Thứ Hai, 13 tháng 5, 2024

NẮNG CHIỀU - Bình Nguyên Lộc

Nếu chị Nguyệt không đến nơi, thì chắc hai người đã đánh nhau hay ít ra, họ cũng trao đổi nhau những tiếng nặng, khó lòng lấy lại được, rồi thì anh em sẽ tuyệt giao với nhau.

Cái anh Vinh ấy có một tật đánh chết không chừa, là hay đùa những cái lố bịch của người khác. Anh ta có tài nhận xét những tật nho nhỏ của mọi người, có tài phóng to những điểm kỳ cục ấy lên, nắn cho nó biến thành những hình thù kỳ dị hơn, rồi lại có duyên thầm, trình bày những điều buồn cười ấy một cách ngây thơ như là vô tình mà nói đến, chớ không cố ý trêu người nào, không cố ý chọc cười ai. Chính cái ngây thơ ác hiểm ấy, cù người ta bất ngờ quá, nên không ai nín cười được.

Nhưng hôm đó, chị Nguyệt đến đúng vào lúc mà anh Cần bị làm nạn nhơn của anh Vinh, và không muốn để chị nầy thấy bộ mặt nhăn nhăn của mình, anh Cần vui tươi lên như là không giận bạn vậy.

Chị Nguyệt xem lại đồng hồ rồi hỏi:

- Sao, giờ nầy mấy anh chưa về?

- Thì đợi chị nãy giờ, đi sao được. Thôi ta đi nè!

Bình đáp, rồi giục tất cả mọi người.

Cả năm đồng đứng lên.

Ra đến cửa ngõ, muốn làm lành lại với Cần, Vinh hỏi:

- Thầy Mười Sáng là người thế nào, anh Cần?

Như chợt nghĩ ra điều gì, Cần không đáp, mà chụp lấy vai Vinh, rồi nói:

- Ừ, cậu có giỏi thì làm cái nầy. Tôi thách cậu đó. Cậu làm thế nào mà đùa thầy Mười Sáng cho anh em cười ngả nghiêng, ngả ngửa một bữa chơi. Cậu làm được thì tôi phục lăn tài pha trò của cậu. Thầy Mười Sáng là người thế nào à? Cậu hỏi anh Bình thì rõ.

Nói xong, Cần hóm hỉnh cười, bụng nghĩ: "Phen nầy, thì cậu chết nhé! Làm thế nào mà đùa được con người đứng đắn ấy! Thế mới biết tài cậu chưa vững đâu nhé, cậu bé ơi, đừng có làm phách".

Bình, vốn là một thanh niên rất thạo về tôn giáo, về các phong trào thần học. Chính anh ta đã rủ anh em đến nhà thầy Mười Sáng hôm nay.

Thầy Mười Sáng! Cả bọn không ai biết rõ thầy ta, trừ Bình. Để trả lời câu hỏi chưa thốt ra, mà thế nào cũng phải có của Vinh, Bình kể:

- Thầy Mười Sáng, trước kia, có theo học ở một trường trung học công lập tại Sài gòn. Không rõ, vì lẽ gì, thầy ta bị đuổi vào năm thứ ba. Trở về tỉnh nầy nghỉ vài năm, thầy ta đi làm khán hộ. Chính trong thời kỳ thầy làm khán hộ ấy, mà tôi được quen biết thầy. Thầy đọc sách nhiều lắm, biết rất nhiều việc và rất băn khoăn về nhiều vấn đề. Thầy thường gởi gắm với tôi: "Tôi không hoàn toàn tin nơi khoa học được, vì khoa học chưa giải quyết được những vấn đề lớn, cho đến những bí mật vừa vừa của thiên nhiên, mà nó còn chưa khám phá ra nổi. Lấy ngay một thí dụ, trong nghề của tôi mà nói, cũng đủ thấy khoa học còn bối rối lắm. Bịnh truyền nhiễm, khoa học cho là do vi trùng gây ra. Vâng. Nhưng còn "dịch" của các bệnh truyền nhiễm? Ừ, con vi trùng nó truyền bịnh và lắm khi gây ra dịch. Nhưng trước khi có dịch, nó trốn ở đâu mà không tác hại? Mà vì sao, tác hại trong một thời gian, nó lại thôi? Ngày xưa, khi loài người chưa biết trừ dịch, dịch vẫn tự nhiên lui như thường, sau vài tháng hoành hành.

Thầy Mười làm khán hộ được ít năm rồi thôi, thí phát đi tu. Nghe nói là thầy ẩn tu ở núi nào đó đâu được ba năm, rồi hạ san, xuống Sài gòn, xin giấy thông hành đi ấn Độ. "Đi nghiên cứu đạo Phật tận gốc", thầy nói thế với những người quen biết.

Cái năm ấy, thầy được hăm bảy buổi, và năm nay về là năm lăm đúng.

- Thầy nghiên cứu được gì?

- Số là thầy ta dốt về đạo Phật, không biết nguồn gốc đạo ở đâu, nên qua đến nơi rồi nghe người xúi biểu, thầy ta lên Tây Tạng.

- Tây Tạng không phải là nhao rún của đạo Phật à?

- Đâu có phải. Tây Tạng chỉ là một tôn phái của đạo Phật thôi.

- Nhưng biết đâu, tôn phái ấy không quan niệm đúng hơn bọn chánh thống.

- Đúng thế! Thành ra, đi lạc đường, mà thầy ta vẫn học được nhiêu điều hay. Tôi rủ các anh lại thăm thầy ta hôm nay là để xem thầy biểu diễn phép lạ.

*

Thầy Mười Sáng sống biệt tịch trong một cái am nhỏ ở khu Bà Lụa, một ngoại ô tỉnh lỵ của tỉnh Bình Dương.

Am cất trên đồi, giữa một vườn cây cổ thụ sầm uất, trông xuống sông, nước xanh lơ, khiến khách viếng am không khỏi nghĩ đến những vân am của đạo sĩ trong truyện Tàu nào.

Thầy Mười Sáng gầy khô đét như một ông lão bảy mươi. Tuy nhiên thầy ta vẫn nhanh nhẹn và có đôi mắt sáng quắc.

Chủ am tiếp khách rất niềm nở, chú ý đến từng người, cả đến cái cậu Vinh liếng thoắng làm huyên náo am tiên kia, và làm bận rộn con người trầm lặng đã học đạo từ Tây Tạng huyền bí về.

Sau những câu khách sáo xã giao, bọn trẻ bàn về khoa học và tôn giáo. Thầy Mười nói:

- Khoa học sai be bét hết và còn dốt lắm. Tôi đã thấy tận mắt những thầy Fa-Kia bên Ấn Độ, tự chôn sống hàng tháng mà không chết, tôi thấy họ đâm dao vào thịt mà không làm chảy máu; riêng ở Tây Tạng là nơi tu hành, những thầy tu tay mơ cũng có thể ngồi trần truồng trên tuyết hàng tuần, mà không bị cảm lạnh bao giờ. Thật là trái với những luật mà khoa học đã nêu ra.

- Thưa thầy, họ có phép tiên chắc?

- Đúng, họ luyện phép và chính tôi, cũng đã học được vài môn.

Đức nói:

- Hay đó cũng là khoa học; nhưng khác với khoa học của ta. Ta thử đặt tên khoa học của ta là khoa học A..., còn của họ là khoa học B. Cả hai đều đi tìm sự thật, mà đi hai nẻo khác nhau, ngày sau A và B sẽ gặp nhau chăng?

- Tôi không đáp được. Điều tôi biết chắc là họ và tôi đã làm được những điều mà cái khoa học A của cậu cho là không được. Nể lời chú Bình, tôi biểu diễn phép tị hỏa cho các cậu xem.

Bây giờ, bọn khách trẻ mới hiểu được sự có mặt của cả một cái lò rèn giữa am thầy Mười.

Thầy Mười Sáng nhúm lửa ở đống than, còn Bình thì bước lên ghế cao, cầm hai cây thụt ở ống bễ mà thụt.

Hơi trong hai ống bễ xình xịch bay ra, thổi văng lên những mảnh than nát. Mấy đóm lửa mới nhúm, nở to lần lần, ăn lấn vào màu đen huyền của than. Màu lửa, ban đầu, xanh xanh, càng lớn khối, càng ngã sang màu hỏa hoàng và khi những lưỡi lửa chen than mà mọc lên, thì than đã nhuốm màu bạch chảng.

Bình thụt không ngớt tay, lửa cháy đỏ rực khuôn bếp.

Thầy Mười Sáng mặc áo đạo sĩ màu lam có viền trắng ở các rìa. Thầy ta săn tay áo lên một cách trịnh trọng, đoạn khom lưng, cúi mình trên bếp lửa, thọc tay vào đống than cháy đỏ, chọn lấy một hòn than to nhứt và đang cháy tốt nhứt. Thầy ta làm công việc ấy dễ ợt như một cậu bé chọn kẹo. Thầy cầm hòn than đỏ giữa hai ngón tay, rồi đứng thẳng dậy, đặt nó vào giữa lòng bàn tay bên kia.

Bốn thanh niên và một thiếu nữ trố mất nhìn. Họ hồi hộp đợi thầy Mười bị phỏng tay, phải vứt hòn than đỏ, đợi chờ cái ấy, mà cứ lo sợ nó xảy ra, rồi phải thất vọng. Có thế nào như thế được chăng? Họ tự hỏi như vậy, rồi tự bảo rằng, thì ra phép tiên, phép mầu là điều có thật chớ không ngoa.

Hòn than trên tay của thầy Mười đã sậm màu đen, và một lớp tro trắng mỏng đã bắt đầu bao bọc lấy nó. Thầy đạo sĩ nói: "Nguội quá rồi!"

Rồi vứt hòn than lên đống lửa.

Bình mê xem biểu diễn, nên quên thụt lửa, khiến thầy đạo sĩ phải nhắc:

- Chú thụt tiếp đi chớ!

Hai ống bễ lại bắt đầu thở khì khì và đống than bắt dầu đỏ rực trở lại.

Thầy Mười Sang bước vào đống than đang cháy, đi tới vài bước, đoạn đứng yên một nơi.

Những lưỡi lửa cứ chờn vờn muốn táp lai quần của thầy Mười, vốn đã vén lên rồi, khiến thầy lại phải vén ống lên thật cao.

Chị Nguyệt há miệng nhìn, mắt mở tròn xoe. Trong không khí, phảng phất một mùi huyền bí kỳ lạ, thật thật, hư hư, và thầy đạo sĩ kia, có vẻ một ông Tiên từ thời Xuân Thu hiện về. Năm khán giả trẻ tuổi nghe như mình đang lạc vào cõi tiên hay vào động quỉ. Thật là không thể tưởng tượng được.

Đứng trên than hồng được ước chừng năm phút, thầy Mười bước xuống, mỉm cười đắc thắng.

Bình ngừng thụt, thở ra một hơi dài và nói:

- Mỏi rụng hai tay!

Chị Nguyệt kính cẩn nhìn thầy Mười Sáng giây lâu, rồi hỏi:

- Thưa thầy thầy ăn ở dễ thương cách nào mà mấy ông thầy tu trên ấy truyền cho thầy phép lạ nầy?

- Những phép nầy không thể truyền mà được như bùa ngải. Phải bền công luyện tập mới đắc.

- Luyện tập à, thưa thầy? Không truyền được, mà phải luyện tập, là không phải phép huyền bí nữa rồi, mà là khoa học đó, khoa học B như tôi đã nói.

Đó là lời của Đức.

Thầy Mười Sáng suy nghĩ giây lát, rồi đáp:

- Có thể. Nhưng dầu sao khoa học của cậu cũng còn non lắm đối với khoa học huyền bí nầy.

- Đúng như vậy !

 Chị Nguyệt phê.

Bỗng cậu Vinh lắm lời kia, nãy giờ cứ làm thinh, hỏi lên đột ngột:

- Dạ, thưa thầy...

Anh ta mới mở lời, mà bao nhiêu con mắt đều quay nhìn anh ta. Thấy gương mặt ngây thơ một cách hóm hỉnh của Vinh, thản nhiên sắp hỏi một câu gì đó, họ đoán sẽ được cười.

Cần lo lắng kẻ nghịch của anh, lần nầy lại thắng nữa. Còn Bình thì hoảng hốt lên, sợ những câu pha trò của Vinh sẽ chọc giận người đáng kính là thầy Mười. Nhưng đã trễ quá rồi, không còn ngăn thằng mắc dịch Vinh kịp nữa.

Vinh ngây thơ tiếp hỏi:

- Dạ thưa thầy, không hay cái phép mầu nầy dùng để làm gì vậy a thầy?

Thầy Mười có vẻ bực mình lắm! Thầy suy nghĩ giây lâu, rồi đáp:

- Thí dụ như có đám cháy, tôi đã không hề gì, lại xông vào lửa để cứu những người còn kẹt trong nhà.

- Thưa thầy, thầy mất đến hăm tám năm trời để làm được một công việc mà bất kỳ anh lính cứu hỏa nào cũng làm được, mà chỉ tốn có hai phút đồng hồ thôi. Trong hăm tám năm trời ấy, cái khoa học non nớt của chúng tôi đã tìm được bao nhiêu là thứ, mà những thứ ấy, truyền lại cho ai cũng được cả, miễn họ chịu bỏ ra chỉ vài năm thôi, để học tập.

Lần đầu tiên trong đời anh ta, con người nổi danh có tài hỏi vặn pha trò để chọc cười ấy, đã thất bại, vì không ai cười cả.

Thầy Mười Sáng trố mất nhìn người khách có vẻ mặt ngây ngô, đần độn kia, nổi giận trong vài giây, rồi kinh sợ trong mấy phút.

Đoạn thầy ta ngồi phệch xuống đất, ôm đầu mà thở dài. Cả sáu người trong nhà đều im lặng, mỗi người có một ý nghĩ riêng về quan niệm của Vinh.

Lâu lắm, người ta mới nghe thầy Mười Sáng lẩm bẩm:

- Hăm tám năm! Hăm tám năm! Trời ơi, sự thật đến bạc đầu tôi tìm cũng chưa ra, mà cái phép mầu kia, luyện được sau một phần tư thế kỷ cố gắng, bỗng thấy là hoài công, phí sức lắm.

Bình bước tới, quỳ xuống trước mặt người đạo sĩ thất vọng để an ủi:

- Thưa thầy, không là hoàn toàn hoài công đâu, vì ít ra, điều ấy cũng giúp người khác thấy rõ là nẻo của khoa học B không phải là nẻo không nên theo.

- Không ! Sụp đổ cả rồi, các cậu ơi! Cả một đời tôi, cả một đời bao nhiêu người khác, chúng tôi đã dùng nó làm gì? Chẳng qua là phung phí thì giờ và tâm trí như những kẻ trác táng kia!

 
(Trích từ tập truyện ngắn Ký Thác)
 

Thứ Năm, 9 tháng 5, 2024

THOÁNG NHỚ - Phùng Mỹ

 

Cảnh vật đã một thời thân quen bỗng lạ đi dưới mắt nhìn. Bến xe không còn ở chỗ cũ ngày xưa. Bến xe bây giờ là bến xe mới. Rộng rãi hơn, ồn ào hơn. Những xe mì. Những gánh cháo. Những dãy hàng quán lao xao tiếng người. Những chuyến xe lam đến phố và từ phố trở về với một ít bụi đường vương trong gió.

Triều ngỡ ngàng một chút. Anh xuống xe với chiếc xách nhỏ ở tay. Chiều vừa hết nắng. Trời ngả vàng ở phương tây. Màu vàng của một ít nắng cuối ngày còn sót lại.

Một thời gian xa cách ngắn cũng đủ để thành phố nhỏ có một vài đổi thay. Khu ngoại ô yên tĩnh ngày xưa không còn yên tĩnh nữa. Nó đã bị xáo trộn, đã trở nên ồn ào bởi sự đổi dời của bến xe lên từ phố.

Triều nhớ những buổi chiều về học ngày xưa, trời cũng vừa hết nắng như chiều nay, với một vài đứa bạn lang thang dọc con đường dẫn ra ngoại ô tuyệt vời, khung cảnh y như một làng quê thanh bình. Có hôm Triều về nhà tối mịt trễ mất bữa cơm chiều. Nhưng không bao giờ Triều bị bỏ đói. Chị Ly vẫn để phần cơm hoặc dúi tiền cho Triều ăn phở những hôm về muộn. Nhớ đến chị Ly với đàn con nheo nhóc, đến mẹ với tuổi già tóc điểm sương lòng Triều chùng xuống trong một dao động buồn bã.

Triều lên một chiếc xe lam. Mới có hai người, thêm Triều là ba, mười người xe mới chạy. Anh ngồi xuống ghế lơ đãng nhìn ra bên ngoài. Mọi người đều vội vã như muốn níu kéo thời gian cuối của ngày. Triều nhớ đến tờ giấy phép nằm ngoan trong túi. Những ngày nghỉ còn nguyên, còn mới anh sẽ tiêu dùng cách chi cho trọn vẹn và đầy đủ đây?

Mới hôm qua, sau những ngày lênh đênh trên mặt biển, chỉ thấy nước và trời xanh ngắt một màu. Anh bỗng có ý muốn trở về, về lại thành phố cũ với một vài ngày phép, để làm chi anh không rõ nhưng ý muốn trở về nung nấu trong anh mãnh liệt. Hai năm rồi, hai cái Tết xa xôi. Anh không còn nhớ nhà như ngày nhỏ mỗi chuyến đi xa vẫn mang cái ao ước trở về thúc đẩy bởi nỗi nhớ, nhớ căn nhà, nhớ khuôn mặt những người thân yêu, nhớ từng bụi cây, ngọn cỏ, nhớ cái khung cảnh đã nhiều quen thuộc, lắm thân yêu. Hai năm. Hai mươi bốn tháng. Không một tờ thư thăm hỏi. Lâu lâu túng tiền một vài chữ trên tờ điện tín, rồi thôi. Mẹ thà coi như chiếc lá bay. Em thà coi như là hạt bụi. Chị thà coi như hơi rượu cay. Có phải Triều đã nghĩ như thế? Một tờ giấy phép, hai chuyến xe. Và bây giờ Triều ngồi đây. ý muốn trở về chìm khuất đâu mất, cái nôn nóng mới hôm qua giờ cũng chẳng còn. Thành phố cũ có còn chi liên hệ? Mẹ già, chị và lũ cháu. Vài kỷ niệm ấu thơ, một cuộc tình đã xa khuất mù khơi. Quỳnh Phương tóc dài áo trắng của những hẹn hò ngày xưa. Rồi một sáng áo hồng khăn cưới, một con thuyền và một bến đò xa lạ. Quỳnh Phương chỉ còn là tên gọi nỗi buồn. Con gái chỉ được một thời. Hoa chỉ nở đẹp một độ. Triều biết điều đó qua mắt nhìn, qua những lời xa xôi của Phương. Nhưng Triều còn trẻ, anh chưa muốn dừng chân. Chim bằng chưa mỏi cánh mà trời rộng thì luôn mời mọc đón chờ. Và rồi sự việc diễn ra như thế. Quy tội một cuộc tình đã lỡ cho người này hay người kia làm gì nhỉ? Triều tìm về với biển, người tình đằm thắm dịu dàng nhất của anh. Vả lại với Triều, tình yêu chỉ là một phần không phải là tất cả. Quỳnh Phương giờ là bóng mờ, là nỗi buồn nhè nhẹ man mác khi nhớ về quãng đời xưa. Với Triều không có tình đầu hay tình cuối. Cuộc tình nào cũng cho anh nhiều đam mê. Sau Quỳnh Phương chắc sẽ còn nhiều tên gọi nữa khi anh một mình với biển khuya. Nhưng bây giờ thì chưa.

Xe lam đưa Triều về phố. Đèn đường vừa đỏ. Sinh hoạt ban đêm của một thành phố nhỏ chẳng có chi. Một rạp chiếu bóng độc nhất. Con phố chính ngắn chưa đầy cây số. Vài quán cà phê, vài tiệm ăn. Vài xe mì đêm lốc cốc như điệu buồn gõ nhịp. Triều đi bộ về nhà, gió sông lạnh. Trời không trăng nhưng thật nhiều sao. Cả một trời sao in hình dưới nước. Hàng dương liễu dọc bờ sông sẫm lại u buồn. Triều yêu dòng sông đêm. Ngày còn ở nhà anh vẫn thường ra đây với một vài đứa bạn, đôi khi một mình, đứng thật lâu cho đến khi trời về khuya và gió đêm trở lạnh. Sông về đêm đen nhánh, thăm thẳm sâu. Sông nói với Triều bằng thứ ngôn ngữ đằm thắm không cùng.

Căn nhà nhỏ giam giữ ấu thơ của Triều nằm khuất trong một con hẻm ngắn. Cây sầu đông vẫn còn nguyên trước ngõ. Chiếc sân rộng đầy sỏi. Triều dẫm chân lên những hòn sỏi trắng, tiếng lạo xạo thật đáng yêu. Mọi vật vẫn thân quen như mới hôm qua, hôm kia. Triều cười với mẹ trên những bậc thềm. Anh nghe tiếng reo mừng của lũ con chị Ly: "Mẹ ơi! Mẹ ơi! Cậu Triều về!".

Tiếng hét vang nhà của lũ nhỏ đánh thức Triều. Anh mở mắt nhìn lên nóc mùng trắng xóa, cảm giác ngái ngủ vẫn còn. Cơn lười giữ Triều lại trong chăn, nhưng Triều chỉ nằm được một lát. Anh tung chăn ngồi dậy. Nắng mới làm chói mắt.. Nắng nhảy múa trên cao. Nắng nhuộm vàng sân sỏi trước nhà. Triều ngồi nói chuyện với mẹ trên bộ phản kê sát cửa sổ. Tiếng chị Ly từ nhà dưới "Điểm ơi mua cháo lươn o Bưởi cậu ăn". Điểm bưng lên tô cháo nghi ngút khói, mùi tiêu cay nồng mới trông đã muốn ăn. Những sợi bún tàu nhỏ xíu mềm mềm quyện lẫn với những miếng lươn thật ngon. Triều ăn một loáng hết sạch. Trong một thoáng Triều thấy mình nhỏ lại như ngày xưa. Mẹ và chị, vùng biển tình thương đó làm ngợp hồn Triều. Những thăng trầm, cay đắng của cuộc đời xóa nhòa đi trong mắt nhìn của mẹ. Anh nghe lòng rưng rưng.

Triều thay áo ra phố. Mẹ anh nói với theo "Nhớ về ăn cơm nghe con". Nắng lên cao. Cái nắng gay gay của những ngày đầu hạ. Con phố ngày xưa giờ vẫn vậy. Một vài hàng quán, một vài tiệm ăn mới, rồi thôi. Triều lang thang không chủ đích. Anh ngang qua trường nữ trung học. Ngôi trường xưa. Mọi sự giờ là ngày xưa cả rồi. Một thoáng nhớ. Một chút ngậm ngùi. Ôi thời cắp sách! Ôi thuở hẹn hò luống cuống những bước chân. Triều đứng đó, dưới gốc phượng già cạnh trạm xăng, chờ đợi. Thuở chờ đợi ôi thời gian rét lắm! Hồn Triều đã rét biết mấy cho những lần chờ đợi ngày xưa. Đôi tay thừa thãi và mắt ngượng ngùng tìm kiếm, nhìn bâng quơ trên ngọn những cây dương, ở đó vắt ngang chằng chịt những dây điện đường.

Giờ đã là kỷ niệm. Ngủ yên đi quá khứ. Triều nhớ về. Bâng khuâng nhưng không ray rứt. Cuộc tình đẹp là cuộc tình không trọn. Thi sĩ Hồ Dzếnh nói thế, Triều cũng cảm thấy thế. Sáng nay không dưng Triều đặt chân lên con đường ngày cũ. Đường tình sử. Nghe nao nao một chút trong lòng. Anh dừng thật lâu trước ngôi trường cũ, không với tâm trạng tình si ngày trước. Đứng nhìn và bâng khuâng thế thôi.

Chuông tan học nghe rộn rã. Áo trắng rợp trời. Cổng trường con gái thật đẹp, thật thơ. Tiếng guốc khua vang. Tia nhìn dừng lại ở người con gái vừa cất tiếng. Đôi mắt và nụ cười rạng rỡ dưới vành nón lá. Một khuôn mặt quen quen ngờ ngợ... nhưng tìm mãi chẳng ra. Cô gái băng ngang đường. Một khoảng ngắn thời gian vừa đủ để Triều bắt gặp trong ký ức mình hình ảnh cũ, một chớp sáng lóe lên. Như. Quỳnh Như, em người tình cũ. Nụ cười làm hồng đôi má, cô bé đến gần Triều:

- Anh về răng chừ rứa?

- Mới về hôm qua. Như lớn quá làm anh không dám nhìn.

Như liếng thoắng:

- Không dám nhìn hay nhìn không ra?

Triều cười:

- Cả hai.

Hai người cùng cười với trả lời của Triều.

- Như về học có một mình?

- Dạ.

- Không có bạn à?

- Dạ có nhưng Thủy bữa ni bị đau.

- ...

- Lâu rồi không gặp, anh chẳng khác chi ngày xưa.

- Rứa à? Như thì khác nhiều lắm!

- Răng anh?

- Lớn và xinh.

Nụ cười chợt tắt.. Đôi má chợt hồng. Đôi mắt nhìn xuống luống cuống. Đôi môi cắn khẽ quai nón màu vàng. Cô bé cảm động đây. Triều nói lảng:

- Bác ở nhà vẫn mạnh?

- Dạ. Mạ em nhắc anh hoài. Răng anh không tới nhà chơi. Chị Phương...

- Anh biết rồi!

Như tròn mắt. Đôi mắt sâu thăm thẳm, lớn và sáng như hai vì sao lạ. Mắt nai trong thơ Lưu Trọng Lư. Thoáng nhìn Triều đã thấy bâng khuâng.

- Chuyện nớ có làm anh buồn?

- Có chứ!

- Chừ thì răng?

- Nỗi buồn phai rồi như ạ!

- Anh mau quên quá!

Như lắc đầu sau câu nói. Hai bím tóc thắt nơ vàng lay lay thật ngộ nghĩnh. Quỳnh Như hao hao Quỳnh Phương nhưng đôi mắt đẹp hơn, vẻ mặt tươi vui hơn. Ở Quỳnh Phương thì y như lúc nào cũng phảng phất vẻ buồn. A! Cô bé trách thay chị đây.

Triều cười:

- Không quên thì nhớ làm gì? Nên quên, quên là phải. Con gái ích kỷ sang ngang rồi còn bắt thiên hạ nhớ hoài, khổ hoài vì mình.

- Điều đó tại anh. Chị Phương nói con gái chỉ có một thời. Mạ Như lại thúc hối, chị không chờ anh được. Hơn nữa, khi không anh mất biệt...

- Ừ, thôi thì trăm sự tại anh. Như trách anh đủ chưa?

Như cười, chớp mắt nhẹ:

- Như chỉ nói những gì chị Phương tâm sự. Như không hề trách anh. Trước ngày cưới, Như giúp chị đốt những kỷ vật. Những bức thư, vài món quà, vài ba tấm hình của anh. Hai chị em chụm đầu nhau ở gốc khế sau vườn nhà. Lúc đó Như ghét anh tệ. Như xé bỏ bức hình anh đốt trước tiên. Nói thật anh đừng giận. Chị Phương nét mặt thật buồn, chị không khóc nhưng vẻ lạnh lùng làm Như sợ.

Triều hít một hơi thuốc:

- Như đừng kể nữa.

- Anh buồn?

Triều gật đầu. Anh nhả khói. Bóng hình Như mông lung. Mọi sự rồi mong manh. Một Phương xưa, một Như nay. Đôi mắt nai ngơ ngác. Rồi ngày mai, ngày mốt đôi mắt đó sẽ làm bận lòng mình. Triều biết. Một gặp gỡ thật tình cờ, đôi mắt Như. Một đôi mắt Quỳnh Như vừa thoáng thấy đã ngợp hồn Triều, đẩy Quỳnh Phương xa thêm một đoạn đường xa trong quá khứ. Màu áo trắng, chiếc nón nghiêng, hai bím tóc thắt nơ vàng ; một ảnh hình vừa bắt gặp mà tưởng chừng đã thân quen.

Triều lại nhả khói, những vòng tròn khói loãng dần trên không. Giữa hai người một khoảng dài im lặng. Triều nhìn về cuối con đường, một ngôi chùa nhỏ với mái ngói cong. Như nhìn xuống đất, chân di di mũi guốc. Cô nhỏ ngày xưa vẫn đòi ô mai, đòi kẹo mỗi lần Triều đến nhà, bây giờ đứng đó đối diện Triều, đôi mắt to mở lớn đã làm anh lúng túng. Triều cất tiếng:

- Nói chuyện khác đi.

- Chuyện chi chứ?

- Về Như.

- Về Như có chi mà nói.

- Học lớp mấy rồi?

- Lớp mười.

- Sắp hè rồi, vui hay buồn?

- Cả hai. Vui một nửa, buồn một nửa.

- Hè Như định đi mô?

- Ở nhà. Một mình với nỗi buồn. Căn phòng của hai đứa. Từ ngày chị Phương đi trở nên hoang vắng. Có khi nhớ chị Phương, Như bật khóc một mình...

Triều đứng yên nhìn Như huyên thuyên như một con sáo nhỏ. Ở Như là một bức tranh linh hoạt thật dễ thương. Con sáo kể chuyện, con sáo hót. Triều đứng nhìn ngẩn ngơ. Anh không có chiếc lồng son nào để nhốt con sáo nhỏ. Nếu có, chắc gì con sáo chịu ở yên. Mà chính anh cũng không muốn giam giữ làm gì, chỉ muốn nhìn, muốn ngắm thế thôi.

Những tà áo trắng cuối cùng vừa ra khỏi cổng. Ngôi trường vắng lặng lạ lùng. Buổi trưa im gió. Triều và Như còn đứng dưới bóng mát của gốc phượng già, gốc cây chờ đợi ngày xưa. Con đường trở nên yên tĩnh. Không gian yên tĩnh. Lòng người yên tĩnh. Triều muốn nói một câu, bất cứ câu gì. Nhưng ý tưởng ngập ngừng đầu môi. Anh lặng thinh nhìn Như đăm đăm. Như luống cuống quay đi:

- Anh Triều bữa ni chi lạ ghê!

- Anh già?

- Như không định nói rứa.

- Rứa thì răng?

- Anh không như ngày xưa.

- "Không như ngày xưa" là răng hỉ? Như làm anh thắc mắc rồi nghe.

Như lắc đầu theo câu nói:

- Thôi, Như không nói mô.

Con gái khôn. Con gái ranh. Một mắt nhìn là lạ. Một lời nói bất ngờ... Là từ đó suy ra mọi chuyện.

Như nhìn xuống chiếc đồng hồ dây bạc ở tay, hốt hoảng:

- Chết! Trưa rồi, Như phải về. Tại anh Triều đó.

Tại anh? Triều ngẩn ngơ. Ừ, tại anh. Như vừa dợm quay bước Triều bỗng gọi:

- Như!

Như nhìn lại mắt tròn lên ngạc nhiên.

- Anh đưa Như về. Nhân tiện anh có tí việc đi đằng ni.

Biết không thể từ chối, Như gật đầu.

Buổi trưa vắng trên đường về nhà với một người lạ. Chao ôi! Có can chi không nhỉ? Như hốt hoảng trong tâm trí mình. Người tình của chị Phương, Như coi như anh. Ừ, như anh. Có chi mà phải sợ. Trấn an mình như thế nhưng Như vẫn cố giữ một khoảng cách giữa hai người. Triều cũng không hề thâu ngắn khoảng cách đó. Anh bước bên Như với nỗi vui nhè nhẹ.

Nhà Như đó rồi. Con đường không dài ra như niềm mong ước của Triều. Mọi vật vẫn giống ngày xưa, hồi yêu Quỳnh Phương, chiều nào anh cũng đếm bước ngang đây ít nhất là một lần. Chỉ có giàn hoa giấy khác đi, mọc rậm và hoa nhiều hơn độ trước. Như đưa tay mở cổng:

- Anh Triều vào chơi.

Triều lắc đầu, nói như một lời hẹn:

- Bữa khác anh tới, chừ có tí việc phải đi.

Thật ra Triều không có việc gì bận, rất rỗi là đằng khác. Những ngày phép mới bắt đầu. Nhưng anh đã nói hồi nãy là anh bận việc, vả lại anh chỉ muốn đi một đoạn đường với Quỳnh Như. Nhớ đến mẹ với bữa cơm đang chờ, Triều bước vội dưới nắng trưa. Cũng con đường cũ nhưng lại như dài ra, thênh thang ra khi không có Quỳnh Như ở cạnh

Mấy hôm rồi từ ngày về phép, sáng nào Triều cũng ngồi chỗ đó, một chiếc bàn gần quán cà phê. Nhìn Như với một cô bạn, chắc là Thủy như lời Như hôm nọ, chân chim đến trường. Chỉ nhìn thôi không nói được điều chi. Nhìn vẻ hồn nhiên của Như, soi nỗi buồn của mình sóng sánh trong từng giọt cà phê rơi xuống cốc. Nhiều lần Triều muốn đến gần, muốn vẫy gọi nhưng chỉ là thuần ý muốn. Mười sáu tuổi. Môi cười tươi. Mắt trong xanh. Cặp sách ngoan hiền trong tay buổi sáng. Như còn bé. Niềm ngây thơ nguyên vẹn. Triều muốn đến gần đồng thời cũng muốn lùi xa.. Hoa chỉ đẹp khi ở trong vườn nào, sẽ không xinh nữa khi nằm trong tay hái. Không, Triều suy nghĩ vậy. Nhưng vẻ thánh thiện trên gương mặt, trong mắt nai ngơ ngác làm anh e dè. Một cuộc tình mới, còn mới quá với lòng ngoan như giấy mới, rồi sẽ ra sao? Những ngày phép rồi qua. Ngày mai, con tàu, biển cả, bạn bè, Triều nghe nôn nóng. Cái nôn nóng ra đi cũng y như cái nôn nóng lúc trở về. Ngày phép cuối Triều muốn gặp Như một lần. Một lần cho ấm lại chuỗi ngày xa. Với ý nghĩ ấy anh bước ra đường.

Triều đứng trước ngôi trường Như học, cảnh vật im vắng đến thẫn thờ. Anh chợt nhớ hôm nay là chủ nhật. Triều vòng qua ngã chợ đi về phía nhà Như. Đường chiều vắng người. Triều nghe bước chân mình gõ nhịp rời rạc như nỗi buồn trong lòng. Nhà Quỳnh Như đóng kín cửa. Triều tần ngần nhìn cánh cổng màu xanh. Niềm mơ ước bên kia ngõ Quỳnh Như đừng vội rời tuổi thơ. Hãy là con sáo nhỏ, hãy vui tươi cùng bạn bè, lớp học, thầy cô. Mai xa thành phố. Ta sẽ giữ lại những điều muốn nói với em, mãi mãi. Triều nhìn những chòm hoa giấy màu vàng trước cổng, màu vàng của chiếc nơ trên tóc Như. Triều biết, rồi hôm nào một mình với biển khuya, sẽ có những thoáng nhớ cho một tên gọi: Quỳnh Như.

Triều trở lại quán cà phê, gọi một chai bia. Mơ hồ anh thấy một đôi mắt to ngơ ngác lung linh trong cốc bia vừa rót.


PHÙNG MỸ      

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 98, tuần lễ từ 19-4 đến 26-4-1973)
 

 
 
 

Thứ Hai, 6 tháng 5, 2024

HÈ YÊU - Duy Nguyên

 

Ban đêm em hay ra ngồi ở khoảng sân trước nhà. Lúc mà mọi người đã ngồi yên ở một góc nào đó và lũ em thì ngủ say như chết! Đêm lúc đó thật tĩnh, em có cảm tưởng như nghe cả tiếng lá lay động, tiếng nhựa chảy rào rạt trong thân. Đêm thẳm như một bát mực tàu. Những vì sao dát trên nền cao nom như cái mặt bàn gỗ mun bám đầy sơn trắng sơn cửa của anh Huy đánh vãi. Sao ạ, đêm nay sao về nhiều quá. Nhìn chăm chú một hồi em hoa cả mắt tưởng chừng bầu trời sáng rỡ như ban ngày. Em nghe cả hương ngọc lan dìu dịu, nụ hoa mà Ng. bảo giống như ngón áp út của em.

Sáng em mới nhận được thư Ng. Dễ ghét, khi nào cũng Hè làm ông phát thư trêu em hoài à. Tên gì kỳ dzậy? Giống như tiếng cười. Cô Hè ới ời, có thư đây này. Tên người ta rõ ràng là mùa thứ hai trong thời tiết mà dám "diễn nôm" tầm bậy.

"Gọi em là Hè nghe!"

"Không chịu, tên gì kỳ cục..."

"Không chịu cũng chịu, nhỏ."

"Độc tài!"

Thì cũng như em vẫn gọi là Ng. vậy thôi. Anh tức quá bảo em con gái gì mà lười quá, có mấy chữ mà cũng không dám viết ra. Cho đáng kiếp, ai bảo cứ gán cho em cái tên quái gở đó. Viết thư cho Ng. em vẫn viết thế. Lúc đầu em chỉ viết có chữ N, anh chàng bèn vẫn diễn nôm là "anh". Em vội thêm vào sau một chữ g, thành ra cái tên cụt ngủn như mắc nghẹn. Hai đứa hành hạ nhau hoài, cũng như em đọc thư cứ "Hè ơi, Hè à" cứ tưởng như đọc thư ai đâu không phải gửi cho em. Ng, vẫn thế. Và hai đứa cứ chơi trò ngụy trang hoài hoài. Có lần em ức muốn phát khóc vì cái tiếng cười của anh Huy cứ như là hai tiếng tên em đọc liền nhau, chẳng biết anh Huy có biết cái tên Ng. gọi không mà cứ nhe răng cười trêu em mỗi khi thấy em lơ đãng trên bàn học. Em dỗi định ngưng viết luôn cho đáng đời. Đêm về em lại mơ thấy hai đứa đứng hai bên bờ vực sâu như hẻm Colorado mà hai bên vách mọc đầy những bông hoa đỏ. Ng. đứng hát bi bô và tìm lối sang bên bờ em đứng. Em đưa bàn tay cho Ng. nắm nhưng không tới. Hai đứa đi hoài dọc bờ vực nhưng hai bàn tay vẫn chưa nắm nhau. Đi qua hết những bờ vách hoa đỏ đến vách mọc đầy xương rồng. Cáng lúc càng cách xa trong lúc vực lớn như một miệng giếng khổng lồ sâu hun hút. Và Ng. ơi, em khóc em gọi nhưng chẳng có tiếng vọng lại.

Giấc mơ làm em cuống quýt. Em muốn nhờ chị Liên "đoán điềm giải mộng" nhưng không dám kể lại giấc mơ. Chao ơi, em nhớ chắc không có điềm gở nào đâu Ng. nhỉ? Nhớ viết thư cho em với nghe. Nhé Ng.

Buổi tối hay có nhạc êm dịu ở cái đài gì đó em cũng chẳng rõ. Có đêm ngồi nghe mãi đến khuya. Nhạc êm như là tiếng sóng vỗ về hay tiếng suối rạt rào thời thơ ấu mà Ng. kể cho em nghe đó. Ng. này, đôi lần em có cảm tưởng ngồi thuyền với anh trên sông Bé vào mùa nước mát trong xanh biêng biếc. Có khúc làm em nổi gai ốc lạnh run muốn khóc đấy ạ. Nhất là tiếng violon nghe rền rĩ buồn ghê quá đi. Tiếng đó khiến cho em buồn rũ người và cô đơn quá chừng chừng như những móc đơn, móc kép nhảy ra bấu lấy tim em. Ng. ơi, em nhớ khúc "Sound of Silence" mà hôm nào hai đứa cùng nghe. Chị Liên kéo violon khá rồi, khi nào rảnh em nhờ chị dạy cho em. Anh Huy phản đối kịch liệt. Anh bảo con gái đứng kéo cái cò cử đó trông phản nghệ thuật quá. Còn Ng. anh có đồng ý với quan niệm anh Huy không? Khi nào em đàn đó, anh đừng có nhìn chằm chằm em, nghe.

*

Mấy ngày Tết qua mau ghê mà cũng buồn ghê. Mẹ không cho đi chơi đâu xa. Nằm nhà xem Tivi với lại đọc sách. Súng đã ngưng nổ rồi đó, anh có mừng không. Em nhớ đoạn thơ Phạm Cao Hoàng mà Ng. chép cho em mấy ngày trước hôm đó.

Em yêu dấu, mộng có khi là thực
Đợi lâu rồi, cũng có lúc, phải không em?
Bóng hòa bình dẫu gần hay xa lắc
Cũng tin rằng sắp có, nhé em.

Và hôm nay thì đã sắp có rồi đó anh. Nhớ hôm thứ tư nghe loan tin em mừng vô kể. Phải chi có Ng. chắc em đã bắt đưa em đi một vòng thành phố ghé ăn bát thạch mát lạnh. Gia đình ai cũng mừng nhưng sau đó mẹ lo lo nên bắt tụi em cấm cung ở nhà. Em nhớ lời hứa hôm Ng. đưa em xem quyển vở Luận văn năm lớp Nhất của anh. Anh bảo sẽ đưa em về quê nhìn con suối nhỏ xíu, đi dưới hàng cao su lá non chi chít như một cái  tàn mông mênh mát mắt. Ăn mía ở dọc bờ sông Bé, xuống đá hàn giữa sông mà ngày xưa anh đi tắm và ngỡ mình là một chúa tể rừng xanh. Ng. ơi, chỉ tưởng tượng thôi mà em đã ứa nước mắt. Nhớ đừng cuội với em nghe. Hòa bình là một điều có thực mà.

"Xòe tay ra anh."

"Cái gì?"

"Hay lắm. Bí mật."

"Một viên xí muội?"

"Không phải."

"Thế cái gì?"

"Anh xòe tay ra. Nhắm mắt lại."

"À. Ngọc lan".

"Nó mới ra hoa đó anh. Nụ đầu tiên đó. Cái cây nhỏ xíu mới trồng bên cửa sổ phòng em."

Ng. nhìn em mỉm cười có gì đó thích thú.

"Bé như ngón tay em."

"Ngón út hở anh?"

"Không. Ngón áp út. Ngón út bé quá. Chắc em hay nhấm ngón tay hở?"

"Đâu có, anh".

"Ngón út bé xíu để nhấm như chuột ấy mà".

"Thế ngón áp út để làm gì anh?"

"Để đeo nhẫn."

Và Ng. bứt một sợi tóc anh se thành chiếc vòng nhỏ đeo vào nụ ngọc lan.

Lúc này thì cây ngọc lan ra hoa nhiều lắm. Anh Huy vẫn giọng khôi hài hoa gì thơm điếc cả mũi. Mấy đứa em hay hái xuống bán hàng xào xào nấu nấu gì đó, em cáu cứ cốc đầu tụi nó hoài. Con Hạc mở mắt to như hai ngọn đèn xe hơi nhìn em. Chả là lúc trước mấy chị em cùng xúm xít nhau chơi bán hàng. Tại Ng. đó, rủ rê em chơi trò nắm tay và trò viết thư làm em quăng mất nồi chảo bằng nhựa be bé.

*

Hôm đám hỏi chị Liên mẹ đã đề cao cảnh giác em. Hình như mẹ không chú ý đến khi đám hỏi chị Liên mẹ mới biết lũ con không nhỏ nhít gì đâu. Mẹ nói bằng giọng nửa đùa nửa thật làm em khiếp quá. Còn cô này, lật bật đến ngày cô trèo lên xe hoa không hay! Em cười rú lên. Mẹ ơi, xe hoa mà mẹ bảo trèo lên nghe khủng khiếp quá. Con chắc chỉ trèo lên xe đưa rước của nhà trường thôi. Mẹ nghiêm mặt. Lớn rồi đấy. Khéo mà ăn nói.

Câu chuyện làm em nhớ bộ mặt buồn buồn của Ng. bảo: Hè này, có ngày tôi hát bài "Tôi đưa em sang sông" với em quá đi mất. Nhìn mặt anh buồn - giả vờ - em cười quá. Hứ, chỉ nói nhảm. Có hát là em hát đấy chứ. Anh hát. Em hát. Anh hát...

Ng. ơi, cây na anh lễ mễ mang đến hôm tháng sáu có trái rồi đó. Em chăm bón nó ra được mấy trái bé xíu. Thế mà đến nay chỉ còn mỗi một trái, mấy trái kia thối đen sì nằm còng queo trên cành thấy phát ghét. Sao Ng. không về tết này hở? Làm em buồn quá đỗi lôi mấy cái thư ra đọc hoài à. Thôi để khi nào yên thật sự Ng. về lâu nghe. Nhắc đến cây lá làm em nhớ chuyện nhỏ Trinh. Con Trúc mượn tập Trinh khám phá mấy dòng con nhỏ viết ở cuối vở. "Anh ơi, đêm qua em mơ thấy em sa lầy giữa một rừng lá. Lá đầy xung quanh em, lá non lá già lá xanh lá vàng đủ cả. Em không thể ngoi lên gọi trong khi anh lầm lũi xa dần..." Bọn chúng đọc và cười vỡ chợ. Eo ôi, giấc mơ gì mà khiếp quá! Con Cúc còn phụ đề: "Trích một đoạn trong nhật ký của Trinh, sắp xuất bản". Em lo quá Ng. à. Em vẫn hay cất thư trong bìa bao vở. Tụi nó mà khám phá chắc em có nước nghỉ học luôn. Chỉ việc tụi nó gọi em là Hè cũng đủ chết em rồi. Em chỉ cho độc quyền mỗi mình Ng. gọi thôi.

Đêm khuya quá rồi, em sửa soạn vào ngủ đây. Cái radio cũ dở chứng kêu rè rè như bị hen làm bực cả mình.

Không biết ở nơi Ng. sống có thấy bầu trời như em thấy không? Ngồi trước nhà ngay tầm mắt em có ba vì sao xếp hàng. Bên phải một vì sao sáng nhất trên nền trời. Bên trái một chòm sao chi chít thật nhiều. Chòm sao ba cái thẳng hàng như có sự xếp đặt làm em lo sợ gì đâu. Nơi Ng. ở anh có thấy những vì sao như em không, cũng như em thấy những đám mây hình dáng dị thường, những chân trời hoàng hôn tím rịm. Ng. có thấy? Em với Ng. không thở cùng một thời tiết một khí hậu thế còn bầu trời, trăng và sao có cùng như nhau?

Nhớ viết cho em biết điều trên với nghe.

Ng. à, đừng có bảo khi về đây nhìn mái ngói nhà em và hát ngậm ngùi "đôi khi nắng qua mái hiên làm tôi nhớ, đôi khi bỗng nghe bước chân về đâu đó" của em nữa à nghe. Không thì em giận à. Mà Ng. ơi, nhìn hoài những vì sao và bầu trời đen kịt bao la em sờ sợ làm sao. Em nhỏ bé quá. Nhỏ như ngọc lan bé bằng ngón áp út đeo nhẫn của em vậy.

Em long trọng nhắc lại, đừng có gọi em là Hè nữa à. Nếu không nghe lời em cứ gọi là Ng. hoài cho xem. Gọi em là H. đi. Mai mốt đọc thư còn cái giọng "Hè yêu" là em cúp thư cho rán chịu. Nhớ à.


DUY NGUYÊN      

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 97, tuần lễ từ 12-4 đến 19-4-1973)
 

 
 

Thứ Sáu, 3 tháng 5, 2024

TỪ CHỐI - Nguyễn Mây Thu

 

 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
rộng xòe đôi con mắt phụng
em nào hiểu được chi đâu
anh đừng làm thơ ca tụng
em chưa biết chuyện ưu sầu

khép nép đôi tà áo bay
anh đừng nhìn em tha thiết
nước mắt chưa luồn kẽ tay
áo vẫn trắng màu tinh khiết

tóc em tóc dài tóc xanh
anh đừng ví như dòng suối 
lỡ mai tóc giấu tình anh
em làm sao hết đắm đuối

rảo tìm bốn phía cửa gương
bạn bè, thầy cô tri kỷ
anh đừng nói chữ mến thương
lỡ mai ân tình chưa phỉ

anh về đi thôi đừng tiếc
em còn ngại nỗi biển dâu
lỡ mai cha tường mẹ biết
em e ấp duyên ban đầu

                   NGUYỄN MÂY THU

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 97, tuần lễ từ 12-4 đến 19-4-1973)

Thứ Ba, 30 tháng 4, 2024

THÁNG NGÀY QUA - Nhất Linh

 

Ðầu hiên, về phía trông ra vườn, một cái vườn trồng toàn roi, Minh và Giao cặm cụi ngồi học.

Bấy giờ đã quá trưa. Trời trong biếc. Trên giàn thiên lý, mấy chùm hoa sẽ đưa trước gió, một vài tiếng gà gáy xa xa.

Giao đang học, tự nhiên thấy có cái cảm giác rất lạ, chàng không ngửng đầu lên mà biết chắc có người đứng nhìn chàng. Giao gấp sách lại, quay mặt ra phía vườn, thấy vợ bạn đương đăm đăm nhìn mình:

- Hú vía! Chị Minh! Tôi thoáng thấy bóng trắng trắng lại ngỡ là ma.

Người vợ trẻ của Minh hơi có ý ngượng vì thấy Giao bắt gặp mình nhìn trộm, mỉm cười nói chữa:

- Hai anh em học chăm quá, người ta đến gần mà không biết.

Lúc bấy giờ nàng đứng tựa đầu vào cái ghế dài, như có vẻ mỏi mệt, cặp môi hơi hé, hai gò má phơn phớt đỏ và đôi mắt trong trẻo, sáng sủa như ánh nắng rực rỡ mùa hè. Nàng có cái vẻ đẹp lộng lẫy quá, khiến Giao không dám nhìn lâu, nhất là không dám nhìn hai con mắt của nàng, hai con mắt huyền bí như có cái mãnh lực vô hình làm cho Giao rạo rực, náo nức cả trong lòng.

Nàng đưa ra mấy cánh hoa nhài và bảo chồng:

- Này cậu, cây nhài hôm nọ tôi mua ở chợ về, có hoa rồi đấy, cậu lấy cốc cho nước vào để cắm hoa.

Minh, mắt vẫn để vào sách nói:

- Tôi rất ghét thứ hoa nhài. Ngửi nó đâm ra nhức cả đầu.

Nhưng Giao không nghĩ thế, chàng hiểu vì cớ gì mà người vợ Minh đem hoa đến, chàng cảm động. Từ hôm nói chuyện với Minh rằng ở trên đời chàng không thích hoa gì bằng hoa nhài, thì chàng thấy vợ Minh mua ngay cây nhài về trồng trong vườn, tưới xới săn sóc đến luôn luôn. Hôm nay cây nhài nở mấy bông hoa đầu, vợ Minh ngắt hoa có cái ý nghĩa gì, Giao đã hiểu.

*

Ðã hơn một tháng nay, Giao cố sức chống lại với cái sức mạnh của ái tình, nó như ngọn sóng gió muốn lôi cuốn chàng đi. Chàng mới có mười bảy tuổi, cái tuổi còn non nớt lại gặp ngay mối tình mãnh liệt mà éo le.

Tuy Minh hơn Giao những bảy tuổi mà hai người cùng học một lớp ở trường Trung học, Giao trọ ở nhà một người quen trong làng N, nhưng vì bên nhà Minh có vườn mát mẻ nên thường hay sang cùng ngồi học với Minh, nhân tiện chỉ bảo giúp Minh, vì Minh học lực rất kém. Thế rồi ngày một ngày hai, khi đi lại, lúc ra vào, Giao cảm vì cái sắc đẹp rực rỡ của vợ Minh mà xem chừng vợ Minh cũng vì cái tình ngây thơ của một cậu học trò còn trẻ tuổi đối với mình.

Nhưng hai người cùng sợ, cùng rụt rè, không dám tìm cách để gặp nhau, nhưng cũng không nỡ xa nhau, cứ để mặc cho cái mùi hương nguy hiểm của ái tình nó mê đắm cả hai người.

Giao biết, biết là có một ngày kia chàng sẽ phạm vào tội lỗi đối với bạn, chàng biết là sẽ làm một việc rất xấu, nên chàng hết sức chống lại. Có khi chàng giữ hai, ba ngày không sang nhà bạn nhưng cái vẻ đẹp kia, đôi má hồng, hai con mắt sáng kia như có sức mạnh bắt chàng không thể nào quên được. Giao lại sang, tự an ủi mình rằng ngắm một người đẹp đã tội lỗi gì đâu.

Cứ mỗi lần Giao sang ngồi học với Minh thì người vợ hay lân la đến chỗ hai người nói chuyện vơ vẩn. Một hôm Giao sang học bên nhà bạn, thấy cửa đóng, gõ thì người vợ ra mở. Nàng thấy Giao làm ra bộ ngạc nhiên:

- À anh Giao! Tôi lại tưởng có người đến hỏi nợ, đã lo!

Rồi nàng cười, cười tít đi, đôi má lại càng đỏ, hai con mắt lại càng trong, khiến Giao cuống quít, không biết nói làm sao. Nàng vừa cài then cửa vừa nói:

- Hôm nay anh Minh đi vắng!

Rồi nàng nhìn Giao như dò ý tứ. Giao vội nói:

- Thế chị để tôi về thôi, mai sang.

- Về nhà bức chết, anh cứ vào mà ngồi học... việc gì.

Rồi nàng nhìn lên cây, vỗ tay nói một cách ngây thơ như đứa trẻ vui mừng:

- Roi chín rồi, để tôi lấy sào chọc mấy quả anh ăn. Ngọt, giòn, mát như đường phèn.

Nàng vừa nói vừa chép miệng, rồi làm bộ như nuốt nước bọt thèm, nhìn Giao cười.

Giao nhìn lên cây roi thấy trong đám lá xanh mấy chùm quả nặng trĩu, sắc da mát và hồng, như muốn trêu giục người ta hái xuống ăn ngấu ăn nghiến, lại nhìn đến người đàn bà đôi má hồng, tự nhiên trong trí chàng nảy ra một sự so sánh chùm quả ngon với người con gái đẹp. Trong lúc say đắm về cách cử chỉ của nàng, Giao không nghĩ gì cả, nhưng Giao sợ, sợ không thoát khỏi! Chàng biết chàng như con cá riết con đã mắc vào lưới, không tài nào thoát, nhưng cũng giẫy giụa trước khi chịu khuất phục.

Một lát vợ Minh đi vào, tay cầm một chùm roi, tóc xõa xuống má, nhìn Giao hớn hở.

Giao đứng ngay dậy, thì nàng cũng vừa bước lại gần sát bên cạnh: bốn mắt gặp nhau. Giao nhìn nàng thấy nàng đổi khác hẳn mọi khi: cặp môi nàng mấp máy, dưới tấm áo mỏng, ngực nàng phập phồng, hai con mắt nhìn đăm đăm vào chàng có vẻ lẳng lơ, nồng nàn như đắm tình.

Một lát, nàng sẽ nói:

- Mời anh xơi roi...

Lúc bấy giờ Giao như người mất hồn, mặt nóng bừng, không nghĩ gì nữa, như bị hai con mắt đẹp huyền bí của nàng làm tê mê... Giao khẽ để tay lên tay nàng - tay nàng còn cầm chùm roi - nàng để yên không kéo ra, cúi đầu e thẹn. Bỗng tự nhiên, nàng giật mình kéo mạnh tay ra, lùi lại một bước, kêu:

- Con sâu! Trong quả roi có con sâu...

Giao nhìn, quả nhiên thấy trong một quả roi to nhất, đẹp nhất, có con sâu từ từ bò ra leo lên tìm đường thoát. Giao vội vàng ném quả roi ra vườn. Nhưng từ lúc đó, chàng như người ngủ mê mới tỉnh: con sâu trong quả roi đã làm cho chàng biết rằng chàng sắp phạm một tội xấu xa, mà trong lúc mê man vì sắc đẹp chàng không nghĩ tới. Chàng ném quả roi xong, quay lại thấy vợ bạn đương nhấc bức mành, bước vội vào nhà như người đi trốn. Giao thở dài, cắp sách về nhà trọ, và từ đấy, chàng không tới nhà bạn nữa.

*

Bảy năm sau... trong bảy năm đó vì việc nhà, Giao phải cách biệt hẳn Hà Nội, phiêu lưu nay đây mai đó: trên đường đời, chàng đã gặp biết bao nhiêu là mỹ nữ, nhưng chàng không sao quên được người xưa.

Bảy năm sau, nhân về Hà Nội, chàng thuê xe xuống làng N... để thăm người bạn học mà chàng phải xa cách, mà nhất là thăm người mà bảy năm về trước có cái sắc đẹp đã làm rung động tấm linh hồn ngây thơ của chàng.

Tình cờ lúc đó lại vừa đúng tháng sáu đúng mùa roi chín.

Tuy đã lâu năm, nhưng chàng nhận ngay được ngõ vào nhà bạn, cái cổng gỗ bây giờ đã cũ, mấy cây roi có to hơn, nhưng trong đám lá xanh mấy chùm quả nặng trĩu vẫn một sắc da mát và hồng như trước.

Chàng gõ cửa, thấy trong nhà có tiếng người đi ra. Cửa mở, một người đàn bà, tay bế con, thấy Giao buộc mồm kêu:

- Anh Giao!

Nàng nhận ngay ra được cậu học trò, bạn học của chồng ngày trước.

Nàng mừng quá, chỉ nói được thế thôi rồi đứng nhìn Giao từ đầu đến chân. Nhưng Giao trông nàng lấy làm lạ, ngạc nhiên, hơi ngờ ngợ. Chàng lãnh đạm hỏi:

- Bác trai có nhà không, bác?

Nàng vừa cài then cửa vừa nói:

- Nhà tôi đi vắng.

Giao bước vào thấy cảnh sắc vẫn nguyên như cũ: vẫn giàn thiên lý ở đầu nhà, dăm chùm hoa nở, vẫn cái án thư, hai cái kỷ ở đầu hiên, chỗ mà chàng vẫn ngồi học với Minh năm nọ.

Lúc ngồi nói chuyện, uống nước với vợ Minh, Giao cố ý ngắm kỹ nàng, vì Giao không nhút nhát như trước mà không dám nhìn lâu nữa - nhưng bây giờ còn đâu cái đẹp nồng nàn, còn đâu đôi má hồng, hai con mắt trong trẻo sáng sủa như nắng rực rỡ mùa hè...

... Tháng ngày qua... sắc đẹp tàn...

Nàng thẫn thờ nói:

- Chóng thật! mới ngày nào, bây giờ đã...

Nàng ngẩng nhìn lên tường thấy bóng mình in trong cái gương to để đấy, cái bóng một người đàn bà đứng tuổi, không có vẻ gì là vẻ thanh xuân, nàng chạnh tưởng tới cái sắc đẹp lộng lẫy khi xưa nay đã tàn. Nàng nhìn Giao, Giao nhìn nàng, hai người cùng một ý nghĩ như nhau.

Nàng buồn rầu, nhắc lại:

- Chóng thật!...

Rồi nàng cố gượng làm bộ vui tươi, bảo Giao:

- Bác đến may quá, vừa đúng mùa roi chín... để lấy mấy quả bác xơi.

Giao ăn roi nhìn nàng nói nửa đùa nửa thật:

- Roi vẫn ngọt, vẫn mát như đường phèn... nhưng bây giờ không có sâu nữa.

Rồi hai người cùng mỉm cười, cái mỉm cười chua chát, biết bao ý nghĩa, như nhắc hai người ôn lại chuyện xưa. Giao bùi ngùi nhớ lại cái mơ mộng ngày trước, cái mơ mộng yêu một cách thiết tha và không chánh đáng, một cái sắc đẹp mà bây giờ chàng mới biết là ảo mộng, mong manh không có giá trị gì!

Chuyện vẩn vơ một lúc, Giao đứng dậy xin cáo từ. Nàng cũng tiễn theo ra.

Lúc đi qua chỗ ngồi học ngày trước, chàng thấy trên án thư một cái cốc không có cắm mấy cành nhài mà lúc vào chàng không để ý đến. Mấy bông hoa nhài trắng như mấy cái nụ cười âu yếm nhắc lại trong trí Giao câu chuyện tặng hoa ý nhị năm xưa. Mấy bông hoa có lẽ vô tình cắm đó đã làm cho Giao có cái ảo tưởng rằng trong bảy năm nay, lúc nào nàng cũng còn nhớ đến cậu học trò, cậu học trò đã trót mê nàng vì cái sắc đẹp mà bây giờ không có nữa. Cái ảo tưởng ấy làm cho Giao man mác trong lòng.

Trước khi từ biệt, Giao nhìn thẳng vào mắt nàng như để tỏ lời cám ơn nàng trong bấy lâu vẫn để bên lòng một chút tình thương yêu chàng, chút tình ấy kín đáo hơn cái sắc đẹp kia, nhưng lâu bền hơn.

Tháng ngày qua... sắc đẹp tàn... nhưng cái hương thơm của tình thương yêu tuyệt vọng, u uẩn của nàng đối với Giao còn phảng phất không bao giờ phai.

 
NHẤT LINH       

(Trích từ tập truyện ngắn Anh Phải Sống)

Thứ Năm, 25 tháng 4, 2024

TÊN ĐÀO NGŨ - Nguyễn Mộng Giác

 

Chiếc GMC chở quan tài đậu sát vào mái tôn, quay đít vào gần cửa ra vào. Lá quốc kỳ bị gió bay, nên lệch sang một phía, để lộ hông quan tài gỗ tạp sơn một lớp dầu bóng đỏ ối. Người tài xế mở xe nhảy xuống, nói trỏng vào phía buồng lái:

“Xuống đi! Phải ở lại đây tối nay rồi. Trời tối, ai dám qua truông”.

Bốn người lính ở phía sau nhanh nhẹn leo qua hông, đạp một chân lên bánh xe cao su, nhảy mạnh xuống nền xi măng. Bụi đỏ bay mù từ mấy bộ quần áo xốc xếch lem luốc. Có tiếng trẻ con khóc phía đầu xe. Người đàn bà mặt mày ốm gầy và lạc thần, đầu quấn khăn tang, thò đầu hướng về phía nhà tiền chế nói lớn:

“Mấy chú làm ơn mở cho cánh cửa. Nặng quá”.

Một người lính đi lại phía bên phải xe, gắng hết sức mới mở bật được cánh cửa, rồi đưa tay dìu hai mẹ con xuống. Một tay ẵm đứa nhỏ độ một tuổi, một tay xách cái giỏ ni lông, người đàn bà phải để mặc cho anh lính đỡ hai nách, cẩn thận bước xuống bậc thang, rồi chậm rãi vào trú dưới mái hiên. Đứa nhỏ ngơ ngác nhìn chung quanh, nhận diện từng người, rồi lại khóc lên từng hồi. Người đàn bà ngồi bệt trên nền trại, lấy bình sữa bằng nhựa núm vú vàng xỉn nhét vào miệng đứa bé. Nó núc vài ngụm, ậm ừ như muốn nghẹn nước, rồi quay đầu nhả vú ra khóc tiếp. Người đàn bà sợ làm phiền ông Chỉ huy trưởng, vội vã bồng con ra đứng dưới mấy gốc dương liễu lá rũ. Tân hỏi mấy người lính đang tiếp tục giũ bụi:

“Bị ở đâu đó?”

“Trên Phú Nhơn”.

“Chở về đâu?”

“Miệt ngoài Bồng Sơn. Bây giờ đã sáu giờ chiều, qua truông sao nổi”.

Toán lính trực thoả mãn tò mò, lảng đi xa. Bốn người lính lạ hỏi Tân chỗ câu lạc bộ, rồi đi theo hướng Tân chỉ. Người tài xế mở nắp đầu máy kiểm soát dầu nhớt và bu-gi, rồi cũng đi theo bốn người lính hộ tống. Một lúc sau, một người bưng ra cho người đàn bà dĩa cơm và chai xá xị, xong vội vã quay trở lại câu lạc bộ. Đứa bé bây giờ đã hết khóc, nằm ngủ lả trên vai mẹ. Người đàn bà bồng con vào trong mái hiên, liếc nhìn lên quan tài thúc thít khóc, rồi ngồi trên nền trại lơ đãng xúc cơm ăn. Gió bên ngoài bỗng thổi mạnh bốc bụi mù mịt, trong khi đêm chầm chậm trở về. Lúc ông Thượng sĩ nhẹ nhàng bước chậm cho ngọn nến khỏi tắt, leo lên xe gắn lên nắp quan tài, Tân hỏi:

“Tối nay toán nào gác cầu, Thượng sĩ?”

“Toán hai”.

“Ủa, sao tụi nó không cho tui hay”.

Ông Thượng sĩ đứng trên xe, không thèm quay mặt lại, gắt gỏng:

“Mầy đi ghẹo gái cho đã rồi về hỏi lôi thôi. Có lấy đồ đạc ra lô cốt mau lên không? Cho mấy củ bây giờ”.

Tân chạy vội về phòng trực. Người đàn bà vẫn ngồi chỗ cũ, biếng nhác nhai cơm, hờ hững nhìn mông lung về phía bóng tối trước mặt. Phòng trực không còn ai. Bóng đèn điện góc phòng lung lay theo gió. Khẩu M.16, cái mũ sắt, và tấm pon-cho của Tân còn bỏ lại trong góc tối.

Tân đội mũ sắt lên, trí óc ràng buộc vào cái rọ trách nhiệm. Sợi dây nịt đạn quấn quanh bụng chặt chẽ như quân kỷ. Đôi giày nặng bó cổ chân, níu trì gân cốt như muốn chôn sâu người lính đời đời kiếp kiếp xuống giao thông hào, sau lỗ châu mai, trong hầm lô cốt. Chỉ có khẩu súng là nhẹ nhàng, đong đưa trong vòng ngón trỏ, tự do như chiều đạn đạo.

Một mùi hôi gay gắt trộn lẫn hương nhang thổi vào chỗ Tân ngồi. Bóng người đàn bà ôm con nổi hẳn trên nền sáng do ngọn đèn pha phía bên kia trại. Tân lẩm bẩm:

“May tối nay mình ra cầu. Không thì nằm đây lãnh đủ”.

Lúc ra đến cổng trại, một trận gió mạnh thổi ào ngăn cả bước Tân đi. Tân đưa tay dụi mắt. Bên trong hàng rào, có tiếng trẻ khóc. Khi nước chảy ra trôi hết bụi và mi mắt hết cồm cộm xốn xang, nhìn trở vào trong, Tân thấy ngọn nến trên nắp quan tài đã tắt.

Tín chửi thề:

“Đ.M. bây giờ mới ra. Lính cậu hả?”

“Thôi mà người anh em. Lão thượng sĩ đã cho anh lãnh đủ rồi. Nỡ nào người anh em còn nặng tay”.

Rồi chuyển sang giọng bình thường, Tân bảo:

“Đã phân công chưa?”

“Rồi, mầy gác ca bốn”.

“Với ai?”

“Tao không nhớ. À, hình như với thằng Liễn”.

“Tụi nó đâu rồi?”

“Giặt quần áo phía bến đò. Mầy làm gì cả buổi chiều nay không thấy mặt”.

“La cà lai rai vậy mà. Đầu tháng dư tiền, không có sao”.

“Nói giọng cha không. Sao không nằm luôn trong trại cho bảnh?”

“Hôi không chịu nổi”.

“Cái gì?”

“Cái xác. Có một con bị trận Phú Nhơn, vợ lên lãnh về. Trời tối không dám qua truông, nên GMC chở vào gởi tạm đằng trại”.

Tín nói sang chuyện khác:

“Tao mới mua được cái cát-xét Hitachi”.

“Bao nhiêu?”

“Chín ngàn. Nghe thử không?”

Tín mở máy. Giọng một nữ ca sĩ danh tiếng nỉ non, tha thiết:

“Các anh đi, ngày ấy đã lâu rồi. Các anh đi biết bao giờ trở lại. Xóm làng tôi trai gái vẫn chờ mong. Làng tôi nghèo nho nhỏ trên sông. Gió bấc lạnh lùng thổi vào mái rạ. Làng tôi nghèo, nắng mưa tơi tả, trai gái trong làng vất vả ngược xuôi…”

Tân đưa tay tắt máy:

“Nghe mùi quá. Nhưng đâu phải tụi mình. Nói chuyện tụi nó ngày trước mà”.

Tín cãi:

“Thì áp dụng cho tụi mình cũng được, có sao đâu. Này này: Các anh về mái ấm nhà êm, câu nói tiếng cười rộn ràng trước ngõ. Mình đi hành quân tảo thanh đem lại an ninh cho đồng bào. Mặt bên kia còn một bài mới. Chờ một chút tao cuộn băng trở lại đã”.

Tân lấy thuốc hút, nhìn xuống bãi cát chân cầu. Anh hỏi:

“Đêm nay có trăng không?”

“Có, mười bảy ta mà”.

“Vậy là đỡ khổ rồi. Tao gác ca tư, trăng sách quắc, đố đứa nào dám bén mảng tới chân cầu”.

Tín đã sang băng xong, mở máy trở lại:

“Em hỏi anh, em hỏi anh bao giờ trở lại. Xin trả lời, xin trả lời mai mốt anh về… Anh trở về hàng cây nghiêng ngả, anh trở về có thể bằng hòm gỗ cài hoa. Anh trở về, trên chiếc băng ca, trên trực thăng sơn mầu tang trắng…”

Tân lại đưa tay tắt máy, lầm bầm:

“Thôi. Để yên nghe nước chảy còn hơn”.

Anh ra phía cầu, đái xuống dòng sông đen. Tín nói lớn:

“Mầy tục tĩu quá, không hiểu sao tụi con gái mê mầy”.

Tân gài nút quần, trả lời:

“Tao khơi đúng chỗ ngứa giấu kín sau cái mặt nạ ngoan ngoãn con nhà, sau cái vỏ mỏng ngây thơ. Còn tụi bay thì cả tin, nên hỏng hết”.

Rồi không muốn dây dưa tranh luận, Tân bảo:

“Tao đi tắm một chút. Tụi nó trở lại, mầy nói giùm là tao đã ra rồi”.

Tân trở lại đầu cầu, giở vòng dây thép gai chui qua bên kia. Con đường mòn dốc xuôi xuống bãi cát phía dưới. Lá dứa gai cứa vào ống quần vải dày, chỉ nghe rào rào. Thích thú, thách đố, an tâm, Tân dẫm bừa lên gai góc, bước nhầu lên mấy bụi ốc mèo, không thèm theo lối mòn quanh co mình rắn. Mấy khóm dứa đen quì mọp dưới gót, sau lưng. Một cây gai ngang ngạnh đâm thủng lần vải, Tân thót người đau đớn, tức giận quật mạnh báng súng lên bụi đen, rồi dẫm mạnh gót giày trên đó mà đi. Vài nhánh khô gãy rụm, dòn tan.

Qua hết khóm gai thì đến bờ cát. Đã quen lối đi, Tân dừng lại bên một khóm cây rậm. Anh lấy nắp nhựa đậy họng súng M.16 lại, rồi cắm súng giấu sâu vào bóng tối. Đôi bàn tay bất chợt rảnh rang, trở thành ngượng nghịu. Theo thói quen, Tân đưa tay lên vai định gỡ dây súng trước khi ngồi lên mô đất. Anh lầm bầm chửi thề, thấy mình lú lẫn quên trước quên sau. Đôi bàn tay vẫn còn vụng về, mấy ngón cử động láu táu không biết phải làm cái gì. Tội nghiệp! Chúng nó không quen ở không. Cho nên bàn tay nầy nắm ngón tay bàn tay kia bẻ lốp rốp, rồi bàn tay kia bẻ trả.
Trước mặt, bãi cát vàng nhờ nhờ chạy dài ra đến tận bờ nước đen, và Tân nhớ rõ mặt cát mịn đến nỗi bước chân lên trên, làm da chân mỏng vẫn có cảm giác êm ái bình thường như được ấp ủ trìu mến bằng lớp vải lên dày. Tân ngồi xướng mô đất, dây nịt đạn chằng ngang bụng, cọ mạnh vào xương sườn.

Bỏ mặc quân trang và vũ khí gần khóm cây. Tân định đi xuống bờ cát, nhưng nghĩ sao, bèn quay trở lại. Trăng đã lên tự lúc nào, chiếu rõ cái mũ sắt, dây nịt đạn, đôi giầy thô, và cả báng súng nhựa. Anh giấu đồ đạc cẩn thận hơn, cho bóng tối che khuất rồi tiện tay cởi luôn bộ quần áo treillis nặng nề hôi hám. Tân chỉ còn mặc một cái quần đùi và cái áo lót. Gió lùa vào khe nách, ống quần, thổi dậy niềm khoan khoái, bùng lên khát vọng tự do.

Tân nhảy xuống lòng cát, tung tăng chạy khắp mọi hướng. Trăng mỉm cười. Gió mơn man. Cát hôn ấm lòng chân. Trời cao và đất rộng mời gọi. Sự sống man rợ, điên cuồng ngây ngấy đưa bước chân thoăn thoắt, đưa đôi tay vung mạnh lướt tới, nghiêng nghiêng mặt người để hứng thuận chiều gió. Bàn tay đưa ra trước mặt chờ đón mà không nắm bắt, hy vọng mà không tham lam, để gió mát và ánh vàng lọt qua mấy ngón. Tân chạy nhảy, không cảm thấy mệt nhọc thỏa thuê, và lúc đứng dừng lại, vẫn còn thấy lòng mình trống không để tiếp tục góp thu cái diệu vợi vô cùng của đất trời vào lòng.

Anh chạy theo bờ nước trong. Chân đạp rào rạo trên sỏi nhỏ ven sông, nước bắn tung lên mát dịu ống chân và bắp vế. Lúc chạy về phía trăng lên, bọt nước tỏa sáng quanh mình, rơi vang trên bãi, như các tia nước phun trong công viên thành phố.

Tân chạy thẳng theo đường nước cạn, rồi lại uốn mình ngoằn ngoèo như hình rắn, hết dậm chân trên cát ấm lại dậm chân xuống nước róc rách mát rợi. Trong một bước lơ đãng, anh bước vào một hố sâu. Tân ngã xuống, nước ngập nửa người. Trăng mờ đi vì một đám mây vô tình. Anh hốt hoảng nghĩ:

“Không biết có đứa nào thấy chỗ mình giấu súng không? Đã tới ca gác của mình chưa?”

Anh ngồi xuống cát, và bây giờ mới cảm thấy mỏi rần khắp người. Gót chân rát vì bị chà xát quá nhiều. Gió tăng thêm lạnh trên bộ quần áo ướt. Bóng cầu đen đủi choàng tay qua hai bờ xa tít, tham lam trơ trẽn.

Một trái hỏa châu từ quận lỵ bắn lên, chiếu mầu đỏ kè bệnh hoạn mặt sông, rồi tắt lịm để lại một vệt khói lững lờ dưới trăng.

Có tiếng kẻng đổi ca từ trên cầu vọng xuống. Tân cố nhíu mày đọc mấy chữ số trên đồng hồ. Chưa tới phiên mình! Gió lạnh lẽo, Trăng nhợt nhạt. Nước rên rỉ. Bóng tối ma quái. Trong một cử động đột ngột cương quyết, Tân quăng cái đồng hồ rơi tõm xuống dòng sông đen. Tiếng vọng khích động cảm giác, và anh bắt đầu chạy như điên trên bãi, lội mạnh xuống dòng sông cho đến lúc nước ngập quá gối và chạy trở lên tận bờ cỏ ướt dọc theo doi cát.

Khi chạy như thế đến vòng thứ ba, vừa từ bờ cát trở về con nước, Tân đã thấy có bóng người ngồi lặng ở đấy rồi.

Bóng một người con gái.

*

Trăng đã lên quá ngọn tre xóm Đông hơn một con sáo. Ánh trăng viền khuôn mặt người con gái, cho Tân thấy đôi mắt mở lớn hướng về phía ánh sáng và đôi môi cười. Mái tóc dài chìm trong nền tối, nhưng dáng người in rõ trên mặt cát ướt. Hai bàn chân cô gái ngâm dưới nước sông, khuấy động róc rách. Gió vẫn dịu dàng. Cát vẫn câm nín. Trăng cười lặng. Chỉ có nước nhột nhạt vì bàn chân khuấy động, không thôi rúc rích thích thú. Nửa như chế giễu nửa như thúc giục. Mồ hôi loãng theo gió thổi, làm Tân lành lạnh da cổ và xương sống. Tân hỏi:

“Làm gì ngồi đây?”

Cô gái không trả lời, không quay lại. Một lúc sau, cô mới hỏi lại:

“Làm gì mà chạy như ngựa chứng? Có say không?”

“Ra ngồi đây lâu rồi à? Sao tôi không thấy?”

“Say rồi thấy sao được?”

“Chiều nay tới phiên gác cầu, không dám nhậu”.

“Thiếu gì thứ say. Đâu phải chỉ có rượu. Say hơi đất. Say hơi lá. Say trăng, say mây. Say sưa hơi ấm của cát, say cái rúc đầu nhột nhạt của nước trên mặt da…”

Tân ngăn lại:

“Nói thật hay nói giỡn đó?”

“Thật chớ. Tân không thấy tôi ngâm chân xuống nước à?”

Tân lạnh mình, há hốc mồm không nói được gì. Một lúc sau mới hỏi lấp lửng, e dè:

“Sao biết tên tôi?”

“Dễ ợt. Chú ý tìm hơi thì phải ra. Chỉ cần hỏi mấy cô thợ may ngoài chợ”.

Tân sợ thực sự. Xương sống ớn lạnh. Tân hỏi, giọng ấp úng:

“Cô ngồi chỗ nào? Bàn máy góc bắc hay gần bên nhà hát bộ?”

“Ơ hơ. Em có làm thợ may đâu. Nhưng em có một con bạn làm thợ may biết anh nhiều…”

Tân vội vàng hỏi:

“Tên gì?”

“Thôi, nói chi thêm rắc rối. Gia đình em làm nghề câu gõ. Sõng cột dưới gốc cây lớn kia kìa”.

“Vậy cô lên đây ngồi làm gì?”

“Bắt người ta bơi dưới nước hoài sao? Cho lên bờ một chút không được à?”

“Sao không được. Ai dám cấm. Nhưng tôi muốn hỏi sao dám lên ngồi đây một mình”.

“Cha đi lên bờ mua đá đèn. Với lại, đâu phải chỉ có một mình…”

Tân dớn dác nhìn quanh, hối hận đã không mang súng đến tận bờ nước. Phải gắng bạo dạn lắm, Tân mới hỏi được:

“Sao các bạn cô không ra mặt? Sao không ra ngồi nói chuyện cho vui?”

“Chuyện gì? Có nói anh cũng không hiểu”.

“Sao vậy?”

“Anh nghĩ bạn em là ai?”

“Làm sao biết được. Mấy cô thợ may ngoài chợ này. Mấy cô bán cá này. Mấy cô hái rau muống trên cầu này”.

“Không phải. Lâu lâu em mới lên bờ mua cước với nước mắm. Mỗi lần cha đi chợ, em phải ở lại giữ sõng”.

“Sao khi nãy bảo quen với mấy cô thợ may ngoài chợ?”

Cô gái không trả lời, lấy chân quấy động mặt nước. Tân đánh bạo hỏi:

“Bạn em đang ở trên sõng dưới kia phải không? Mời họ ra nói chuyện đi”.

“Bạn em à? Chúng nó đâu biết nói”.

“Cái gì lạ vậy?”

“Cha lầm lì cả ngày. Trừ những lúc nói gióng một sai em gỡ lưới, gõ cây, cha em không nói gì hết. Em buồn tìm bạn nói chuyện cho qua ngày. Em nói với mấy con cá này…”

Tân ngắt ngang:

“Nói với cá?”

“Chớ sao. Em an ủi nó. Trông cái bụng trắng phau, cái vẩy óng ánh bạc, đôi mắt trong, dễ thương lắm, mà cũng tội nghiệp nữa. Nhiều lần em gặp mấy con cá nhỏ lưng xanh, vây pha hồng dãy dụa trong lưới như van xin. Em lén cha thả lại xuống sông. Em không biết nó lội về hướng nào, nhưng chắc chắn nó biết ơn em nhiều. Buổi trưa cha cột sõng dưới gốc cây ven bờ nằm ngủ. Em thả chân xuống nước chơi. Chú cá thoát nạn hôm trước trở lại mơn man gặm chân em. Chắc nó đến cảm ơn”.

Tân tò mò thích thú, quên nỗi sợ hãi ban nãy, hỏi:

“Có bao giờ gặp Long cung thái tử không?”

“Anh nói sao?”

“Có gặp Long cung thái tử không?”

“Thái tử nào đâu?”

“Em không hiểu à? Dưới nước có một cung điện nguy nga, trong điện cũng có một ông vua nước trị vì, gọi là Long vương. Con ông vua gọi là Thái tử. Mỗi lần đi chơi đây đó ở bờ biển bến sông, thái tử mang hình con rùa mai xanh, con cua mu đỏ…”

Cô gái vỗ tay cười, rồi hỏi mau:

“Thái tử có hóa thành cá không?”

“Có”.

“Như vậy là em đã gặp Thái tử rồi. Một hôm em gỡ lưới được con cá mình xanh biếc, vây màu đỏ và trắng. Cả cha cũng không biết tên cá gì. Hai cái râu trước mép dài như sợi tơ. Em thả nó xuống nước trở lại. Mãi đến con trăng sau, em đang ngồi nhúng chân xuống nước thế nầy thì có con cá nhỏ đến gặm chân nhột nhột. Em mê mải nhìn trăng quá nên lúc nhìn xuống nước, mắt lòa đi, không trông thấy gì. Em chỉ thấy một giải vàng trước mặt như con đường đất trải giữa sông. Em đứng dậy, em bước tới, bước tới nữa. Hình như nước rẽ hai bên vì em không cảm thấy ướt át. Mãi đến khi nước ngập tới cổ, em mới tỉnh hẳn và vội vàng bơi lại phía sõng. Chắc Thái tử mời em đến Long cung quá”.

Tân vội ngồi xa hơn, nhìn chăm chăm vào mặt cô gái. Đôi mắt cô vẫn sáng long lanh dưới trăng. Cái miệng vẫn cười, và cả khuôn mặt trẻ thơ bộc lộ một trạng thái lơ lững giữa đất và trời, ánh sáng và bóng tối, cõi thực và cõi tưởng. Cảm thấy khoảng cách giữa hai người đã đủ an toàn Tân mới hỏi tiếp:

“Hèn gì. Bây giờ anh mới hiểu. Em ngâm chân dưới nước đợi bạn về?”

“Đêm nay nó không tới. Nhưng không sao. Em nói chuyện với người khác”.

“Lỡ không có anh thì sao?”

“Thiếu gì bạn. Nước này. Cát này. Trăng này”.

Tân không khỏi tò mò, chồm đến gần hỏi thật rõ:

“Nước biết nói à?”

“Nó chỉ nói nhỏ thôi. Khi buồn thì thì thầm. Khi vui thì rúc rích. Chỉ có dưới chân cầu là ồn ào. Lính họ rào dây thép gai, rác rến bám vào làm thành cái đập. Nước chảy xiết, kêu ồ ồ. Không đời nào em thèm lên đến gầm cầu”.

Tân nhớ đến nhiệm vụ:

“May dữ a. Đêm hôm mà em mon men đến đó, lãnh đủ có khi”.

“Lính họ bắn à?”

“Sao không? Họ tưởng em là Việt cộng phá cầu”.

“Em có làm gì đâu? Gặp em, anh có bắn không?”

“Lớ xớ đến gần cầu, bắn liền”.

“Ai thèm tới đó làm gì. Anh cũng ồn ào như nước dưới chân cầu”.

Lúc bấy giờ, một áng mây làm mờ bầu trời. Tân giật mình nhìn về phía Tây. Bóng cầu vẫn đen thui, tham lam ôm hai bờ xa tít. Khi trăng sáng trở lại, ánh lòa trên sông che hẳn dấu cầu.

*

Trăng lên đến đỉnh đầu. Bóng hai người vây tròn chỗ ngồi. Trăng bớt lóe sáng trên mặt nước, nhưng bãi cát vàng óng và trở nên mênh mông. Mặt nước sông trong xanh, có thể nhìn thấy tận đáy cát. Cô gái từ lâu cầm lấy tay Tân, và lần đầu anh cảm thấy hơi ấm chuyền sang từ năm đầu ngón tay mềm. Anh nhìn chăm chú hơn: cổ tay tròn, thân người mập lẳn, ống quần đen ướt dán chặt vào hai đùi, đôi bàn chân trắng. Cô gái tự nhiên lo sợ rút bàn tay về. Tân nói:

“Đừng chờ thái tử nữa. Hãy nói chuyện với anh”.

“Nói cái gì?”

“Chuyện làm ăn. Một ngày em lưới được bao nhiêu cá? Bán được bao nhiêu tiền?”

“Không nói. Để anh nói trước”.

“Nói cái gì?”

Cô gái cười thật ranh mãnh:

“Chuyện làm ăn. Anh đi lính thì nói chuyện lính”.

“Đi lính đâu phải nghề làm ăn?”

“Sao không? Như nghề câu gõ có khác gì đâu? Lưới được bao nhiêu? Bán được bao nhiêu?”

Tân nhìn thẳng vào mặt cô gái xem muốn hỏi thật hay nói đùa. Nét mặt vẫn có cái vẻ trống vắng mà tham dự như trước. Tân chậm rãi trả lời:

“Nghề anh không có thả lưới rồi gõ cây rượt cá”.

“Cha em cũng có làm vậy. Mấy hôm trời tối, ổng lấy đèn đá soi xuống sông, dùng đọc đâm cá. Em ngồi đầu sau lo chèo. Nhiều khi em vô ý chèo trệch một chút, sõng xoay ngang. Cha đâm trật, ổng la om sòm”.

Tân trầm ngâm nhưng cô gái lại cười ròn rã. Tân bị lôi cuốn, cười theo.

Cô gái hỏi:

“Sao bây giờ không chạy như ngựa chứng nữa đi?”

“Bỏ em ngồi một mình, thái tử rước đi mất uổng lắm”.

“Anh ra đây giỡn trăng hay đi tắm?”

“Quên mất. Ra đi tắm”.

“Sợ nước à? Cho ướt luôn, chịu không”.

Không chờ trả lời, cô gái lội ra giữa dòng tạt nước lên chỗ Tân ngồi. Hai người tạt nước nhau, tiếng cười làm rạng rỡ đêm khuya. Thông thạo hơn, cô gái tạt từng tia nước mạnh đúng vào mặt Tân, khiến anh phải mất thì giờ vuốt mặt. Nhưng anh vẫn theo tiếng cười đuổi theo. Cô gái quen chạy trên cát, luôn luôn vuột khỏi tầm tay Tân. Đôi lúc anh sắp chụp được bả vai, nhưng cô đã hạ mình xuống, luồn về phía khác, làm cho Tân quá đà ngã lên bờ nước.

Tân vẫn cố rượt theo. Nhờ bước hỏng vào lũng cát sâu, cô gái ngã, Tân mới theo kịp. Gió và nước không làm nguội được sức nóng bừng bừng. Tân úp mặt lên cổ cô gái, dụi mặt vào trong tóc ngửi mùi hôi và rong rêu. Cô gái vẫn cười, hàm răng trắng óng ánh, đôi mắt long lanh, đôi tay trải dài trên cát làm phập phồng lồng ngực. Không nói năng gì, Tân ôm lấy thân thể ấm áp, sống trọn sự cuồng bạo dã thú. Miệng cô gái vẫn cười, nhưng đôi mắt nhắm nghiền, đôi tay chới với. Cả gió cả nước cả trăng đồng lòng thúc giục, trong khi cát vàng ấp ủ nâng niu.

Khi ngồi lại trên cát nhìn khuôn mặt cô gái mắt vẫn còn nhắm nghiền như đứa bé ngủ say, Tân ngờ ngợ thấy quen. Nhưng không nhớ đã gặp cô ta lúc nào, ở đâu!

*
Lúc mấy người quân cảnh đẩy lên xe, chiếc GMC vẫn còn đó chưa đi. Hai tay bị khóa quặt ra sau, nên phải chật vật lắm Tân mới bước lên được cái bậc cấp, rồi cúi người luồn ra ra ngồi băng sau. Mấy người lính đứng bên ngoài không cần giữ ý, hỏi nhau:

“Bắt được thằng chả ở đâu đó?”

“Tận bãi cát gần khúc quanh của con sông”.

“Chắc xuống dưới an ninh trả lời không xuôi đâu. Cả tiểu đội chết, cây cầu sập, chỉ còn có một mình chả đi tắm”.

“Nghe mìn nổ trên cầu mà cứ tắm à?”

“Không. Toán tiếp viện theo đường sông vòng lên, gặp nó đang bận quần áo và lấy súng chạy về”.

Tân ngồi im không nói năng gì. Phía trước xe, một nhóm người đang tụ tập quanh mấy cái xác. Có tiếng khóc nỉ non và kể lể rên la. Bỗng nhiên đám đông dạt cả ra, tránh lối cho lính khiêng một cái băng ca đi vào. Nhiều tiếng lao xao:

“Một người nữa hả?”

“Đâu phải lính. Xác đàn bà”.

“Dễ sợ. Ngực bị vỡ toang hết. Lượm ở đâu đó, trung sĩ?”

“Bến chài. Lúc tụi tôi bọc hậu đón đầu bọn du kích, thì thấy nó hớt hải chạy từ phía cầu về. Hô đứng lại, nó cũng cứ chạy, nên mới nổ súng. Nếu biết là nó, thì không giết làm gì”.

“Vậy chớ ai đó?”

“Con khùng xóm Chài”.

“Con khùng xóm Chài hay con khùng ngoài chợ?”

“Cả hai đứa là một. Nó là con gái ông câu gõ. Cha nó chết cách đây mấy năm. Nó xin ăn ngoài chợ, và hễ cứ đến mùa trăng là nổi cơn”.

Tân nghe được câu chuyện, lịm người không dám nhìn về phía trước. Bên cửa trái, người tài xế xe GMC đang xem lại máy móc trước khi lên đường. Bốn người lính hộ tống đã lên ngồi hai bên quan tài. Người tài xế đậy nắp ca bô, gọi với vào trong:

“Ra đi cho sớm chị”.

Người đàn bà ẵm đứa con ra xe. Mái tóc bù xù. Cái áo trắng vải thô và vành khăn tang nhàu nát, dơ dáy. Lúc đi ngang qua xe quân cảnh, người đàn bà vô tình nhìn vào phía Tân.

Anh không tin ở mắt mình. Cũng khuôn mặt ấy, cũng trạng thái lơ lửng giữa tưởng và thực, có và không, hững hờ tránh né mà mời gọi thúc giục, xa lạ với cõi sống mà cũng không gắn bó với cõi chết. Người đàn bà bước đi mệt mỏi, âm thầm, nhưng khi đến gần xe, gọi người tài xế một cách tỉnh táo:

“Xách giùm cái giỏ chút, chú. Khi hôm ngủ được không?”

“Đi đường mệt, nằm thẳng cẳng đến lúc nghe tiếng nổ trên cầu mới thức”.

“Đêm qua trăng giọi sáng quá, không ngủ được một khắc…”

Đầu óc Tân quay cuồng. Anh đẩy người quân cảnh phía trái sang một bên hướng mặt về phía người đàn bà hỏi lớn:

“Ê, không ở lại chờ thái tử sao?”

Anh quân cảnh kinh ngạc. Người đàn bà quay lại, mắt ngơ ngác, tưởng không phải người ta gọi mình nên tiếp tục leo lên ngồi trên buồng lái.

Người quân cảnh gay gắt:

“Đ.M. Cha nội đã đến nước này rồi mà không chừa cái thói lăng nhăng. Chồng người ta còn nằm một đống trong hòm, đã chọc ghẹo”.

Chiếc GMC rồ máy, từ từ ra khỏi cổng. Một lớp bụi vàng mỏng tỏa lên, lơ lửng như ánh trăng.
 
 
Nguyễn Mộng Giác     
 
(Trích từ tập truyện ngắn Bão Rớt)