Thứ Tư, 29 tháng 10, 2025
MỘT TUẦN VẮNG MẸ - Trần Thu Hương Cúc
Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2025
KHÚC MƯA QUEN - Hoài Diễm Từ
Thứ Năm, 23 tháng 10, 2025
CHIÊU HỒN NƯỚC - Bình Nguyên Lộc
Hai tay nhét vào túi quần. Hà nện mạnh gót giày trên
vỉa hè đại lộ Hàm Nghi, miệng ngâm nho nhỏ bài thơ của chính chàng, vừa
đăng trên một số báo Xuân năm nay:
Gầy gõ (1)
Đường đêm
Tiếng giày dạ khách.
Chập chờn
Chiếc bóng phong sương.
Tâm tư lê nặng phố phường,
Lầu hoa cửa khép
Trầm hương mơ hồ !
Bài thơ dài lắm, nhưng chàng chỉ ngâm tới đó rồi nín thinh để
lắng nghe dư âm giọng ngâm của chàng, giọng ngâm mà mấy năm trước đây,
đêm nào cũng vang lên trên làn sóng phát thanh của đài Sài gòn, thử xem
nó còn được cái phong độ cũ hay không.
Trăng gầy loáng áo
Nàng thơ...
Gặp nhau
Thêm mấy dại khờ hồn si.
Cầm bằng như gió bay đi
Giang hồ, mình lại xa gì với ta!
Em ngùi son phấn phôi pha,
Đời tôi nghệ sĩ tài hoa phong trần!
Thi sỉ đa cảm, đa tình thật! Tất cả những gì chàng ghi trong bài thơ nầy, đều là chuyện tưởng
tượng cả: chàng không có gặp cô gái giang hồ đồng tâm nào đang ngậm
ngùi cho cảnh phấn lợt hương phai của nàng hết. Thế mà ngâm đến đây,
chàng nghẹn ngào mắt rưng rưng lệ.
Thoáng nhìn đã vội bâng khuâng.
Ngược xuôi, đôi kẻ rời chân ngậm ngùi!
Vắng đêm
Lọt nửa tiếng cười
Nhẹ tan trong gió,
Ai người chợt nghe?
Hà không còn ngâm tiếp được nữa. Chàng đã khóc mùi, thương không
biết bao nhiêu kẻ "cùng một lứa bên trời lận đận" mà chàng đã bịa ra
trong bài thơ.
Chàng dừng chân lại trong lúc khóc để chậm khô nước mắt rồi tiếp
tục rảo bước. Một nỗi buồn mênh mông, xa vắng thấm vào đáy hồn chàng.
Thế mà chàng lại thích được buồn thật buồn như vậy. Đằng xa kia,
chợ hăm chín Tết vào lúc mười một giờ đêm vẫn cứ ồn ào, có lẽ còn ồn ào
hơn lúc đầu hôm nhiều; để rồi tan vào buổi cuối năm vài tiếng đồng hồ
sau đó. Đêm mai, tối lại là không còn gì nữa, vì ai cũng bận việc nhà
cửa, sau khi rước ông bà về.
Chàng không về nhà mà chịu được, nhưng phải trốn cảnh náo nhiệt,
thả bách bộ trên con phố vắng vẻ nầy như chàng đã thường đi trong đêm
khuya như vậy ở nhiều phố khác.
Năm nay thi sĩ đã ba mươi tuổi rồi, nhưng chưa yêu thật sự bao
giờ cả. Những mối tình hời hợt qua đường, không gọi là yêu được. Chàng
cứ mơ gặp một mối tình lớn, một mối tình đáng kể như trong tình sử bất
hủ của nhân loại, và kéo lê nỗi buồn về đêm của chàng trên các đường phố
vắng để nhìn khói hương trầm qua những cánh cửa nửa khép của các lầu
hoa mà chàng biết trong đó đang ẩn trú nhiều bậc giai nhân cũng thèm yêu
như chàng.
Tâm tư lặng lẽ phố phường
Lầu hoa cửa khép
Trầm hương mơ hồ.
Hà lắng nghe tiếng giày của chàng trong đêm vắng, nhìn bóng
chàng đang chuồi trên vỉa hè, bóng đen mà đèn đường đang kéo dài ra,
trông ốm nhom và rất yếu đuối...
Gầy gõ
Đường đêm
Tiếng giày dạ khách.
Chập chờn
Chiếc bóng phong sương,
Đi thơ thẩn, chàng lạc bước tới góc bến Bạch đằng, bị gió sông lạnh thổi hắt vào mặt, chàng mới hay.
Hà ngước lên nhìn. Bờ sông không còn một bóng người. Bờ sông Thủ
thiêm đen thui và bên phải của chàng, bến thương khẩu leo lét vài bóng
đèn ngủ gục.
Bỗng tiếng giày của ai vang lên, và người ấy đi trên vỉa hè bờ
sông, đã từ hướng cầu quây cũ tiến đến đây. Tiếng giày ấy thưa nhưng lại
dòn, nện mạnh lên gạch lề đường nhưng nghe không nặng, người bộ hành ấy
chắc còn trẻ, khỏe mạnh, nhứt là đã quen đi giày từ lâu rồi.
A kia, đó là tiếng bước của phụ nữ nó có biệt sắc riêng của nó,
biệt sắc ấy có lẽ do cái phần diện tích đế giày đụng chạm với gạch nhỏ
quá, nghe rõ là truy nguyên được căn cước ngay.
Hà day lại thì thấy đó là một người đầm... mà không, đó là một
người đàn bà Việt mặc duýp se-rê màu ngà với chiếc bơ-lu-dông đỏ ở thân
trên.
- Bò lạc giả! Hà nói thầm trong bụng như vậy vì thấy người ấy
chỉ đi thong thả, lang thang, không có ý đinh về đâu cả nên chàng nghĩ
ngay rằng ả ta là một cô gái ăn sương. Bò lạc giả là tiếng lóng của bọn
ăn chơi chỉ hạng gái nầy, đã phân biệt với bò lạc thật là những thiếu nữ
ở tỉnh mới lên, còn bơ vơ chưa tìm được nơi nương dựa.
Người đàn bà ấy dong dải cao, dáng điệu rất yêu kiều thanh lịch.
Mặc dầu không có ý gì, Hà cũng nhìn thử gương mặt xem ả ta sắc diện đẹp
hay xấu.
Bấy giờ ả ta đã đi gần tới bên thi sĩ và Hà thấy đó là một thiếu
phụ đã quá xuân, trạc ba mươi, mặt hoa đã héo, mặc dầu giỏi hóa trang.
Tuy nhiên dấu vết đẹp xưa vẫn còn thấy bóng dáng lờ mờ trên đó.
Ả ta xăm xăm đi lại trước mặt Hà, chàng vừa toan lắc đầu để xua ả
thì giật nẩy mình mà nghe một câu tiếng Pháp rất đúng giọng đầm:
- Xin lỗi ông, ông có lửa hay không ?
Ả vừa hỏi vừa mở xắc lấy thuốc điếu, lấy cả hai điếu mời chàng.
Thì ra đó là một me Tây. Buồn cười, Hà móc hộp diêm ra và hỏi đùa cũng
bằng tiếng Pháp:
- Có lẽ nhớ các ổng, nhìn bến tàu cho đỡ nhớ à? Thơ mộng lắm!
Chàng vừa đánh diêm trao lửa,vừa ngâm mấy câu thơ của Sa Giang Trần Tuấn Kiệt.
Rải rác mưa tro mờ bến Chương Dương
Ánh đèn đêm yên lặng chơi vơi buồn.
Tôi khép áo mưa, ngồi trên băng lạnh
Trông ngóng những con tàu tha hương.
- Không - người đàn bà miệng ngậm thuốc, chìa đầu điếu ra để đón lửa và đính chính - không, tôi tìm cái khác.
- Khách à?
- Không có gì sai hơn. Nhục nhã thay cho kẻ nào nghĩ quấy.
Hà kinh ngạc đến cực độ. Một me tây, không thể nào biết nổi câu
châm ngôn của võ sĩ phái Jarretière hồi thời Trung cổ Pháp ấy, và nói ra
rất đúng giọng "Honni soit qui mal y pense".
Ngượng quá, chàng không biết làm sao chữa được sự lỡ lời nên ấp úng nói:
- Tôi xin lỗi bà...
- Không hề gì, nhiều người đã lầm rồi, chớ không riêng gì ông. Xin cám ơn chút lửa nầy.
- Thưa bà, bỏ qua đi cho...
- Đồng ý.
- Và cho tôi hân hạnh được biết quí danh... của ông ở nhà.
- Tên tôi và tên của nhà tôi chắc không nói lên được điều gì bên
tai ông. Tôi đang buồn đi lang thang, mà xem ra ông cũng thế, thì ta
cùng đi bách bộ một vòng, có lẽ thú hơn.
- Có hân hạnh nào bằng.
- Và xin nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt vậy.
- Càng thích hơn.
Họ băng qua đường để thả trên vỉa hè đá đỏ bên ấy. Người đàn bà hỏi:
- Anh không đi chợ Tết sao?
- Khi nãy có đi mấy vòng với lũ bạn, nhưng tôi lại trốn mà tách riêng ra.
- Tìm hứng hay tìm ai ?
- Không tìm gì cả? Đi bậy cho buồn vậy thôi !
- Quái lạ! Ai lại tìm buồn?
- Chớ chính bà không tìm buồn hay sao mà lại ở chốn nầy. À, khi
nãy bà đã bảo rằng bà đang "tìm cái khác". Nếu không phải là chuyện
riêng tư, thì cái khác ấy là cái gì?
- Em không biết nói ra có ích gì hay không. Đã trễ lắm rồi!
- Trễ lắm rồi? Tàu chạy rồi à?
- Không, không thế nào anh hiểu được đâu mà hỏi mất công.
Hà thích ghê, nghe câu chuyện có vẻ mơ hờ như là truyện trinh
thám trong các phim phóng đãng bí mật, toát mồ hôi lạnh. Nhưng không
muốn quá tò mò, phần lại nghi kỵ, cứ còn ngờ vực người đàn bà nầy là một
gái ăn đêm, khôn khéo toan lừa chàng vào tròng bằng một thủ đoạn siêu
đẳng nào, Hà hướng câu chuyện sang nẻo khác.
- Bà có lạnh không ?
- Bên ngoài thì không.
Chà, ả ta trường trải lắm đây và có học nữa. Nói như thế tức là
ngầm bảo rằng ả ta đang lạnh lòng lắm và cần người an ủi. Thằng nào lơ
mơ thì chết với ca-líp nầy.
Đang buồn, cần bạn, nhưng bỗng đâm sợ, Hà toan từ giã con hồ ly
nguy hiểm để rút đi trước khi tai họa xảy tới. Chàng chợt thấy rằng cả
hai đều đến trước vũ trường Mỹ Phụng và cô ả đang quẹo lên Hai Bà Trưng.
- Sao lại quẹo, thưa bà?
- Em ở đường nầy, đằng kia.
- Vậy à, thì ra vô tình, tôi đã đưa bà về nhà, đã trót như vậy, tôi xin đưa bà luôn tới cửa, có bất tiện cho bà không ?
- Không có gì, nếu việc đó chẳng làm nhọc ông.
Hà đoán người nầy có lẽ là nhơn tình dài hạn của một Pháp kiều
vì phố Hai Bà Trưng đầu dưới sông thuộc khu người Pháp ngày trước. Như
vậy, không còn gì hay ho nữa, và sở dĩ chàng đưa ả ta về nhà chỉ vì lịch
sự thôi.
Chàng lặng lẽ đi bên cạnh người ấy, không nói, không rằng, nhưng ả ta lại nói :
- Anh có gia đình chớ?
- Vâng !
- Anh ở trong ngành hoạt động nào?
- Ơ hơ... tôi là tài tử.
- Với nghĩa nào? Cái tiếng Việt ấy có nhiều nghĩa lắm...
- Xin Bà hiểu theo nghĩa artiste.
- Vậy à? Thế thì em đã lầm...
- Bà ngỡ tôi là gì?
- Em không ngỡ là gì hết. Nhưng em đã lầm mà cả quyết rằng anh
không thể hiểu cái điều anh hỏi em. Chính chỉ có những người tài tử mới
hiểu em được.
- Nhưng rất tiếc là đã trễ ?
Hà hỏi xong, cười to lên, có vẻ nhạo báng ả ta.
- Phải, rất tiếc là đã quá trễ.
Người đàn bà ấy lặp lại lời Hà một cách nghiêm trang như đã ngầm
đính chánh ngộ nhận của chàng rằng bà ta chỉ làm bộ bí mật vậy thôi,
chớ thật ra thì không có gì cả.
Bấy giờ Hà đã nghe mỏi chơn vì đã đi quá xa và quá mau, đường
lại cứ dốc lên mãi. Chàng chợt nhớ ra là người đàn bà nầy đi mau quá
sức, chàng chưa thấy gã đàn ông Việt nam nào mà đi mau đến thế. Chàng
lại chợt nhận thấy họ đã đến đại lộ Thống nhất rồi mà xem ra ả ta cứ còn
muốn đi nữa.
- Hình như là bà ở xa lắm?
- Đằng kia.
- Xa như vậy lại chỉ đi bộ?
- Bên ấy, em chỉ đi bộ nên quen rồi.
- Bên nào, thưa bà?
- Bên Bọt-đô.
- Bà ở Pháp mới về?
- Em ở Pháp mới về.
- Nghĩa là...?
- Nghĩa là em có Pháp tịch, sống bên Pháp và về đây để... tìm cái đó.
Thế là đã rõ. Tác phong của người nầy là tác phong của một cô
đầm: dám xin lửa đàn ông ban đêm, đi lang thang một mình trên đường
vắng, đi mau quá (theo nhịp sống của Âu châu) và đi bộ giỏi quá (bên Âu
châu, những người bậc trung đi bộ trong thành phố hằng năm bảy cây số là
thường).
Không còn gì lạ về con người của thiếu phụ nầy, chỉ còn một chút xíu là... cái đó thôi.
Cái đó là cái gì mà ta tìm trong đêm tối, sợ rằng không ai hiểu cả, và đồ rằng chàng hiểu, nhưng tiếc rằng là đã trễ ?
Hà rất hối hận đã chế giễu cái vụ "đã trễ ấy". Chàng lại lặng lẽ mà đi, và giây lát, tò mò quá, chàng hỏi:
- Nhưng sao lại trễ thưa bà?
- Vì mai, em đã lên đường về Pháp, và có thể không bao giờ trở lại đây nữa.
Thiếu phụ đã dừng chân, đưa tay ra cho chàng bắt và nói bằng tiếng Pháp:
- Cảm ơn và vĩnh biệt !
Hà đã thừ người ra lúc nghe câu trước. Rất đa cảm, chàng hay
ngậm ngùi trước mọi cảnh chia ly, cho dẫu là với người mới quen sơ.
Chàng cầm tay thiếu phụ nghẹn ngào nói:
- Bà đi thật à? Tôi cứ ngỡ...
Thiếu phụ cười dòn dã:
- Anh cứ ngỡ gặp phải kỹ nữ me Tây?
- Xin lỗi bà, ai lại...
- Nầy, hay mời anh vào chơi giây lát. Đêm nay chắc tôi cũng không ngủ.
Hà xem lại thì đó là ngôi nhà chung cư Cửu long. Khi họ lên tới
lầu, bà ấy đẩy cửa một căn buồng hẹp té thì Hà ngạc nhiên hết sức mà
thấy buồng trang hoàng như một căn nhà bình dân với nào tranh gà, tranh
lợn, tranh Tàu trên vách, đặc biệt nhất là một bàn thờ tạm dọn trên
chiếc bàn con với gần đủ đồ thờ, bình hương, độc bình, đèn, nhang.
Thiếu phụ cười nói như để xin lỗi:
- Cục cựa không được. Nhưng không làm sao khác hơn. Đến ở mười hôm, không thể mướn nhà.
- Té ra bà chỉ mới về đây thôi?
- Vâng, rồi mai lại đi.
- Sao bà vội thế ?
- Rồi anh sẽ hiểu.
Thiếu phụ trót nước trà từ bình thủy ra hai cái ly bằng
lát-tích, thứ rẻ tiền, mua trên vỉa hè hai bên chợ Bến thành. Nàng ngồi
trên giường nhường chiếc ghế độc nhất trong buồng cho khách và nói:
- Đáng lý vì ngày mồng một em mới đi, để được nghe tiếng pháo
giao thừa, như hồi năm 1958 mà em đã về một lần như vậy, nhưng nghe rằng
năm nay cấm đốt pháo nên em lấy vé có lại ngày ba mươi Tết.
- Té ra bà đã về đây một lần rồi?
- Vâng!
- Nhưng bà đã ra đi năm nào?
- Năm 1954.
Hà ngắm kỹ thì quả thiếu phụ nầy đã có một thời đẹp lắm. Hớp từ hớp trà nóng, thiếu phụ cũng nhìn chàng ra nói:
- Anh là người khách đầu tiên và cuối cùng của em. Em mừng lắm.
- Hân hạnh cho tôi.
- Thành thật mà nói thì không có gì hân hạnh cho anh. Em chỉ
mừng vì được trò chuyện thân mật với một người Việt nam, chớ không vì cá
nhân của anh đâu. Anh đã mua sắm Tết chưa?
- Đã xong cả.
- Có bánh tét, dưa hấu chớ?
- Có. Các thứ hoa cũng đã mua xong. Tôi mua được một cành mai đẹp lắm.
- Mai thui...
- Không, một cành mai mà họ cắt ngang để bán.
Nhưng thiếu phụ không nghe nữa. Nàng nhìn vào khoảng không, rồi
say sưa nói to lên một mình: "Mai thui... ba chặt cành mai vào giữa
tháng chạp, ba thui cành ấy nơi bị chặt, ba chặt lá, rồi ba cặm trong
độc bình có chứa nước...".
"Thế rồi hăm lăm hoa ra nụ và tối ba mươi nó âm thầm nở. Sáng
mồng một là bàn thờ vàng óng. Nó bền và đẹp hơn hoa nở sẵn trên cành bị
cắt ngang, rồi... rồi ba..."
Bà ta còn nói gì nữa, nhiều lắm, lầm thầm trong miệng rồi nghẹn
ngào không tiếp được. Lâu lắm bà ta chấm dứt trễ muộn câu nói nửa chừng
ấy bằng một tiếng nấc.
Như là kẻ đóng trò, hay một con mẹ điên, thiếu phụ thình lình ngước lên nhìn khách rồi cười dòn mà rằng:
- Em chưa già mà đã lú lẩn. Em có làm buồn lòng anh lắm không ?
- Không, thưa bà.
- Em đã ba mươi rồi. Không, em chỉ mới ba mươi thôi, nhưng già
quá, lòng em héo hắt, bằng cớ là em chỉ sống quay về dĩ vãng thôi. À,
anh chắc còn trẻ lắm?
- Tôi cũng ba mươi.
- Tuổi sung sướng! Của anh và của người khác. Trời ơi, sao tôi
lại già thế nầy! Tôi chỉ tiếc thương dĩ vãng, không hưởng được những gì
đang có trong lứa tuổi tôi. A... ha... ha... em lại lẩn thẩn nữa, xin
lỗi anh. Em cám ơn anh, đã đến, đã vào đây. Có lẽ em sẽ nhớ anh trọn
đời.
- Tôi tên là...
- Đừng, anh đừng nói tên. Anh là người Việt nam, bao nhiêu ấy là
đủ lắm rồi. Em đã gặp một thanh niên Việt nam, không, em đã gặp quê
hương Việt nam vào một đêm cuối năm, trong đời em.
- Nhưng, bà đi bên ấy làm gì, và về để tìm bà con hay...
- Ông có gan nghe câu chuyện không hay mà khá dài hay không ?
- Tôi đoán là hay.
- Đoạn đầu rất xoàng. Đoạn sau, chỉ hay đối với em thôi. Đoạn
đầu rất cổ điển mà báo chí sách vở ở đây nói đến khá nhiều rồi, về người
khác mà trường hợp giống trường hợp em. Năm đó em học ban Trung học
Pháp Việt ở Sài gòn. Nhơn kỳ nghỉ hè, em về quê, một làng hẻo lánh kia,
rồi bị một nhóm quân nhân Pháp hiếp.
Sợ gia đình em thưa kiện, chúng nó phao vu em rồi bắt em đi. Ra
tỉnh bị giam một thời gian thì em được thả, nhưng có còn gì nữa đâu để
mà quay về. Vừa lúc ấy thì một sĩ quan Pháp phải lòng em và bao em.
Em bằng lòng theo nó, vì cũng chẳng thiết làm lại cuộc đời, và
một năm sau, đạo quân viễn chinh rút lui, em theo y về bên ấy và được y
cưới luôn, rồi em xin vào Pháp tịch.
Hai năm đầu em vui được với cảnh lạ, nhưng khi hay tin cha mẹ em qua đời, em bỗng chạnh nhớ quê nhà.
Ban đầu chỉ là một nỗi nhớ nhung nhè nhẹ thôi. Nhưng càng ngày
lòng sầu xứ càng sâu đậm, em không chịu nổi nữa nên vào cuối năm 1958
ấy, em có dư chút ít, xin thông hành với tư cách du khách về đây, cũng
lúc cuối tháng chạp như năm nay.
Không thế nào mà anh tưởng tượng nổi sự thèm khát quê hương của
một kẻ lìa xứ vĩnh viễn không hy vọng trở về như em. Thèm như là thèm
một món cá nướng chấm mắm nêm, thèm hương bưởi, thèm tiếng chuông chùa
ngân nga vào buổi hoàng hôn, thèm cảnh cấy mạ vào đầu mùa lúa. Thèm chết
đi được là vào lúc gần Tết, tức là khoảng đầu năm dương lịch. Nhớ Tết
như nhớ nhà, nhớ nước, bởi vì Tết là sum hợp gia đình.
Em chỉ về cho đỡ ghiền vậy thôi, chớ bà con xa gần gì cũng chẳng
còn ai, không có lấy một mái tranh để mà vào. Mười hôm lưu lại đất nước
nhà năm ấy đã làm cho em thất vọng vô cùng, định không về nữa. Nhưng,
rồi lại nhớ và năm nay lại về.
Hà chợt hiểu vì sao mà tranh Tàu bình dân lại treo vách buồng
buyn-đin và người thuê buồng lại dọn bàn thờ phiền phức như thế nầy:
nàng muốn tạo lại không khí gia đình đầm ấm mà về tới đây, nàng vẫn nghe
thiếu.
Hà nghe nao nao buồn khi nhìn khói nhang mà chủ phòng đã đốt lên
lúc nãy. Đêm mai, nhà nhà sẽ ngát hương trầm, nhà nhà sẽ đoàn tụ, trong
khi đó thì một người sẽ bay trên vạn dặm trùng dương vì không còn lấy
một mái tranh để mà vào, thèm mái tranh quyện khói lam chiều ấy mà không
bao giờ được hưởng.
- Thì ra cái đó là...
- ... là gì chính em cũng không nói ra cho đích xác được. Một
vũng ao tù trong thôn xóm chăng? Một chân trời quen thuộc? Một mùi cá
nướng ? Một vài tiếng sáo mục đồng? Hay là tất cả những thứ ấy nó họp
lại để làm một linh hồn của quê cha đất tổ mà em ngỡ từ bỏ được, nhưng
không thể được.
Mỗi đêm, em đi lang thang như vậy qua hết phố nầy đến phố khác,
lắng nghe những tiếng thì thầm bí mật trong không, rình rập mãi một cái
gì không biết, nó có thể cho em thoáng thấy cái vô hình mà em tìm, nhưng
không gặp.
Bơ vơ quá, đang sống trong thủ đô Việt nam mà em nghe rằng mình
chỉ đi bên lề nước Việt thôi, không làm sao mà len vào linh hồn của đất
nước được.
- Cây cỏ, núi sông vẫn có linh hồn. Nhưng ta chỉ nắm tay được
với linh hồn cảnh vật qua trung gian của một linh hồn khác thôi, linh
hồn người. Có lẽ bà tìm một hồn bầu bạn mà không dè.
Thiếu phụ đặt vội ly trà lên nệm, nhìn sững Hà giây lâu rồi nói:
- Ừ, có lẽ đúng, anh nói có lẽ đúng.
- Linh hồn bầu bạn ấy là vật xúc tác của hai linh hồn khác, linh hồn đất nước và linh hồn của chính ta.
- Anh nói có lẽ đúng. Thuở còn con gái, em mơ yêu. Ông Hoàng tử
đẹp trai của em là một thanh niên Việt nam, cố nhiên. Rồi rủi ro của số
phận đã xô em vào tình cảnh không hay. Giấc mơ thiếu nữ không bao giờ
thỏa cả, em chưa được yêu lần nào.
Trong giờ khắc năm tàn tháng lụn, chàng thi sĩ đa tình và trơ
trọi nhìn lại người đàn bà mà tấm lòng đi lang thang khắp bốn phương
trời, đau xót khôn nguôi cái đau mất gốc! Dấu vết hường nhan ngày xưa
của nàng đang lặn hụp chìm nổi trong niềm u uẩn triền miên, trong bóng
ngày rơi rớt của buổi chiều tà, bóng nầy bỗng đẹp rực rỡ lên, trong cái
bừng dậy cuối cùng của tất cả những gì đang hấp hối.
- Thưa bà, tôi có thể là tâm hồn bầu bạn mà bà đang tìm hay không?
Thiếu phụ mắt sáng lên, môi mấp máy, nhưng rồi nàng lại châu mày mà rằng:
- Cám ơn anh đã có lòng. Nhưng xúc động hời hợt trong một phút
của anh rồi không đi đến đâu cả. Không thế nào em đủ thì giờ để đợi anh
hỏi lại cặn kẽ lòng anh. Đã trễ quá rồi như em đã nói, và anh đã chế
giễu vì không tin.
Nhưng cám ơn, cám ơn không biết bao nhiêu. Trong đời em, đã có
một lần em suýt vớ được linh hồn đất nước. Có bị dòng đời lôi cuốn đi,
một chút xíu may mắn ấy cũng đủ sưởi ấm lòng em trên đường trôi giạt.
- Ngày mai bà đi?
- Vâng, cám ơn và vĩnh biệt!
- Nhưng bà có thể trở lại...
- Không, chồng em kiếm không được bao nhiêu tiền. Về nước là một xa xí phẩm.
Hồn nước Việt nam đã xuống lầu, ra phố, ngảnh lại nhìn qua cánh
cửa sổ khép nửa chừng, những sợi khói nhang trắng đục từ từ bay lên
trần.
Hồn mất gốc mở toát cửa ra, lặng nhìn theo quê hương dần xa, trong khi nó sắp bị cuốn vào dòng đời cuồn cuộn chảy.
Trong đêm lặng, bốn cánh tay giơ lên, vẫy tiễn đưa nhau.
Từ đó, đêm đêm Hà nện mạnh gót giày trên vỉa hè đại lộ Hàm nghi,
dáo dác đón trong gió lạnh, hồn người bạn một giờ nó như còn lẩn quất
đâu đây:
Gầy gõ
Đường đêm
Tiếng giày dạ khách.
Chập chờn
Chiếc bóng phong sương.
Tâm tư lê nặng phố phường,
Lầu hoa cửa khép
Trầm hương mơ hồ !
Chàng hay ngước lên những cửa sổ khép sơ mà trong đó biết đâu lại không có một kẻ đang tìm một linh hồn.
Giang hồ mình lại xa gì với ta
Em ngùi son phấn phôi pha,
Thoáng nhìn đã vội bâng khuâng
Ngược, xuôi đôi kẻ rời chân, ngậm ngùi!
Nhưng từ đó cảm xúc của chàng đã có duyên cớ thật. Nghẹn ngào và
lệ thảm của chàng không còn là cái nghẹn, là nước mắt tầm phào của một
thi sĩ đa tình và giàu tưởng tượng nữa.
| 1. | Mượn thơ của Hà Liên Tư |
Thứ Hai, 20 tháng 10, 2025
MÁI CHÙA XƯA - Võ Hồng
- Không được kêu là: “Ông thầy chùa” nghe chưa ? Hỗn.
Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì mẹ tôi dùng ba chữ “Thầy Châu Lâm”. Giọng kính cẩn có pha chút thân tình. Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.
Đi trên đường, thầy cứ nhìn thẳng, nét mặt dịu dàng không vui không buồn. Tôi chịu không đoán được tuổi. Tóc và râu là hai bộ phận để căn cứ mà định tuổi thì thầy đều không có. Mặt lại không nếp nhăn. Miệng lại không cười. Đi giữa chúng tôi mà không gây nên tiếng động.
Chùa Châu Lâm ở cách biệt nơi chân núi, xa xóm cỡ cây số rưỡi nhưng đối với tuổi ấu thơ của tôi như vậy đã là xa hun hút. Bởi vì muốn đi tới chùa, chúng tôi phải đi bọc vòng chân núi, đi theo một con đường quanh co có nhiều bụi gai bàn chải mọc đầy. Cảnh vật khác hẳn với cảnh vật trên xóm, tưởng như là hai thế giới riêng biệt. Bụi cây âm u rất nhiều. Chim hót tứ phía. Rắn mối và kỳ nhông bò rèn rẹt mỗi lần có bước chân tới gần. Ở trên miếng gai bàn chải chơm chởm, ở trên cành cây mọc chìa ra đường, thỉnh thoảng có con kỳ đà nằm yên lặng nghếch cái đầu màu đỏ lên nhìn. Những đoạn đường quanh co vội vã. Không dám chạy thẳng một mạch, không muốn làm phiền lòng những bờ duối bờ sậy, không muốn động chạm đến cả sự quây quần yên lặng và khiêm tốn của lũ cỏ gấu, con đường nhường nhịn, len lỏi né tránh.
Ngôi chùa trông thấy trước mắt nhưng phải đi vòng qua những thửa ruộng thấp, đi lượn qua mấy ngôi tháp cao, đi bọc theo khu vườn nhỏ rồi mới tới cửa tam quan. Đá lởm chởm dưới chân, đá chất gồ ghề làm bờ tường bờ dậu. Tất cả là công trình của bàn tay cần cù, là chứng tích của sự nghèo khó. Chắc thầy trụ trì và chú Điệu phải tự tay vần đá, kê chồng lên nhau, chèn ghép vào nhau trong những buổi mai còn đầy sương, trong những buổi chiều có tiếng sơn ca lanh lảnh hay trong đêm trăng thơm mùi hoa dại. Không có dấu vết của chiếc bay thợ nề trên những kẻ đá, nơi dung thân của lũ rắn mối, cắc kè.
Ấp tôi dân ít lại nghèo nên chùa không thể nào giàu được. Hình như tài sản của chùa chỉ có hai miếng đất thôi, và để có lúa ăn, nhà chùa phải làm rẽ bảy giạ giống ruộng. Bởi hoa lợi ít ỏi nên thầy trụ trì chỉ nuôi nổi một đồ đệ.
Người đồ đệ này là bạn chơi cùng lứa với chú Ba tôi nên chú tôi cứ tha hồ xưng hô bằng “thằng”, bằng “mày”, trong khi những đạo hữu cao tuổi gọi bằng “chú Điệu”. Tôi thì bắt chước theo lũ nhỏ, kêu bằng “ông Điệu” dù Ông chỉ mới khoảng 16-17 tuổi. Ông Điệu lo sạ lúa, làm cỏ, tát nước ruộng. Một hôm bị bạn bè rủ rê, trong đó có chú Ba tôi, hái trộm luôn một trái dưa hấu của đám rẫy cạnh vườn chùa rồi bạch ra ăn với nhau. Thầy trụ trì bắt gặp. Thầy lùa cả bọn vô chùa để tra hỏi, sau đó thầy sai ông Điệu ra liêu lấy cái roi mây. Ông bước đi rất chậm, tưởng như bàn chân đang bận suy nghĩ. Thầy bình tĩnh đợi. Khi cầm roi trên tay, thầy bắt ông nằm xuống.
Trót! Trót! Trót! Ông Điệu lăn qua lăn lại, khóc ồ lên, vừa “Lạy thầy con lỡ dại! Lạy thầy con xin chừa”. Sau năm roi, thầy ra lịnh cho ngồi dậy. Ông Điệu vâng lệnh ngồi dậy nhưng không bước ra hiên lấy gáo múc nước rửa mặt như tôi tưởng. Mà ông lại đứng ngay ngắn trước mặt thầy rồi bỗng ông quì xuống lạy luôn ba lạy.
Tôi ngạc nhiên hết đỗi. Ở nhà, mỗi lần bị cha tôi bắt nằm xuống đánh xong cho ngồi dậy là tôi vừa khóc hu hu vừa ra hiên múc nước rửa mặt. Lần nào cũng vậy, y như một nghi thức không thay đổi. Lần đầu tiên thấy một người bị đánh lạy tạ người vừa đánh mình, lòng tôi chợt nảy sinh một cảm giác lạ. Một sự kính trọng bồi hồi. Nhưng chưa hết. Thầy trụ trì ung dung nói:
- Đi vô làm lễ sám hối.
Ông Điệu “dạ”, lại kẹt cửa lấy cái áo tràng màu xám choàng lên người. Ông châm một nén hương rồi tẻ ra cắm ở mấy bàn thờ Phật. Ông lại cầm dùi đánh nhiều hồi vào cái trống sấm. Rồi sau đó ông quì tụng niệm ê a một lúc lâu. Lúc nhỏ khi chưa đi học, tôi hay theo chú Ba tôi đi chơi lang thang nên cái cảnh ông Điệu bị đòn, tôi chứng kiến từ đầu đến cuối. Tôi giữ một ấn tượng tốt về nhà chùa là bởi sự kiện đó. Có lần chú tôi lén chỉ cho tôi coi một cái chum đất nung lên men đặt ở sân chùa.
Chú nói :
- Cái chum tương đó.
Tôi hỏi:
- Sao đem để ngoài nắng vậy?
- Đem dang cho tương nó ngon. Mày tưởng chùa gọt vỏ bí vỏ bầu rồi bưng đổ đó hả? Không có. Đem bỏ vô chum tương, để lâu nó thành tương.
Chú tôi không có óc khoa học, hay tin lời người khác mà không chịu phối kiểm với thực tế, thỉnh thoảng lại hay nói ẩu nên tôi không biết sự thực có phải đó là một cách làm tương đơn giản hay không. Nhưng cho dầu không biết chắc, tôi cũng có thể quả quyết rằng cách làm tương ở chùa này phải là cách đơn giản thô sơ hơn hết. Cứ nhìn lối sống của thầy trụ trì và của ông Điệu là biết ngay. Ngoại trừ cái áo nâu dài mặc đi ra đường là tươm tất, còn khi ở chùa thì thầy mặc áo vải thô vạt hò màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ. Cái vạt áo nhọn làm cho dáng thầy từ mảnh mai trở nên gầy gò. Thuốc lá thầy hút là thứ thuốc tự tay thầy trồng. Vài chục cây thuốc mọc ở một vạt đất nhỏ đầy sỏi đá nơi cửa sổ nhà Đông, có những lá già ở gần gốc đã được tướt đi. Đi ra đường thì thầy mang guốc sơn, còn ở chùa thì mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy. Quai guốc là một mảnh da trâu cứng.
Một cảnh chùa nghèo nàn như vậy không thể ban phát lợi lộc vật chất cho ai hết, nhưng nhờ đó mà nó trở nên thân mật với mọi người. Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, cửa tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm cắp. Có mấy bụi chuối mốc đứng ở mái chùa là hay có trái hườm trên những buồng chuối nặng. Lũ chim chào mào tọc mạch bao giờ cũng thấy trước và lén mổ trộm. Người từ xóm lại phải đi băng qua một quãng đồng trống, ai công đâu xách một buồng chuối trên tay. Quả rằng chỉ có lũ chim là chuyên môn ăn trộm quả chùa. Mấy trái mãng cầu chín quên hái ngoài vườn, chùm ớt đỏ nơi bụi ớt ở vại nước rủ rê lũ chim đội mũ, chim chìa vôi tụ hội lại vừa ăn vừa nói chuyện rinh rã. Bụi thơm, cây mít ở sau lưng chùa thì có lũ sóc ranh mãnh dòm chừng.
Người tìm đến chùa thường để xin nghỉ mát hay để tìm nước uống. Đó là trường hợp những người cấy lúa, cuốc cỏ mía ở những đám ruộng đám thổ gần đó. Buổi trưa nghỉ tay, về trong xóm thì xa, ngồi dưới gốc cây thì hanh nắng, sẵn có chùa gần xin vào nghỉ ở chái sau. Nước uống thì sẵn ở chum, dùng bao nhiêu cũng có, tha hồ. Tuy nhiên, dùng chỉ hết mươi gáo nhưng họ bảo nhau ra giềng xách châm vào cho đầy hủ đầy lu, đỡ tay chú Điệu một bữa. Hôm nào mo cơm gói theo mà thiếu đồ ăn thì chú Điệu múc cho chén nước tương.
Mấy đứa chăn bò, lũ nhỏ hái củi hay ghé xuống chùa xin muối. Bò lùa thả ăn ở chân núi còn chúng thì tụ hội lại đánh đáo đánh trống hoặc sục sạo vào các bụi cây để hái ổi, hái sim, múi dẻ, nhãn chày... Khi không nhằm mùa trái cây thì bứt đỡ lá dang lá me rồi xuống chùa xin muối lên chấm ăn. Bước qua vại nước thấy có ớt chín thì lén hái một hai trái để lên giã chung với muối. Nếu thầy trụ trì hay chú điệu bắt gặp thì cũng chỉ “Ê! Ê!” vài tiếng và người phạm lỗi rút tay ra bẽn lẽn cười rồi đi luôn. Không ai nỡ nghĩ rằng đó là một sự ăn cắp. Cái không khí tịch mịch bao dung nuôi dưỡng hỉ xả.
Lên bảy tuổi tôi đi học ở trường Thiên Đức, cách nhà một con đò và hai cây số đường bộ. Trường nằm ở trên chỏm núi. Do mấy người bạn lớn dẫn dắt, một hôm đang giữa giờ học tôi cũng “xin phép thầy cho ra ngoài”. Thật tình tôi không hiểu “đi ra ngoài” là đi đâu mà cứ thấy mấy chị lớn hay giơ ngón tay lên xin. Gạn hỏi mãi một chị tên là Khoan, - sau này lên lớp Tư tôi cứ kêu là chị Lưu Khoan bởi ngẫu nhiên tôi đọc được trong một cuốn sách tập đọc cũ của cha tôi kể sự tích ông Lưu Khoan có người thị nữ bưng bát cháo lên hầu, lỡ tay đánh đổ cháo ra áo chầu vân vân, - giảng cho tôi nghe:
- Đi ra bụi duối ngồi mát.
Tôi nói:
- Ngồi trong lớp đâu có nực? Mát buồn ngủ luôn.
- Nhưng đâu bằng ở ngoài núi? Sẵn trái duối chín hái ăn luôn.
Nhằm trúng cây duối ngọt thì trái duối chín ăn như đường phèn, - tôi đang nghĩ tiếp - Nhằm cây duối trái đắng thì bỏ đi, lựa cho được cây duối ngọt. Kiến vàng đít bự ưa trái duối lắm, bò từng đàn...
- Đôi hồi chạy tuột dốc xuống luôn chùa Cảnh Phước, - chị Khoan tiếp - Xin vài trái chanh chấm ăn với muối.
Thế là tôi lập tâm muốn đi hoang một bữa. Tôi đợi giờ chữ Nho của thầy Lê Ngu Tân. Thầy hiền, không đứa nào sợ. Chị Khoan đợi tôi ở ngoài cửa lớp. Thấy tôi ra, chị khen liền:
- Được đó. Mày phải dạn lên một chút. Thôi bữa nay khỏi ăn duối đi. Tao cho mày xuống chùa Cảnh Phước.
Không cần hỏi tôi có đồng ý không, chị cứ xổ dốc luôn. Trời ơi! Triền dốc thì đứng mà chị cứ chạy băng ào, chạy quá đà phải ôm luôn một nhánh cây mới hãm bớt tốc lực. Nhiều lần như vậy. Cuối cùng chúng tôi lọt vào sân chùa.
Kèm với sự bỡ ngỡ, cái cảm tưởng đầu tiên của tôi là chùa Cảnh Phước giàu hơn chùa Châu Lâm. Có nhiều màu trắng của vôi mới nơi trụ hiên, nơi vách. Có sự bằng phẳng rộng rãi nơi sân, các lối đi được viền bằng cỏ tóc tiên. Hoa được trồng thành bồn. Có một dãy những cái hồ lớn đắp bằng xi-măng trong thả bèo hay trồng sen. Vườn chùa kế tiếp theo sân. Một cây sàn vọt nước cất tiếng kẽo kẹt. Nhiều cây chanh lá xanh um đứng kề thềm giếng. Khế, ổi, bụi môn bạc hà, cây bưởi, vạt bắp, vạt củ mì, và xa hơn, những cây cao có hoa màu đỏ đứng cạnh những ngôi tháp. Nhiều lần sau tôi lại có dịp xổ dốc để xuống thăm chùa Cảnh Phước và mỗi lần như vậy giúp tôi khám phá thêm một nét phong lưu của chùa. Thầy trụ trì vui vẻ nhìn chúng tôi, ngắt cho những trái chanh vừa vò đầu âu yếm. Những lúc ấy tôi bỗng nhớ đến khuôn mặt trầm ngâm của thầy Châu Lâm và không hiểu tại sao tôi chợt thấy thương thầy. Tôi thương ngôi chùa nghèo, có nhiều màu xám nơi cửa nơi vách, có một cái sân không đủ sức để bằng phẳng và vuông vức, có nhiều sỏi đá đến nỗi cây khế cũng không trổ được màu xanh.
Chùa Châu Lâm có một cái tên nôm là “Chùa Đồng Mạ”. Tên đó dành cho những người bình dân trong xóm gọi. Chùa Cảnh Phước không có tên nôm. Trong tuổi ấu thơ, tôi đã nghĩ rằng đó là một sự thiệt thòi của kẻ giàu. Lớn lên, tôi biết rằng có nhiều ngôi chùa vừa giàu có vừa có đủ hai tên. Như Chùa Đá Trắng với tên “Sắc Tứ Từ Quang Tự”, Chùa Tổ với tên là “Sắc Tứ Bát Nhã Tự”. Sắc tứ tức là được nhà vua công nhận và ban cho cái tên. Như là những con người ở ngoài đời vừa giàu vừa sang. Ở Phong Thăng có một ngôi chùa giàu mà không được “sắc tứ”. Nhưng có tên là chùa Bảo Sơn. Bảo Sơn, Linh Sơn, Phước Sơn... những cái tên khi đọc lên có âm vang của sự sang giàu. "Châu Lâm" của xóm tôi khiêm tốn đến nỗi không muốn lạm dụng đến cả âm ba, món trang sức không đòi hỏi phải có nhiều tiền mới sắm được. Có một món quà chùa sẵn lòng tặng cho ai cần: đó là những cành bông điệp.
Không biết tục lệ xuất phát từ đâu mà cả làng tôi mỗi lần có việc cúng là chỉ chăm chăm đi hái bông điệp để cắm lên bàn thờ. Nếu nhằm ngày Tết tháng Giêng thì có thể cắm thêm bông vạn thọ, bông trang đỏ. Những loại khác như cúc, thược dược, huệ, hồng... dầu đẹp nhưng là món cắm chơi giữa người trần với nhau. Tục lệ đó chắc đã nhắm một mục đích kinh tế rõ rệt: cây bông điệp trồng một lần mà ra bông cả vài chục năm bởi nó là thân mộc lớn cỡ bằng cây táo nhơn. Hoa có hai loại, màu đỏ và màu vàng mọc thành chùm nên chỉ cần bẻ ba nhánh nhỏ là đủ ghép thành một bình. Chùa trồng ba, bốn cây ở trên lối đi và như vậy là đủ cho nhu cầu của một xóm.
Sự liên hệ giữa dân xóm và nhà chùa là một liên hệ tinh thần, dầu không sâu đậm thiết tha nhưng mà lúc nào cũng sẵn sàng, hiện diện. Khi có niềm đau nỗi buồn quá sức giải quyết của người thì về chùa để tìm sự an ủi và hy vọng. Nhà có tang mời thầy tụng kinh siêu độ, nhà có người đau ốm trầm kha mới thầy tụng kinh cầu an. Mười năm một lần, ban trị sự ấp tổ chức đàn tràng mời thầy hành lễ, làm chay múa lục cúng suốt ba ngày đêm để cầu an cho dân chúng cả ấp. Người lớn trẻ con, thanh niên thiếu nữ dập dìu tới dự, áo quần tươm tất mặt mày tươi vui khiến tôi nghĩ rằng đây vừa là lễ Tạ Ơn cho mười năm đã qua vừa là Lễ Cầu An cho mười năm sẽ tới. Cỗ bàn dọn ra, ai có mặt cũng được mời ngồi và cầm đũa thọ trai, không phân biệt kẻ lớn người nhỏ kẻ sang người hèn. Y như trong những ngày lễ lớn làm chay ở chùa vậy.
Trong những ngày đó, người có cầm tới bao đèn bao nhang hay buồng cau nải chuối, người có góp phần công đức năm cắc một đồng hay gói trà phong bánh đều được mời dự bữa cơm chay ngang hàng với kẻ chỉ tới tò mò đứng coi. Có người quá nghèo thì tới lãnh phần gọt vỏ bí vỏ khoai hay vo gạo đãi đậu. Có người tối mặt tối mày trong bếp.
Một lần tôi theo ông tôi tới dự lễ Rằm tháng Bảy ở chùa. Thầy trụ trì ngồi nói chuyện bình thản với khách trong khi các người nấu cỗ dọn bàn cứ tự động lo liệu lấy. Họ tự sai phái, phân công làm như chuyện chùa là chuyện của nhà họ. Những tiếng kêu gọi, hỏi han, dặn dò đan chéo vào nhau:
- Đưa đây chai dầu phộng!
- Ra vác thêm bó củi, em em. Lãy bó gộc ở chỗ gốc táo đó.
- Lu gạo để ở đâu? Chớ tỉn này vét hết rồi.
- Hỏi chú Điệu. Chú Điệu ơi! Ủa, mà cứ xúc thúng gạo lúa Gòn của cô Năm mới đội tới đó cũng được mà.
- Bí sáp này chắc lấy giống ở Đờ-răng (Đơn Dương). Trái to mà dài như con heo. Ở trong chùa Tổ, nấu chay có la-ghim Đờ-răng và Trà Lạch (Đà Lạt) chở xuống.
Phải, chùa Tổ là chùa nổi tiếng nhất của cả tỉnh, có nhiều đạo hữu giàu ở các tỉnh khác cũng xin quy y làm đệ tử. Một số các đệ tử gốc ở Dran, Đà Lạt. Mỗi kỳ lễ lớn, họ gởi theo xe hàng xuống từng giỏ cần xé to những bắp su, cà-rốt, khoai tây, đậu Hòa Lan, củ cải... Người ra tả rằng, - có lẽ phần lớn theo tưởng tượng - các bà đệ tử đều mập mạp, áo dài kim tuyến lóng lánh và vàng đeo đầy cổ tay, ngón đeo đầy cà-rá, hột xoàn. Khi ngồi nghĩ đến một cỗ chay thịnh soạn ở Chùa Tổ, các bà Lý bà Hương chắc có ước ao được thưởng thức coi nó ngon ra làm sao nhưng tôi tin rằng đồng thời họ lại cũng đang thêm yêu thương ngôi chùa nghèo của họ và cuộc đời tầm thường của chính họ. Nghèo nàn là một sợi dây thân ái ràng buộc mọi người. Khi có đồng tiền dính dự vào thì đồng tiền gây mầm chia rẽ.
Không khí của một bữa cỗ chay khác xa với một bữa cỗ mặn. Không có sự náo nức của người dự cỗ. Không ai tham ăn, háu ăn, mọi người đều hưỡn đãi mời mọc nhau. Chỉ vì món chay của nhà quê hồi đó không có những mỹ vị đam mê. Xào thì đậu đũa xào dầu, mướp xào dầu, khoai lang xào dầu. Đại khái là một món rau trái được lăn qua trong dầu phộng rồi nằm trong chảo đậy vung hầm hơi cho chín. Món canh thì nhờ đậu phộng mà ngọt, khác nhau chỉ có bát này là bí đỏ, bát kia là bầu, bát nọ là rau cải.
Trong bữa ăn có bày luôn cả các món tráng miệng. Và mười lần như một, thế nào cũng có một người đưa ra ý kiến:
- Ăn chay thì gắp bỏ nhiều món vô chung một bát rồi ăn mới ngon.
Lần nào dự bữa ăn chay tôi cũng có ý đợi chờ xem ai sẽ đầu tiên nói lên câu đó. Ở nhà tôi thì y như cô Bảy tôi lãnh phần nói trước. Và chú Ba tôi thực hành liền. Chú lấy một bát canh, bẻ bánh tráng nướng bỏ vô, gắp xào đậu xào khoai, nộm đu đủ bỏ vô và chú chuẩn bị biểu diễn. Cô tôi đẩy đĩa cốm và bánh in lại gần (ở miền Trung, cốm là thứ bánh làm bằng bột nếp rang trộn đường đóng khuôn):
- Bỏ luôn miếng cốm vô.
Chú Ba cười liền:
- Phải đó, như vậy mới đúng điệu ăn chay.
Khi tôi lớn lên đi đây đi đó, tôi được dẹp ghé thăm nhiều ngôi chùa sang trọng, được dự nhiều bữa tiệc chay thịnh soạn ngon lành. Mỗi lần như vậy là lòng tôi lại bùi ngùi nhớ đến ngôi chùa quê của tôi, đến những bữa cỗ chay thanh đạm nghèo nàn, thanh đạm đến mức “có thể trộn nhiều món vào nhau” mà không sợ mất hương vị. Bởi lẽ, than ôi, có hương vị gì đâu mà gọi rằng mất?
Những kỷ niệm ngày thơ ấu dầu có thời gian cách trở nhưng bây giờ đây mỗi lần nhớ lại là tôi thấy hiện lên rõ ràng trước mặt. Tôi có thể nghe cả giọng nói với âm thanh riêng biệt của từng người. Bà Bộ, buôn trầu cau ở Chợ Chiều, mỗi lần lễ xong tới mục thiêu vàng là khệ nệ lãnh bưng cái nia lớn trên xếp đầy những tờ giấy tiền, thanh y, giấy vàng bạc ra trước sân chùa. Bà châm lửa đốt từng xấp rồi chắp tay nhìn ngọn lửa một cách cung kính. Những tàn tro giấy vỡ ra, bị hơi nóng cuốn hút bay lên, lượn lững lờ. Bà xuýt xoa vái bốn phía rồi nói với những bà con đứng nhìn chung quanh:
- Các Đẳng tới nhận áo và vàng bạc đó. Các Ngài đứng ở trên cao.
Không ai bày tỏ ý kiến. Bà đành nói tiếp, như để thuyết phục một kẻ hoài nghi tưởng tượng nào đó, cái lý luận bà đã chuẩn bị sẵn ở nhà, có lẽ đã nói nhiều lần ở nhiều nơi rồi:
- Chớ trời đâu có gió mà tàn tro cứ nhắm trên cao mà bay?
Mọi người vội vã nghiêm chỉnh và kính cẩn. Cả cái không gian âm u của buổi chiều nơi sân chùa như đầy những vong linh, những cô hồn tụ hội. Bà Bộ thật xứng đáng được các Đẳng ban thưởng. Tôi chưa thấy một khuôn mặt nào rạng rỡ như khuôn mặt bà lúc ấy.
Trải qua cuộc chiến giằng co, ấp Quảng Đức của tôi đã thành bãi chiến trường. Đồng bào bỏ nhà cửa ruộng vườn lũ lượt gồng gánh ra đi. Ngôi chùa xưa chắc còn tịch liêu tàn phế hơn xưa, những con chim chào mào chìa vôi chắc cứ ngang nhiên làm tổ ngay ở chái sau, hiên trước.
Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2025
KHÔNG TRỐN NỮA - Bình Nguyên Lộc
Bác sĩ lớn người, mập và trắng. Hai cánh tay to, nặng những thịt bệu, thò ra khỏi chiếc "bờ lu" ngắn tay, chừng như mỏi vì đặt mãi sau lưng, được đem ra phía trước, khoanh lại trên ngực.
Người bịnh ở phòng thì cứ ăn cơm, coi như là không có bác sĩ nơi đó, vì họ đã quen với sự đi dạo của bác sĩ giờ nầy trong phòng, y như là ngày hôm qua, hôm kia, những hôm trước nữa. Có một người bịnh mới vô, ái ngại, lén nhìn bác sĩ, rồi không thấy ông ta rầy la gì ai, lại an lòng cúi xuống ăn tiếp.
Bác sĩ không có phận sự xem xét bữa ăn của bịnh nhơn, cũng không có tánh tò mò muốn quan sát cảnh thân mật của người nghèo. Trong dưỡng đường Chợ Rẫy có tục lệ thăm bịnh sớm lắm - sớm đến nỗi muốn cho "đâu đó xong xuôi đàng hoàng" những người quét dọn, mới năm giờ sáng đã lôi tốc người bịnh dậy để vén mùng, lau gạch, đổ ống phóng và những "thầy khán hộ học trò" mới năm giờ rưỡi sáng đã lo đi lấy nhiệt độ, gây nên sự chộn rộn, phá giấc ngủ đang ngon của người bịnh mới lành hay của người bịnh nặng trằn trọc suốt đêm, mới chợp mắt được một đôi giờ - Vì vậy bác sĩ được rảnh rất lâu trước giờ tan buổi làm, và không biết làm gì trong phòng giấy, nên vào phòng bịnh giữa những bữa ăn - cũng lại rất sớm, dầu người bịnh chưa nghe đói - để cho người giúp việc "xong mọi việc" trước khi hết giờ làm.
Bác sĩ không thích đọc sách, cũng không có một đời sống bên trong phong phú. Ông tìm đến chỗ đông người đặng trốn sự trống rỗng và, không cần nói chuyện với họ, hay nhìn họ, nghe tiếng chén đũa khua, nghe họ râm ri là đủ cho bác sĩ thấy đỡ chán hơn là ở nơi văn phòng tịch mịch của ông.
Người bịnh thì ăn cơm ngay trên sập của mình. Phần đông ăn riêng. Có vài người chung đậu đồ ăn lại. Đó là những người thảo ăn cứ mời mọc nhau mãi như là đãi khách. Có người đem phần ăn lại ngồi chung một sập với người khác, mà vẫn ăn riêng. Đó là những người "thống nhất mà phân trị" vậy.
Không hiểu sao hôm đó bác sĩ lại dừng bước trước sạp của hai người "phân trị". Có phải chăng vì hai chiếc áo màu dà của hai anh "cu li cao su" nầy đã buông một tiếng đàn lạc điệu vào bản nhạc y phục đen tối của phòng thi nầy?
Không biết. Nhưng một cảnh tượng khiến bác sĩ không tiến bước được nữa.
Một anh "cu li" thừa lúc bạn đồng sàn ngó lơ, gắp bớt giá xào tóp mỡ của bạn bỏ vào dĩa mình. Nửa phút sau đó, nạn nhơn thấy bạn nhìn bác sĩ, cũng lại gắp giá xào tóp mỡ của bạn, rồi chôn dưới cơm. Người sau nầy có lẽ cũng tham ăn, chớ không phải trả miếng - nói cho đúng là lấy lại miếng - vì anh ta thật không hay hành vi của bạn hồi nãy.
Bác sĩ bật cười. Bịnh nhơn ngơ ngác buông đũa nhìn. Bác sĩ nhớ lại một chuyện đời xưa nói anh em nhà kia đêm đến lén lén ra đồng vác lúa cho nhau.
Bác sĩ ngạc nhiên không hiểu sao người mình tham ăn đến thế và tham ăn cả những món không ngon đến thế. Ông nhớ lại ở làng, hễ nhà ai có động dao, động thớt là tức thì có người bu đến, cà rà, tìm công việc để làm, nói là giúp, nhưng thâm tâm họ quyết chờ những miếng thịt của con heo người ta đang thọc huyết bên hè.
Bác sĩ trề môi, khinh bỉ hai người bịnh, hay bọn nhà quê mà bác sĩ nhớ đến? Rồi không suy nghĩ thêm nữa cho mệt trí, bác sĩ lại đếm bước trên gạch.
Câu chuyện trên đây đã xảy ra mười lăm năm nay rồi. Nhưng cũng cần nhắc lại.
Bác sĩ đương ở nơi đâu, tại nhà ai, nhà ra sao, ông không rõ. Ông chỉ biết mình đang đứng trước chảo cơn chiên. Ông vừa với tay lấy chén để xúc cơm thì một thằng nào đâu không biết, xờn xợt chạy đến đá đổ chảo cơm. Sự tức giậu toan bùng ra bằng ít lắm là một cái bạt tai thì bác sĩ giựt mình thức dậy.
Bác sĩ còn đang tiếc bữa ăn hụt, mặc dầu biết rằng đó chỉ là bữa ăn trong mơ, thì bỗng nghe vang dậy tiếng chào cờ đằng trụ sở bên cạnh nhà ông ở đậu:
... Non sông ơi, cờ theo gió bay càng cao...
Cùng với nắng sớm, tiếng hát reo tươi trên lá xanh, khiến bác sĩ nghe thèn thẹn, nhận thấy tật ngủ trễ của mình có cái gì chọi với đám người trẻ không yên kia, đã dậy cùng với mặt trời.
Nhưng đó chỉ là một ý nghĩ lẩn lút thôi. Vụ hụt ăn lại trở về ám ảnh bác sĩ. Ông nhớ thuở nhỏ thường chiêm bao thấy ăn kẹo, bánh trái. Nhưng không lần nào được ăn thiệt. Luôn luôn có một thằng, một con gì, hay một tiếng động đến rất đúng cái giây phút sắp đưa đồ ăn vào miệng như là có ai quyết tâm cản trở ông ăn trong mơ.
Mấy bà cụ quả quyết rằng "ai" đó là ông thần hộ mạng của mỗi người. Quỷ sứ nó dụ mình ăn. Ăn là chịu theo nó. Bác sĩ bực tức cằn nhằn thầm:
- Mà ai cần hộ mạng chớ. Chết bỏ, miễn là được ăn thôi. Ăn giả, phải. Nhưng cần gì giả hay thiệt. Mình có đói đâu mà cần no. Mình chỉ thèm và cần thỏa cái thèm.
Phải bác sĩ thèm, thèm thịt, hay ít ra cũng món gì chiên xào bằng mỡ, hay tệ lắm là mỡ nước chan cơm ăn, chắc cũng ngon trong lúc thèm nầy.
Một tháng nay, bác sĩ nghe lời "mấy đứa nhỏ" con ông, tản cư vào vùng quê. Trong buổi hỗn độn ban đầu, việc tiếp tế lương thực cho dân chúng thật là bết lết. Ai có cái gì cũng muốn giấu để ăn, vì không biết thời cuộc kéo dài đến bao giờ. Và không ai dám đi đâu để mua cái gì về bán hết.
Sau một bữa ăn kia, trong tuần lễ đầu đi tản cư, bác sĩ nghe thiêu thiếu cái gì. À, một món tráng miệng. Ban đầu ông tính dẹp cái thói quen phiền phức ở thành ấy lại (vì ông cũng biết tự thích nghi với tình thế chớ không quá câu nệ lắm). Nhưng nỗi nhớ mọi người "la sét" lần lần biến thành sự thèm cái gì ngọt, cục đường thẻ cũng được, thứ đường đỏ sẫm lộn rác và bụi mà trước kia không bao giờ ông mó đến. Cái thèm gào hăng quá, bác sĩ thấy nó là sự đòi hỏi về sanh lý hơn là sự nhắc nhở của thói quen. Bác sĩ lẩn thẩn tưởng tượng những biến thể, những trao đổi, những điều hòa bí mật của sanh lý trong các bộ máy của thân ông; ông cử động, máy phải quay; ông muốn quay, nó cần phải có chất đốt; chất đốt đó là đường. Rồi ông đâm hoảng. Sau những suy tính của một nhà khoa học, sự thèm ngọt đã biến thành nỗi lo âu về thiếu chất cần cho cơ thể. Và con người rất thương thân thể của mình nầy bươn bả đi kiếm đường.
Lạ, sao cái món ăn rất thường ấy ở nhà, giờ nào cũng có, tiệm nào cũng bán. Thường quá rồi, có khi người ta quên rằng có nó trong đời nầy. Và không ai gọi nó là món ăn bao giờ. Còn bây giờ ở đây sao lục lạo mãi không ra. Giá nào ông cũng dám mua kia mà. Bác sĩ Hai tính lầm thầm:
- Nếu mua được thứ bánh ít (ích) bột khoai báng, lền xơ khoai, mình cũng sướng chán.
Rồi ông đâm tiếc những trái chuối nẫu (thúi, nát) ruột mà trước kia ông chê. "Chuối? Ờ, cái gì cũng được. Miễn ngọt thì thôi chớ. Người ta đồn bên xóm Bà Miệng, mía nhiều, mình qua đó thử coi".
Bác sĩ Hai đạp rạp rạ khô, đi dưới nắng tháng chạp. Gió đồng dán vào lưng ông vạt sau của chiếc áo bà ba vải đen mà ông phải mặc như những người khác. Vải gặp mồ hôi dính sát vào da. Trong ánh nắng rung rinh, hơi trên lớp vải bốc lên nghi ngút. Bác sĩ bây giờ tóc đã hoa râm, bụng lớn lên và phệ ra. Ông rất phiền phải lặn lội cực khổ vì một món không ra gì. Rồi ông oán "sấp nhỏ" đã xui dại ông. Nào ông có tính tản cư làm chi cho khổ thân. Nhưng "sấp nhỏ" nó cứ nhát: "Tụi con, ba đứa đều làm việc hết. Ba không đi nó sẽ bắn Ba, bỏ tù Ba". Thế là ông hoảng, gởi bà và đứa con nhỏ về Sàigòn, còn mình thì chạy đến làng nầy, và bây giờ phải khổ đủ thứ !
Khi bác sĩ đi ngang qua nhà kia, ông nghe tiếng một người trai trẻ hỏi lớn:
- Mầy làm gì mà hè hụi trong buồng vậy a Lịch?
- Tao làm "công tác đào đường".
- Thằng nói lạ, đào đường gì mà đào trong buồng?
Lạ thật, bác sĩ đứng lại chờ nghe tiếp. Một phút sau nghe tiếng người trai trẻ hồi nãy rùm lên:
- Tụi bây ơi, vô mà coi. Nó đào đường thiệt chớ. Mà điều thứ đường khạp làm ở Biên Hòa.
Bác sĩ quên lễ độ, cười lớn lên với những người trai trẻ trong nhà. Nhờ trận cười ấy mà bác sĩ làm quen được với họ và khỏi phải đi xa. Và từ đó biết chỗ mua đường.
"Ai mà cần ai hộ mạng chớ", bác sĩ tức tối cằn nhằn với mình; bác sĩ đã bị thịt, bị mỡ ám ảnh. Từ ngày bị cướp ở làng bên cạnh, bác sĩ hết tiền, trôi dạt qua đây, nhờ một người bà con cho mượn chút ít, bác sĩ phải ăn hà tiện cho đỡ tốn. Không đến đỗi chết đói, nhưng cũng không no lắm. Nhứt là mấy ngày sau đây số tiền đã cạn mà người bà con lại bị Tây bắt mất. Không biết ai đó ở đâu, và hồi nào vì sự tình cờ hay nhờ tìm tòi, mà đã phát minh ra rằng ăn cơm với mắm ruốc cùng đường ngon tuyệt. Rồi như một dây thuốc pháo bị cháy lan, nghệ thuật ăn của phái "mắm ruốc đường" được phổ cập khắp các làng. Vả không hoan nghinh mắm ruốc cũng không có gì khác mà ăn, vì người nào cũng hết tiền, còn thịt heo thì mắc như vàng.
Một và cơm, một quệt mắm, một miếng đường tán nhỏ, cái thành phần kỳ dị của những miếng ăn ấy đối với bác sĩ chỉ "ngon tuyệt" bữa đầu thôi. Mấy bữa sau ông nghe xót ruột như đã uống át-pi-rin không ngâm tan trong nước. Ông thề nguyền khi trở về, không bao giờ dám chê ngán những đĩa ra-gu, những miếng sườn ram nữa.
Bác sĩ triết lý:
- Thèm ngọt không nằm chiêm bao. Thèm thịt thì nằm. Vậy cơ thể đòi thịt hơn là đòi đường.
Ông nhớ lại cái chết tội nghiệp trong nhà thương của những người bịnh thương hàn mới khỏi. Nhiều người rất biết nỗi nguy nếu ăn khi mới vừa khỏi, nhưng vẫn ăn bừa chỉ vì thèm, đói quá. Ăn rồi lăn đùng ra khóc không phải vì đau đớn, mà vì hối hận, hoảng sợ cái chết đến nơi trong vài giờ.
"Thịt kho tàu, khổ qua hầm, cũng ngon chớ - không hiểu vì một ý bắc cầu nào mà bác sĩ nhảy từ người bịnh thương hàn chết oan đến vụ thịt kho - mà sao cho bằng "cay xôi cấy", "hà khàu", "phù dùn hại". Cá hấp tương với đồ Tàu cũng ngon. Nữa mình về, mình sẽ đi ăn hai ngày đồ Tây, hai ngày đồ Tàu, ba bốn ngày mì chả giò, hủ tiếu xào, xíu mại, bánh bao".
Bác sĩ thở dài, rầu lòng nhớ lại ý muốn trốn về thành mà không được của ông. Chung quanh ông toàn là thanh niên vác tầm vông canh gác. Một con chó cũng không lọt qua. Còn cái làng gì ở biên giới thành ấy, nghe họ nói gác dày mịch như màn sắt mà ghê. "Nghĩ mà tiếc của cải mấy mươi năm gây dựng, không biết nữa còn chút ít gì không. Còn ba đứa lớn, thằng Minh, thằng Công, con Hà, chúng nó sẽ học dở dang, thua sút đám con ông huyện Cần".
Bỗng bác sĩ Hai ngồi tốc dậy sần sượng với ai:
- Mà ai cầu ai hộ mạng chớ?
Bác sĩ lững thững lại tiệm cà phê. Tiệm cà phê đây là một chòi tranh mà chủ nhà, một dân quê có óc con buôn nhìn thấy bao nhiêu người lạ mặt tựu về, người nào cũng ghiền cà phê, bèn chụp ngay cơ hội tốt, mở tiệm. Mặc dầu vợt làm bằng vải áo cũ, và cà phê có mùi cơm cháy, khách vẫn đông, nhứt là những ông đằng đình, cái đình làng dùng làm trụ sở.
- Bà chiên gì mà thơm dữ vậy? Bác sĩ hỏi chủ quán.
- Tôi ram thịt để bán.
- Thịt ram ăn với gì?
- Cuốn bánh tráng.
- Trời! sớm mai, ai mà ăn bánh tráng cuốn thịt ram.
Nói vậy nhưng bác sĩ vẫn hỉnh mũi hít mùi thịt chiên. Ông cố hít nhẹ cho bà chủ quán không nghe thấy và hít dài để tận hưởng.
Bác sĩ mò tay vào túi, rồi nét mặt ông xịu xuống, không phải vì thất vọng, mà vì rầu. Ông men lại chảo thịt chiên. Đây là một mớ thịt phay, mỡ chiếm tám phần mười trong mỗi lát thịt. Thịt đã ram vàng, mỡ thịt thắng ra lênh láng.
- Tôi nghe như là thịt hôi, phải không bà?
- Hôi gì mà hôi. Thịt chiều hôm qua đó.
- Tức quá! Tôi thử coi.
Nói đoạn bác sĩ lấy đũa gắp một miếng, đưa lên mũi. Ông làm bộ như chưa đánh hơi ra mùi thật của nó, thổi sơ vào miếng thịt rồi cắn một miếng.
- Phải thịt tươi. Tôi chịu thua bà - Miệng nói răng nhăn miếng mỡ nhỏ xíu vừa mưu mẹo cắn được.
- Cho một tách cà phê bà.
Mùi thịt ram mơn trớn mũi ông Hai, chọc những hạch nước miếng hai bên hàm dưới ông. Và ông lắng nghe nơi bao tử, một thứ nước gì tiết ra.
- Hay là mình ăn chịu? Không được. Họ không tín đám người lạ mặt cứ lưu động mãi nầy. Không lẽ ăn bừa rồi tới đâu sẽ hay. Chậc! Cũng không còn cái đồng hồ để cầm đỡ. Bây giờ làm thế nào ăn được món thịt ram cuốn bánh tráng? Thật là cả một bài toán đố khó giải lý.
Chợt có người bước vào, bác sĩ Hai rất mừng khi nhận thấy người còn trẻ ấy là người quen cũ ở thành.
- Anh giúp ban tuyên truyền?
- Thưa phải. Hổm nay hai anh Minh, Công và chị Hà có về thăm bác không?
- Sấp nhỏ nó đi đâu mất, tôi lo quá.
Dạ thưa còn bác có giúp đâu chưa?
- Ôi tôi già rồi...
Người con trai tên là Tương nầy kêu bánh tráng cuốn thịt ram.
- Dạ thưa bác, món nầy, hồi ở nhà có mấy thuở mình ăn, nhứt là sớm mai. Mà sao giờ ăn ngon lạ.
Bác sĩ Hai mỉm cười một cách cố thản nhiên. Ông theo dõi từng cử chỉ của Tương. Hai hàm răng bén của người trẻ cắn đứt ngon cuốn thịt, đôi môi khép lại, che giấu cái bã đồ ăn đang nhai.
- Cháu vô phép quá. Xin lỗi, bác đã điểm tâm rồi?
Bác sĩ còn một chỗ nước miếng trong họng, vội nuốt để trả lời. Nhưng bác sĩ giựt mình e thẹn nghe tiếng nuốt nước miếng của mình lớn quá. Lại mớ nước miếng nữa dồn đến. Nuốt đánh ực nữa thì sợ Tương nó nghe biết, nó cười thầm. Còn để vậy thì nghẹt họng, đừng nói chi trả lời, nội cái việc thở mà còn không thông, bác sĩ bưng tách cà phê lên, làm bộ uống nốt những giọt đã cạn tử hồi nào, nuốt trôi được mớ nước miếng và rất bằng lòng thấy sao mình lanh trí được như vậy.
Thấy rằng nếu làm bộ chê món thịt cuốn thì thất sách, bác sĩ ấp úng:
- Tôi vừa ăn xong cũng món độc nhứt đó.
Nhưng bác sĩ hối bận ngay. Ờ, mình đã ăn rồi thì còn ma nào nó mời nữa.
Tương không mắc cỡ miệng, mặc dầu bác sĩ nhìn anh trừng trừng. Sau những cái nuốt, anh thè lưỡi liếm môi mỡ và đánh lưỡi một cái "chách" lên đốc giọng. Bỗng một miếng mỡ rơi xuống đất. Bác sĩ nhìn theo vừa tiếc hùi hụi thì một con chó vện chực sẵn đâu dưới ấy hồi nào không biết, táp phập ngay lấy.
Nhìn sự chụp giựt của con chó đói nhà quê, nhìn lại mình, một niềm tủi nhục mênh mông bỗng dâng trào lên, vặn thắt trái tim không bao giờ biết thổn thức của bác sĩ lại.
Bác sĩ cúi gầm mặt xuống chiếc bàn cũ. Trong giây phút những hình ảnh xưa ở đâu hiện về, chớp nhoáng; hai người bịnh nghèo ăn cắp giá xào lẫn nhau, mười lăm năm về trước, những người nhà quê bu quanh một cái hòm, ăn nhậu; những miếng thịt heo đút lò cả chồng mỡ, trong đình làng...
Bị kích thích mạnh, óc bác sĩ Hai làm việc chóng và nhiều hơn bao giờ hết.
- Tại sao họ tham ăn, tại sao mình thèm ăn quá như vậy?
Câu trả lời đến ngay trong trí bác sĩ.
Sự thật nảy ra như tia lửa trong một buổi sáng thèm thịt làm ông ta lảo đảo. Ông nghe cả một sự sụp đổ trong người ông. Sự sụp đổ của nhơn sinh quan sẵn có của ông.
Sự thật đầu tiên, đến tóc bạc hoa râm ông mới tìm thấy.
Rồi ba chơn, bốn cẳng, ông chạy ù về nhà, miệng lẩm bẩm:
- Thôi không thèm trốn về nữa. Mình phải đi xin một việc làm mới được. Phải mà, người mình không tham ăn sao được!
Thứ Ba, 14 tháng 10, 2025
TRE PHẢI TÀN - Bình Nguyên Lộc
Thăm lại làng cũ với mớ kỷ niệm buổi thiếu thời đang ngủ yên dưới gốc da đầu làng trong mấy ngày giỗ tổ sắp tới, đông đủ bà con, là một niềm vui nhè nhẹ.
Phấn khởi lắm là chuyện chàng sắp cưới vợ. Ân về làng để báo cho ông trưởng tộc hay tin lành đó. Chàng thuộc chi thứ trong họ, cha mẹ chàng định hôn nhơn cho chàng là đủ rồi, nhưng cũng phải thưa qua với ông nầy. Cô Mai đẹp, ngoan, có hạnh, có nết, có duyên và có lu bù đức tính tốt khác nữa, kể sao cho xiết !
Nhưng sôi nổi trong lòng chàng là viễn ảnh danh vọng mà bác sĩ Ân sắp đoạt được. Chàng sẽ nổi danh, mà nhứt là chàng sẽ hưởng được lạc thú ở đời hơn vì vương đế nào cả.
Bất giác chơn cẳng Ân làm việc nhanh chóng như để ăn nhịp với sự bồng bột bên trong. Nếu đi bộ thì chàng đã chạy rồi. Lái xe, chạy không được, chàng đạp lút ga săng vậy.
Từ lúc mới vào học trường thuốc, bác sĩ Ân đã nghiên cứu sự già nua của con người để tìm thuốc trường sinh. Thấu đáo được nguyên nhơn sâu kín của thứ bịnh nan y kim cổ ấy, bác sĩ Ân chế ra một trị liệu làm cho trẻ lại những tế bào ủ rũ trong thân thể những người già.
Công việc còn đang ở trong vòng thí nghiệm, nhưng bác sĩ thoáng thấy kết quả rực rỡ của nó rồi.
Phương pháp trường sinh của chàng sẽ thành công. Chàng sẽ nổi danh. Mà thứ nhứt là chàng và Mai sẽ trẻ mãi để hưởng mối tình muôn xuân của họ.
Thế hệ con người kế tiếp nhau mà tàn mọc, nhưng đôi bạn trẻ cứ đắm đuối trong tình yêu huyền ảo, bất chấp thời gian.
Ân tin là chàng sẽ thành công trong khi bao nhiêu y sĩ khác trên thế giới thất bại. Vì họ, đến lúc đầu bạc răng long họ mới hoảng lên, hối hả tìm thuốc. Thế còn đâu đủ thì giờ để hoàn thành nghiên cứu. Chàng, chàng đã bắt tay vào việc ngay từ năm mười chín tuổi.
Chỉ phiền có một điều là trị liệu mà chàng nghĩ ra rất tốn kém vì phải đeo đuổi áp dụng trong nhiều năm. Không phải ai cũng hưởng được cái diễm phúc trẻ mãi với tháng năm.
Nhưng Ân tự an ủi: "Ít người hưởng còn hơn là không ai được hưởng cả".
Bận lo ra nên Ân phóng xe ra khỏi ngả ba đường quẹo vào làng mà không hay. Đang chạy ngoài nắng chang chang xe bỗng chun vào một đường hầm xe lửa tối om. Rừng cao su dày mịt hai bên đường đuổi cả nắng ở đây không còn sót một giọt. Những cây cao su già cỗi trồng ven đường giao nhành lại với nhau kết thành một vòm xanh che kín mít trên đầu chàng.
Điều kiện thấy thay đổi đột ngột quá khiến Ân suýt lạc tay lái. Ý thức chàng bấy giờ mới trồi trở ra ngoài và chàng chợt nhận thấy là mình đã đi khỏi ngã ba làng.
Ân quay xe lại và mười phút sau, chàng quẹo vào con đường đá đỏ bên trái, thân yêu với những cây sao bạn cũ trồng ở ven đường mà thuở bé chàng hay lân la để tắm mưa hoa trắng dưới tàn.
- Y hệt như hồi đó ! - Ân chạy xe chậm chậm cho đỡ xóc, nhìn hai bên đường và lẩm bẩm như vậy.
Đá đỏ lâu đời bị bánh xe bò nghiến nát thành bụi, nhuộm hồng cả cây cỏ hai bên đường. Không lần nào ngâm câu Kiều:
Bụi hồng dặm cuốn chinh an
Mà Ân không bùi ngùi nhớ lại cảnh nầy và giờ đây câu thơ ấy bỗng lại như văng vẳng bên tai và văng vẳng bên tai những âm thanh khác, huyền diệu vô cùng vì nó giúp chàng hoàn đồng trong giây lát.
Nhà thờ họ Tôn ở mép trái, khuất dạng trong vườn cau. Nhưng Ân đoán thấy được, nhờ nhắm cây da trước miễu làng, mọc đối diện với vườn nhà. Miễu làng đã bị tàn phá trong thời chiến tranh, cây da đã trốc gốc nhưng thân cây còn nằm đó và tiếp tục sống như một ông lão cao niên mắc chứng tê bại phải nằm tháng nầy qua năm khác.
Ở đây, nhà cửa đều cất day lưng ra đường vì dưới kia là ruộng mà khoa địa lý dạy phải cho nhà ngó mặt xuống ruộng mới mong làm ăn khá.
Thành ra Ân vào nhà bếp trước. Vì khách thường nào cũng vào đó - nhà trên chỉ mở cửa vào những dịp bất thường thôi - nên nhà bếp cất rộng rãi như một nếp nhà của người có ăn. Nhà có hai nóc. Nóc trên dùng làm nơi tiếp khách, nóc dưới - tức là nóc gần đường - dùng làm nhà khói.
- À, anh lang băm về trễ dữ !
Người bác thứ ba Ân kêu lên như vậy rồi thì trong nhà thiên hạ túa ra mừng khách.
Nhà bếp hôm nay chứa đến non một trăm người. Ông cụ ăn hương hỏa nhà nầy có bốn người con, vừa trai vừa gái, đều ở trong làng nối nghiệp ông cha. Người con trưởng ông đã trên bảy mươi, có cháu nội cháu ngoại đủ cả, mấy người sau cũng thế. Thêm vào đó những chi thứ, con cháu của em ông cụ, mà Ân là một.
Họ Tôn là một họ lâu đời, rất hiếm hoi ở miền Nam nầy: Gia phổ nhà ghi tên đến ông tổ mười hai đời, và hiện người ta biết mồ mả của ông tổ chín đời.
Cánh họ Tôn nầy rất quí trọng sự lâu đời của nhà họ và cố giữ trọn truyền thống cũ để có cớ mà tự hào. Thành ra ngày giỗ nào con cháu cũng tựu về đông đúc như vậy cả.
Ân thuộc chi thứ, không có bổn phận về cúng giỗ tổ cho lắm, và cũng không cần sự tự hào gia tộc, nhưng chàng vẫn về vì ngôi nhà thờ ấy đã chứa chấp không biết bao nhiêu kỷ niệm buổi thiếu thời của chàng. Mấy người ở chi thứ khác, toàn người Sàigòn, về đó hôm nay cũng vì lẽ ấy.
Về quê, tức là ngược dòng thời gian để lên nguồn đời minh. Thú biết bao ! Về quê vào ngày giỗ tiên thường, ngày Tết lại càng thú gấp bội.
- Con đã ăn gì chưa ?
Đó là câu hỏi đầu của người cô thứ tư, góa chồng và không con, ở nhà thờ để phụng dưỡng ông cụ.
Nội câu hỏi ấy cũng đủ làm cho lòng Ân nao nao, thương thương, nhớ nhớ những giương mặt của những người đờn bà trong họ nay đã khuất bóng, người nào cũng nuông con cháu bằng cách cho ăn.
Ân đã ăn rồi, nhưng cứ đáp là chưa để được hưởng trước những món cúng nhà quê lạ miệng và rất gợi nhớ.
Trong khi người cô hấp tấp chạy vào nhà khói thì người bác hai giới thiệu mấy đứa cháu nhỏ với Ân. Nhiều đứa, bận về trước, Ân không thấy: chúng còn bé quá, hay chưa đẻ cũng nên. Ân lơ đãng nghe danh từ đứa, xoa đầu của chúng lấy lệ vì biết chắc rằng lát nữa đây sẽ quên hết. Lũ nó đông trên ba mươi, làm sao mà nhớ thằng nào là thằng Cu và thằng nào là thằng Minh Dũng.
Ân được đãi bữa ăn sáng: bún, vịt tiềm, chàng vừa ăn vừa mách thuốc bởi vì bà con người nào cũng có sẵn một chứng bịnh trong mình cả, đợi gặp mặt ông lang nhà để hỏi thuốc khỏi tốn tiền đi đốc tơ.
Ân hỏi người bác hai:
- Thưa bác, ông vẫn mạnh khỏe như thường chớ ?
- Ông năm nay yếu hơn mọi năm, nhưng còn đi đứng được.
Ân ngó lên nhà trên, hình dung một ông lão đang ngồi chờ con cháu. Phải, họ bỏ ông cụ trên đó một mình và ngày giỗ, ngày Tết, con cháu về đông vầy, mà ông cụ vẫn cô quạnh như thường.
Ngôi nhà thờ ba gian hai chái, rộng minh mông như một ngôi chùa, càng giống ngôi chùa hơn, là sự vắng người ở trong đó.
- Những ngày thường, cửa đóng kín mít, chắc ghê sợ lắm - Ân nói một mình mà như hỏi ai.
Người bác hai vuốt chòm râu bạc mà nói:
- Cô Tư cháu nói hôm qua mở cửa để dọn quét bụi bặm, bắt được dưới bàn thờ giữa hai vỏ rắn lột.
Bỗng mọi người nín im, nhìn nhau mà cười bằng mắt: ông cụ đang nói chuyện một mình trên đó, mà nói lớn như là người đối thoại nặng tai lắm.
- Ông tối ngày cứ chơi với mấy cái giỏ mây, sắp vô rồi lấy ra, tìm trái cau, trái quít mà bỏ vào đó, như trẻ con chơi trò buôn bản...
Ân nghe là hiểu ngay; đó là địa hạt của chàng: tâm lý của những người già quá. Họ càng cao niên càng trở về với tuổi thơ ấu, ngủ sớm như trẻ, con mắt mờ, nhưng mờ đến độ chót, đến "quá làn" bỗng lại sáng tỏ ra, khỏi đeo kiếng nữa. Đến một khi kia, họ khờ dại ra, bỏ rơi lần lần những gì mà kinh nghiệm sống đã dạy họ, họ không còn ước lượng được sức nặng, thời gian, không gian nữa.
- Thưa bác - Ân hỏi - ông lẫn luôn hay mới lẫn có lúc thôi.
- Chỉ lẫn có lúc thôi.
- Như vậy tinh thần ông cũng khá tráng kiện, ông đã chín sáu rồi. Có người chưa chín mươi đã lẫn luôn, không còn nhận ra con cháu nữa.
Khi Ân ăn xong bữa, người bác Hai nói:
- Giấc sớm mai thường thường ông sáng suốt lắm. Ta kéo nhau hết lên nhà trên để chào ông.
Không ai hoan nghinh ý kiến đó, nhưng ai cũng đứng dậy để đi theo ông trưởng tộc tương lai nầy. Ông ta đã bảy mươi bốn tuổi mà trông còn quắc thước lắm. Ông ở riêng với con cháu ông, nhưng khi nào ông cụ ở đây qua đời rồi, ông sẽ về đây mà coi nhà thờ.
Cả đoàn đi như đi đám cưới, long trọng vòng ra cửa trước, mặc dầu có cửa sau gần hơn. Người bác Hai bước lên bực đá ong và tằng hắng một tiếng.
Ân thấy ông trưởng lộc đầu sói sọi, da đầu láng bóng, trông giống như ông Thọ trong tranh Tàu, đang ngồi xếp bằng trên chiếc tràng kỷ, tay mân mê một cái chén trà cổ.
Nghe tiếng động, ông cụ ngước lên rồi kêu:
- Cả ! Dữ ác hôn, tới bây giờ mới về !
Người bác Hai là cựu Hương Cả trong làng. Đây là kêu theo chức tước địa phương, chớ không phải kêu theo lối miền Bắc.
Ông Cả Hai bước đã tới trong mà con cháu có đứa còn đứng ngoài sân vì đoàn dài quá. Đây là cuộc họp mặt của bốn thế hệ người, từ ông cụ chín mươi sáu đến thằng bé lên năm, và là cuộc họp mặt toàn quốc có đủ mặt người Bến Tre, người Sàigòn, và người ở xó quê miền Đông nầy.
Ông Cả Hai kề miệng vào sát tai cha mà hét:
- Con cháu nó về đông đủ thăm tía, với lại để cúng giỗ !
Ông trưởng tộc gục gặc đầu và nói:
- Biểu chúng nó vô hết trong nầy.
Ông cụ nhìn đám con cháu vào nhà và vẹt qua một bên, cười bằng cái miệng móm sọm rồi hỏi:
- Chúng nó có ăn gì chưa ?
Ông Cả Hai hét đáp:
- Đứa nào cũng ăn no rồi hết. Bữa nay có thằng Ân, con của chú Tư về để...
- Chú Tư nào ?
- Chú tư Huệ ấy, cháu nội của chú Ba của con, tía quên rồi hay sao ?
Ông nội của Ân là em ruột ông cụ. Nhưng ông cụ cố nhớ mãi mà không nhớ ra. Rốt cuộc ông cụ cũng hỏi:
- Đâu, nó mấy tuổi rồi, bước lại đây xem.
Ông Cả Hai và cả đoàn cười rộ lên. Ông kéo Ân đến trước mặt ông cụ và hét:
- Nó hăm bốn tuổi, mà đậu tới đốc tơ lận.
Ông cụ mỉm cười nhưng không nghe rõ nên nghiêng đầu đưa tay ra để đòi nghe lại câu vừa rồi.
Ông Cả Hai hét to hơn:
- Nó vừa đậu đốc tơ !
- Ạ ạ... đốc tơ. Giỏi quá ! Chà giỏi quá ! Mới hăm bốn tuổi ! Nhưng con cũng phải học thuốc ta mới hoàn toàn được.
Ông cụ nắm tay Ân, nhìn chàng trân trối rồi hỏi:
- Con có biết chuyện "Phúc thống phục nhơn sâm... tắc tử" hay không ?
Ân biết câu chuyện bốc thuốc đó, nhưng ông cụ vừa hỏi xong thì cười ha hả và cười mãi như vậy, nên chàng chỉ nhoẻn miệng cười và đứng đó làm thinh.
Bỗng ông cụ chỉ tay vào đám đông hỏi:
- Đứa nào kia ?
Ngón tay ông cụ chỉ ngay con Hạnh, cháu nội của cô Năm. Gia quyến Hạnh ở Sàigòn cũng mới về hôm nay.
- Dạ, đây là con Hạnh, kêu tía bằng ông cố.
- Con Hạnh ! Ai cho phép con cắt tóc đó ?
Mọi người chưng hửng. Con Hạnh năm nay mười tám tuổi, nó uốn tóc quăn là sự thường như là ta thở hoặc ta đánh răng bằng bàn chải.
Con Hạnh bước tới, mặt tái lét, ú ớ đáp gì nho nhỏ trong miệng không ai nghe được cả. Mà ông cụ cũng chẳng thèm nghe, cứ lắc đầu mãi rồi nói:
- Thân thể phát phu, thọ chi phụ mẫu, bất cảm hủy thương ! Có cái đầu để thờ ông thờ bà, lại đem mà cắt ngang đi, thì còn "Hạnh" cái nỗi gì.
Bỗng ông cụ ôm lấy chơn mình, rồi vừa nhăn mặt vừa hít hà kêu lên:
- Ý ôi ! Trời ôi ! Nó nhức chết đi thôi !
Bác sĩ Ân đứng ngây người ra. Cảnh trước mặt chàng chưa đầy mười lăm phút đồng hồ mà thấy sao y như là cả một đời kinh nghiệm nó bắt chàng soát lại quan niệm của chàng về lẽ sống.
Ông cụ đã đến tuổi không còn hiểu được ai nữa cả. Uốn tóc quăn, ông cụ không hiểu mà chắc bao nhiêu chuyện khác cụ cũng chẳng hiểu được.
Mấy đứa bé đứng đàng sau đuôi kia, ông cụ có thương yêu chúng nó hay không ? Chắc là không ! Những lúc không lú lẫn, chắc ông cụ bận nhơi lại dĩ vãng như bao nhiêu người già khác, không thiết đến tương lại đã đành, mà cũng thờ ơ với hiện lại. Thương yêu đã chết nơi lòng người một lượt với ham muốn thì chắc ông cụ cũng không bao giờ nghĩ đến bà cụ, đang nằm yên dưới mồ.
Con cháu chắc chắn là không thương yêu ông cụ rồi. Thế hệ thứ ba không ở chung với thế hệ thứ nhứt thì khó mà bị dính líu về tình cảm với thế hệ ấy lắm.
Còn nói gì thế hệ thứ tư là con Hạnh kia. Nếu luân lý không dạy nó phải thương yêu ông cố thì ông già ngồi trước mặt nó để mắng nó bằng chữ nho kia, bất quá chỉ là một ông lão gàn.
Không, không một liên hệ tình cảm gì giữa những thế hệ người xa nhau quá như vậy: Ngay như ông Cả Hai, tình thương cha của ông chắc đã bị tình thương vợ, thương con, thương cháu cướp hết cả rồi.
Không, không nên sống nhiều quá, sống lâu quá. Mình không thương ai được nữa mà cũng không còn ai thương mình nữa thì sống làm gì. Cho đến bạn hữu quanh mình, những người cùng thế hệ, cùng cảm nghĩ với mình, cũng đã từ giã cõi đời rồi thì sống thiếu tình thương lại thiếu cả tình bạn nhè nhẹ để cho vui tạm những lúc trà dư thì còn thú vị gì ?
Ân nghĩ tới đó thì nhớ lại bụi tre đã gặp ở đầu làng khi sớm. Không hiểu vì lẽ gì mà cả bụi chỉ đứng trơ lại một cây, ngoặt ngoẹo dưới gió đồng. Tre đẹp nhờ xúm xít lại từng bụi lớn. Đứng lẻ loi một mình, xem nó vô duyên làm sao !
Những cây tre cô độc ấy phải tàn, không vì một mục đích vị tha nào cả, như là tre phải tàn cho măng mọc chẳng hạn, mà vì lợi riêng. Nó sống một mình có lợi gì cho nó đâu. Nó bị bơ vơ không biết thì thầm với ai lời gì. Cho đến gió cũng chẳng thèm ghé lại để rì rào với nó những câu chuyện thân mật hằng ngày.
Tre phải tàn, và con người phải chết. Thuốc trường sanh không giúp con người hưởng hạnh phúc lâu dài đâu.
Sống sót trên đời với những thế hệ không thân với mình, thật không khác nào sống sót sau một trận dội bom khinh khí, sau cuộc tận thế, sống một mình với những hòn đá chung quanh, nó không thèm biết có mình, hay chỉ xem mình là một hiện tượng lạ mắt thôi.
Ông cụ xổ nho một hơi, rồi như quên mất câu chuyện uốn tóc quăn, vuốt râu rồi nói:
- Tụi bây, bây giờ yếu nhớt, coi đứa nào đứa nấy ốm như con còng gió. Tao ngày xưa, tao bẻ cây tầm vông như là bẻ cọng rạ. Có vậy tao mới đả hổ được chớ.
Không đánh cọp làm sao mà làm ruộng. Nè, hễ mình lấn rừng thì cọp nó ghét, nó rình để móc họng mình mà trả thù việc phá chỗ ăn chỗ ở của nó.
Bọn tao đứa nào cũng thủ sẵn đủ cả khí giới. Ai đốn cây cứ đốn, ai đánh gốc cứ đánh, mà hễ nghe cái mùi khen khét thì...
Mắt ông cụ bỗng sáng lên. Bao nhiêu sinh lực còn sót lại trong người ông cụ đều dồn lên trên và muốn vọt ra ngoài nơi hai con mắt thình lình tỉnh dậy ấy.
Ân thoáng thấy con cháu ông cụ rút êm đi lần lần, lũ cháu nhỏ đi trước, kế đến những anh chị, em út cùng thế hệ với chàng.
Đám con cháu tan lần cả, chỉ còn sót lại hai người bác và hai người dượng rể thôi.
Ông Cả Hai rót ra một tách nước rồi bưng cho ông cụ và hét rằng:
- Tía nói nhiều, mệt, uống nước để thấm giọng.
Ông cụ rước lấy tách trà nóng, hớp từng hớp một, rồi quên luôn vụ đánh cọp đang kể dở chừng.
Trời ơi, Ân kêu thầm ! Ông cụ không hiểu con cháu, mà cón cháu nó cũng không hiểu ông cụ chút nào. Đây là câu chuyện mà ông cụ đã kể hằng trăm lần rồi, nên chúng nó đâm ngấy mà rút êm đi cho khỏi bực phải nghe.
Chúng có nhớ đâu rằng ông cụ là con của những người tiên phuông đi khai hoang miền Nam nầy, và thời kỳ đánh cọp phá rừng, là thiên anh hùng ca mà ông cụ hãnh diện lắm, kể mãi đến chết cũng chưa chán.
Bấy giờ cả những người bác, người dượng rể cũng xin phép mà lui.
Riêng Ân, chàng vẫn ở lì đó vì chàng tội nghiệp cho ông cụ quá. Vả câu chuyện hôn nhơn chưa thưa kịp.
Ông cụ ngó mông ra ngoài vườn cau giây lâu rồi như sực nhớ ra còn một đứa cháu trước mặt, nên day lại nhìn nó rồi hỏi:
- À, con tên gì, ông quên mất rồi ?
- Thưa con tên Ân !
- À, Ân. Con có biết ông thuộc tuổi gì hay không ?
- Thưa tuổi Thìn.
Ông cụ cười ha hả rồi nói:
- Ai lại không biết ông tuổi Thìn, nhưng thuộc vào tuổi gì chớ ?
Ân ngơ ngác không hiểu câu hỏi của ông cụ. Thấy chàng bí, ông cụ giải thích:
- Nầy, hễ sáu mươi người ta gọi là Thọ ; bảy mươi họ gọi là Trung Thọ, còn tám mươi là Thượng Thọ. Vậy ông trên chín mươi gọi là gì ?
Ân đáp bừa:
- Thưa, là Đại Thượng Thọ.
- Hừ, dốt, trẻ bây ngày nay dốt lắm. Cái gì mà Đại rồi còn Thượng nữa. Chín mươi sắp lên là Thiên Liễu đó.
Ông đã Thiên Liễu từ mấy năm nay rồi. Thiên Liễu là tuổi bất khả xâm phạm, ông bây giờ rủi giết người cũng không phải tội. Vua có vô làng, cũng phải nói chuyện với ông.
Một lần lữa, ông cụ sáng mắt lên. Gương mặt sắp hết chất sống của ông lão được sự hãnh diện cuối mùa làm tươi hẳn ra.
Nhưng Ân lại nghe thương hại quá sức cái tuổi Thiên Liễu nầy, bị phạt phải sống trơ trọi trong không gian và trong tình cảm !
Không, con người không nên Thượng Thọ cũng chẳng nên Thiên Liễu làm chi. Bảy mươi, nhường chỗ cho kẻ khác là vừa rồi.
Ân vụt nhớ lại điệu nhạc đám ma ngoại lai mà chàng đã nghe hôm tuần tnrớc. Đó là đám ma của một ông nhà giàu dốt, rước kèn tây thổi cho oai. Bọn kèn tây đã thổi bản "Tạm biệt".
Chàng đã mỉm cười chế nhạo bọn nhà giàu dốt ấy ! Nhưng nay nghiệm ra, họ có lý của họ biết bao: ông nhà giàu bảy mươi ấy chết là vừa lắm rồi, nên con cháu nó không buồn, cho nhạc công thổi bản vui để ăn mừng một cuộc rảnh nợ.
Ân nhìn ông cụ bóp chơn và nhăn mặt kêu đau, rồi lẩm bẩm một mình:
- Giúp cho một vài ông cụ, một vài bà cụ sống dai như ông cụ trưởng tộc họ mình sống để không ai thương, không thương ai cả, sống bơ vơ như một Từ Thức, trong khi bao nhiêu người đồng thời đều đã ra ma, ích lợi gì cho người thọ ?
Và phương thuốc trường sinh tốn tiền của mình chỉ tổ làm khổ cho mấy ông nhà giàu, sống sót lâu quá với những thế hệ khác mà thôi.
Thứ Bảy, 11 tháng 10, 2025
VỀ LÀNG CŨ - Bình Nguyên Lộc
Từ ngày dời nhà ra chợ đến nay, chị Mít đã thay đổi tánh nhiều
lắm chớ không còn là một người vợ chỉ biết phu xướng phụ tùy như hồi họ
còn ở trong làng nữa. Nhưng chị Mít chỉ đâm ra cứng đầu vì bắt chước cái
thói nam nữ bình quyền ở đây vậy thôi chớ chưa hề dám nổi loạn hẳn như
hôm nay.
- Sao, mầy nói sao?
Anh Cam xốc tới, mặt hầm hầm, đôi mắt đỏ ngầu như mắt thằng điên, vừa hỏi gặng vừa cung tay.
Nhưng chị Mít không sợ hãi chút nào. Chị ấy xon xỏn lập lại câu chọc tức của chị khi nãy:
- Không ai mà cần thèm ai. Con nầy không sợ đói đâu. Chỉ có ai kia mới là bất tài, không nuôi nổi vợ con thôi.
- Đ m... tao đánh thấy mẹ mầy.
Anh Cam cũng đã nhiễm thói tục ở chợ, thói của mấy anh phu vác
gạo, chớ hồi ở làng anh đâu có chửi thô tục như vậy. Nhưng căn bản hiền
lương vẫn còn sót lại nơi người anh rất nhiều, thế nên vừa xốc tới trước
mặt vợ, anh vừa đưa mắt nhìn quanh để tìm một cái tộ, hoặc một cái
chén, tóm lại những thứ đã dòn, dễ bể như pha lê hay đồ sứ Lái thiêu để
mà đập cho hả giận vì anh không thích trút tất cả cơn thịnh nộ của anh
lên người của chị Mít.
Nhưng ở đây là buồng trước, không có món nào khả dĩ làm bia đỡ
giận được cả. Bình hương và bình bông bằng sứ Lái thiêu trên bàn thờ, cỡ
ném xuống đất một cái thì bể dòn lắm, nhưng đó là của thiêng liêng bất
khả xâm phạm. Chỉ còn có bốn bước nữa thì anh Cam tới trước mặt chị Mít.
Chị ấy đang nghinh anh một cách khiêu khích và anh tuyệt vọng vô cùng
bởi không vớ được món nào giúp anh xì hơi giận hết. Cùng thế, anh đá
thật mạnh vào... một cây cột nhà.
Cả hai vợ chồng đều rụng rời vì khủng khiếp: cây cột ấy gẫy làm ba, bốn đoạn, và rơi xuống nền đất kêu lổn cổn.
Cái tiếng kêu ấy đáng lý phải cho họ chợt thấy cái gì khác lạ, nhưng sự việc bất ngờ quá khiến họ quên mất chi tiết ấy đi.
Chị Mít chỉ khiếp sợ vì thấy chồng mình sao bỗng dưng mạnh gớm.
Anh Cam là một nông dân lực lưỡng, đã có lần dám chụp sừng của một trâu
điên để đè đầu nó xuống và anh đã thắng nó trong mấy phút cho dân làng
kịp vây trói, ngăn nó tác hại. Nhưng dầu sao sức mạnh của anh cũng còn
kém sức mạnh của Lý Nguơn Bá một trời một vực, cớ sao hôm nay thình lình
anh ăn gì mà mạnh lên như thần, đá một cái là gãy một cây cột nhà bằng
bê-tông, to bằng bắp vế người lớn?
Vâng, cột nhà này chắc chắn là bằng bê-tông chớ không thể bằng
gạch vì nó tròn chớ không vuông, lại được quét nước vôi lên, trắng toát.
Ngày ra chợ làm ăn để trốn những cơ cực ở thôn quê, thuê nhà này, anh
Cam đã ngạc nhiên tự hỏi sao nhà vách ván, lợp ngói âm dương, nền đất mà
họ lại đúc cột bằng bê-tông làm gì cho tốn tiền?
Chị Mít kinh sợ vì thế, còn anh Cam thì mất hồn vì nghĩ rằng nếu
anh đá vợ, có phải đã gây án mạng hay không? Cột bê-tông to thế kia mà
còn chịu không nổi cái đá của anh thay, huống hồ gì chơn yếu tay mềm của
vợ anh! Nếu lãnh cái đá ấy, chắc chắn chị Mít đã dẹp như một cục đất
sét lò chén bị thợ đạp lên để nhồi cho nó nhuyễn.
Chị Mít đứng chết sững mấy mươi giây rồi vụt bỏ chạy mất, kẻo chồng chị đạp một cái nữa mà lại nhè đạp lên chị thì bỏ đời.
Anh Cam thì nư giận cũng đã theo cái đá của anh tan rã như cây
cột. Anh nhìn kỹ lại thì kinh ngạc hết sức. Đây là một cây cột rỗng
lòng, làm bằng những ống dẫn nước bằng đất nung, do lò gốm địa phương
nầy sản xuất. Những ống đó chắp lại, trét sơ xi-măng ở những mối ráp rồi
quét nước vôi lên, thì trông cứ như là bằng gạch, hay bằng bê-tông gì
ấy.
Anh Cam vụt cười khan lên một mình. Nếu biết thì anh đã đá thêm
vài đá nữa cho gẫy thêm vài cây cột, chắc chưa đến đổi sập nhà mà chị
Mít đã mất mật và sẽ tởn tới già không dám ương ngạnh với anh nữa.
Anh ngồi bẹp xuống đất rồi xoa chân, vì mặc dầu bàn chân anh
không nát trong cuộc va chạm mạnh bởi một vật ngỡ cứng như đá, chớ nó
cũng không tránh khỏi đau đớn phần nào.
Anh lại vụt cười khan lên một mình lần nữa: anh nhớ đến những
nếp nhà của thợ đá dưới chân núi Bửu long trên Biên hòa. Nhà họ là nhà
tranh vách đất, nhưng cột làm bằng đá xanh như những cung điện nguy nga
Đế thiên Đế thích. Nếu anh chàng thợ đá nào giận vợ mà đạp vào cột như
anh thì bỏ đời.
Cơn vui này bỗng được một buổi nghĩ ngợi lung tung nối tiếp theo.
Thì ra con người sống với hoàn cảnh nhiều quá.
Con cắc kè đổi màu tùy theo chỗ nó nằm. Nếu nơi đó là rong rêu
thì nó lấy màu xanh, còn như nằm trên tảng đá ong, nó lại tự nhuộm màu
đỏ. Dân ở chân núi Bửu long làm cột nhà bằng đá xanh vì đó là vật liệu
họ có sẵn bên tay mà cũng chẳng tốn kém gì. Còn dân xứ Lái thiêu này mà
làm cột bằng ống nước nối lại thì cũng cùng chánh sách "ở đâu theo đó"
như con cắc kè hay dân Bửu long, vì lò gốm ở đây sản xuất ống dẫn nước
bằng đất nung rất nhiều.
Anh đã sống với hoàn cảnh của anh gần ba mươi năm rồi. Hoàn cảnh
ấy là ruộng, là rơm, là rạ, là trâu bò, là phân chuồng, là cấy gặt. Có
dầm mưa dãi nắng thật đó, nhưng cứ thong thả mà làm không bị ai hối thúc
như ở đây, cực nhọc nhưng lại nhàn nhã vô cùng, mới nghe thì có lẽ như
là mâu thuẫn, nhưng sự thực là thế!
Ở đây, thiên hạ đến gần như là nô lệ của đồng hồ. Không giờ phút
nào là không có ít lắm là một người đưa tay lên nhìn cái mặt tròn tròn
nhỏ xíu ấy một cái rồi hốt hoảng la lên: "Ý chết", đoạn vội vàng xách áo
ra đi như chạy giặc không bằng.
Thêm vào những cái ấy, nhà cửa chật hẹp và không khí nóng bức
làm cho trí óc con người lúc nào cũng như bị đun sôi, dễ bực dọc, dễ đâm
cáu kỉnh. Anh Cam làm ăn không ra làm sao cả lại cứ bị thúc giục, cứ
phải bực mình nên đổ quạu một ngày không biết mấy mươi lần. Chị Mít là
con tằm mà trên đầu chị anh đã đổ trút cả trăm ngàn dâu bực bội, anh
chợt ý thức vậy. Sự cứng đầu của vợ anh thật ra là phản ứng tự nhiên của
một kẻ vô tội thường bị "bố" oan, chớ sự thay tâm đổi tánh của chị cũng
không đến nỗi nào, và chính anh cũng thay tâm đổi tánh kia mà.
"Mình là một người sanh đẻ, lớn lên ở đồng ruộng, anh Cam nghĩ, vợ mình cũng vậy. Mình phải sống ở đồng ruộng mới xong".
Nghĩ xong, anh đứng dậy chạy u đi một mạch: anh đi mua một ống
dẫn nước, mua xi-măng để xây lại cây cột bê-tông giả hiệu hầu trả nhà
lại cho chủ nó.
Cột bê-tông giả hiệu. Danh từ này làm anh mỉm cười lúc anh đang chạy. Vì anh cũng tự thấy anh cũng là kẻ chợ giả hiệu.
Con cái anh về sau mới thành hẳn kẻ chợ được, chớ vợ chồng anh
thì không. Luôn luôn dân quê ra ở chợ phải bị lạc hướng trọn đời của họ
và chỉ có thế hệ sau mới tự nhuộm được màu chợ, chớ họ không thể đổi màu
chớp nhoáng như loài cắc kè vậy đâu. Dân quê ra chợ là những kẻ tự hy
sinh mình, trong cái kiếp của mình, cái kiếp thương nhớ khôn nguôi chơn
trời cũ, cái kiếp chịu đựng hoàn cảnh mới mà họ theo không được.
Trên chuyến về, chạy ngang qua nhà ông chủ tiệm gạo nơi mà anh
Cam làm công, anh thấy vợ anh đang ngồi bó gối trên một bao gạo chỉ
xanh.
Chị Mít vừa thấy mặt chồng thì biến sắc, toan đứng lên để tẩu thoát nữa, nhưng mà giọng anh Cam sao lại dịu quá như là cam ngọt:
- Má nó ơi, con Quít đâu?
- Nó đi chơi rồi.
- Kêu nó về để mẹ con sửa soạn. Mai sáng, ta về quê.
Chị Mít lại càng hoảng hơn khi nghe sự quyết định bất ngờ của
chồng chị. Chị sợ vì chị tin rằng anh đã hóa điên. Ừ, những người vừa
nổi cơn điên thường trở nên mạnh mẽ vô cùng, năm bảy đàn ông lực lưỡng
giữ cũng không được. Anh Cam đã không vừa đá bể một cây cột bê-tông đó
à?
Sợ, nhưng thương chồng, chị không tính chuyện chạy trốn nữa. Chị
bước ra đường, dè dặt để kịp tránh né nếu anh ta lại nổi cơn điên.
- Ba nó nè, chị gọi chồng nho nhỏ, giọng vỗ về.
- Gì?
- Ba nó có sao không ?
- Chỉ trầy sơ bàn chân thôi.
- Không, tôi hỏi ba có nghe trong người bực bội, bứt rứt hay không?
- Có
- Từ bao lâu rồi?
- Từ hai năm nay.
- Vậy hả?
Chị Mít ngơ ngẩn không còn hiểu đâu là đâu nữa. Thì ra không phải anh ta mới bực bội đây rồi hóa điên.
- Nhưng về làng thiệt hả, ba nó?
- Ừ, về làng.
- Bỏ chỗ làm sao?
- Không tiếc. Ở đây ta cũng chỉ đủ ngày hai bữa. Về làng cũng đến thế thôi.
- Về làng mình?
Chị Mít hỏi mà gương mặt đi vắng, đôi mắt nhìn xa lắm.
Chị lẩm bẩm một mình:
- Về làng, gần ruộng... gần trâu bò... rồi tôi sẽ trồng rau... nuôi heo... nuôi gà...
- Với lại, gần mồ mả ông bà nữa...
- Ừ, với lại gần xóm giềng, giúp đỡ lẫn nhau, vui không biết bao nhiêu.
- Và ta sẽ lại thấy cây, thấy cỏ, thấy mùa...
- Ừ, ta sẽ thấy mùa... mùa ve kêu... mùa lá rụng... mùa cá hội... mùa đuổi chim...






