Một buổi tối ba mươi Tết,
pháo giao thừa nổ ầm ầm bên cạnh, chú khỉ sợ quá thót nhảy chạy trốn, nhảy mạnh
không ngờ tuột xích. Thừa lúc mọi người bận rộn không ai để ý, chú khỉ mò trốn
về rừng. Ba tháng sau, lập gia đình.
Quen với đời sống giam hãm,
lại quen với cốt cách người, chú khỉ
đi, chạy, nhảy đều chậm. Cả tiếng khẹc, tiếng chí chóe cũng có pha chút chất người trong đó. Mang về rừng núi và giữ
lâu hơn cả là cái điệu ngồi. Khác với đồng
bào chuyên môn ngồi chồm hổm lưng cong, chú khỉ ưa ngồi dựa ngửa, chân tréo
bỏ thõng. Mụ vợ chúa ghét.
Khỉ có vài đứa con, chú khỉ
không ưa cái tính lấc cấc của tụi nhỏ. Cứ tập hoài, tập đi đứng khoan thai, tập
nói năng chậm rãi, tập cử chỉ từ tốn… Nhưng tập đâu quên đó. Cái mặt thì húc
hất, con mắt thì láo liên, hai tay hết mò gãi dưới nách đến mò gãi sau mông.
Rồi thoắt một cái nhảy thót lên cành cây, lượn như bay giữa chùm lá. Chú khỉ âm
thầm nhớ những đứa con của bà chủ. Yêu nhất là cái dáng đứng thưa gửi của chúng
trước mặt cha mẹ, trước mặt những vị khách, chắp tay cúi chào. Chao ôi, nếu lũ
khỉ con mà làm dùm được cho mình một lần thì còn sung sướng hơn cả Ngài khỉ
đột! Nhưng lạ, cánh tay của chúng hình như không có khớp, thiếu lắt léo. Cứ
thẳng đơ, ngay đuỗn, quơ đâu đụng đó, ngã đó, rớt đó, gẫy đó. Thật nản.
Không chỉ chỉ trích những
thói khỉ trong gia đình, chú khỉ còn đưa những ý kiến cải cách nói với các khỉ
khác ở quanh vùng:
- Mình thấy lũ người chúng
nó nhai đâu nuốt đó. Đồ ăn dư thì để dành chiều mai ăn. Chớ không như lũ mình
ngốn cho hết, nhai lật đật rồi để dành trong miệng, phồng cả má. Phồng cái má
chắc là có hại, chưa biết hại cái gì, hại ra sao. Nếu không thì lũ người nó đã
phồng má.
Vài bác khỉ nghe theo. Kết
quả : nửa trái chuối để dành trong xó kẹt, nửa trái thì cất kỹ trong hốc, khi
đói mò tới kiếm thì chẳng biết đứa nào đã nuốt gọn mất tiêu rồi. Cái hại bị
phồng má đâu chẳng thấy, chỉ thấy trước mắt cái hại xẹp ruột. Vậy là hết ai tin
chú, trở lại cất đồ ăn trong miệng như từ thuở hồng hoang.
- Rủ đi xuống Đồng Tròn để
ăn sim hả? Xa lắc. Mấy bữa nay tôi thấy bầy chim bồ chao từ khu rừng kia bay
ngang qua đây ỉa xuống toàn hột sim. Lấy trí mà suy thì rừng đó hiện có sim
chín. Ngày mai bà con mình đi lên phía rừng đó.
Cả xóm nghe lời. Nhưng đi
suốt buổi vẫn chưa tới mép rừng. Té ra ngó thấy thì gần mà đi xa lắc. Trưa trật
mới tới rừng, sục sạo chẳng thấy một cây sim làm thuốc. Đói meo. Chiều về, lết
đi hết nổi. Tới nhà, khuya lơ khuya lắc. Chú khỉ bị rủa, nghe không kịp vuốt
mặt. Sau nhiều lần, chẳng khỉ nào còn tin ở chú nữa. Chú cứ tưởng mình là cuốn
từ điển, nhưng không ma nào còn muốn tra cuốn từ điển đó. Tặng cho cái biệt
hiệu Khỉ Khôn rồi rút êm.
Khỉ Khôn chợt nhớ tới ông
chủ cũ của mình. Ông mới đúng là cuốn từ
điển. Im lặng ngồi một chỗ, ai tra thì nói, chớ đâu có nóng nảy nhăn nhó
như mình. Ờ, khi ông đeo hai cái vòng đen lên mắt (ý muốn chỉ bộ gương hay cặp
kính), trông ông hiền lành từ tốn lạ. Nhất là hễ đeo hai vòng đen là tay ông
cầm cuốn sách, ngồi hàng giờ trước bàn.
Một bữa đi phiêu lưu hái
trái, Khỉ Khôn gặp con đường cái quan. Một cái xe hàng hì hục bò lên dốc. Tiếng
máy rống ré ầm ĩ làm Khỉ Khôn hoảng, nhảy lên chạng cây núp. Xe lên đầu dốc
ngừng lại nghỉ. Những hành khách bước xuống xe, đi túa ra khắp ngả. Khỉ Khôn
điểm mặt từng người. Đây, người đàn bà mập mạp. Kia, người đàn ông gầy gầy.
Kìa, thằng nhỏ. Kia… Khỉ Khôn giật mình. Một ông đứng tuổi mang hai cái vòng
đen nơi mắt. Tim đập thình thịch. Tưởng ông chủ, nhìn kỹ lại không phải. Nhưng
trên đường phóc nhảy về nhà, Khỉ Khôn cứ thấy đôi vòng đen trước mặt.
Mùa hè năm đó động rừng, bầy
khỉ tản cư xuống núi Nhạn. Phố xá cất sát chân núi, khỉ cứ đi lại thong dong
trên mái nhà. Nhiều con bạo dạn lẻn xuống sân, chụp vội một món gì ăn được rồi
nhảy thót chạy trốn. Có con bế luôn cả nồi cơm.
Gặp nhà vắng chủ mà quên cài
cửa hay cài cửa không chặt thì tha hồ khỉ tràn vào cả bầy lục lạo. Trường hợp
tương tự, Khỉ Khôn đã một lần gặp. Mọi khỉ khác lục tung nơi nhà bếp, kiếm cơm
kiếm cá. Khỉ Khôn đi lên nhà trên. Nhìn những bàn ghế, những tranh ảnh treo
trên vách, những cuốn sách đứng sắp hàng. Nhớ ông chủ cũ quá. Cái quạt trần,
cái lọ cắm hoa lạ, sao cũng một loại hoa hồng màu gạch, những cây viết, lại
những cuốn sách bỏ bề bộn… Ô kìa! Cái gương!
Khỉ Khôn vội nhảy lại chụp
cái gương như sợ có khỉ nào chụp tranh với nó. Rồi một tay cầm khư khư, Khỉ
Khôn nhảy thót về núi bằng ba chân còn lại.
Cuộc động rừng đã yên, cả
đoàn trở về rừng cũ. Cuộc sống trở lại bình thường và khỉ khôn tạo ra những dịp
rảnh để được ngồi mang gương . Nhìn ra lạ hoắc. Sao thân cây nào cũng bị uốn
gãy ngang lưng. Đất thì sụp sâu xuống. Những hòn đá cứ rung rinh. Nhưng mà
thích. Chắc trông mình khả kính như ông chủ. Và cũng thông thái như ông. Để trắc
nghiệm, Khỉ Khôn dõng dạc ra lệnh giữa bữa ăn (với cái gương chễm chệ trên
mắt):
- Chạy lấy nải chuối. Chín
ngọt rồi.
Mụ vợ:
- Chín cái gì mà chín?
- Ba ngày nay nắng to, chuối
gặp không khí nóng ba mươi bảy độ bách phân cũng như được ủ lá.
- Xanh lét! – Nhiều cái
miệng cùng nói.
Cái miệng có gương giảng:
- Chuối
hương… nó vậy. Xanh mà chín.
Thằng khỉ út láu táu bẻ một
trái, cắn phập. Lật đật ném ra xa. Khạc nhổ vung lên:
- Trời ơi chát ngầm!
Cái gương bị mất uy tín lần
thứ nhất.
Một ngày nào sau đó, Khỉ
Khôn mang gương nói với lão khỉ già láng giềng:
- … Ông có nói là ông ngồi
đâu gãi đó mà. Vậy là do gan ông nóng. Ông thuộc tạng nhiệt. Ông không thể nhai
gừng để trị chứng đau bụng của ông đâu. Phải dùng vị thuốc hàn, lương. Ăn lá
mùng tơi!
Báo hại, lão láng giềng nghe
lời, bị một trận thổ tả gần chết.
Cái gương mất uy tín lần thứ
hai. Vân vân.
Mùa thu năm đó, một chị khỉ
ở rừng bên đi ngang ghé hỏi tin một gia đình khỉ quen. Thấy Khỉ Khôn đeo gương,
chị nói:
- Trông ông mang gương đẹp
quá. Dáng trí thức.
Khỉ Khôn cúi gập mình, tỏ
dấu cảm ơn. Lần đầu tiên cái gương được tuyên dương.
Chị khỉ này ngày trước có ở
làm xiếc cho một đoàn bán thuốc quảng cáo dưới chợ Chí Thạnh nên thấy hoài
người ta đeo gương. Do đó mà chị không ngạc nhiên. Chớ mọi khỉ khác, hễ thấy
hai cái vòng đen đó là sợ, tìm cách tránh xa. Chúng nghi ngại đó là một thứ
bẫy, một thứ ná, một thứ gì gì đó mà động đến là có tai họa. Mụ khỉ càng ghét
thậm tệ. Có lần “nó” nằm dưới kẹt đá, trên phủ một miếng xơ mít bự. Khỉ Khôn
kiếm sáng con mắt. Mụ thấy, nhưng không thèm chỉ. Vậy mà cuối cùng, ma đưa quỉ
dắt, Khỉ Khôn kiếm ra.
Sau khi khẹc khẹc thông báo
với nhau về tin tức gia đình vị khỉ quen, chị khỉ giã từ. Khỉ Khôn đưa tiễn.
Cũng lịch sự bước kề kề một bên hơi lùi ra sau một chút (chắc là bắt chước ông
chủ cũ). Cũng đưa tay khoát nhè nhẹ chỉ lối. Cũng khẽ nghiêng mình, cũng năng
đưa lưỡi kiếm môi. Chị khỉ cảm động:
- Ông anh lịch sự quá!
Khỉ Khôn mỉm cười:
- Biết nói thế nào đây? Có
những lời khen mà người nhận muốn được trân trọng tặng lại người trao. Nhưng
trường hợp này, cô khen tôi lịch sự có nghĩa là cô tinh tế biết phân biệt thế
nào là lịch sự, thế nào là thô lỗ. Còn có nghĩa là cô xứng đáng để nhận sự đối
xử lịch sự.
Chị khỉ phác một nụ cười
nhẹ. Lúng túng. Có vẻ như chưa hiểu hết ý vị thâm trầm của câu nói khôn của Khỉ
Khôn. Nên Khỉ Khôn độc thoại tiếp:
- Ở đời không dễ gặp được
nhiều những kẻ mà với họ ta có thể biểu tỏ những ưu điểm của ta. Hãy tưởng
tượng nỗi cô đơn của ai bị lưu đày kiểu đó (thì “ông” chớ còn ai nữa). Tin hay
không là quyền của cô, nhưng tôi phải thú thật rằng đây là lần đầu tiên tôi
được khen và… và… và…
Vừa nói vừa bước tới. Nhưng
kìa, cái hòn đá mà bàn chân ông định đặt lên, sao khi đặt bàn chân tới thì…
kìa, sao nó không nằm đúng vào vị trí mà ông thấy… Sao, ưở lạ chưa! Ông hoảng
hốt la lớn : “A”, vì chân bước xuống khoảng không. Bước hụt. Ông bước hụt. Hai
tay vội quơ chụp. Nhưng những nhánh cây ông thấy đều không nằm đúng vị trí bàn
tay ông nhắm chụp tới. Ông ngã xuống. Ông lộn nhào. Ông lần theo triền dốc.
Những viên đá lăn theo ông. Cả những lá mục và lá tươi. Bụi bay mù. Cái gương
văng đâu mất, ông không nghĩ đến, không biết đến, không cần đến vì ông đang
nhắm tít hai mắt. Lăn mãi lăn mãi, ông hết biết mình ở đâu, hết cảm giác đau
đớn. Ông chết ngất.
Phải mãi đến chiều tối vợ
con ông mới tìm thấy ông nằm bất động ở một bụi duối gần chân núi. Ông chưa
chết. Về mượn thêm mấy khỉ thanh niên khỏe mạnh xuống tìm thế dìu ông về săn
sóc.
Sau khi đặt ông nằm yên, bà
vợ xỉa xói:
- Thiệt tao muốn bỏ cho chết
luôn. Hễ nghĩ tới là tao tức lộn ruột. Nói với con mẹ đó thế này chớ : “A, a… Đây là lần đầu tiên tôi được khen và… và…
và…”
Thằng con cố giấu một nụ
cười, chêm vô:
- Và… và… và… là lần chót.
Không biết có còn tỉnh táo
để nghe lời mỉa mai không, chỉ thấy Khỉ Khôn cựa mình. Rồi rên hừ hừ. Lại có
dịp để bà vợ xỉa xói:
- Giỏi, sao còn nằm đó rên?
Bộ muốn nằm vạ? Khéo bày đặt : Khỉ đỏ đít thì cam phận đít đỏ, còn vẽ vời đưa
tiễn! Khỉ mà có chuyện đưa tiễn? Cứ nhảy, thót, vọt, chuyền, níu… cho ra khỉ,
đã là tốt rồi.
Vừa lúc đó, thằng khỉ cháu
ngoại thoăn thoắt bước vô. Tay cầm một cái
vòng đen đen. Ưở, cái gương! Mà sao chỉ còn có một nửa? Chen giữa những hơi thở
hổn hển, giọng thằng cháu ngoại hào hứng:
- Con lượm được… cái gương
của ông ngoại… Nó văng tuốt… thiệt xa… Con mừng quá… đem về cho… ông ngoại.
VÕ HỒNG kể
(Trích từ tập Chúng tôi có
mặt)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét