than, còn Bình thì bước lên ghế cao, cầm hai cây thụt ở ống bễ mà thụt.
Hơi trong hai ống bễ xình xịch bay ra, thổi văng lên những mảnh
than nát. Mấy đóm lửa mới nhúm, nở to lần lần, ăn lấn vào màu đen huyền
của than. Màu lửa, ban đầu, xanh xanh, càng lớn khối, càng ngã sang màu
hỏa hoàng và khi những lưỡi lửa chen than mà mọc lên, thì than đã nhuốm
màu bạch chảng.
Bình thụt không ngớt tay, lửa cháy đỏ rực khuôn bếp.
Thầy Mười Sáng mặc áo đạo sĩ màu lam có viền trắng ở các rìa.
Thầy ta săn tay áo lên một cách trịnh trọng, đoạn khom lưng, cúi mình
trên bếp lửa, thọc tay vào đống than cháy đỏ, chọn lấy một hòn than to
nhứt và đang cháy tốt nhứt. Thầy ta làm công việc ấy dễ ợt như một cậu
bé chọn kẹo. Thầy cầm hòn than đỏ giữa hai ngón tay, rồi đứng thẳng dậy,
đặt nó vào giữa lòng bàn tay bên kia.
Bốn thanh niên và một thiếu nữ trố mất nhìn. Họ hồi hộp đợi thầy
Mười bị phỏng tay, phải vứt hòn than đỏ, đợi chờ cái ấy, mà cứ lo sợ nó
xảy ra, rồi phải thất vọng. Có thế nào như thế được chăng? Họ tự hỏi
như vậy, rồi tự bảo rằng, thì ra phép tiên, phép mầu là điều có thật chớ
không ngoa.
Hòn than trên tay của thầy Mười đã sậm màu đen, và một lớp tro
trắng mỏng đã bắt đầu bao bọc lấy nó. Thầy đạo sĩ nói: "Nguội quá rồi!"
Rồi vứt hòn than lên đống lửa.
Bình mê xem biểu diễn, nên quên thụt lửa, khiến thầy đạo sĩ phải nhắc:
- Chú thụt tiếp đi chớ!
Hai ống bễ lại bắt đầu thở khì khì và đống than bắt dầu đỏ rực trở lại.
Thầy Mười Sang bước vào đống than đang cháy, đi tới vài bước, đoạn đứng yên một nơi.
Những lưỡi lửa cứ chờn vờn muốn táp lai quần của thầy Mười, vốn đã vén lên rồi, khiến thầy lại phải vén ống lên thật cao.
Chị Nguyệt há miệng nhìn, mắt mở tròn xoe. Trong không khí,
phảng phất một mùi huyền bí kỳ lạ, thật thật, hư hư, và thầy đạo sĩ kia,
có vẻ một ông Tiên từ thời Xuân Thu hiện về. Năm khán giả trẻ tuổi nghe
như mình đang lạc vào cõi tiên hay vào động quỉ. Thật là không thể
tưởng tượng được.
Đứng trên than hồng được ước chừng năm phút, thầy Mười bước xuống, mỉm cười đắc thắng.
Bình ngừng thụt, thở ra một hơi dài và nói:
- Mỏi rụng hai tay!
Chị Nguyệt kính cẩn nhìn thầy Mười Sáng giây lâu, rồi hỏi:
- Thưa thầy thầy ăn ở dễ thương cách nào mà mấy ông thầy tu trên ấy truyền cho thầy phép lạ nầy?
- Những phép nầy không thể truyền mà được như bùa ngải. Phải bền công luyện tập mới đắc.
- Luyện tập à, thưa thầy? Không truyền được, mà phải luyện tập,
là không phải phép huyền bí nữa rồi, mà là khoa học đó, khoa học B như
tôi đã nói.
Đó là lời của Đức.
Thầy Mười Sáng suy nghĩ giây lát, rồi đáp:
- Có thể. Nhưng dầu sao khoa học của cậu cũng còn non lắm đối với khoa học huyền bí nầy.
- Đúng như vậy !
Chị Nguyệt phê.
Bỗng cậu Vinh lắm lời kia, nãy giờ cứ làm thinh, hỏi lên đột ngột:
- Dạ, thưa thầy...
Anh ta mới mở lời, mà bao nhiêu con mắt đều quay nhìn anh ta.
Thấy gương mặt ngây thơ một cách hóm hỉnh của Vinh, thản nhiên sắp hỏi
một câu gì đó, họ đoán sẽ được cười.
Cần lo lắng kẻ nghịch của anh, lần nầy lại thắng nữa. Còn Bình
thì hoảng hốt lên, sợ những câu pha trò của Vinh sẽ chọc giận người đáng
kính là thầy Mười. Nhưng đã trễ quá rồi, không còn ngăn thằng mắc dịch
Vinh kịp nữa.
Vinh ngây thơ tiếp hỏi:
- Dạ thưa thầy, không hay cái phép mầu nầy dùng để làm gì vậy a thầy?
Thầy Mười có vẻ bực mình lắm! Thầy suy nghĩ giây lâu, rồi đáp:
- Thí dụ như có đám cháy, tôi đã không hề gì, lại xông vào lửa để cứu những người còn kẹt trong nhà.
- Thưa thầy, thầy mất đến hăm tám năm trời để làm được một công
việc mà bất kỳ anh lính cứu hỏa nào cũng làm được, mà chỉ tốn có hai
phút đồng hồ thôi. Trong hăm tám năm trời ấy, cái khoa học non nớt của
chúng tôi đã tìm được bao nhiêu là thứ, mà những thứ ấy, truyền lại cho
ai cũng được cả, miễn họ chịu bỏ ra chỉ vài năm thôi, để học tập.
Lần đầu tiên trong đời anh ta, con người nổi danh có tài hỏi vặn pha trò để chọc cười ấy, đã thất bại, vì không ai cười cả.
Thầy Mười Sáng trố mất nhìn người khách có vẻ mặt ngây ngô, đần độn kia, nổi giận trong vài giây, rồi kinh sợ trong mấy phút.
Đoạn thầy ta ngồi phệch xuống đất, ôm đầu mà thở dài. Cả sáu
người trong nhà đều im lặng, mỗi người có một ý nghĩ riêng về quan niệm
của Vinh.
Lâu lắm, người ta mới nghe thầy Mười Sáng lẩm bẩm:
- Hăm tám năm! Hăm tám năm! Trời ơi, sự thật đến bạc đầu tôi tìm
cũng chưa ra, mà cái phép mầu kia, luyện được sau một phần tư thế kỷ cố
gắng, bỗng thấy là hoài công, phí sức lắm.
Bình bước tới, quỳ xuống trước mặt người đạo sĩ thất vọng để an ủi:
- Thưa thầy, không là hoàn toàn hoài công đâu, vì ít ra, điều ấy
cũng giúp người khác thấy rõ là nẻo của khoa học B không phải là nẻo
không nên theo.
- Không ! Sụp đổ cả rồi, các cậu ơi! Cả một đời tôi, cả một đời
bao nhiêu người khác, chúng tôi đã dùng nó làm gì? Chẳng qua là phung
phí thì giờ và tâm trí như những kẻ trác táng kia!