Thứ Ba, 14 tháng 10, 2025

TRE PHẢI TÀN - Bình Nguyên Lộc


Về quê hôm đó, bác sĩ Ân sung sướng hơn chuyến nào cả. Lòng chàng ôm không muốn hết đến bao niềm vui một lượt, chúng nó cứ rơi lợt đợt ra ngoài, phải hốt liền tay. Vui nầy lấn vui kia quyết chiếm trọn dạ chàng vốn không đủ chỗ chứa.

Thăm lại làng cũ với mớ kỷ niệm buổi thiếu thời đang ngủ yên dưới gốc da đầu làng trong mấy ngày giỗ tổ sắp tới, đông đủ bà con, là một niềm vui nhè nhẹ.

Phấn khởi lắm là chuyện chàng sắp cưới vợ. Ân về làng để báo cho ông trưởng tộc hay tin lành đó. Chàng thuộc chi thứ trong họ, cha mẹ chàng định hôn nhơn cho chàng là đủ rồi, nhưng cũng phải thưa qua với ông nầy. Cô Mai đẹp, ngoan, có hạnh, có nết, có duyên và có lu bù đức tính tốt khác nữa, kể sao cho xiết !

Nhưng sôi nổi trong lòng chàng là viễn ảnh danh vọng mà bác sĩ Ân sắp đoạt được. Chàng sẽ nổi danh, mà nhứt là chàng sẽ hưởng được lạc thú ở đời hơn vì vương đế nào cả.

Bất giác chơn cẳng Ân làm việc nhanh chóng như để ăn nhịp với sự bồng bột bên trong. Nếu đi bộ thì chàng đã chạy rồi. Lái xe, chạy không được, chàng đạp lút ga săng vậy.

Từ lúc mới vào học trường thuốc, bác sĩ Ân đã nghiên cứu sự già nua của con người để tìm thuốc trường sinh. Thấu đáo được nguyên nhơn sâu kín của thứ bịnh nan y kim cổ ấy, bác sĩ Ân chế ra một trị liệu làm cho trẻ lại những tế bào ủ rũ trong thân thể những người già.

Công việc còn đang ở trong vòng thí nghiệm, nhưng bác sĩ thoáng thấy kết quả rực rỡ của nó rồi.

Phương pháp trường sinh của chàng sẽ thành công. Chàng sẽ nổi danh. Mà thứ nhứt là chàng và Mai sẽ trẻ mãi để hưởng mối tình muôn xuân của họ.

Thế hệ con người kế tiếp nhau mà tàn mọc, nhưng đôi bạn trẻ cứ đắm đuối trong tình yêu huyền ảo, bất chấp thời gian.

Ân tin là chàng sẽ thành công trong khi bao nhiêu y sĩ khác trên thế giới thất bại. Vì họ, đến lúc đầu bạc răng long họ mới hoảng lên, hối hả tìm thuốc. Thế còn đâu đủ thì giờ để hoàn thành nghiên cứu. Chàng, chàng đã bắt tay vào việc ngay từ năm mười chín tuổi.

Chỉ phiền có một điều là trị liệu mà chàng nghĩ ra rất tốn kém vì phải đeo đuổi áp dụng trong nhiều năm. Không phải ai cũng hưởng được cái diễm phúc trẻ mãi với tháng năm.

Nhưng Ân tự an ủi: "Ít người hưởng còn hơn là không ai được hưởng cả".

Bận lo ra nên Ân phóng xe ra khỏi ngả ba đường quẹo vào làng mà không hay. Đang chạy ngoài nắng chang chang xe bỗng chun vào một đường hầm xe lửa tối om. Rừng cao su dày mịt hai bên đường đuổi cả nắng ở đây không còn sót một giọt. Những cây cao su già cỗi trồng ven đường giao nhành lại với nhau kết thành một vòm xanh che kín mít trên đầu chàng.

Điều kiện thấy thay đổi đột ngột quá khiến Ân suýt lạc tay lái. Ý thức chàng bấy giờ mới trồi trở ra ngoài và chàng chợt nhận thấy là mình đã đi khỏi ngã ba làng.

Ân quay xe lại và mười phút sau, chàng quẹo vào con đường đá đỏ bên trái, thân yêu với những cây sao bạn cũ trồng ở ven đường mà thuở bé chàng hay lân la để tắm mưa hoa trắng dưới tàn.

- Y hệt như hồi đó ! - Ân chạy xe chậm chậm cho đỡ xóc, nhìn hai bên đường và lẩm bẩm như vậy.

Đá đỏ lâu đời bị bánh xe bò nghiến nát thành bụi, nhuộm hồng cả cây cỏ hai bên đường. Không lần nào ngâm câu Kiều:

Bụi hồng dặm cuốn chinh an

Mà Ân không bùi ngùi nhớ lại cảnh nầy và giờ đây câu thơ ấy bỗng lại như văng vẳng bên tai và văng vẳng bên tai những âm thanh khác, huyền diệu vô cùng vì nó giúp chàng hoàn đồng trong giây lát.

Nhà thờ họ Tôn ở mép trái, khuất dạng trong vườn cau. Nhưng Ân đoán thấy được, nhờ nhắm cây da trước miễu làng, mọc đối diện với vườn nhà. Miễu làng đã bị tàn phá trong thời chiến tranh, cây da đã trốc gốc nhưng thân cây còn nằm đó và tiếp tục sống như một ông lão cao niên mắc chứng tê bại phải nằm tháng nầy qua năm khác.

Ở đây, nhà cửa đều cất day lưng ra đường vì dưới kia là ruộng mà khoa địa lý dạy phải cho nhà ngó mặt xuống ruộng mới mong làm ăn khá.

Thành ra Ân vào nhà bếp trước. Vì khách thường nào cũng vào đó - nhà trên chỉ mở cửa vào những dịp bất thường thôi - nên nhà bếp cất rộng rãi như một nếp nhà của người có ăn. Nhà có hai nóc. Nóc trên dùng làm nơi tiếp khách, nóc dưới - tức là nóc gần đường - dùng làm nhà khói.

- À, anh lang băm về trễ dữ !

Người bác thứ ba Ân kêu lên như vậy rồi thì trong nhà thiên hạ túa ra mừng khách.

Nhà bếp hôm nay chứa đến non một trăm người. Ông cụ ăn hương hỏa nhà nầy có bốn người con, vừa trai vừa gái, đều ở trong làng nối nghiệp ông cha. Người con trưởng ông đã trên bảy mươi, có cháu nội cháu ngoại đủ cả, mấy người sau cũng thế. Thêm vào đó những chi thứ, con cháu của em ông cụ, mà Ân là một.

Họ Tôn là một họ lâu đời, rất hiếm hoi ở miền Nam nầy: Gia phổ nhà ghi tên đến ông tổ mười hai đời, và hiện người ta biết mồ mả của ông tổ chín đời.

Cánh họ Tôn nầy rất quí trọng sự lâu đời của nhà họ và cố giữ trọn truyền thống cũ để có cớ mà tự hào. Thành ra ngày giỗ nào con cháu cũng tựu về đông đúc như vậy cả.

Ân thuộc chi thứ, không có bổn phận về cúng giỗ tổ cho lắm, và cũng không cần sự tự hào gia tộc, nhưng chàng vẫn về vì ngôi nhà thờ ấy đã chứa chấp không biết bao nhiêu kỷ niệm buổi thiếu thời của chàng. Mấy người ở chi thứ khác, toàn người Sàigòn, về đó hôm nay cũng vì lẽ ấy.

Về quê, tức là ngược dòng thời gian để lên nguồn đời minh. Thú biết bao ! Về quê vào ngày giỗ tiên thường, ngày Tết lại càng thú gấp bội.

- Con đã ăn gì chưa ?

Đó là câu hỏi đầu của người cô thứ tư, góa chồng và không con, ở nhà thờ để phụng dưỡng ông cụ.

Nội câu hỏi ấy cũng đủ làm cho lòng Ân nao nao, thương thương, nhớ nhớ những giương mặt của những người đờn bà trong họ nay đã khuất bóng, người nào cũng nuông con cháu bằng cách cho ăn.

Ân đã ăn rồi, nhưng cứ đáp là chưa để được hưởng trước những món cúng nhà quê lạ miệng và rất gợi nhớ.

Trong khi người cô hấp tấp chạy vào nhà khói thì người bác hai giới thiệu mấy đứa cháu nhỏ với Ân. Nhiều đứa, bận về trước, Ân không thấy: chúng còn bé quá, hay chưa đẻ cũng nên. Ân lơ đãng nghe danh từ đứa, xoa đầu của chúng lấy lệ vì biết chắc rằng lát nữa đây sẽ quên hết. Lũ nó đông trên ba mươi, làm sao mà nhớ thằng nào là thằng Cu và thằng nào là thằng Minh Dũng.

Ân được đãi bữa ăn sáng: bún, vịt tiềm, chàng vừa ăn vừa mách thuốc bởi vì bà con người nào cũng có sẵn một chứng bịnh trong mình cả, đợi gặp mặt ông lang nhà để hỏi thuốc khỏi tốn tiền đi đốc tơ.

Ân hỏi người bác hai:

- Thưa bác, ông vẫn mạnh khỏe như thường chớ ?

- Ông năm nay yếu hơn mọi năm, nhưng còn đi đứng được.

Ân ngó lên nhà trên, hình dung một ông lão đang ngồi chờ con cháu. Phải, họ bỏ ông cụ trên đó một mình và ngày giỗ, ngày Tết, con cháu về đông vầy, mà ông cụ vẫn cô quạnh như thường.

Ngôi nhà thờ ba gian hai chái, rộng minh mông như một ngôi chùa, càng giống ngôi chùa hơn, là sự vắng người ở trong đó.

- Những ngày thường, cửa đóng kín mít, chắc ghê sợ lắm - Ân nói một mình mà như hỏi ai.

Người bác hai vuốt chòm râu bạc mà nói:

- Cô Tư cháu nói hôm qua mở cửa để dọn quét bụi bặm, bắt được dưới bàn thờ giữa hai vỏ rắn lột.

Bỗng mọi người nín im, nhìn nhau mà cười bằng mắt: ông cụ đang nói chuyện một mình trên đó, mà nói lớn như là người đối thoại nặng tai lắm.

- Ông tối ngày cứ chơi với mấy cái giỏ mây, sắp vô rồi lấy ra, tìm trái cau, trái quít mà bỏ vào đó, như trẻ con chơi trò buôn bản...

Ân nghe là hiểu ngay; đó là địa hạt của chàng: tâm lý của những người già quá. Họ càng cao niên càng trở về với tuổi thơ ấu, ngủ sớm như trẻ, con mắt mờ, nhưng mờ đến độ chót, đến "quá làn" bỗng lại sáng tỏ ra, khỏi đeo kiếng nữa. Đến một khi kia, họ khờ dại ra, bỏ rơi lần lần những gì mà kinh nghiệm sống đã dạy họ, họ không còn ước lượng được sức nặng, thời gian, không gian nữa.

- Thưa bác - Ân hỏi - ông lẫn luôn hay mới lẫn có lúc thôi.

- Chỉ lẫn có lúc thôi.

- Như vậy tinh thần ông cũng khá tráng kiện, ông đã chín sáu rồi. Có người chưa chín mươi đã lẫn luôn, không còn nhận ra con cháu nữa.

Khi Ân ăn xong bữa, người bác Hai nói:

- Giấc sớm mai thường thường ông sáng suốt lắm. Ta kéo nhau hết lên nhà trên để chào ông.

Không ai hoan nghinh ý kiến đó, nhưng ai cũng đứng dậy để đi theo ông trưởng tộc tương lai nầy. Ông ta đã bảy mươi bốn tuổi mà trông còn quắc thước lắm. Ông ở riêng với con cháu ông, nhưng khi nào ông cụ ở đây qua đời rồi, ông sẽ về đây mà coi nhà thờ.

Cả đoàn đi như đi đám cưới, long trọng vòng ra cửa trước, mặc dầu có cửa sau gần hơn. Người bác Hai bước lên bực đá ong và tằng hắng một tiếng.

Ân thấy ông trưởng lộc đầu sói sọi, da đầu láng bóng, trông giống như ông Thọ trong tranh Tàu, đang ngồi xếp bằng trên chiếc tràng kỷ, tay mân mê một cái chén trà cổ.

Nghe tiếng động, ông cụ ngước lên rồi kêu:

- Cả ! Dữ ác hôn, tới bây giờ mới về !

Người bác Hai là cựu Hương Cả trong làng. Đây là kêu theo chức tước địa phương, chớ không phải kêu theo lối miền Bắc.

Ông Cả Hai bước đã tới trong mà con cháu có đứa còn đứng ngoài sân vì đoàn dài quá. Đây là cuộc họp mặt của bốn thế hệ người, từ ông cụ chín mươi sáu đến thằng bé lên năm, và là cuộc họp mặt toàn quốc có đủ mặt người Bến Tre, người Sàigòn, và người ở xó quê miền Đông nầy.

Ông Cả Hai kề miệng vào sát tai cha mà hét:

- Con cháu nó về đông đủ thăm tía, với lại để cúng giỗ !

Ông trưởng tộc gục gặc đầu và nói:

- Biểu chúng nó vô hết trong nầy.

Ông cụ nhìn đám con cháu vào nhà và vẹt qua một bên, cười bằng cái miệng móm sọm rồi hỏi:

- Chúng nó có ăn gì chưa ?

Ông Cả Hai hét đáp:

- Đứa nào cũng ăn no rồi hết. Bữa nay có thằng Ân, con của chú Tư về để...

- Chú Tư nào ?

- Chú tư Huệ ấy, cháu nội của chú Ba của con, tía quên rồi hay sao ?

Ông nội của Ân là em ruột ông cụ. Nhưng ông cụ cố nhớ mãi mà không nhớ ra. Rốt cuộc ông cụ cũng hỏi:

- Đâu, nó mấy tuổi rồi, bước lại đây xem.

Ông Cả Hai và cả đoàn cười rộ lên. Ông kéo Ân đến trước mặt ông cụ và hét:

- Nó hăm bốn tuổi, mà đậu tới đốc tơ lận.

Ông cụ mỉm cười nhưng không nghe rõ nên nghiêng đầu đưa tay ra để đòi nghe lại câu vừa rồi.

Ông Cả Hai hét to hơn:

- Nó vừa đậu đốc tơ !

- Ạ ạ... đốc tơ. Giỏi quá ! Chà giỏi quá ! Mới hăm bốn tuổi ! Nhưng con cũng phải học thuốc ta mới hoàn toàn được.

Ông cụ nắm tay Ân, nhìn chàng trân trối rồi hỏi:

- Con có biết chuyện "Phúc thống phục nhơn sâm... tắc tử" hay không ?

Ân biết câu chuyện bốc thuốc đó, nhưng ông cụ vừa hỏi xong thì cười ha hả và cười mãi như vậy, nên chàng chỉ nhoẻn miệng cười và đứng đó làm thinh.

Bỗng ông cụ chỉ tay vào đám đông hỏi:

- Đứa nào kia ?

Ngón tay ông cụ chỉ ngay con Hạnh, cháu nội của cô Năm. Gia quyến Hạnh ở Sàigòn cũng mới về hôm nay.

- Dạ, đây là con Hạnh, kêu tía bằng ông cố.

- Con Hạnh ! Ai cho phép con cắt tóc đó ?

Mọi người chưng hửng. Con Hạnh năm nay mười tám tuổi, nó uốn tóc quăn là sự thường như là ta thở hoặc ta đánh răng bằng bàn chải.

Con Hạnh bước tới, mặt tái lét, ú ớ đáp gì nho nhỏ trong miệng không ai nghe được cả. Mà ông cụ cũng chẳng thèm nghe, cứ lắc đầu mãi rồi nói:

- Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương ! Có cái đầu để thờ ông thờ bà, lại đem mà cắt ngang đi, thì còn "Hạnh" cái nỗi gì.

Bỗng ông cụ ôm lấy chơn mình, rồi vừa nhăn mặt vừa hít hà kêu lên:

- Ý ôi ! Trời ôi ! Nó nhức chết đi thôi !

Bác sĩ Ân đứng ngây người ra. Cảnh trước mặt chàng chưa đầy mười lăm phút đồng hồ mà thấy sao y như là cả một đời kinh nghiệm nó bắt chàng soát lại quan niệm của chàng về lẽ sống.

Ông cụ đã đến tuổi không còn hiểu được ai nữa cả. Uốn tóc quăn, ông cụ không hiểu mà chắc bao nhiêu chuyện khác cụ cũng chẳng hiểu được.

Mấy đứa bé đứng đàng sau đuôi kia, ông cụ có thương yêu chúng nó hay không ? Chắc là không ! Những lúc không lú lẫn, chắc ông cụ bận nhơi lại dĩ vãng như bao nhiêu người già khác, không thiết đến tương lại đã đành, mà cũng thờ ơ với hiện lại. Thương yêu đã chết nơi lòng người một lượt với ham muốn thì chắc ông cụ cũng không bao giờ nghĩ đến bà cụ, đang nằm yên dưới mồ.

Con cháu chắc chắn là không thương yêu ông cụ rồi. Thế hệ thứ ba không ở chung với thế hệ thứ nhứt thì khó mà bị dính líu về tình cảm với thế hệ ấy lắm.

Còn nói gì thế hệ thứ tư là con Hạnh kia. Nếu luân lý không dạy nó phải thương yêu ông cố thì ông già ngồi trước mặt nó để mắng nó bằng chữ nho kia, bất quá chỉ là một ông lão gàn.

Không, không một liên hệ tình cảm gì giữa những thế hệ người xa nhau quá như vậy: Ngay như ông Cả Hai, tình thương cha của ông chắc đã bị tình thương vợ, thương con, thương cháu cướp hết cả rồi.

Không, không nên sống nhiều quá, sống lâu quá. Mình không thương ai được nữa mà cũng không còn ai thương mình nữa thì sống làm gì. Cho đến bạn hữu quanh mình, những người cùng thế hệ, cùng cảm nghĩ với mình, cũng đã từ giã cõi đời rồi thì sống thiếu tình thương lại thiếu cả tình bạn nhè nhẹ để cho vui tạm những lúc trà dư thì còn thú vị gì ?

Ân nghĩ tới đó thì nhớ lại bụi tre đã gặp ở đầu làng khi sớm. Không hiểu vì lẽ gì mà cả bụi chỉ đứng trơ lại một cây, ngoặt ngoẹo dưới gió đồng. Tre đẹp nhờ xúm xít lại từng bụi lớn. Đứng lẻ loi một mình, xem nó vô duyên làm sao !

Những cây tre cô độc ấy phải tàn, không vì một mục đích vị tha nào cả, như là tre phải tàn cho măng mọc chẳng hạn, mà vì lợi riêng. Nó sống một mình có lợi gì cho nó đâu. Nó bị bơ vơ không biết thì thầm với ai lời gì. Cho đến gió cũng chẳng thèm ghé lại để rì rào với nó những câu chuyện thân mật hằng ngày.

Tre phải tàn, và con người phải chết. Thuốc trường sanh không giúp con người hưởng hạnh phúc lâu dài đâu.

Sống sót trên đời với những thế hệ không thân với mình, thật không khác nào sống sót sau một trận dội bom khinh khí, sau cuộc tận thế, sống một mình với những hòn đá chung quanh, nó không thèm biết có mình, hay chỉ xem mình là một hiện tượng lạ mắt thôi.

Ông cụ xổ nho một hơi, rồi như quên mất câu chuyện uốn tóc quăn, vuốt râu rồi nói:

- Tụi bây, bây giờ yếu nhớt, coi đứa nào đứa nấy ốm như con còng gió. Tao ngày xưa, tao bẻ cây tầm vông như là bẻ cọng rạ. Có vậy tao mới đả hổ được chớ.

Không đánh cọp làm sao mà làm ruộng. Nè, hễ mình lấn rừng thì cọp nó ghét, nó rình để móc họng mình mà trả thù việc phá chỗ ăn chỗ ở của nó.

Bọn tao đứa nào cũng thủ sẵn đủ cả khí giới. Ai đốn cây cứ đốn, ai đánh gốc cứ đánh, mà hễ nghe cái mùi khen khét thì...

Mắt ông cụ bỗng sáng lên. Bao nhiêu sinh lực còn sót lại trong người ông cụ đều dồn lên trên và muốn vọt ra ngoài nơi hai con mắt thình lình tỉnh dậy ấy.

Ân thoáng thấy con cháu ông cụ rút êm đi lần lần, lũ cháu nhỏ đi trước, kế đến những anh chị, em út cùng thế hệ với chàng.

Đám con cháu tan lần cả, chỉ còn sót lại hai người bác và hai người dượng rể thôi.

Ông Cả Hai rót ra một tách nước rồi bưng cho ông cụ và hét rằng:

- Tía nói nhiều, mệt, uống nước để thấm giọng.

Ông cụ rước lấy tách trà nóng, hớp từng hớp một, rồi quên luôn vụ đánh cọp đang kể dở chừng.

Trời ơi, Ân kêu thầm ! Ông cụ không hiểu con cháu, mà cón cháu nó cũng không hiểu ông cụ chút nào. Đây là câu chuyện mà ông cụ đã kể hằng trăm lần rồi, nên chúng nó đâm ngấy mà rút êm đi cho khỏi bực phải nghe.

Chúng có nhớ đâu rằng ông cụ là con của những người tiên phuông đi khai hoang miền Nam nầy, và thời kỳ đánh cọp phá rừng, là thiên anh hùng ca mà ông cụ hãnh diện lắm, kể mãi đến chết cũng chưa chán.

Bấy giờ cả những người bác, người dượng rể cũng xin phép mà lui.

Riêng Ân, chàng vẫn ở lì đó vì chàng tội nghiệp cho ông cụ quá. Vả câu chuyện hôn nhơn chưa thưa kịp.

Ông cụ ngó mông ra ngoài vườn cau giây lâu rồi như sực nhớ ra còn một đứa cháu trước mặt, nên day lại nhìn nó rồi hỏi:

- À, con tên gì, ông quên mất rồi ?

- Thưa con tên Ân !

- À, Ân. Con có biết ông thuộc tuổi gì hay không ?

- Thưa tuổi Thìn.

Ông cụ cười ha hả rồi nói:

- Ai lại không biết ông tuổi Thìn, nhưng thuộc vào tuổi gì chớ ?

Ân ngơ ngác không hiểu câu hỏi của ông cụ. Thấy chàng bí, ông cụ giải thích:

- Nầy, hễ sáu mươi người ta gọi là Thọ ; bảy mươi họ gọi là Trung Thọ, còn tám mươi là Thượng Thọ. Vậy ông trên chín mươi gọi là gì ?

Ân đáp bừa:

- Thưa, là Đại Thượng Thọ.

- Hừ, dốt, trẻ bây ngày nay dốt lắm. Cái gì mà Đại rồi còn Thượng nữa. Chín mươi sắp lên là Thiên Liễu đó.

Ông đã Thiên Liễu từ mấy năm nay rồi. Thiên Liễu là tuổi bất khả xâm phạm, ông bây giờ rủi giết người cũng không phải tội. Vua có vô làng, cũng phải nói chuyện với ông.

Một lần lữa, ông cụ sáng mắt lên. Gương mặt sắp hết chất sống của ông lão được sự hãnh diện cuối mùa làm tươi hẳn ra.

Nhưng Ân lại nghe thương hại quá sức cái tuổi Thiên Liễu nầy, bị phạt phải sống trơ trọi trong không gian và trong tình cảm !

Không, con người không nên Thượng Thọ cũng chẳng nên Thiên Liễu làm chi. Bảy mươi, nhường chỗ cho kẻ khác là vừa rồi.

Ân vụt nhớ lại điệu nhạc đám ma ngoại lai mà chàng đã nghe hôm tuần tnrớc. Đó là đám ma của một ông nhà giàu dốt, rước kèn tây thổi cho oai. Bọn kèn tây đã thổi bản "Tạm biệt".

Chàng đã mỉm cười chế nhạo bọn nhà giàu dốt ấy ! Nhưng nay nghiệm ra, họ có lý của họ biết bao: ông nhà giàu bảy mươi ấy chết là vừa lắm rồi, nên con cháu nó không buồn, cho nhạc công thổi bản vui để ăn mừng một cuộc rảnh nợ.

Ân nhìn ông cụ bóp chơn và nhăn mặt kêu đau, rồi lẩm bẩm một mình:

- Giúp cho một vài ông cụ, một vài bà cụ sống dai như ông cụ trưởng tộc họ mình sống để không ai thương, không thương ai cả, sống bơ vơ như một Từ Thức, trong khi bao nhiêu người đồng thời đều đã ra ma, ích lợi gì cho người thọ ?

Và phương thuốc trường sinh tốn tiền của mình chỉ tổ làm khổ cho mấy ông nhà giàu, sống sót lâu quá với những thế hệ khác mà thôi.
 
(Trích từ tập truyện ngắn Mưa Thu Nhớ Tằm)      

Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2025

VỀ LÀNG CŨ - Bình Nguyên Lộc

Cam giận run lên.

Từ ngày dời nhà ra chợ đến nay, chị Mít đã thay đổi tánh nhiều lắm chớ không còn là một người vợ chỉ biết phu xướng phụ tùy như hồi họ còn ở trong làng nữa. Nhưng chị Mít chỉ đâm ra cứng đầu vì bắt chước cái thói nam nữ bình quyền ở đây vậy thôi chớ chưa hề dám nổi loạn hẳn như hôm nay.

- Sao, mầy nói sao?

Anh Cam xốc tới, mặt hầm hầm, đôi mắt đỏ ngầu như mắt thằng điên, vừa hỏi gặng vừa cung tay.

Nhưng chị Mít không sợ hãi chút nào. Chị ấy xon xỏn lập lại câu chọc tức của chị khi nãy:

- Không ai mà cần thèm ai. Con nầy không sợ đói đâu. Chỉ có ai kia mới là bất tài, không nuôi nổi vợ con thôi.

- Đ m... tao đánh thấy mẹ mầy.

Anh Cam cũng đã nhiễm thói tục ở chợ, thói của mấy anh phu vác gạo, chớ hồi ở làng anh đâu có chửi thô tục như vậy. Nhưng căn bản hiền lương vẫn còn sót lại nơi người anh rất nhiều, thế nên vừa xốc tới trước mặt vợ, anh vừa đưa mắt nhìn quanh để tìm một cái tộ, hoặc một cái chén, tóm lại những thứ đã dòn, dễ bể như pha lê hay đồ sứ Lái thiêu để mà đập cho hả giận vì anh không thích trút tất cả cơn thịnh nộ của anh lên người của chị Mít.

Nhưng ở đây là buồng trước, không có món nào khả dĩ làm bia đỡ giận được cả. Bình hương và bình bông bằng sứ Lái thiêu trên bàn thờ, cỡ ném xuống đất một cái thì bể dòn lắm, nhưng đó là của thiêng liêng bất khả xâm phạm. Chỉ còn có bốn bước nữa thì anh Cam tới trước mặt chị Mít. Chị ấy đang nghinh anh một cách khiêu khích và anh tuyệt vọng vô cùng bởi không vớ được món nào giúp anh xì hơi giận hết. Cùng thế, anh đá thật mạnh vào... một cây cột nhà.

Cả hai vợ chồng đều rụng rời vì khủng khiếp: cây cột ấy gẫy làm ba, bốn đoạn, và rơi xuống nền đất kêu lổn cổn.

Cái tiếng kêu ấy đáng lý phải cho họ chợt thấy cái gì khác lạ, nhưng sự việc bất ngờ quá khiến họ quên mất chi tiết ấy đi.

Chị Mít chỉ khiếp sợ vì thấy chồng mình sao bỗng dưng mạnh gớm. Anh Cam là một nông dân lực lưỡng, đã có lần dám chụp sừng của một trâu điên để đè đầu nó xuống và anh đã thắng nó trong mấy phút cho dân làng kịp vây trói, ngăn nó tác hại. Nhưng dầu sao sức mạnh của anh cũng còn kém sức mạnh của Lý Nguơn Bá một trời một vực, cớ sao hôm nay thình lình anh ăn gì mà mạnh lên như thần, đá một cái là gãy một cây cột nhà bằng bê-tông, to bằng bắp vế người lớn?

Vâng, cột nhà này chắc chắn là bằng bê-tông chớ không thể bằng gạch vì nó tròn chớ không vuông, lại được quét nước vôi lên, trắng toát. Ngày ra chợ làm ăn để trốn những cơ cực ở thôn quê, thuê nhà này, anh Cam đã ngạc nhiên tự hỏi sao nhà vách ván, lợp ngói âm dương, nền đất mà họ lại đúc cột bằng bê-tông làm gì cho tốn tiền?

Chị Mít kinh sợ vì thế, còn anh Cam thì mất hồn vì nghĩ rằng nếu anh đá vợ, có phải đã gây án mạng hay không? Cột bê-tông to thế kia mà còn chịu không nổi cái đá của anh thay, huống hồ gì chơn yếu tay mềm của vợ anh! Nếu lãnh cái đá ấy, chắc chắn chị Mít đã dẹp như một cục đất sét lò chén bị thợ đạp lên để nhồi cho nó nhuyễn.

Chị Mít đứng chết sững mấy mươi giây rồi vụt bỏ chạy mất, kẻo chồng chị đạp một cái nữa mà lại nhè đạp lên chị thì bỏ đời.

Anh Cam thì nư giận cũng đã theo cái đá của anh tan rã như cây cột. Anh nhìn kỹ lại thì kinh ngạc hết sức. Đây là một cây cột rỗng lòng, làm bằng những ống dẫn nước bằng đất nung, do lò gốm địa phương nầy sản xuất. Những ống đó chắp lại, trét sơ xi-măng ở những mối ráp rồi quét nước vôi lên, thì trông cứ như là bằng gạch, hay bằng bê-tông gì ấy.

Anh Cam vụt cười khan lên một mình. Nếu biết thì anh đã đá thêm vài đá nữa cho gẫy thêm vài cây cột, chắc chưa đến đổi sập nhà mà chị Mít đã mất mật và sẽ tởn tới già không dám ương ngạnh với anh nữa.

Anh ngồi bẹp xuống đất rồi xoa chân, vì mặc dầu bàn chân anh không nát trong cuộc va chạm mạnh bởi một vật ngỡ cứng như đá, chớ nó cũng không tránh khỏi đau đớn phần nào.

Anh lại vụt cười khan lên một mình lần nữa: anh nhớ đến những nếp nhà của thợ đá dưới chân núi Bửu long trên Biên hòa. Nhà họ là nhà tranh vách đất, nhưng cột làm bằng đá xanh như những cung điện nguy nga Đế thiên Đế thích. Nếu anh chàng thợ đá nào giận vợ mà đạp vào cột như anh thì bỏ đời.

Cơn vui này bỗng được một buổi nghĩ ngợi lung tung nối tiếp theo.

Thì ra con người sống với hoàn cảnh nhiều quá.

Con cắc kè đổi màu tùy theo chỗ nó nằm. Nếu nơi đó là rong rêu thì nó lấy màu xanh, còn như nằm trên tảng đá ong, nó lại tự nhuộm màu đỏ. Dân ở chân núi Bửu long làm cột nhà bằng đá xanh vì đó là vật liệu họ có sẵn bên tay mà cũng chẳng tốn kém gì. Còn dân xứ Lái thiêu này mà làm cột bằng ống nước nối lại thì cũng cùng chánh sách "ở đâu theo đó" như con cắc kè hay dân Bửu long, vì lò gốm ở đây sản xuất ống dẫn nước bằng đất nung rất nhiều.

Anh đã sống với hoàn cảnh của anh gần ba mươi năm rồi. Hoàn cảnh ấy là ruộng, là rơm, là rạ, là trâu bò, là phân chuồng, là cấy gặt. Có dầm mưa dãi nắng thật đó, nhưng cứ thong thả mà làm không bị ai hối thúc như ở đây, cực nhọc nhưng lại nhàn nhã vô cùng, mới nghe thì có lẽ như là mâu thuẫn, nhưng sự thực là thế!

Ở đây, thiên hạ đến gần như là nô lệ của đồng hồ. Không giờ phút nào là không có ít lắm là một người đưa tay lên nhìn cái mặt tròn tròn nhỏ xíu ấy một cái rồi hốt hoảng la lên: "Ý chết", đoạn vội vàng xách áo ra đi như chạy giặc không bằng.

Thêm vào những cái ấy, nhà cửa chật hẹp và không khí nóng bức làm cho trí óc con người lúc nào cũng như bị đun sôi, dễ bực dọc, dễ đâm cáu kỉnh. Anh Cam làm ăn không ra làm sao cả lại cứ bị thúc giục, cứ phải bực mình nên đổ quạu một ngày không biết mấy mươi lần. Chị Mít là con tằm mà trên đầu chị anh đã đổ trút cả trăm ngàn dâu bực bội, anh chợt ý thức vậy. Sự cứng đầu của vợ anh thật ra là phản ứng tự nhiên của một kẻ vô tội thường bị "bố" oan, chớ sự thay tâm đổi tánh của chị cũng không đến nỗi nào, và chính anh cũng thay tâm đổi tánh kia mà.

"Mình là một người sanh đẻ, lớn lên ở đồng ruộng, anh Cam nghĩ, vợ mình cũng vậy. Mình phải sống ở đồng ruộng mới xong".

Nghĩ xong, anh đứng dậy chạy u đi một mạch: anh đi mua một ống dẫn nước, mua xi-măng để xây lại cây cột bê-tông giả hiệu hầu trả nhà lại cho chủ nó.

Cột bê-tông giả hiệu. Danh từ này làm anh mỉm cười lúc anh đang chạy. Vì anh cũng tự thấy anh cũng là kẻ chợ giả hiệu.

Con cái anh về sau mới thành hẳn kẻ chợ được, chớ vợ chồng anh thì không. Luôn luôn dân quê ra ở chợ phải bị lạc hướng trọn đời của họ và chỉ có thế hệ sau mới tự nhuộm được màu chợ, chớ họ không thể đổi màu chớp nhoáng như loài cắc kè vậy đâu. Dân quê ra chợ là những kẻ tự hy sinh mình, trong cái kiếp của mình, cái kiếp thương nhớ khôn nguôi chơn trời cũ, cái kiếp chịu đựng hoàn cảnh mới mà họ theo không được.

Trên chuyến về, chạy ngang qua nhà ông chủ tiệm gạo nơi mà anh Cam làm công, anh thấy vợ anh đang ngồi bó gối trên một bao gạo chỉ xanh.

Chị Mít vừa thấy mặt chồng thì biến sắc, toan đứng lên để tẩu thoát nữa, nhưng mà giọng anh Cam sao lại dịu quá như là cam ngọt:

- Má nó ơi, con Quít đâu?

- Nó đi chơi rồi.

- Kêu nó về để mẹ con sửa soạn. Mai sáng, ta về quê.

Chị Mít lại càng hoảng hơn khi nghe sự quyết định bất ngờ của chồng chị. Chị sợ vì chị tin rằng anh đã hóa điên. Ừ, những người vừa nổi cơn điên thường trở nên mạnh mẽ vô cùng, năm bảy đàn ông lực lưỡng giữ cũng không được. Anh Cam đã không vừa đá bể một cây cột bê-tông đó à?

Sợ, nhưng thương chồng, chị không tính chuyện chạy trốn nữa. Chị bước ra đường, dè dặt để kịp tránh né nếu anh ta lại nổi cơn điên.

- Ba nó nè, chị gọi chồng nho nhỏ, giọng vỗ về.

- Gì?

- Ba nó có sao không ?

- Chỉ trầy sơ bàn chân thôi.

- Không, tôi hỏi ba có nghe trong người bực bội, bứt rứt hay không?

- Có

- Từ bao lâu rồi?

- Từ hai năm nay.

- Vậy hả?

Chị Mít ngơ ngẩn không còn hiểu đâu là đâu nữa. Thì ra không phải anh ta mới bực bội đây rồi hóa điên.

- Nhưng về làng thiệt hả, ba nó?

- Ừ, về làng.

- Bỏ chỗ làm sao?

- Không tiếc. Ở đây ta cũng chỉ đủ ngày hai bữa. Về làng cũng đến thế thôi.

- Về làng mình?

Chị Mít hỏi mà gương mặt đi vắng, đôi mắt nhìn xa lắm.

Chị lẩm bẩm một mình:

- Về làng, gần ruộng... gần trâu bò... rồi tôi sẽ trồng rau... nuôi heo... nuôi gà...

- Với lại, gần mồ mả ông bà nữa...

- Ừ, với lại gần xóm giềng, giúp đỡ lẫn nhau, vui không biết bao nhiêu.

- Và ta sẽ lại thấy cây, thấy cỏ, thấy mùa...

- Ừ, ta sẽ thấy mùa... mùa ve kêu... mùa lá rụng... mùa cá hội... mùa đuổi chim...


(Trích từ tập truyện Cuống Rún Chưa Lìa)      
 

 

Thứ Tư, 8 tháng 10, 2025

LƯƠNG MAI - Võ Hồng


- Một cái siège Italy. Tôi thích một cái siège Italy.

- À... siège Italy "hổng" có. Lâu lâu mới có. Thứ đó ít nhập cảng lắm. Ở Sài gòn này thầy kiếm đâu cho ra.

- Đắt bao nhiêu cũng được mà. Tôi chỉ cần lấy một cái thôi.

- "Tui" biết mà. Tại tui hổng có. Tui với thầy là chỗ quen biết mà. Nói thiệt, chỉ còn mấy cái siège Ăng lê. Quen lắm tôi mới dám giới thiệu.

- Ở đâu?

- Để ở nhà sau. Phải cất tuốt ở nhà sau. Để dành cho bà con quen lớn.

Ông Sử Cẩm Hưng tươi cười nhìn tôi, hai tròng kính trắng làm cho khuôn mặt thêm tròn.

Ông bước đi trước và tôi nối gót bước theo. Phải khéo tránh những đống sắt, những cuộn dây cao su, dây ni lông xếp thành bành cao, những hòn núi lon sơn, những thùng dầu, thùng bột màu. Thật là bề bộn lẩm cẩm.

Bước ra một khoảng sân hẹp. Những chậu hoa hồng: Brigitte Bardot, René Coty, Rendez-vous... Những giò phong lan: Bạch Ngọc, Tố Tâm...

- Đây, vô trong kho này, mặc ý thầy lựa. Ê! Bobby, nằm tránh ra.

Con chó mập như một con bê con, màu lông xám thẫm trên lưng. Nó lừ đừ đứng dậy đi ra sân. Tôi còn mải mê nhìn những chậu hoa hồng. Đóa hoa hai màu này chắc là giống mới ghép, chắc phải mang tên một nhân vật thời danh: De Gaulle, Christine Keller, Kennedy... Con Bobby chầm chậm đi ngang qua chỗ tôi đứng. Chợt nó quay đầu lại ngoạm vào đùi tôi.

- Ái cha!

Tôi khựng người, ôm chầm lấy chân la lên. Ông Sử Cẩm Hưng cũng la lên:

- Bobby.

Con Bobby lừ đừ đi vào nhà trong, thản nhiên như không có chuyện gì xảy ra. Tôi bị chó cắn rồi. Đầu óc tôi choáng váng.

Ở nhà trong có nhiều người chạy túa ra. Tôi vén quần lên. Máu ri rỉ chảy ở hai vết cắn cách nhau đến sáu phân. Tiếng ông Cẩm Hưng la oang oang:

- Sao bay không chịu xích chó? Tao dặn hoài. Ở nhà lo chuyện gì đâu đâu. Có sao không thầy? Đứa nào chạy vô lấy bông băng ra đây. Lấy thuốc tăng-cây đót. Lấy thuốc đỏ.

Tôi gác chân lên một trụ gạch cúi xuống nặn máu ở vết cắn. Thôi, không buồn để ý đến ai nữa. Mọi lời nói đều vô nghĩa. Tai nạn đến cho mình thì mình phải chấp nhận lấy, phải chịu lấy hậu quả. Ai cũng là bàng quan hết. Phải lo đi tiêm ngừa chó dại. Chao ôi, mười lăm, hăm mốt mũi kim sẽ đâm liên tiếp dưới da bụng hay dưới da lưng, nhức nhối làm cho người ta bỏ ăn, làm cho người ta bệnh hoạn hàng tháng. Thật buồn quá đỗi. Đáng lẽ mình không ghé lại hiệu ông Sử Cẩm Hưng để mua siège sáng nay! Nếu đi qua mà không gặp ông đứng trước cửa hiệu tươi cười chào mình thì mình đâu có ghé? Chó cắn thật là phiền. Mười con cắn chỉ họa hoằn có một con dại, nhưng mình đâu có dám tin chắc con chó cắn mình thuộc thành phần chín con kia. Nhưng dù không tin chắc là nó dại mà vẫn phải mang lưng mang bụng đi lãnh sự đau đớn nhức nhối. Anh Công vừa bị chó cắn, mới tiêm năm mũi mà trông anh hom hem như một cụ già. Trong mười phút ngồi nói chuyện mà anh hết nhăn nhó đến nhăn nhó. Nhức bên này. Nhức bên kia. Cái lưng trẹo hẳn ngồi không được. Mời thầy mằn về nắn xương. Nhức đầu. Lạt miệng. Sốt. Phải ăn cháo và uống sữa. Chị Công chạy te tái để lo săn sóc anh. Đến lượt mình. Giận hết sức. Nhưng có thể từ chối không đi chích ngừa được không? Những trường hợp mắc bệnh dại cổ điển nhất đủ để làm mình kinh hãi. Một cậu học sinh đi học về bị một con chó rượt chạy theo cắn. Cậu nhỏ ba chân bốn cẳng chạy, chạy thót vô nhà. Con chó vù tới táp một cái. Hụt. Cậu nhỏ đóng sập cổng lại. Cậu kể chuyện với mẹ. Mẹ con mừng rỡ. Cái quần bị chó táp trúng, tét đi, mẹ lôi ra vá. Vá xong, mẹ tìm cái kéo để cắt sợi chỉ. Cái kéo bỏ lạc đâu đó, mẹ cúi xuống cắn sợi chỉ. Chừng vài tháng sau, đột nhiên một hôm mẹ lên cơn dại và không có thuốc nào chữa được. Người ta giảng rằng tinh độc bệnh dại trong nước bọt của chó dính nơi miếng quần bị cắn rách. Khi mẹ cắn vào sợi chỉ, tinh độc vào máu theo một vết lở nào đó trong miệng mẹ.

Chị Lan trước làm ở nhà thương Grall kể lại trường hợp một bà mẹ dẫn cô con gái chừng mười tám tuổi, đẹp đẽ, quí phái đến nhà thương. Cô con gái bị chó cắn và đã lên cơn dại. Bà mẹ khóc lóc lạy lục bác sĩ xin cứu mạng con nhưng bác sĩ nói khoa học không có cách nào chữa được hết. Ông chỉ còn có cách giúp đỡ bà mẹ là cho cô vào phòng lạnh cho nhiệt độ thật thấp để cho cô con sẽ chết trong sự yên tĩnh khỏi những hồi vật vã đau đớn làm cho bà mẹ khổ tâm.

Anh Quế kể chuyện ở nhà thương tỉnh Bình Tuy một hôm người ta đưa đến một trường hợp mắc bệnh dại. Đó là một thanh niên hai mươi tuổi. Anh ta làm thợ hồ. Trong giờ tỉnh táo nạn nhân kể lại: "Cháu nuôi một con chó con. Nó đùa giỡn với cháu. Nó cạp đùa tay cháu, trầy da chảy máu một chút rồi khô đi. Sau đó mươi hôm, con chó bỏ ăn rồi chết. Chẳng ai để ý đến cái chết tầm thường của nó. Nhưng chừng ba tuần lễ sau, một buổi trưa cháu đi làm về, ra nhà sau để rửa tay rửa mặt thì sao chợt thấy sợ nước. Sao cứ thấy nước là ngộp. Cháu bỏ ăn vô giường nằm. Đầu nhức. Cháu sợ ánh sáng, bắt người nhà đóng cửa lại."

- Sau chừng một giờ tỉnh táo như vậy - lời anh Quế - thì nạn nhân đập bàn giậm chân rầm rầm rồi la những tiếng "Trời ơi" thật to. Nạn nhân quằn quại lê lết trên giường. Nhưng nhà thương không có thuốc gì để chữa. Tôi thấy xót thương tìm hỏi ai có cách gì để cứu hắn không. Người ta mách một ông thầy thuốc Bắc. Tôi tìm tới và ông thầy bảo đảm chữa khỏi được. Tôi tiếp tay người nhà nạn nhân chở hắn đến nhà ông thầy. Phải trùm một cái mền bịt bùng lên đầu hắn vì hắn sợ ánh sáng rồi cho hắn ngồi lên xe ba gác. Chở đến nhà ông thầy, hắn xuống xe đi vào với cái mền chụp hùm hụp trên đầu. Người nhà ông thầy sợ quá, chạy túa ra sân, la như cắt cổ. Ông thầy cũng chạy ra sân luôn. Cả xóm nghe ồn ào chạy tới bao vây đứng coi. Tôi phải điều đình và ông thầy đặt điều kiện là phải chở hắn về nhà hắn và ông thầy sẽ đến đó chữa. Lúc bấy giờ hắn tỉnh, hắn khóc trong mền, giọng khóc nỉ non "Con không có điên mà. Con chó điên nó cắn con, chớ con không có điên mà. Con không cắn ai đâu. Lạy ông thầy cứu mạng cho con". Tôi lại cho hắn lên xe ba gác bảo chở hắn về nhà và gọi một cái xe ba gác khác bảo chở ông thầy đi theo luôn. Nhưng liền trưa hôm đó thì xe ba gác chở ông thầy về. Ông nói hắn vừa chết được nửa giờ...

Những câu chuyện như thế lướt nhanh trong óc tôi. Tôi vừa nghĩ lan man đến những trường hợp lên cơn dại điển hình đó vừa nặn máu vết cắn. Chợt có một bàn tay nhỏ, trắng, gạt nhẹ bàn tay tôi ra và nặn máu hộ tôi. Tôi nhìn lại: một thiếu nữ Trung Hoa chừng hai mươi tuổi đã đứng cạnh tôi hồi nào tôi không hay. Kề đó có một lọ thuốc đỏ, một hộp bông, ga, một cuộn vải keo. Tôi nhìn khuôn mặt. Khuôn mặt cúi xuống, tôi thấy đôi hàng mày dài, cái mũi và hàng mi cong. Những ngón tay trắng hồng nặn nhè nhẹ lên vết thương của tôi. Máu nhỉ ra, nàng nhẹ nhàng lau. Da mềm nơi ngón tay gây một cảm giác êm êm. Còn một vết cắn nữa, tôi chụm bốn ngón tay nặn thật mạnh. Máu đỏ vọt ra. Nàng lấy bông lau vết máu rồi gạt bàn tay tôi, nặn qua vết cắn đó.

Tiếng ông Sử Cẩm Hưng:

- Con chó này hiền lành lắm mà. Lâu lâu nó... ngứa răng... nhưng mà nó cắn không độc. Bữa trước nó cắn chú tài phú nhưng cũng không sao.

- Dạ, nhưng tôi cũng phải đi chích ngừa.

- Chích làm gì thầy? Đau đớn trong mình. Không sao đâu. Bên Thú y họ có khám con chó rồi mà. Nó vẫn mạnh như thường.

- Họ làm gì mà khám được?

- Ậy, thầy không tin tui. Họ khám cẩn thận lắm. Họ thử máu.

Vì những ngón tay màu trắng hồng kia, tôi cố gắng giữ bình tĩnh để giảng cho ông Sử Cẩm Hưng rằng họ đã nói dối.

- Người nào nói với ông rằng đã thử máu rồi là người ấy bịp ông đó. Vi trùng chó dại là một loại siêu vi trùng, nhỏ lắm, kính hiển vi thường không nhìn thấy được. Phải có kính hiển vi điện tử mới nhìn thấy nó. Mà kính hiển vi điện tử thì làm gì bên Ty Thú y có? Vả lại, con siêu vi trùng đó không có ở trong máu mà ở trong hệ thần kinh. Không ở trong máu thì thử máu làm gì? Họ nói bịp ông đó.

Tôi nói một hơi thì cơn giận nổi lên. Ông Sử Cẩm Hưng coi tôi như một ông xã nhà quê nên đem việc thử máu ra để trấn an tôi. Máu nóng hừng hực ở mũi, ở tròng con mắt, tôi không giữ được nữa:

- Thú y chỉ giữ con chó lại để xem xét trạng thái bên ngoài của nó mà thôi. Chẳng hạn nó bỏ ăn, chẳng hạn nó bị bại. Khám xét nó chỉ có bên viện Pasteur. Phải chặt đầu nó, chặt đầu nó, ông rõ chưa, phải chặt đầu nó, phải...

Những ngón tay bấu mạnh vết thương của tôi. Tôi ngừng nói nhìn xuống. Đôi mắt đen ngước nhìn lên tôi dịu dàng. Tôi hạ giọng:

- Nhưng xin ông an tâm. Tôi sẽ đi chích ngừa. chả sao đâu.

- Thầy đừng sợ mà. Con chó này không dại đâu. Chó dại thì ngó biết liền.

- Khó biết lắm, ông Sử ạ. Nhiều khi người và chó, - người bị cắn và con chó cắn, - cùng dại một lượt. Loại bệnh này phiền phức lắm.

- Con berger của tui cứ tiêm thuốc luôn.

Vừa lúc ấy có tiếng gọi to ở từ ngoài cửa hiệu vọng vào.

- Chú ơi. Chú. Chú ra cho tôi hỏi cái này một chút. Gấp lắm.

- À, à..., - Ông Sử Cẩm Hưng vỗ vai tôi, -... Thầy. Để tui chạy ra trước một chút. Thầy đứng chơi.

Đứng chơi! Tôi đang rối ruột lên đây. Thấy công chuyện đã êm xuôi, những người trong nhà tản đi dần. Người thiếu nữ vươn tay lấy lọ thuốc đỏ. Tôi giúp nàng mở nút lọ. Nàng thấm thuốc vào bông đặt lên vết cắn. Tôi giúp nàng, đè một ngón tay lên giữ cho khỏi rơi. Nàng lấy kéo cắt băng vải keo. Tôi giúp nàng xoa xoa cho đầu băng vải keo dính chặt vào dạ Tôi cám ơn nàng và nàng không mỉm cười. Nàng nhìn thẳng tôi rồi nói khẽ:

- Ông nên đi xuống viện Pasteur mà chích thuốc ngừa đi.

Tôi ngạc nhiên vì lời đề nghị.

- Ba cô mới nói...

Nàng không lưu ý đến câu nói của tôi, vẻ mặt xa vắng như đang nghĩ gì đâu đâu. Giọng nàng nhẹ nhàng:

- Con chó chưa được... Ông nên đi xuống Pasteur chích thuốc ngừa đi.

- Thât không êm đềm chút nào hết. Ai cũng sợ hãi những mũi tiêm nhức nhối đó.

- Ông chịu khó. Con chó chưa được... Ông hiểu chứ?

- Vâng. tôi hiểu.

- Ông đừng trách ba tôi.

- Không có. Tôi nghĩ rằng cụ muốn cho tôi an tâm nên cụ mới nói lạc quan thế. Cụ không quan niệm bệnh chó dại nguy hiểm ngang tầm mà chúng ta quan niệm.

- Ông đừng nên sợ đau. Tính mệnh quan trọng hơn một sự êm đềm nhất thời.

- Cám ơn cô. Tôi xin nghe lời cô.

Nàng thu dọn bông, băng, kéo, lọ thuốc... khẽ cúi đầu chào tôi rồi đi thẳng lên lầu. Bộ pyjama bằng vải hoa. Mái tóc mới cắt.

Bằng cách nào để lắng dịu những nỗi bực tức? Trên đường về nhà, tôi thấy chán nản lạ, mặc dù giữa những lúc buồn bã, những hồi xót xa, tôi gợi nhớ đến khuôn mặt xinh tươi đó, mười ngón tay trắng hồng đó, giọng nói êm đềm đó.

Bốn giờ chiều thì tôi đến viện Pasteur. Cô thư ký giải thích thể thức:

- Không thể đột nhiên vào bệnh viện để xin tiêm ngừa. Phải có giấy giới thiệu của Ty Mục súc.

Ty Mục súc! Mình bây giờ thuộc quyền điều động của Ty Mục súc. Tôi buồn cười nghĩ rằng với một vết chó cắn, mình bây giờ được đồng hóa với heo bị dịch và với gà toi.

- Giấy giới thiệu, sẽ có trong một giờ đồng hồ. Bây giờ thì xin cô làm ơn cho tôi một mũi tiêm. Tôi xin nợ cô mũi tiêm đó.

Cô thư ký suy nghĩ rồi gật đầu đưa tôi qua phòng thuốc.

- Chị Triết, tiêm cho ông một mũi chó dại.

Cô y tá có khuôn mặt dịu dàng. Đôi mắt bồ câu mở to, cô rút thuốc vào ống tiêm. Tôi nói:

- Cô tiêm giùm vào lưng tôi. Tiêm ở dưới bụng đau lắm.

- Vâng. Tôi tiêm ở lưng cho ông.

Tôi ngồi xuống ghế, cuốn áo sơ mi lên. Cô y tá thoa rượu cồn và liền sau đó mũi kim châm nhẹ vào dạ Chưa kịp đau thì đã nghe miếng bông xoa qua và ngón tay ra hiệu kéo áo xuống. Nhanh và nhẹ nhàng như vậy sao? Người ta vẫn sợ tiêm ngừa chó dại lắm mà? Nhức nhối, bỏ ăn, sốt, bệnh. Sao với tôi lại nhẹ nhàng êm ái như thế?

Tôi cám ơn cô y tá.

- Ông chịu khó đi chích hàng ngày. Độ này có dịch chó đấy. Đã tới bốn, năm trường hợp chó dại được xác nhận.

- Vâng.

- Vừa rồi có một em nhỏ ba tuổi bị chó đè cắn nát mặt. Đáng lẽ phải tiêm mỗi ngày hai mũi nhưng sức em đó yếu quá tôi không dám tiêm. Thật nguy hiểm.

- Tôi hy vọng rằng con chó cắn tôi...

- Tôi cũng mong vậy. Nhưng ông sẽ không tiêm dưới năm mũi tối thiểu rồi đợi chờ trong mười lăm ngày.

Buổi tối vết tiêm bắt đầu đau. Gây sốt. Tôi nằm nghiêng bên lưng lành mạnh và nhờ chị ở cho một chai nước nóng. Giấc ngủ nhọc nhằn. Thức giấc nghe lưng nhức, mỏi nhừ vì chỉ nằm nghiêng một bên. Sáng ngày, miệng hơi lạt. Tôi tiêm mũi thứ hai. Phản ứng nhẹ hơn mũi đầu tiên, ít sốt hơn nhưng cái lưng không còn chỗ để mà trở nữa. Bên trái và bên phải đều nhức, nhức cũ đậm đà hơn nhức mới, trải rộng trên bề mặt và ăn lún thâm vào bề sâu. A, đến bây giờ tôi mới biết mùi tiêm thuốc chó dại. May mà tôi chưa kịp ba hoa với ai rằng sao thiên hạ hay đồng thanh bi thảm hóa với một sự kiện hết đỗi tầm thường như thế. Khi tôi nhận mũi tiêm thứ ba thì rõ ràng là bắp thịt ở lưng tôi cứ tự nhiên phản ứng bằng cách co rúm lại và những ngón tay của cô y tá dạo từng luồng mát trên da lưng tôi. Tôi biết là mình sốt, cơ thể mình đang chống cự mãnh liệt với bệnh. Ngày tiêm mũi thứ tư nhằm vào ngày Chủ nhật. Hôm thứ Bảy, cô y tá nói:

- Ngày chủ nhật nhân viên nghỉ, chỉ có phòng trực làm việc đến chín giờ. Ông gắng đến trước chín giờ.

Sáng Chủ nhật mưa thật to, mưa như cầm chỉnh mà đổ. Lóp ngóp lội mưa để tới nhận lãnh một phát tiêm đau trong khi mọi người bình yên nằm trong giường đắp chăn tận cổ thưởng thức một buổi sáng Chủ nhật nhàn nhã, lúc đó tôi giận ông Sử Cẩm Hưng đến độ máu có thể sôi lên trong huyết quản. Nhưng liền khuôn mặt của cô con gái ông hiện ra, ngón tay dịu dàng vuốt lên vết thương của tôi, đôi con mắt nhìn êm đềm và giọng nói thanh tao ngập ngừng.

Bước vào hành lang viện Pasteur, tôi ngạc nhiên nhìn lũ bệnh nhân chó dại nam phụ lão ấu đủ hạng lôi thôi lếch thếch lớp đội nón lớp ôm áo mưa ngồi đứng lộn xộn. Những bạn đồng số phận của tôi đó. Mấy hôm trước tôi được đặc ân tiếp riêng một mình vào giấc bốn giờ chiều, - mọi người khác thì 9 giờ sáng, - nên không có dịp hòa mình vào một đại chúng lôi thôi như vậy. Họ nói chuyện to tiếng, hỏi thăm bệnh tình và hỏi thăm chuyện nhà, ồn ào tự nhiên như đang đi ngoài phố. Em bé bị chó berger vầy cắn nát mặt đây! Ngoài những lớp bông băng trắng chằng chịt, khuôn mặt còn sót lại chỉ là những vết nhăn nhó đau đớn.

- Cụ tiêm được mấy mũi rồi, - tôi hỏi một cụ già ngồi cạnh.

- Mười sáu.

- Sao tiêm chi nhiều vậy?

- Không bắt được con chó để thử. Con chó bị chủ nhà đánh chết cho phi tang nên mình phải đi chích cho đủ hăm mốt mũi.

- Kìa chị. Bị chó nhà ai cắn đó?

- Chó nhà mình. Nó nổi điên, cắn bốn người hàng xóm, cắn con nhỏ ở, cắn luôn mình. Bồi thường thiệt hại mỗi người bốn ngàn đồng. Mỗi ngày mình xuống chích vừa lãnh năm phần thuốc kia đem về thuê y tá chích cho năm người kia.

- Còn con chó?

- Chận bắt không được. Không ai dám bắt. Phải nhờ mấy người Mỹ ở bên cạnh bắn chết giùm. Đem cái đầu xuống nhờ Viện thử. Chưa có kết quả.

Bắt chuyện vẩn vơ thấy vui, người nào cũng sẵn sàng nói chuyện với mình. Khi có chung niềm đau khổ, người ta dễ trở nên bạn bè, muốn giúp đỡ nhau, muốn hy sinh cho nhau. Viễn tượng của một cái Chết bất-ngờ-và-có-thể đã tự nhiên hạn chế lòng tham, mọi người đều cúi xuống nhìn thân phận hữu hạn của mình. Giá lúc này mà đề nghị thành lập một hội Ái hữu, một hội Tương tế thì người nào cũng sẵn sàng chịu nhận làm ân nghĩa hội viên kiêm luôn hoạt động hội viên. Nhưng một tháng sau, khi đã chắc chắn tai qua nạn khỏi rồi thì người ta tham lam trở lại, rút gọn mình trong cái vỏ ích kỷ dày cộm.

Tôi nhận phát tiêm thứ tư, lội mưa mà về nhưng không thấy bực mình vì mưa. Mà cảm thấy sung sướng được sống để được gội mưa như thế.

Ngày thứ năm sau khi tiêm xong, cô Triết mời tôi qua phòng giấy. Tôi khai tên tuổi, nghề nghiệp, địa chỉ, ngày bị chó cắn, vị trí vết cắn, độ dài và chiều sâu vết cắn...

- Ông cho biết chó hoang hay chó có chủ.

- Có chủ.

- Tên người chủ chó và địa chỉ.

- Sử Tuyết Quân, 240 đại lộ Trần Hưng Đạo.

- Người Trung hoa?

- Vâng. Người Trung hoa.

Cô y tá vừa thoăn thoắt viết vừa nói:

- Ông chịu khó đến thăm con chó luôn. Đáng lẽ ông phải bắt con chó đem gửi tại ty Mục súc để nhân viên nơi đó theo dõi, nhưng đằng này ông bảo là chỗ quen không muốn làm họ phiền lòng.

Vâng. Tha hồ cho ông Sử Cẩm Hưng phiền lòng, tôi không cần. Nhưng tôi không nỡ làm buồn cô Sử Tuyết Quân.

- ... Nhưng ông phải căn dặn là họ đừng giết con chó.

- Vâng.

- Thôi, thủ tục như vậy là đủ. Kính chúc ông bình an.

- Xin cám ơn cô.

Một người đẹp đẽ và dịu dàng như Sử Tuyết Quân thì tôi khó lòng mà giữ cho khỏi tò mò tìm biết tên nàng. Cái tên dính liền với con người và mối thâm tình của mình đối với một người sẽ lợt lạt hết sức nếu mình không gọi lên được tên người ấy. Chiều hôm qua tôi đến thăm con chó để biết tình hình sức khỏe phòng hôm nay nhận phát tiêm chót hay cần tiêm thêm nữa. Buổi chiều chủ nhật, trời hửng nắng và ông Sử Cẩm Hưng lại tíu tít về siège, về lavabo, về gương năm ly, về sắt tám, về sắt sáu, về bình lọc nước.

- A, thầy mạnh giỏi luôn chớ? Hả? Thầy đi chích thuốc à?... Dạ, dạ. Cái lavabo đó hai ngàn tám. Dạ, có luôn miếng gương soi. Không mắc đâu, gương thiệt mà... Hì hì. Gương làm ở chợ Lớn chớ không phải bên Tây, cái đó tui nói thiệt... à! thầy nói thầy đi chích thuốc hả? Bậy quá... tui đã biểu thầy đừng đi. Không sao đâu mà... Con chó hả? Thầy nói sao?... Nó mạnh như thần... Thầy muốn coi mặt nó... Dạ dạ, nếu thầy muốn. Thoòng ơi! Đưa thầy vô nhà trong.

A Thoòng đi xuống Nam Kiều hải vận công ty để nhận hàng. Công việc hướng dẫn tôi vô nhà trong thuộc phần Sử Tuyết Quân. Tôi chào nàng và xin lỗi đã quấy rầy nàng.

- Không có sao. Ông đi chích thuốc mấy hôm nay?

- Vâng, có. Tôi đi đều.

- Vết cắn của ông đã lành?

- Có lẽ.

Tôi kéo ống quần lên. Vẫn cái băng do nàng băng mấy hôm trước, tôi không thay và cũng không để ý đến nó. Nàng nhếch môi hơi mỉm cười, hai ngón tay ấn nhẹ lên lần bông băng.

- Ông còn thấy đau không?

Tôi trả lời mạnh dạn như mình là anh hùng vừa lập một chiến công.

- Không.

- Vậy thì có hy vọng lành rồi.

Nàng thoăn thoắt mở băng vừa nói:

- Ít ai như ông. Có một vết thương nơi chân mà cũng không biết đã lành chưa. Trả lời "có lẽ", làm như vết thương của ai.

Tôi cười theo:

- Tôi lo phần nội dung hơn hình thức. Nghĩa là tôi sợ nhiễm độc bên trong hơn là vết thương lở bên ngoài.

- Cũng có lý. Vết cắn đã đóng vảy. Thôi, có thể tháo băng ra luôn.

Tháo băng? Tôi không muốn. Tôi muốn giữ một dấu tích gì của nàng. Tôi sẽ cảm thấy êm ái và an ủi.

- Có lẽ vết lành còn non. Có lẽ nên băng thêm vài hôm nữa.

- Nếu ông muốn. Nhưng để tôi thay băng mới cho.

Lại thuốc đỏ, lại bông, lại băng, lại ngón tay manh mảnh trắng muốt. Tôi nói:

- Xin lỗi, quý danh là Sử Tuyết Quân?

Nàng ngước nhìn tôi, mở to mắt:

- Sao ông biết?

Tôi chỉ lên quyển vở đặt trên bàn.

- Tôi đọc trên bìa quyển vở kia.

- Ông đọc được chữ Trung Hoa?

- Tôi chỉ đọc được ba chữ đó mà thôi.

Nàng nhếch môi cười, có lẽ ngầm ý khen tôi trả lời thông minh.

- Cô học ở trường Trung học Hoa kiều?

- Vâng ạ.

- Học xong Cao trung mà muốn lên Đại học thì cô phải...

- ... về Đài Loan.

Tôi vụt đưa hai bàn tay giữ chặt mười ngón tay của nàng đang lần lăn cuộn băng trên làn da chân tôi. Tôi có cảm tưởng nàng sắp bước lên phi cơ đi về Đài Loan và tôi phải vội vàng nắm tay nàng giữ lại.

- Sao vậy? Ông thấy đau hả?

- Không. À, vâng... còn đau.

Cứ theo trình tự đó, Sử Tuyết Quân và tôi cứ mỗi ngày mỗi quen nhau thêm. Chẳng lẽ mỗi ngày mỗi đi xem tình hình sức khỏe của con Bobby, tôi hạn định sự cần mẫn tới mức ba ngày rồi sau đó không chịu nổi, tôi hạ xuống còn hai ngày. Con Bobby cứ hiền lành cứ tha hồ nằm trầm tư mong đợi bữa ăn hoặc lừ đừ nhìn những con ruồi ranh mãnh cứ bò qua bò lại hoài trên mũi nó như cố ý trêu chọc nó. Nó không hề tỏ triệu chứng bỏ ăn, buồn bã, hay bại liệt một chân. Thật may cho tôi bởi lẽ có khi ba bốn kỳ liên tiếp tôi chẳng hề biết đến nó, chẳng hề hỏi xem nó nằm ở đâu, chẳng lưu ý chạy nhìn qua khuôn mặt nó một chút. Tôi chỉ biết có Sử Tuyết Quân. Còn ông Sử Cẩm Hưng thì cứ loay hoay giữa bầy siège và lavabo, sắt tám và sắt sáu, sơn Bạch Tuyết và sơn Hột xoàn, đèn nê-ông sáu tấc và một thước hai. Ông vừa chào tôi vừa trách tôi đi chích thuốc chi cho đau đớn mình mẩy, vừa nói giá hàng cho khách và bảo đảm hàng ngoại quốc chính hiệu, rồi quay lại bảo đảm rằng con Bobby "có chích ngừa dại hẳn hoi mà". Cuối cùng ông gọi A Thoòng đưa tôi vào nhà trong và A Thoòng cứ bận liên miên ở Nam Kiều Hải vận công ty. Cuối cùng, khi thời hạn hăm mốt ngày chấm dứt, tôi buồn vì không cách nào lui tới để khám bệnh cho con Bobby được. Thú thật, là tôi có nói láo và ăn gian ông Sử Cẩm Hưng được hai chuyến. Một chuyến tôi giả vờ bỏ quên cuốn sách để liền hôm sau chạy tới tìm và chuyến chót, thay vì tôi cám ơn ông ngay trong ngày thứ hăm mốt tôi lại lấy cớ là hôm nay ông bận khách nên ngày thứ hăm tư tôi mới đến cám ơn ông.

Cố nhiên là tôi có nhã nhặn xin phép ông được vào nhà sau cám ơn cô Tuyết Quân đã có lòng tốt băng bó hộ cho tôi cái chân trước đây.

Câu chuyện đến đây tôi chưa muốn chấm dứt bởi vì quả tình là tôi chưa gặp một người thiếu nữ nào vừa đẹp vừa thùy mị như Sử Tuyết Quân. Nhưng tôi biết làm cách nào để được gặp nàng luôn? Chẳng lẽ đem cái chân đến dứ vào miệng con Bobby và năn nỉ nó cắn giùm? Tôi chỉ còn có cách là siêng năng mua bóng đèn, - cứ chừng nửa tháng là nói dối bóng đèn bị cháy, - đinh một phân và cuốc, xẻng, lưỡi bào, lưỡi cưa, lưỡi câu, ống ni lông, dây thép... Khi lại quầy trả tiền, tôi hay làm bộ chợt nhớ đến con Bobby và xin phép chạy xuống theo dõi sức khỏe của nó. Sử tiên sinh lại vồn vã minh xác rằng nó đã được tiêm ngừa "mới gần đây thôi, gần đây thôi mà... "

Cứ theo cái đà "theo dõi sức khỏe của con Bobby" đó, một năm sau thì hôn lễ giữa Sử Tuyết Quân và tôi cử hành. Một đại yến hai mươi thồi được tổ chức tại Đồng Khánh đại tửu gia. Hai dây pháo cao ngút từ lầu bốn chấm xuống đất nổ bưng tai, nổ toé hào quang.

Sử Tuyết Quân không về Đài Loan để học lên Đại học nữa. Khi nàng tốt nghiệp Cao trung thì thì nàng đã có mang cho tôi đứa con đầu lòng, sau này tôi đặt tên là A Dành. Con Bobby cố nhiên từ đó chuyên môn vẫy đuôi mừng khi tôi lại gần. Trong bữa ăn, Sử Tuyết Quân thường lén gắp cho nó từng bún thịt bò bít tết hoặc giò lụa. Tôi bắt gặp, trừng mắt thì nàng mỉm cười đỏ mặt. Nàng nhớ ơn ông mai đó. Tôi nhớ bài thơ của Vu Hựu với hai câu chót:

"Nhất liên giai cú tùy lưu thủy
Thập tải ưu tư mãn cố hoài
Kim nhật khước thành loan phượng lữ
Phương tri hồng diệp thị lương mai"
1

Tôi muốn sửa lại là: "Phương tri Bốp tử (nghĩa là con chó tên Bốp) thị lương mai", nhưng chữ Bốp thì chắc Khang Hi tự điển không có, còn chữ "mai" viết thế nào, tôi định mở Vương Vân Ngũ tự điển ra tra mà rồi cũng lười chả bao giờ tra được. Vả lại, bây giờ tôi thường phải thay thằng A Thoòng đi xuống Nam Kiều Hải vận công ty hoặc thay chú tài phú cắt gương năm ly và chặt dây thép.

Còn siège Italy. Một hôm Sử Tuyết Quân mở cửa kho trên lầu chỉ cho tôi coi: trái với lời cam đoan chân thành của nhạc phụ tôi, số siège Italy chính hiệu Ý quốc nhập cảng đang nằm đó có thể đủ để trang bị một Đại Khách sạn có hai mươi phòng tắm.

--------------------------------
Quách Tấn dịch:
Lững lờ mấy vận trôi dòng bích
Thờ thẫn mười năm quặn mối tình
Loan phụng nay mừng duyên hợp lứa
Mới hay lá thắm chị mai lành
 
(Trích từ tập truyện ngắn Trầm Mặc Cây Rừng)
 

Chủ Nhật, 5 tháng 10, 2025

PHÁ CỖ - Khái Hưng

 
Thời ấy, con gái Hà thành còn đua nhau bày cỗ để khoe cái tay khéo nặn con giống, khéo gọt tỉa các thứ hoa bằng thu đủ. Nhất là những cô gái đến tuổi có cặp má dễ ửng đỏ trước đôi làn dương điện thì lại càng cần khoe lắm.

Ngày nay ta tự do hơn, trai gái thường được gặp nhau trò chuyện thì sự đo đắn cân nhắc trí thức của nhau có khó gì. Nhưng mười lăm, mười sáu năm về trước, các tiểu thư còn thẹn thò trong chốn phòng khuê, các công tử còn phải nhờ đến đến tay mụ mối để "dắp danh bắn sẻ" thì một bàn cỗ lộng lẫy hôm rằm tháng Tám gần như đứng ra giới thiệu cho hai bên.

Người con gái bày cỗ sẽ đem óc thông minh, tài mỹ thuật ra bài trí, người con trai sẽ ngắm cỗ bày mà đoán được trí tuệ của người kia đến bực nào. Ấy là chưa kể đôi bên còn được tự do (tự do trong hai đêm thôi, mười tư và rằm) trao đổi một vài ý kiến, một vài tư tưởng, ở trước mặt cha mẹ người con gái.

Năm ấy chúng tôi một bọn đương tuổi vui đùa, nghịch ngợm, tối hôm rằm tháng Tám rủ nhau đi phá cỗ. Xin nói ngay để những ai chưa từng nếm cái diễm phúc đi phá cỗ hiểu cho rằng đó không phải là thủ đoạn của bọn côn đồ vác gậy gộc đi phá phách, nhưng là cử chỉ rất tao nhã của bọn văn nhân, thi sĩ nhờ về tài biện luận (nói tán tỉnh cũng không sai nghĩa lắm) mà được hưởng cỗ của các cô trước khi có cái hy vọng chiếm trái tim các cô. Nói thế không phải là cổt để khoe rẳng chúng tôi là văn sĩ hay thi sĩ. Thực ra, chúng tôi chỉ là lũ học sinh "lem luốc".

Nghe tiếng ở phố T..., nhà ông N..., một nhà giàu ngốt, có gái kén chồng, làm cỗ to ghê gớm (tôi nói cỗ đẹp), chúng tôi liền kéo nhau đến.

Quả lời đồn không sai. Nhà ông lang, một nếp nhà cao rộng đã biến thành một động... một động viên. Bao nhiêu các vị thuốc xấu xí nhường chỗ cho hàng trăm bông hoa đua nở trong hàng chục ngọn đèn điện.

Cố nhiên là chúng tôi khen. Trong bọn chúng tôi có anh Hướng, con nhà văn chương, khéo tìm được những câu cẩm tú để làm cho lời khen của anh thêm đậm đà, thêm có duyên. Cảm động, ông chủ cùng cô con gái ông mời chúng tôi phá cỗ, nghĩa là ông mời chúng tôi uống chè mạn sen và xơi bánh ngọt, xơi kẹo mứt chính tay "cháu" đã làm (hay mua ở phố hàng Đường thì cũng thế).

Giá tôi cứ lặng yên mà nuốt cho trôi cỗ thì cũng xong. Nhưng tôi lại muốn đền ơn cô em bằng những câu ca tụng không đâu khiến Hướng luôn luôn phải đưa mắt bảo tôi im đi.

Một lần tôi vừa nhai kẹo sìu vừa trỏ một chậu hồng mà khen rằng: "Chậu hồng này, cô làm khéo quá!" Cô kia đỏ ửng má lên mà nguýt dài tôi một cái, vì cho là tôi nói lỡm. Anh Hưởng hiểu ngay rằng tôi lầm lỡ trông chậu hồng thực hóa giả, liền chữa thẹn cho tôi:

- Thế mới biết cô có đại tài, bày hoa hư hư thực thực như Gia Cát Lượng dàn thế trận trong đời Tam Quốc.

Cô ả và ông bố phổng mũi, cười. Từ đó, cô ta đem lòng yêu thầm anh Hưởng và ghét tôi một cách độc địa. Dù tôi pha trò có duyên đến đâu, cô cũng giữ vẻ mặt nghiêm trang, còn anh Hướng chưa nói, cô đã chúm chím cặp môi son và lắng tai nghe rất là âu yếm, đến nỗi tôi sinh cáu và cố tìm dịp báo thù Hướng. Dịp ấy tôi tìm thấy, than ôi, lúc đã từ biệt ông lang và đã ra đến ngoài phố. Tôi bảo Hướng rằng:

- Cách bày cỗ của nhà ông lão lang và cô ả quả có vẻ thực thực hư hư như lời anh khen. Những hoa hồng giả làm khéo đến nỗi tôi tưởng là hoa thực. Nhưng là một đóa hoa giả, gọt khéo nhất thì anh quên nên không khen: đóa hoa ấy là cô con gái với bộ mặt bự phấn của cô ta. Thiết tưởng phải là hạng người ngu ngốc lắm mới tán tỉnh được, người thục nữ ấy.

Nói xong, tôi sung sướng hả cơn giận.

Rõ trẻ con: Mà trẻ con thực.

(Trích từ tập truyện ngắn Đội Mũ Lệch)