56. THÚ QUÊ
Thứ hai, ngày 19
Cha tôi đã tha lỗi cho tôi và cho phép tôi theo anh Quyết-Tư và cha anh
về vùng quê chơi. Chúng tôi vốn khát khao chút khí trời thoáng đãng
trong sạch, nay được đi chơi, thật là vui vẻ như ngày hội.
Đúng hai giờ chiều hôm qua, Đỗ-Sinh, Hạ-Long, Ngạc-Phi, Cát-sinh, cha anh Quyết Tư, anh Quyết-Tư, và tôi đều tề tựu tại vườn "Ông Tượng"... Ai nấy đều mang theo hoa quả, bánh, trứng để ăn đường. Tôi mang một cái bát gỗ, một bình sắt tây, Hạ-Long xách một bầu rượu vang trắng, Quyết-Tư đeo một cái binh toong to tướng của cha anh đi lính ngày xưa đựng đầy rượu vang đỏ, Cát-Sinh cắp bên cái yếm thợ rèn, một chiếc bánh hai cân. Chúng tôi đáp ô-tô hàng ra ngoại châu thành chừng năm, sáu cây số.
Nửa giờ sau, chúng tôi xuống xe và rẽ vào một cánh đồng cỏ bao la, xa xa nổi mấy ngọn đồi. Trời xanh cỏ biếc ! Gió thổi hiu hiu. Thực là xinh đẹp và mát mẻ vô cùng ! Chúng tôi đi, chúng tôi chạy, chúng tôi nằm lăn ra cỏ, chúng tôi gội đầu trong suối, chúng tôi nhảy qua bờ rào...!
Cha anh Quyết-Tư, áo vắt vai, miệng ngậm tẩu, đi sau nhìn chúng tôi, thỉnh thoảng lại thét lác cho chúng tôi đừng nghịch quá rách cả áo quần. Hôm nay anh Cát-Sinh cũng huýt còi, có lẽ trời mưa mất! Quyết-Tư mau lẹ như con nai, vừa đi vừa lấy cành cây gọt đủ thứ : cánh cối xay, thìa, đĩa, ống tiêm rất khéo ! Đỗ-Sinh chốc chốc lại đứng lại bảo chúng tôi tên các cây cỏ và sâu bọ. Sao mà anh biết lắm thế ? Không biết anh học những khoa ấy tự bao giờ! Hạ-Long im lặng gặm bánh : từ khi mẹ anh mất đến giờ, anh có vẻ kém vui, song lòng anh vẫn tốt như xưa. Anh giơ tay đón mỗi khi chúng tôi qua hố, qua cầu. Cát-Sinh sợ bò như cọp vì ngày còn bé anh bị bò húc một lần. Hạ-Long biết ý mỗi khi gặp bò là anh đứng chắn cho Cát-Sinh đi qua.
Chúng tôi cứ vừa đi vừa chơi như thế cho tới địa phận làng Mặc-Thiện. Ở đây có nhiều đồi, ngọn nào cũng có cây cao bóng rợp. Chúng tôi thi nhau lên đồi, xuống đồi, chúng tôi nhảy nhót lăn lộn...
Cát-Sinh nhảy qua bụi, rách quần, thẹn đỏ mặt. May sao Ngạc-Phi có sẵn ghim trong túi đem ra díu lại cho bạn.
Ngạc-Phi một mình thơ thẩn nhặt sỏi, nhặt đá, chắt chiu giấu kỹ tưởng trong có ngọc, có vàng.
Đỗ-Sinh, Quyết-Tư và tôi, ba người hết chạy nhảy lại leo trèo, hết đùa chỗ rậm lại chơi chỗ nắng, hò reo vùng vẫy như một bọn điên. Cuối cùng mệt lả, chúng tôi mới chịu lên một ngọn đồi rồi gọi nhau hội họp dưới bóng cây, trên đám cỏ để ăn uống. Đứng trên đỉnh đồi chúng tôi nhìn ra một bức toàn cảnh rất đẹp : dưới chân một cánh đồng mênh mông xanh rợn, xa xa là dãy An-Sơn, sườn nhuộm sắc lam, đầu phô tuyết trắng !
Chúng tôi đói quá ăn rất ngon miệng. Cha anh Quyết-Tư hái lá bi làm đĩa đựng giò và phân phát đồ ăn cho chúng tôi. Chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện về thầy giáo, các bạn vắng mặt và bàn về chuyện thi.
Cha anh Quyết-Tư uống rượu vui vẻ lắm, ông bảo chúng tôi :
- Những người hàng củi cần uống rượu hơn là các cậu học trò, vì bé mà uống rượu thì có hại.
Chúng tôi đáp :
- Chúng tôi không biết uống. Mời ông uống thật say !
Ông nói tiếp :
- Các cậu chơi đùa với nhau hôm nay có thích không?
Chúng tôi đồng thanh đáp "có" và mong thỉnh thoảng lại có cuộc đi chơi này.
Ông nói :
- Bây giờ còn nhỏ, các cậu chơi với nhau xem chừng thân thiết lắm. Nhưng một mai, cậu An-Di, cậu Đỗ-Sinh làm luật sư hay giáo sư chẳng hạn, còn các bạn khác kẻ làm thợ, người buôn, lúc ấy có lẽ "ôi thôi" tình bè bạn !
Đỗ-Sinh đáp :
- Đời nào ! Đối với tôi , Hạ-Long sẽ vẫn là Hạ-Long, Cát-Sinh sẽ vẫn là Cát-Sinh, các bạn khác cũng thế, dù tôi có làm đến Hoàng đế nước Anh chăng nữa, tình cố cựu vẫn y nguyên.
Cha anh Quyết-Tư nâng cốc, nói :
- Khá lắm ! Khá lắm ! Cậu nói nghe được ! Học đường vạn tuế ! Học đường là một gia đình chung cho kẻ khó cũng như người giàu ! Tôi nâng cốc này để chúc cho tình thân ái của các cậu được lâu dài !
Chúng tôi đều vỗ tay khen.
Trời gần tối. Chúng tôi xuống đồi, dắt tay nhau vừa chạy vừa hát. Qua bờ sông Bô-hà, chúng tôi đã thấy lập lòe trăm nghìn con đom đóm giỡn bay trên cỏ và dưới sông sóng vỗ đen ngòm !
Về đến vườn "Ông Tượng", chúng tôi cùng nhau chia tay và hẹn chủ nhật tới sẽ lại gặp nhau trong cuộc phát thưởng cho thợ thuyền.
Đúng hai giờ chiều hôm qua, Đỗ-Sinh, Hạ-Long, Ngạc-Phi, Cát-sinh, cha anh Quyết Tư, anh Quyết-Tư, và tôi đều tề tựu tại vườn "Ông Tượng"... Ai nấy đều mang theo hoa quả, bánh, trứng để ăn đường. Tôi mang một cái bát gỗ, một bình sắt tây, Hạ-Long xách một bầu rượu vang trắng, Quyết-Tư đeo một cái binh toong to tướng của cha anh đi lính ngày xưa đựng đầy rượu vang đỏ, Cát-Sinh cắp bên cái yếm thợ rèn, một chiếc bánh hai cân. Chúng tôi đáp ô-tô hàng ra ngoại châu thành chừng năm, sáu cây số.
Nửa giờ sau, chúng tôi xuống xe và rẽ vào một cánh đồng cỏ bao la, xa xa nổi mấy ngọn đồi. Trời xanh cỏ biếc ! Gió thổi hiu hiu. Thực là xinh đẹp và mát mẻ vô cùng ! Chúng tôi đi, chúng tôi chạy, chúng tôi nằm lăn ra cỏ, chúng tôi gội đầu trong suối, chúng tôi nhảy qua bờ rào...!
Cha anh Quyết-Tư, áo vắt vai, miệng ngậm tẩu, đi sau nhìn chúng tôi, thỉnh thoảng lại thét lác cho chúng tôi đừng nghịch quá rách cả áo quần. Hôm nay anh Cát-Sinh cũng huýt còi, có lẽ trời mưa mất! Quyết-Tư mau lẹ như con nai, vừa đi vừa lấy cành cây gọt đủ thứ : cánh cối xay, thìa, đĩa, ống tiêm rất khéo ! Đỗ-Sinh chốc chốc lại đứng lại bảo chúng tôi tên các cây cỏ và sâu bọ. Sao mà anh biết lắm thế ? Không biết anh học những khoa ấy tự bao giờ! Hạ-Long im lặng gặm bánh : từ khi mẹ anh mất đến giờ, anh có vẻ kém vui, song lòng anh vẫn tốt như xưa. Anh giơ tay đón mỗi khi chúng tôi qua hố, qua cầu. Cát-Sinh sợ bò như cọp vì ngày còn bé anh bị bò húc một lần. Hạ-Long biết ý mỗi khi gặp bò là anh đứng chắn cho Cát-Sinh đi qua.
Chúng tôi cứ vừa đi vừa chơi như thế cho tới địa phận làng Mặc-Thiện. Ở đây có nhiều đồi, ngọn nào cũng có cây cao bóng rợp. Chúng tôi thi nhau lên đồi, xuống đồi, chúng tôi nhảy nhót lăn lộn...
Cát-Sinh nhảy qua bụi, rách quần, thẹn đỏ mặt. May sao Ngạc-Phi có sẵn ghim trong túi đem ra díu lại cho bạn.
Ngạc-Phi một mình thơ thẩn nhặt sỏi, nhặt đá, chắt chiu giấu kỹ tưởng trong có ngọc, có vàng.
Đỗ-Sinh, Quyết-Tư và tôi, ba người hết chạy nhảy lại leo trèo, hết đùa chỗ rậm lại chơi chỗ nắng, hò reo vùng vẫy như một bọn điên. Cuối cùng mệt lả, chúng tôi mới chịu lên một ngọn đồi rồi gọi nhau hội họp dưới bóng cây, trên đám cỏ để ăn uống. Đứng trên đỉnh đồi chúng tôi nhìn ra một bức toàn cảnh rất đẹp : dưới chân một cánh đồng mênh mông xanh rợn, xa xa là dãy An-Sơn, sườn nhuộm sắc lam, đầu phô tuyết trắng !
Chúng tôi đói quá ăn rất ngon miệng. Cha anh Quyết-Tư hái lá bi làm đĩa đựng giò và phân phát đồ ăn cho chúng tôi. Chúng tôi vừa ăn vừa nói chuyện về thầy giáo, các bạn vắng mặt và bàn về chuyện thi.
Cha anh Quyết-Tư uống rượu vui vẻ lắm, ông bảo chúng tôi :
- Những người hàng củi cần uống rượu hơn là các cậu học trò, vì bé mà uống rượu thì có hại.
Chúng tôi đáp :
- Chúng tôi không biết uống. Mời ông uống thật say !
Ông nói tiếp :
- Các cậu chơi đùa với nhau hôm nay có thích không?
Chúng tôi đồng thanh đáp "có" và mong thỉnh thoảng lại có cuộc đi chơi này.
Ông nói :
- Bây giờ còn nhỏ, các cậu chơi với nhau xem chừng thân thiết lắm. Nhưng một mai, cậu An-Di, cậu Đỗ-Sinh làm luật sư hay giáo sư chẳng hạn, còn các bạn khác kẻ làm thợ, người buôn, lúc ấy có lẽ "ôi thôi" tình bè bạn !
Đỗ-Sinh đáp :
- Đời nào ! Đối với tôi , Hạ-Long sẽ vẫn là Hạ-Long, Cát-Sinh sẽ vẫn là Cát-Sinh, các bạn khác cũng thế, dù tôi có làm đến Hoàng đế nước Anh chăng nữa, tình cố cựu vẫn y nguyên.
Cha anh Quyết-Tư nâng cốc, nói :
- Khá lắm ! Khá lắm ! Cậu nói nghe được ! Học đường vạn tuế ! Học đường là một gia đình chung cho kẻ khó cũng như người giàu ! Tôi nâng cốc này để chúc cho tình thân ái của các cậu được lâu dài !
Chúng tôi đều vỗ tay khen.
Trời gần tối. Chúng tôi xuống đồi, dắt tay nhau vừa chạy vừa hát. Qua bờ sông Bô-hà, chúng tôi đã thấy lập lòe trăm nghìn con đom đóm giỡn bay trên cỏ và dưới sông sóng vỗ đen ngòm !
Về đến vườn "Ông Tượng", chúng tôi cùng nhau chia tay và hẹn chủ nhật tới sẽ lại gặp nhau trong cuộc phát thưởng cho thợ thuyền.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét