Mỗi buổi chiều, người ta lại thấy anh ta thổi. Tiếng sáo trong theo gió
đưa vào phố, réo rắt và chơi vơi, hòa nhịp với tiếng sáo diều vang vang ở
trên cao. Mọi người ngừng câu chuyện, lắng tai nghe, rồi bảo nhau:
- Sáo của Tiến ngoài ga.
Họ yên lặng nghe, cám dỗ bởi tiếng nhạc êm dịu ấy, cùng với buổi
chiều man mác của đồng quê, thấm thía vào tâm hồn họ. Thong thả và se
sẽ, họ bắt đầu kể những chuyện về thân thế người thổi sáo.
Tiến là một anh chàng xinh trai, và tài hoa. Âm nhạc thứ gì anh
cũng biết hết, nhưng hay nhất là sáo ngang. Anh lại biết ca hát đủ các
lối: giọng anh trầm và mạnh mẽ, mỗi khi anh vừa gẩy đàn bầu vừa ca Nam
Bình thì ai cũng phải muốn nghe. Anh không có nghề nghiệp gì cả. Mẹ anh
chỉ có một mình anh; bà cụ năm nay đã già, và đứng trông nom một cửa
hàng cơm trọ cho các hành khách đi tầu. anh không làm việc gì. Suốt ngày
loay hoay vào mấy cái đàn, hoặc làm những thứ đèn kéo quân rất thần
tình, ngày tháng tám, bởi anh rất khéo tay, bà cụ Tiến đã nhiều lần phàn
nàn về sự Tiến chẳng giúp đỡ cụ được công việc gì; tuy già đã hai thứ
tóc mà bà vẫn còn phải khó nhọc để nuôi con. Hàng xóm ai cũng chê anh
chàng lười và bất hiếu. Nhưng hễ khi nào bà cụ chửi mắng quá là Tiến nổi
xung – anh ta tính rất cộc - đập phá hết cả đồ đạc trong nhà. Bà cụ
Tiến lăn lộn kêu khóc ngoài đường, phân bua với cả phố về sự khổ cực của
bà; tiến cứ đập và cứ phá, nhưng không bao giờ anh chạm đến những cây
đàn treo trên vách.
Cãi nhau xong, hai mẹ con lại làm lành như cũ. Tội nghiệp bà cụ,
bà có một con, chẳng lẽ giận con mãi. Người ta lại thấy Tiến ngồi chắp
nhặt những thức mà anh ta đã phá và bà cụ thổi nồi cơm rõ ngon và mua
nhiều đồ nhắm cho con uống rượu.
Rồi buổi chiều, Tiến mang sáo ra cánh đồng đằng sau nhà thổi.
Tiếng sáo anh này hôm ấy càng réo rắt du dương, lên bổng xuống trầm, bay
đi khắp mọi nơi.
Nếu chỉ có thế, thì người trong phố cũng ít chuyện kháo nhau về
anh ta. Tôi quên chưa nói rằng Tiến không có vợ, không có con chính
thức. Ngày còn trẻ, đã lâu lắm, mẹ Tiến có cưới cho anh ta một cô vợ
người cùng làng, nhà khá giả và đảm đang lắm. Nhưng sau khi đi học đàn
trở về, anh ta chê vợ xấu và tìm cớ đuổi đi.
Từ đấy, anh không lấy người nào nữa, và giả thử anh có muốn lấy
vợ, những nhà có con gái trong làng cũng chẳng ai gả cho anh. Nhưng anh
không cần vì anh nhiều vợ theo lắm.
Lần đầu tiên, sau khi đi vắng một ít lâu, anh trở về đem theo
một cô gái rất trẻ và có nhan sắc, chỉ độ mười lăm, mười sáu tuổi. Tất
cả phố ga đều tò mò chú ý và bàn tán đến người con gái ấy. Họ bảo nhau
rằng cô ta mê Tiến vì tiếng sáo, trốn nhà theo Tiến về đây. Người bảo cô
là con một ông phán già ở trên tỉnh; có người, ra dáng biết rõ chuyện
hơn, quả quyết rằng cô là con út một ông Án vùng xuôi, em một cậu ấm
cũng chơi bời và đàn địch như Tiến; và bởi thế Tiến đi lại nhà cậu ấm
kia họa đàn, rồi quyến rũ cô em gái. Sự thực, có lẽ không ai biết rõ.
Người ta bàn tán vì rỗi chuyện cũng có, mà vì ghen với Tiến có cô vợ đẹp
theo cũng có. Những trang sức đắt tiền của cô con gái, vòng xuyến, hột
hoa, toàn bằng vàng, gây lòng thèm muốn và ganh ghét. Cô Liên – tên
người thiếu nữ – đi đến đâu cũng gợi chung quanh cô những bàn tàn ra
vào. Nhưng không ai dám tỏ ý khinh cô. Cái vẻ thanh cao quý phái của cô, cái
bàn tay xinh xẻo, có ngón tay búp măng, và gót chân đỏ hồng nhỏ nhắn của
cô nổi lên giữa đám người thô sơ ở phố này và khiến họ kính phục. Một
đằng khác, cái vẻ duyên thắm dễ thương của cô, đôi mắt đen lành và thơ
ngây như đôi mắt của trẻ con, khiến mọi người có cảm tình tốt đối với
người con gái ấy.
Trong mấy tháng đầu, đôi nhân tình trẻ đó yêu nhau lắm. Hai người bao giờ cũng ở cạnh nhau, không rời nhau ra nửa bước.
Cứ mỗi buổi chiều, Tiến đưa vợ ra ngoài cánh đồng, thổi sáo cho
vợ nghe. Tiếng sáo của anh lưu loát cả gió mây, êm du đưa vào trong phố
những điệu ân ái. Các bác đàn ông lặng nghe, nghiêm nghị và các cô thiếu
nữ trở nên mơ màng, dừng tay trên kim chỉ hay trên khung cửi.
Người ta thấy Tiến trang hoàng nhà cửa rất sang trọng; anh mua
những thứ đàn sáo quý và đắt tiền, và ăn tiêu rất hoang phí. Những kẻ
xấu miệng thì thầm rằng đó là tiền của Liên bỏ ra. Sự ấy chắc đúng, vì
người ta thấy Liên đeo ít dần đồ trang sức đi.
Cho đến ngày cô không còn thức gì đáng giá trên người nữa. Cả
đến những chiếc áo lụa là cô mặc ngày về cũng bị Tiến bán dần lấy tiền
tiêu. Hai vợ chồng bắt đầu cãi nhau. Tiến luôn luôn chửi mắng hay gắt
gỏng với vợ, sau đấy anh bỏ nhà lên tỉnh năm ba hôm mới về. Tội nghiệp
cho cô thiếu nữ; Liên trở nên gầy tướt và xanh xao, mắt nàng lúc nào
cũng đỏ hoe như mới khóc. Liên không còn cái vẻ ngây thơ và duyên sắc
ngày trước nữa. Khi nàng đến chợ mua thức ăn, chân đi đất và mặc áo vá,
mọi người đều ái ngại cho nàng. Người ta trông cái bàn chân hồng và nhỏ
nhắn của nàng vụng về dẫm trên bùn mà thương hại. Các bà mẹ khẽ chép
miệng khi nàng đi qua, rồi quay lại phía các con gái, thầm thì những câu
chuyện khuyên nhủ, như bảo cô nên coi đó làm gương.
Rồi một buổi đêm, sau khi ban chiều người ta đã được nghe tiếng
sáo của Tiến réo rắt hơn và nỉ non hơn mọi khi, cả phố đều bị đánh thức
dậy bởi những tiếng kêu hãi hùng của bà cụ Tiến. Mọi người bàng hoàng đổ
lại nhà Tiến, xô cửa vào: một cảnh tượng đau thương bầy ra trước mắt
họ. bên chiếc giường, màn xô tung và gối lệch. Tiến nắm lấy tóc Liên mà
đánh. Mắt anh ta đỏ vì giận dữ, trông ghê sợ và hung ác; anh ta thẳng
thay tát, đấm vào cái thân hình nhỏ bé quằn quại trên mặt đất. Liên nấc
lên chịu đau nghiến chặt hai hàm răng lại để khỏi kêu cứu. Bà cụ tiến sợ
hãi run lẩy bẩy và loay hoay chung quanh hai người để gỡ con ra nhưng
vô ích.
Mọi người xúm vào can tiến, xốc lấy Liên và đặt nàng lên giường; nàng đau quá đã ngất đi.
Thế rồi tờ mờ sáng hôm sau, vài người thấy Liên xách một cái bọc
nhỏ ra ga lên tầu. Nàng chỉ còn là cái bóng hình tiều tụy của nàng.
Còn Tiến anh chàng vẫn như thường. Anh ta hình như lấy làm sung
sướng được rời bỏ cô gái tội nghiệp. Chiều đến, cánh đồng lại văng vẳng
tiếng sáo du dương của anh.
Cái tấn kịch đó diễn lại vài lần, mỗi lần với một cô thiếu nữ
khác, cô nào cũng trẻ đẹp, và sau mỗi bận Tiến đi vắng anh ta lại đem
theo về. Chỉ có một cái khác là những cô thiếu nữ này hình như ở những
gia đình thường hơn và cũng ít tiền hơn. Có khi là một cô gái quê, mắt
bồ câu và má núng đồng tiền; có khi là cô gái nửa tỉnh nửa quê, ra vẻ
người buôn bán làm ăn. Cuộc tình duyên của Tiến với họ không được lâu
bền như với Liên. Chỉ một hai tháng sau, những cuộc cãi cọ đã xẩy ra
liên tiếp hàng ngày cho đến một buổi kia. Tiến lại trở nên hung ác và
tàn bạo. Các cô thiếu nữ đó không có gan chịu đòn như Liên, kêu cứu ầm
cả phố. Rồi vài hôm sau các cô lần lượt bỏ ra đi.
Người hàng phố đã quen với những cuộc cãi nhau ấy. Họ lặng yên,
vì bởi ghét Tiến nên cứ mặc kệ. Trừ khi nào các cô bị đánh đau quá, họ
mới can thiệp một cách chểnh mảng, và lãnh đạm; những điều khuyên bảo
của họ đều bị Tiến trả lời một cách vô lễ, nên họ cũng chẳng hoài hơi.
Vì những lẽ đó, không còn ai giao thiệp với Tiến nữa. Họ tỏ ý khinh bỉ
con người lừa lọc tệ bạc đó. Tiếng sáo của anh lúc buổi chiều không còn
tìm được những người lắng nghe chăm chú và thân mật như trước nữa, trái
lại, tiếng sáo giờ chỉ gây nên những câu bình phẩm nghiêm khắc và khinh
miệt.
Tiến cũng trả lại sự lãnh đạm ấy bằng cái thái độ dửng dưng. Anh
không thiết chuyện trò với các người lớn trong phố nữa, chỉ làm bạn
với các trẻ con như chúng tôi. Tuy bị cấm đoán, chúng tôi vẫn trái lời
cha mẹ, đến chơi nhà anh luôn. Ðối với chúng tôi, Tiến là một người bạn
đáng yêu và quyến rũ. Anh khiến chúng tôi say mê và làm chúng tôi khâm
phục vì cái khéo tay của anh, những đồ chơi anh làm cho chúng tôi thực
là những đồ chơi kỳ lạ, ham thích. Anh dậy chúng tôi học đàn, và mỗi
buổi chiều, anh đưa chúng tôi ra cánh đồng. Tiếng sáo của anh càng ngày
càng hay, văng vẳng đưa vào trong phố như vừa khiêu khích lại vừa quyến
luyến.
*
Rồi cái việc đó xẩy đến, không ai ngờ và không ai đoán được
trước. Vì câu chuyện này, chúng tôi đã mất người bạn quý hóa và thân yêu
kia.
Bên cạnh nhà tôi là chỗ ở của bà Hàn. Hai nhà liền sân nhau vì
vậy, những buổi chiều mùa hạ hay đêm sáng trăng, bà Hàn và mẹ tôi thường
hay bắc ghế ngồi nói chuyện. Chúng tôi quây quần chung quanh một cái
bàn nhỏ, giữa sân. Bà Hàn với mẹ tôi ngồi uống nước, còn tôi ngồi đọc
sách bên cạnh Thân, con gái của bà Hàn. Thân là một thiếu nữ xinh đẹp,
người rất có duyên và biết chữ nghĩa. Cô đã học đến lớp nhất trường
tỉnh, rồi về giúp đỡ mẹ trong việc buôn bán và trông nom nhà cửa. Nhà bà
Hàn giầu nhất phố, hầu hết các ruộng chung quanh là của bà ta cả. Cô
Thân, bởi thế, được nhiều người trong huyện muốn hỏi. Nhưng bà đều tìm
cách từ chối; theo ý bà trong cái huyện nhỏ mọn này không có ai xứng
đáng làm rể nhà bà hết. Bà có ý muốn chọn chỗ danh giá, và đánh cho con
gái mình một địa vị cao xa hơn. Nhưng bà không khéo léo từ chối, hay
không cần khéo léo, vì phần nhiều những người hỏi cô Thân đều là người
có hàm ân bà ít nhiều... Thái độ kiêu kỳ của bà khiến mọi người sinh ác
cảm.
Cô Thân, trái với mẹ lại được mọi người yêu mến; cô tính dễ dãi
và nhã nhặn, lúc nào cũng tươi như bông hoa, và hay thương người. Người
ta ghét bà Hàn bao nhiêu thì người ta lại ca tụng con gái bà bấy nhiêu.
Buổi chiều hôm cái tin cô Liên đi truyền ra, chúng tôi đang ngồi chơi ở sân. Bà Hàn bỗng nhìn mẹ tôi nói:
- Hừ, cô Liên ấy thật chẳng ai thương. Ai bảo mê giai vào rồi mà chết, con gái như thế không biết xấu hổ.
Mẹ tôi chưa kịp đáp, bà Hàn lại tiếp:
- Nghe đâu con nhà gia giáo cơ đấy. Không biết sao mà lại đổ đốn ra như thế?
- Tội nghiệp cho cô bé, con người có duyên đáo để.
- Tôi thì cho là đáng kiếp!
Cô Thân ngước mặt nhìn mẹ, thong thả nói len vào:
- Cứ như ý con thì Liên chỉ đáng thương chứ không đáng trách. Biết đâu cô ta...
Không để con nói hết, bà Hàn đã quắc mắt bảo:
- Biết đâu làm sao? Mày thì biết gì mà dám nói. Con nhà gia giáo
mà lại theo giai thì không đáng kiếp à. Thế chứ nữa cũng chẳng ai người
ta thương!
Thấy mẹ mắng, Thân yên lặng không dám nói. Giữa lúc ấy, tiếng
sáo của Tiến nổi lên theo gió ngoài cánh đồng đưa vào réo rắt và nỉ non
quá. Bà Hàn cau lông mày, lẩm bẩm:
- Chỉ sáo với địch cả ngày, chả được cái công trạng gì.
Tôi nhìn cô Thân, cô không hiểu mẹ nói gì nữa. Nét mặt mơ màng,
Thân đang chú ý lắng nghe tiếng sáo ngoài xa, êm dịu như quyến gọi.
Từ ngày ấy, tôi thường bắt gặp Thân đứng tựa cửa nghe tiếng sáo
của Tiến, mỗi buổi chiều. Nàng hay hỏi tôi luôn về Tiến, và thích nghe
tôi kể những câu chuyện tôi lượm được về anh ta.
Rồi một hôm, khi ra cánh đồng thả diều tôi ngạc nhiên thấy bên bờ
ruộng, Thân đang đứng nói chuyện với Tiến. Hai má nàng đỏ hồng, và đôi
môi chúm chím, Thân đứng khép nép bên bông lúa, tay mân mê cái quai nón
che ngang mặt. Tiến ngồi trên một mô đất, chiếc sáo để ngang miệng,
nhưng không thổi. Anh ngước mắt nhìn lên, và tôi thấy anh cười cái cười
xinh nhất của anh ta.
Biết tôi đến, hai người yên lặng, Thân rủ tôi cùng về. Và khi
chúng tôi quay bước đi tiếng sáo của Tiến lại nổi lên hòa dịp với sáo
diều, theo rõi chúng tôi về đến tận nhà.
*
Người trong phố đã bắt đầu bàn tán mong manh về sự đi lại của
Thân với Tiến. Người ta thấy làm lạ thỉnh thoảng gặp hai người đứng với
nhau ngoài cánh đồng hay bên bụi cây. Bà Hàn thấy cái nguy hiểm cho con
gái tuy bà không tin những điều người ta thuật lại. Tỏ ra là người mẹ
biết lo cho con bà Hàn tìm ngay được một nhà môn đăng hộ đối. Cậu ấy còn
trẻ mà lương cao, lại là ông phán nhà nước.
Hôm bên nhà trai về ăn hỏi, bà Hàn bầy tiệc linh đình và mời đủ
mặt người quen, có ý khoe ông rể mới. Cà phố háo hức đợi chờ. Trên ô tô
bước xuống, sau mấy bà bệ vệ, một người thấp bé, mặt rỗ chằng chịt. Cậu
phán không có vẻ người gì cả, và những con trai trong huyện bị bà Hàn từ
chối từ trước đưa nhau phân tách những cái xấu của ông rể tương lai
kia.
Khi bọn nhà trai đã trở về, bà Hàn gọi con vào buồng nói chuyện.
Hai mẹ con thủ thỉ với nhau lâu lắm. Lúc cô Thân bước ra, người ta thấy
mắt cô đỏ hoe; chắc cô vừa mới khóc. Buổi chiều cô tìm tôi, gọi ra một
chỗ kín khẽ dúi vào tay tôi một bức thư và bảo:
- Em cầm lấy cái này đưa cho cậu Tiến. Ðừng cho ai biết nhé, chóng ngoan rồi chị cho tiền ăn kẹo.
Tôi ra nhà Tiến thấy anh ta đang loay hoay nối lại dây đàn.
Tiến mở thư ra xem, rồi lại bỏ vào túi; anh nín lặng không nói câu gì và
nét mặt bí mật không biến đổi.
Ngày cưới Thân định vào hôm mười tháng tám. Chiều ngày hôm
trước, tôi thấy cô có vẻ băn khoăn, lo nghĩ. Thân đứng ngồi không yên,
và luôn luôn ra tựa cửa trông về phía cánh đồng. Tiếng sáo của Tiến đã
theo gió đưa vào, một âm điệu não nùng và tha thiết, như một lời than
vãn ai oán dài.
Thân trở vào gục xuống giường khóc nức nở.
Sớm hôm sau bà Hàn trở dậy thấy cửa để ngỏ; Thân đã đi từ bao giờ; không có một lời nào để lại.
*
Từ đấy, bà cụ Tiến trông hàng có một mình. Bà không tỏ vẻ nhớ
con lắm, tuy những lúc nói chuyện với hàng xóm, bà vẫn thường nhắc đến
những cuộc đập phá của Tiến với một giọng êm ả và lẫn chút yêu thương.
Những cây đàn của Tiến lâu ngày để mốc, bà cụ đem bán rẻ cho mọi
người trong huyện. Còn cái đèn kéo quân, công trình tuyệt xảo của Tiến,
trong có máy đồng hồ cử động một cảnh Lã Bố hý Ðiêu Thuyền – cái đèn ấy
bà treo ngoài nhà để làm thú vui cho khách trọ. Người ta tấm tắc khen
cái khéo léo tinh vi; bà cụ Tiến chỉ dịu dàng trả lời:
- Ấy của cháu nhà làm ngày xưa đấy. Nó khéo tay lắm, các ông ạ.
Và có ai chặn hỏi nó ở đâu, bà đều nói là Tiến đi làm ăn ở xa, không mấy khi về nhà.
Cảnh vật phố huyện vẫn không có gì thay đổi: chỉ có tiếng sáo
của Tiến không còn vang vang trên cánh đồng. Câu chuyện của Tiến và
Thân lâu dần cũng không ai bàn đến nữa. Nhưng mỗi khi bà Hàn ra phố,
người ta lại thì thầm chỉ tay vào bà, tò mò và ái ngại.
THẠCH LAM
(Trích từ tập truyện Nắng Trong Vườn)