Thứ Năm, 17 tháng 10, 2024

TIẾNG THỜI GIAN - Bình Nguyên Lộc

 
Từ cầu Cổ Cò vào chợ Mỹ Lương, đi đường thủy, mất ít lắm là ba tiếng đồng hồ chèo xuồng.

Gặp mùa nước đổ, nước trong Đồng Tháp Mười tuôn mạnh ra, khiến cho việc chèo ngược dòng là cả một kỳ công.

Thế mà Thạnh đã ba lần đòi quay trở lại khi xuồng tiến mau trên rạch Ông Mẻ được hai phần đường rồi. Nếu không có bạn chàng khuyên dứt thì trong cuộc hành hương hôm đó, họ đã chẳng đến nơi.

Phải, đây là một cuộc hành hương thật sự. Chợ Mỹ Lương là nơi đã nghỉ yên một đoạn dĩ vãng của họ, nghỉ yên một thời thanh xuân không bao giờ tìm thấy lại nữa. Họ đã yêu ở đó, đã đau buồn vì vận nước ở đó, và đã phấn khởi làm phận sự ở đó.

Hàng trăm đám lục bình xanh đang chạy đua xuôi dòng rạch Ông Mẻ vàng khè phù sa khiến họ nhớ đến những đêm năm nào mà họ vượt đồn Cổ Cò bằng cách lội úp theo những đám lục bình cứu tinh đó.

Sao Thạnh đã gần đến nơi rồi lại còn muốn quay về ? Sự thật thì chàng đã định bỏ cuộc ngay từ lúc mới xuống xuồng, và càng đi gần tới đích chàng càng lo sợ và càng muốn thôi không đi nữa.

Cả hai người bạn đều phấn khởi lúc rủ nhau về đây. Mười năm lăn lóc trong cuộc vật lộn để giành chén cơm, họ thường nghĩ đến cái nơi cất giữ rất nhiều kỷ niệm của họ.

Và hôm qua đây, nhơn thấy cũng đỡ bê bối tiền bạc phần nào, họ đồng tình về chốn quê cũ một chuyến, để thăm lại cảnh cũ người xưa, và nhứt là để xem hòn giả sơn của chú Dầu Ía có còn hay không.

Ở chợ Mỹ Lương chỉ có độc một gia đình Trung Hoa. Chú Dầu Ía, người chủ gia đình, thích chơi cây cảnh, non bộ. Sau nhà chú, chú có đắp một hòn giả sơn rất khéo mà Thạnh chưa thấy hòn giả sơn nào đẹp bằng.

Hôm qua đây, cả hai người đều có ý về Mỹ Lương một lượt, và Thạnh hăng hái nhứt, nói là rất nhớ hòn giả sơn đó.

Nhưng thật ra, chàng chỉ bồn chồn gặp lại người kia. Cái háo hức buổi đầu lại nguôi lần lần trên đường thôn du nầy, vì một lẽ làm chàng băn khoăn mãi từ lúc bước chơn xuống xuồng.

Khi họ thấy đằng xa sông Cái Cối chắn ngang con rạch Ông Mẻ, họ nhìn về bên trái thì chợ Mỹ Lương thoáng hiện xa xa, cheo leo trên doi đất tại ngã ba sông.

Thì ra chợ Mỹ Lương vẫn còn nguyên vẹn, đó là cái chợ thôn dã hiếm hoi không bị tàn phá lúc chiến tranh.

Nước sông đổ rất mạnh, khiến Thạnh hoảng lắm, chàng mong cho xuồng cứ tiến thật chậm để lùi lại cho lâu cái lúc đến nơi.

Ngã ba sông Cái Cối.

Chợ Mỹ Lương là kiểu mẫu cổ điển của nhiều chợ xép Tiền Giang. Chợ ngó xuống sông, và hai bên hông chợ, hai dãy nhà cũng trông xuống bến. Nhưng hai dãy nhà ấy lại bị dãy nhà sàn đối diện ngăn tầm mắt lại. Con đường mòn hẹp té, nhưng ngay bon, đi thẳng giữa hai dãy nhà vừa kể trên rồi mất hút trong rặng dừa đằng xa.

Bốn dãy nhà gồm bốn mươi căn, mỗi căn bán một thứ hàng hóa giống hệt ở mọi chợ khác. Có tiệm hớt tóc, mà những giờ vắng khách, mấy anh thợ ngồi buồn gảy ghi-ta; một tiệm may, vài tiệm chạp phô, một hiệu trữ dược phẩm Âu Mỹ kiêm bán sách báo, một hiệu ba da, một hiệu bán chén và đồ gốm v.v...

Họ lên bờ và căn nhà họ tìm trước hết là hiệu thuốc bắc "Tăng-Thọ-Đường".

"Tăng-Thọ-Đường" vẫn vững như một con người được tăng thọ. Tấm bảng hiệu dựng đứng theo lối Trung Hoa, trên viết lăng nhăng một cột chữ Tàu, đã rạn nứt vì mưa nắng gió sương, nhưng chữ mạ vàng vẫn còn đọc được.

Nhà có gác, chiếc gác thấp, mái cong cong như mái chùa, và cửa song sơn đỏ, gợi nhớ hình ảnh nước Tàu ngàn xưa mà người khách trú chủ hiệu thuốc nầy thương mến nhái lối kiến trúc ấy được phần nào hay phần ấy.

Cả hai đứng lại rất lâu nơi doi đất trước ngã ba sông, bùi ngùi nhìn những mái nhà đóng rêu, bùi ngùi nhìn chơn trời quen bên kia sông. Cảnh vật như được ướp lạnh hằng bao thế kỷ, và nay mở tủ lạnh ra, nó vẫn y nguyên như cũ. Chỉ có người là khác xưa. Anh thợ hớt tóc tiệm Nam Hưng, căn nhà bìa cheo leo trên bờ sông, trẻ hơn anh thợ ngày trước nhiều. Khách của ông ta cũng trẻ hơn. Cả bọn chơi măng-đô-lin, và ca tân nhạc, họ tìm trên vách mãi mà không thấy bóng cây đờn kìm cẩn ốc của bác thợ năm đó.

Mặc dầu lo sợ, Thạnh cũng bươn bả theo bạn sau lúc đứng chiêm nghiệm ở bờ sông. Hồi hộp lắm ! Nôn nao gặp lại người xưa, mà sợ sự gặp mặt đó, sợ nhưng cứ muốn gặp gỡ ngay!

Cụp... keng... keng... cụp... keng... keng... Tiếng chày giã thuốc trong chiếc cối bằng đồng, cứ giã một cái lại nhịp hai cái trên thành cối, tiếng nhạc đều đều kéo dài từ ngàn đời rồi trong giới dao cầu Trung Hoa ấy, đã nghe rõ khi họ bước tới trước thềm Tăng-Thọ-Đường.

Người giã thuốc không phải là ông Tăng-Thọ nữa mà là một người trung Hoa còn trẻ, độ ba mươi. Ông Tăng-Thọ đầu đã bạc phơ, ngồi ngậm một chiếc điếu dài gần bốn gang tay, mắt lim dim lắng nghe tiếng nhạc chày nện trên cối.

- Ông chủ a ! Mạnh giỏi chớ, ông chủ ?

Tiếng chày bỗng ngưng nện, tiếng chim chắc chè ngưng gáy trong lồng và ông Tăng-Thọ nhảy nhổm lên. Ông đẩy cặp kiếng trắng lên cái trán hói và láng bóng, rồi trố mắt nhìn hai người khách lạ đang bước qua ngưỡng cửa.

- Ông thầy còn nhớ anh em tôi không ?

Ông Tăng-Thọ vừa bán thuốc, vừa làm y sĩ, nên họ mới gọi thế. Ông ta cười hề hề mà rằng:

- Nhớ... Mà quên... a... nhớ ít ít thôi.

- Thằng Ba với thằng Tư, hai con sâu cam thảo đây mà !

- A, nhớ dồi ! Lâu quá, anh em còn mạnh giỏi hơ. A, ngóa mừng quá mà.

Ông Tăng-Thọ mừng rối rít, hối người nhà pha trà, rồi giới thiệu với khách :

- Thằng Hinh, dể của ngóa.

Thì ra, cái người giã thuốc là rể của ông ta. Thạnh thừ người ra, không phải vì ngạc nhiên, mà vì hơi bần thần trước một chuyện phải xảy ra, đã xảy ra, nhưng khó tin vì chàng ta mơ hảo.

Phải, cô Chúi Tín (Thủy Tiên) ấy thế nào cũng phải lấy chồng và cũng phải được lấy chồng. Cô năm nay có lẽ đã gần ba mươi, đẹp người, lại con nhà khá giả thì không lý do nào cô làm gái già cho đến lúc doi đất nơi chợ nầy sụp lở.

Chàng đã yêu cô Chúi Tín ấy, một cô gái Trung Hoa đã được Việt Nam hóa một trăm phần trăm, nhưng ông Tăng-Thọ, từ khi vợ chết, cứ nghe cô đơn và muốn chọn rể người Tàu cho có bạn, thành thử hai người không lấy nhau được.

Mười năm... Không biết bao nhiêu là nước chảy dưới cầu Cổ Cò, không biết bao nhiêu là nước chảy dưới dãy nhà sàn trước chợ. Trí chàng cho biết rằng Chúi Tín thế nào cũng đã lấy chồng, nhưng lòng chàng cứ chối rằng sự ấy đã xảy ra.

Mười năm...

Bây giờ chú rể bắt đầu giã thuốc trở lại, cụp... keng... keng... cụp... keng... keng.... Ông Tăng-Thọ rót trà ra trong những cái chén nhỏ bằng ngón tay cái và mời khách. Cả ba ngồi trước một cây xi-cú mà làm thinh, để nhớ lại năm nào mà họ đã núp sau hàng dừa để xem tàu Tây rần rộ chạy qua trước chợ, bắn bậy lên mà không ghé lại bao giờ.

Thạnh nóng nảy khi nhìn thấy chủ nhà cứ uống trà từng hớp một, hỏi :

- Ông thầy à, còn hòn non bộ ?

- Hà, cố lứ còn nhớ cái hòn non bộ ấy à. Hà, bây giờ tốt lắm, tốt quá !

- Cho xem được không ông thầy ?

- Sao lại khôn lược.

Ông thầy đứng lên, đi ra sau, hai người khách theo ra bén gót.

Hòn giả sơn ấy nằm ở sân trong, giữa nhà trên và nhà bếp, trong một cái hồ cạn thả bèo và cá lia thia.

Năm, tháng, gió, sương đã đi qua trên đó thêm mười năm nữa nên lớp rêu xanh bây giờ xanh rậm ri, đẹp không biết chừng nào. Nước cứ theo sơn khê mà đổ xuống hồ, và lão ngư phủ cứ thả cần câu, bất kể thời gian, trông hệt như ông già ở sông Vị.

Bộ giả sơn đẹp như một câu chuyện cổ tích bị lớp bụi thời gian phủ lên, càng dầy, càng hay, càng đẹp.

Bỗng tiếng người trẻ thơ lao nhao từ ngoài trước, ông Tăng-Thọ nhìn Thạnh, cười hề hề nói:

- Con Chúi Tín về đó.

Thạnh quay lại thì một á xẩm già tay bồng tay bế những bốn đứa con vừa bước vào tới nơi.

Trời ! Chàng kêu thầm lên trong bụng. Chúi Tín không còn là Chúi Tín nữa. Á xẩm nầy mới ba mươi tuổi mà răng đã bắt đầu rụng, và má hóp một cách dị kỳ. Nàng dơ không thể tưởng tượng được vì bận với lũ con.

Vừa lúc ấy thì tiếng đồng hồ con ngựa treo nơi vách nhà trên, chậm chạp gõ.

Keng... keng... keng...

Thạnh quặn thắt lòng, nghe như tiếng thời gian đang rụng, rụng từng chiếc một. Mười năm! Sinh kế đã làm chàng quên tháng ngày trôi. Nay bỗng dưng gặp lại người cũ với nhan sắc tàn phai, chàng nghe như thình lình thời gian, vốn đang ngừng chảy, vụt lướt qua một cái vù.

Keng.. keng.. keng...

Từng chiếc, từng chiếc một, thời gian rụng dần, không hối hả, nhưng chắc chắn, không một thiên tài nào chống lại nổi cả. Thạnh đã sợ cuộc gặp gỡ nầy vì chàng biết trước rằng cũng với sự rơi rụng của thời gian, sự tàn rụng của mối tình mà chàng ấp ủ tận đáy lòng, sẽ đau như ai bị tình phụ.

Kang... keng... keng...

Mỗi tiếng chuông đồng hồ, mường tượng như mỗi giọt mưa rơi trúng ngay tim chàng. Thời gian bị quên lửng, bỗng dưng nổi lên với cả chiều sâu và chiều dài của nó, minh mông như vũ trụ.

Thạnh quì bên bệ hồ, tay vuốt lên rêu xanh non mởn của bộ giả sơn : thời gian đã lướt qua đây rồi xây dựng vẻ đẹp nơi đây, nhưng sao khi lướt qua nơi kia, nó lại tàn phá nhan sắc của người đàn bà ? Chúi Tín ơi, em có biết hay không lòng anh cũng vừa sụp đổ tơi bời. Mối tình mà anh ngỡ là kiên cố trong tim anh, bỗng dưng cũng vừa tan nát hết khi thấy mặt em. Anh đã sợ điều đó, vì anh sẽ xấu hổ với anh không biết bao nhiêu, nhưng sợ mà cũng không tránh được. Bấy lâu nay anh sống với một giấc mộng, ôm nó mà ngủ mỗi đêm, và mỗi sáng khi choàng thức tỉnh, anh âu yếm nó để đủ cam đảm mà vật lộn với đời.

Keng... keng...

Giờ đây giấc mộng đã rụng theo tiếng thời gian rồi !

Dưới kia, trong lòng sông Cái Cối, nước Tháp Mười tuôn tràn ra, chảy mạnh như thời gian, và những đám lục bình trôi mau trên mặt nước, không đám nào giống đám nào hết, càng không giống đám lục bình của mười năm xưa.

(Tuần báo Vui Sống, 1959)    
 
(Trích từ tập truyện ngắn Diễm Phượng)
 

Thứ Hai, 14 tháng 10, 2024

MÀU XANH LÁ - Phương Viên

 

Những gì tôi sắp kể cho bạn nghe đều đã xảy ra lâu lắm rồi. Hồi tôi còn học Trung học kia. Nhưng năm tháng không là đơn vị để đo lường khoảng thời gian đó. Đối với tôi (và có lẽ đối với cả nàng nữa) một chuyện gì đã lâu, có nghĩa là nếu mình nhớ lại nó thì có cái gì đó thúc buộc mình phải giữ kín, không được kể ra hay không được viết lại. Với nữa, lâu, là một khi mình đã nhớ được cái khởi đầu rồi thì sự việc cứ kéo theo nhau mà gõ nhịp trong đầu mình. Đó, một chuyện gì lâu là như vậy đó. Càng lâu thì càng đậm màu rõ nét.

Thế nhưng không phải là tôi không muốn giữ lại cho riêng tôi câu chuyện này. Đã có nhiều lần tôi suýt kể cho một người bạn tôi nghe, nhưng tôi đã kịp giữ lại cái hứng khởi đó. Tôi ích kỷ thật, nhưng như thế còn hơn. Nàng cũng vậy, chắc chắn là nàng không kể cho ai nghe đâu. Phần tôi, tôi kể cho bạn nghe không phải là vì tôi muốn kể. Lý do duy nhất khiến tôi muốn kể là, trong câu chuyện này có những chi tiết tôi không thể nào tìm hiểu rõ lý do được, dầu là tôi suy nghĩ suốt cái số năm tháng còn lại của cuộc đời tôi.

May ra bạn hoặc những người thân của bạn sẽ hiểu chăng. Vậy đó, nên sau những đắn đo tôi đã viết cả câu chuyện ra như bạn thấy. Biết đâu một ngày đẹp trời tôi sẽ nhận được thư của bạn, nói rằng bạn hiểu được tất cả, kể cả nguyên cớ của chúng. Trong trường hợp đó, bạn chỉ nên viết thư cho tôi. Còn nàng, nàng có lối giải pháp đặc biệt của riêng nàng rồi.

Trước hết, sự việc vì sao tôi quen nàng. Chỉ mỗi việc đó cũng khiến bạn rối ruột.

Nhà tôi sát cạnh với nhà nàng. Nhưng cho mãi đến khi nàng làm thiếu nữ thì chúng tôi vẫn chưa hề chào nhau, hoặc là cười với nhau, d6àu là bằng mắt hay bằng môi.

Những người trong hai gia đình chúng tôi cũng vậy, không ai quen nhau hết. Mặc dầu ba nàng, mẹ nàng và nàng thường đi qua trước cửa nhà tôi. Họ đến sở làm hoặc đến trường. Không biết bạn nghĩ thế nào, riêng tôi nội cái việc vì sao tôi và nàng không quen nhau trong suốt cái thời thơ ấu của chúng tôi, cũng là điều để ngạc nhiên rồi.

Nhưng nếu bạn nghĩ rằng chúng tôi ghét nhau thì bạn lầm đó. Chúng tôi không ghét nhau hay gì hết. Chúng tôi chỉ không quen nhau thế thôi. Có nhiều bận trái bóng của tôi rớt bên phía nhà nàng. Có khi trái cầu nàng đánh bay quá đà sang chỗ tôi đang chơi. Những lúc đó hoặc tôi nhặt quả cầu, hoặc nàng nhặt trái bóng, đưa cho nhau. Chúng tôi không nói gì với nhau cả, nhưng chúng tôi suýt quen nhau những lần đó.

Cho đến một sáng, tôi trốn học. Không để đi chơi hay làm gì hết. Nếu bạn đi học chăm chỉ, chuyên cần quá sẽ có lúc bạn thấy mình lố bịch cho mà coi. Tôi nói thật đó. Bởi vậy tôi trốn học sáng hôm đó. Chỉ để thay đổi vậy thôi. Và tôi leo lên những cành hoa sứ trước nhà. Bạn cũng biết cây hoa sứ thật đặc biệt, nghĩa là nó có hoa đẹp mà lại vừa có nhiều cành thật rắn chắc, có thể leo trên đó hàng giờ hay cả buổi nếu bạn muốn. Tôi đang ở trên cây hoa sứ như vậy và nàng đi học ngang qua. Tôi quả không ngờ là nàng đi học muộn. Có lẽ nàng được nghỉ một giờ đầu gì đó. Tôi nói là nàng đi ngang qua nhưng sự thật thì nàng đi ngay phía dưới. Ngay dưới chân tôi, ngay dưới tôi. Có cái gì thật oái oăm trong trường hợp như vậy. Không phải là vì khi người ta là một thiếu nữ, mà mình đang lủng lẳng trên cành cây, không phải vậy. Nhưng quả thật có cái gì không thuận buồm xuôi gió. Và như vậy, tôi ngồi yên, thu nhỏ người lại. Nàng đi qua phía dưới. Nàng qua hẳn rồi. Tôi thấy tóc nàng cột thành cái đuôi, với lụa xanh. Xanh lá cây.

Bỗng chốc, nàng quay người lại. Rồi tôi nghe: "Này, tôi chúa ghét những người con trai hái hoa". Trời ạ, nàng đang ám chỉ gì đây chớ. Quả thật là tôi đang bấn loạn, nhưng không phải vì vậy mà tôi để cho một người con gái chỉ trích tôi đâu. Dầu rằng đó là người con gái cột tóc màu xanh lá cây. Tôi cũng biết ghét những người chua chát chớ. Nàng đã quay đi rồi, nhưng tôi cũng nhanh không kém: "Cô không thấy rõ là hoa cắm trong bình sẽ đẹp hơn là để héo trên cây sao?" Tôi nói bằng cái giọng của nàng. Nếu bạn muốn tán một cô nào thì chỉ có hai cách. Một là bạn hãy làm cho cô ta xúc động qua sự dịu dàng rất đàn ông của bạn. Cách thứ hai làm cho nàng giận bạn. Nhưng không phải tôi muốn tán nàng hay gì hết. Tôi chỉ trả đũa vậy thôi. Và sự thật là tôi thành công thấy rõ. Nàng đã bước hẳn về phía tôi và hét tướng lên: "Đồ ích kỷ". Sự giận dữ của nàng làm tôi quíu lưỡi, ngoài dự liệu của tôi. Tôi thấy rõ là nàng còn muốn dành cho tôi những tiếng nặng hơn: Đồ khùng. Đồ  ngu. Đồ mắc dịch... Tôi không kịp leo xuống. Tôi nhảy đại xuống, bất kể rằng tôi đang ở trên cành cao. Và tôi có thể nhảy trúng nhằm nàng. Tôi bất kể. Điều tôi làm là, tôi đặt lên trên tập vở của nàng một cái hoa. Và tôi nói thật nhanh. Khi bạn bị quíu lưỡi vì con gái thì hoặc là bạn sẽ bập bẹ. hoặc bạn sẽ nói thật nhanh như bị tuột dốc. Tôi nói: "Không phải tôi hái hoa để cắm trong bình đâu, tôi chỉ muốn tặng cô thôi". Nét mặt nàng không đổi. Nhưng nàng nói, giọng nàng có đổi đi chút ít: "Tôi thích hoa sứ, nhưng như thế cũng chưa hẳn đủ làm lời tạ lỗi đâu". Tôi còn nghe nàng nói trễ học rồi, và nàng vụt biến mất. Nàng nói đúng, tôi cũng không mong là nàng có thể hết giận tôi.

Sau này có một dịp nàng bảo tôi và nàng đã quen nhau từ lần đó. Tôi thì chưa hề có nghĩ như vậy. Ai đời lại quen nhau vì một chuyện xung đột, dầu rằng chỉ ít ít thôi. Nói cho cùng, kể cả trường hợp nàng giận cay giận đắng đứa con trai trèo cây sứ và hái hoa, là tôi, tôi vẫn không mong rằng đã quen nàng.

Tôi quên nói là nàng có nhiều bạn lắm. Những người bạn trai của nàng thật dễ thương. Họ đều sáng sủa cả. Họ nói chuyện và cười đùa với nàng thật vui. Tôi chỉ nhìn thấy thôi, chưa bao giờ tôi nghe thấy họ nói gì với nhau. Nhưng tôi biết là những câu chuyện cũng thật dễ thương và vui. Tôi thường che giấu mình thật kín, mỗi khi thấy họ đi qua hoặc đứng với nàng trước ngõ, hay bất cứ nơi nào họ muốn nói chuyện. Tôi không nên làm tắt ngang những chuyện vui của nàng.

Nhưng một lần tôi đã thật sự làm nàng bực mình. Tôi muốn nói là tôi đã vô cớ xen vào, làm hỏng một lúc thật vui thích của nàng, bằng một lỗi lầm tệ hại nhất. Nguyên do chỉ vì cặp giò của tôi vụng về. Nếu tôi đá bóng hay hơn và chính xác hơn thì khóm hoa của nàng đâu đến nỗi xác xơ. Tôi chỉ nghe vảng những âm thanh gẫy gập của cành hoa. Nhưng tôi nghe thật rõ một nửa người tôi lạnh ngắt. Lần đó tôi thấy nàng không ném trả quả bóng qua hàng rào cho tôi.

Tôi không bao giờ có ý nghĩ làm quen với nàng. Suốt đời tôi, nếu có lần tôi đã gợi chuyện với nàng, cũng chỉ để chuộc lỗi mà thôi. Bởi vậy, một lần tôi qua bên nhà nàng là để xin đem quả bóng về.

Tôi bảo nàng là tôi quá cần trái bóng, vì ngày mai tôi sẽ đi biển. Tôi còn nói thật nhiều rằng tôi phải có quả bóng tôi mới ra bãi biển được. Rằng tôi chỉ thích biển khi nào có quả bóng để chơi. Tôi cứ phải nói thật nhiều, bởi lẽ nàng thì làm thinh. Một lát tôi nghe mình lạc đề. Vì lẽ ra tôi còn phải nói về quả bóng, nhưng tôi đã bắt sang chuyện những con sò. Tôi nói về cách thức mình có thể dùng chân để tìm bắt chúng. Với nữa, nếu có được nhiều thì mình nướng sò để ăn. Tôi cho nàng biết là khi bắt được năm con sò, hay nhiều hơn thì mình mới bắt đầu ăn được. Vì lẽ rằng sò thì nhỏ, với nữa người chủ quán tôi quen ở bãi biển chỉ cho tôi mượn bếp lò để nướng sò khi nào tôi có được năm con trở lên.

Nàng vẫn cứ ngồi làm thinh, đến nỗi tôi nghe cả tiếng những con chim kêu phía bên ngoài. Cuối cùng nàng nói: "Ngày mai tôi cũng đi tắm biển". Tôi ngạc nhiên quá đỗi. Nhưng nàng đã nói tiếp là ngày mai nàng được nghỉ học. Và rằng nàng thích đi biển vào ngày thứ bảy, ít người. Và rằng đi tắm như vậy nàng có thể từ chối khi lũ bạn nàng rủ nàng cùng đi ngày chúa nhật. Nàng nói không ai đi tắm hai ngày liên tiếp, và đó là lý do để nàng từ chối. Chắc chắn ngày cúa nhật sẽ có chừng bảy đứa bạn trai đến rủ nàng đi. Nàng không nói gì đến quả bóng của tôi. Tôi phải hỏi lại: "Nhưng ngày mai tôi sẽ cùng đi tắm với quả bóng của tôi chứ?" Nhưng hình như nàng không nghe tôi hỏi. Bởi lẽ nàng nói rằng chiếc xe nhà nàng đang nằm ở một ga ra từ hai ngày rồi. Tôi buồn không chịu được. Nhưng không ai hỏi hoài về chuyện một quả bóng. Cái quả bóng mắc dịch đã làm gẫy cả khóm hoa. Với nữa, khi một người nào nói với bạn rằng xe họ chết máy mà bạn thì nói chuyện về quả bóng, thật trông bạn ngố lắm. Bởi vậy tôi hứa sẽ đưa nàng ra biển.

Tôi thức dậy không muộn lắm, nhưng nhìn qua kẽ lá của hàng hoa ti gôn tôi thấy nàng đã đứng trong sân nhà. Quả bóng của tôi trên tay nàng.

Nàng nói rằng chiếc xe của tôi thơm mùi xăng cháy. Thơm, tôi chết được. Nàng bảo nàng thích ngửi mùi xăng. Nàng nói không sai đâu. Tôi cũng có một đứa em gái, em mê ngửi mền nhà binh bạn ạ. Nếu bạn thấy em lúc em ngủ thì bao giờ bạn cũng thấy em đắp một cái mền. Em đắp mền và kéo lên tới mũi em. Bao giờ cũng vậy. Không ngoại trừ mùa hè hay mùa nào. Thế nên khi nàng nói là nàng thích cái xe tôi khi nó xông lên mùi xăng thì tôi tin là nàng nói thật. Tôi cũng tin mùi xăng là lý do duy nhất khiến nàng thích, không vì một lý do nào khác nữa. Cả tôi cũng không thể mê chiếc xe của tôi được.

Bạn không thể lái xe một cách thoải mái được trong thành phố. Bao giờ thì bạn cũng phải lái thật nhanh, nhanh bằng những chiếc xe khác. Nếu không bạn cứ phải nép vào lề để cho người đi sau qua mặt. Nhưng ở sát lề luôn luôn có nhiều ổ gà. Bởi vậy tôi không thích lái xe hơi tí nào hết. Nhưng không phải ai cũng biết đi bộ đâu.

Không thể nào bạn có cảm tưởng đúng về biển. Nghĩa là lúc còn đứng trên bãi cát bạn sẽ khác biệt hẳn với lúc bạn đã nhoài người bạn trên những con sóng, hay là ngâm mình trong nước. Bạn không còn bận tâm gì về những bài tập hay bài học bạn phải làm. Hoặc nếu bạn trốn học, cũng chẳng khác biệt gì hết, so với ngày nghỉ học hay ngày lễ. Bất kể rằng bạn đem theo nhiều tiền hay ít tiền. Bạn cũng không bận tâm về việc lát nữa bạn có được chơi bóng hay là không. Biển là vậy đó.

Nhưng tôi vẫn được nàng trao cho quả bóng. Nàng đã vẽ trên quả bóng mấy cái hoa, có lá. Một chỗ khác nàng vẽ một bàn chân. Có cả mấy giòng chữ nữa. Tôi nghĩ đó là mấy câu thơ của nàng. Nàng tô điểm quả bóng của tôi bằng mực xanh lá cây. Nàng hỏi tôi liệu nước biển có làm phai đi màu mực hay không. Tôi bảo nàng là không. Tôi sẽ không làm ướt quả bóng. Tôi đem cất quả bóng vào trong xe.

Một điều khá buồn cười là chúng tôi không tìm lại được nơi chúng tôi đã vùi mấy hộp nước ngọt. Lúc mới vừa tới biển tôi đã nghĩ ngay đến việc nên đem vùi chúng xuống cát ướt. Việc đó cũng giống như là ướp lạnh chúng vậy. Ngon lắm, bạn cứ thử thì biết. Nhưng bạn nhớ là phải làm một cái dấu hiệu gì đó, nơi mình đặt những hộp nước ngọt. Đừng quên như tôi lúc đó. Chúng tôi dùng tay đào sâu vào lớp cát ướt, tìm kiếm. Công việc này cần nhiều kiên nhẫn. Có thể nói là không thích thú gì, nếu không có những lần tay của chúng tôi vô tình nắm vào nhau. Tôi nghe rõ cát cũng run run. Mặt nàng cúi và tóc nàng che phủ. Tôi không thấy rõ mặt nàng để đoán biết nàng có bất bình vì việc tôi đã quên làm dấu hay không. Những lúc có nàng, tôi luôn luôn có những chuyện tréo cẳng ngỗng. Nhưng tôi cũng hơi an tâm vì thấy nàng tìm rất chăm chú. Tôi nghĩ dầu sao nàng cũng buồn lắm. Một lúc, tôi không nhớ rõ là lúc nào, tôi nghe một khoảng da trên lưng bàn tay tôi nóng ran lên. Không phải vì chúng tôi nắm tay nhau hay gì hết. Nhưng vì một hạt nước mắt nàng rơi trên đó.

Tôi không kể cho bạn nghe chuyện tôi bối rối, lúng túng như thế nào. Tôi chỉ kể cho bạn nghe chuyện một lát lâu sau. Nghĩa là lúc chúng tôi đã tìm được mấy hộp nước ngọt. Khi chúng tôi ngồi với nhau trên bãi cát, nàng nói với tôi rằng nàng muốn vẽ vài cái hình lên cái xe mắc dịch của tôi. Bằng mực xanh lá cây, nàng nói. Nàng có kể rằng ba nàng không còn cho phép nàng dùng mực xanh lá cây để chép bài. Ba nói nàng sẽ phải thi vào cuối năm học. Và rằng không ai dùng viết xanh lá cây để làm bài thi cả. Rằng nàng sẽ phải đổi màu mực ngay bây giờ. Bởi lẽ nếu đợi đến lúc đi thi mới đổi thì nàng rất có thể sẽ ngỡ ngàng vì việc đột ngột thay màu mực như vậy. Điều đó ảnh hưởng không ít đến kết quả thi của nàng. Đối với nàng việc không còn dùng viết xanh lá cây nữa là một điều khủng khiếp. Nàng buồn ghê lắm, và đó cũng là lý do tại sao bàn tay tôi đã nóng ran lên. Phần tôi, lúc đó tôi chỉ thấy khía cạnh khôi hài của câu chuyện. Nghĩa là khi một ai đó nói rằng họ ngỡ ngàng vì một màu mực, thì bạn dễ tức cười lắm. Cho dầu đó là màu xanh lá cây. Tuy vậy, tôi cũng nói với nàng là có nhiều điều thật rắc rối, phức tạp một khi mình đã tới lúc phải đi thi này nọ.

Tôi muốn kể tất cả mọi chuyện cho bạn nghe. Kể cả chuyện tôi đã cất giữ quả bóng như thế nào. Quả bóng có vẽ hoa. Chuyện tôi không còn đá bóng nữa. Chuyện nàng đã thay màu mực gì khi nàng không còn viết xanh lá cây nữa. Chuyện nàng đi thi. Kể cả chuyện bây giờ nàng đã ở một nơi cách xa tôi trăm ngàn cây số... Nhưng bạn cũng biết đó, khó lòng mà kể trọn vẹn một câu chuyện nào. Nhất nữa là khi câu chuyện đó mình vẫn thường gọi là kỷ niệm. Như trong câu chuyện này tôi đã thay đổi một vài chi tiết, và đã phải bỏ bớt đi nhiều chi tiết khác. Bạn không thể kể cho ai nghe, đúng như thật, những chuyện như vậy được.

Dầu vậy, những thiếu sót đó không hề gì, khi mà ý của tôi là chỉ muốn hỏi bạn một điều. Hay đúng ra, tôi muốn bạn cùng tôi để ý xem, tại sao những kỷ niệm đều màu xanh lá cây. Bạn và tôi thôi, còn nàng hẳn là nàng biết.


PHƯƠNG VIÊN      

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 73, tuần lễ từ 19-10 đến 26-10-1972)



Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2024

MÙA THU RONG CHƠI - Mường Mán

 

 Gửi Ngụy Ngữ

Khóe nhìn nàng có ba phần tư diễu cợt, một phần tư nồng ấm.

- Hình như đây là lần thứ năm mình gặp nhau?

Tôi cố gắng để tia nhìn tôi có ba phần tư nồng ấm, một phần tư diễu cợt:

- Đâu có, chỉ gặp lần này thôi, bốn lần trước tôi chỉ thấy cô, chưa ngồi đối diện nhau, không thể gọi là gặp.

Nàng cười khẩy, nửa thích thú nửa ngạc nhiên ngờ ngợ:

- Cái gì đã khiến anh theo dõi tôi?

- Vẻ dịu dàng của một vật lạ.

- Rõ hơn.

- Dễ hiểu và giản dị hết sức. Thành phố nhỏ tí xíu này đám đông quen nhẵn mặt nhau, một kẻ khác từ nơi xa lạ tới, dễ nhận ra lắm.

Đôi mắt nàng rạng một nét cười:

- Nếu lúc nãy tôi từ chối không vào ngồi đây, anh tính sao?

- Buồn một tí trên đường đi rong, và có lẽ buồn nhiều nhiều khi về tới nhà.

Nàng ngó lơ ra ngoài khi tôi nhận ra giọng mình có chút gì như giả vờ.

- Mưa ở đây thật nhẹ nhàng.

- Vì mưa thương đất, mưa mạnh quá đất sẽ đau.

- Chắc vậy không, anh?

- Cứ tưởng tượng thế.

- Anh có lối tưởng tượng lạ đấy. Tiếp tục nữa đi.

- Tưởng tượng tôi và cô là một đôi bạn.

- Thân hay sơ?

- Lửng lơ giữa thân và sơ.

Nàng chớp mắt. Đôi môi vừa cắn vỡ một hạt mưa vô tình nào đó, ướt mời mọc.

Tôi mở một cánh cửa khác cho câu chuyện:

- Cô từ đâu tới?

- Dĩ nhiên là không từ trên trời rớt xuống hoặc, dưới đất chui lên. Anh thử đoán coi.

- Sàigòn, Đà lạt, Lào, Cam-pu-chia...

Nàng vui vẻ tiếp lời:

- Ma rốc, Ấn độ, Tàu, Thái lan...

Tôi cười dòn:

- Thôi không cần biết cô từ đâu tới, nhưng hơi tò mò tí nhé, cô về đây làm gì vậy?

- Tìm một chút cổ điển, thành phố tôi ở tối tân quá, phát nản.

- Cô tìm ra chút cổ điển ấy chưa?

- Mấy hôm trước thì chưa, giờ tìm thấy rồi.

- Ở đâu vậy?

- Ở anh.

Tôi tỏ lộ sự ngạc nhiên bằng cách hơi hả miệng ra chút chút, cho vừa nỗi bất ngờ trong hai tiếng nàng vừa thốt. Ở anh (?)

- Có chút cổ điển nào ở tôi?

- Anh có lối tán gái thật cổ điển.

- Lầm rồi, cô bạn. Tôi chưa định tán cô đâu. Nãy giờ mình nói chuyện tào lao mà. Thấy chưa? Cô còn tưởng tượng gấp ngàn lần tôi.

Thú thật, tôi chưa thấy đôi má đỏ au nào tuyệt vời bằng đôi má của nàng lúc này. Tôi còn khôn ngoan biết rằng, không nên để một phụ nữ kéo dài sự thẹn thùng, nhất là phụ nữ mới quen. Mắc cỡ lâu quá, dài quá, họ đánh mất sự tự nhiên và rất có thể sẽ chui vào cái vỏ im lặng, hết hào hứng.

- À này, sao sáng nay cô đi một mình? Cái ông "vệ sĩ" hôm qua hôm kia đâu?

Nàng kéo vài sợi tóc đưa lên môi ngậm. Cử chỉ làm dáng ưa thích của nàng?

- Ông anh họ tôi đó. Sáng nay khi thức dậy, dòm qua cửa sổ thấy mưa, tôi nghĩ nên đi dạo một mình thú hơn. Đi một mình dễ gặp những cái bất ngờ lắm.

- Có phải tôi là cái bất ngờ ấy không?

- Có lẽ.

- Đêm qua cô ngủ và có mơ?

- Vâng, mơ nhiều lắm, nhưng rất tiếc trong những giấc mơ đẹp của tôi không có anh.

Nàng có lối nói thật tinh quái. Ít ra cũng tinh quái bằng con chồn trong truyện cổ tích.

- Không thấy tôi trong mơ là may mắn đấy.

- Sao vậy, anh?

- Trong mơ cô thấy tôi, cam đoan cô phải khóc thét lên, mất ngủ.

Cả hai cùng cười một lượt. Nụ cười tôi hẳn là có nhận, phản ánh đôi chút long lanh sáng choang từ những hạt răng nàng. Cứ gì phải có răng khểnh cười mới có duyên? Nàng không có chiếc răng khểnh nào cả, vẫn duyên dị thường, duyên nhức nhối. Tôi muốn biến thành sợi tóc để nàng ngậm giữa môi cười ấy quá. Sợi tóc thề nhịn đau để răng nàng cắn, nhâm nhi một cách lười biếng.

Dường như cảm thấy đôi môi hơi khô vì bị tia nhìn chiêm bái của tôi thiêu đốt, nàng nâng ly nước trước mặt lên uống một ngụm. Những ngón tay nuột nà vòng quanh ly nước thân ái quá làm tôi bỏ ý định muốn biến thành sợi tóc ; muốn biến thành cái ly ngay tức khắc.

Mưa bên ngoài không thêm sức nặng ; nhẹ, đan mành mỏng, rung động theo từng đợt gió từ trời tạt ngang hoặc từ mặt sông đưa lên. Cũng có thể gió tới từ nơi xa xôi nào đó, từ thành phố nàng chẳng hạn. Nàng mang theo giòng gió lạ tới hôn phối với cơn mưa xứ này (?) Gió và mưa làm đám cưới rực rỡ mùa thu.

Mùa hạ già, chết, và thu tới.

Tinh sương ngâm tay vào thau rửa mặt, nước lạnh sẽ bảo cho ta biết mùa thu đã tới. Trưa dịu về ngang mặt hồ lục biếc, những đám lục bình nói khẽ ta nghe thu vừa sang. Chiều thắm đứng trong vườn, hàng trăm cánh lá chín rơi xuống vai thì thầm thu đã về ngự. Đem thu ngửa bàn tay, rủ làn tóc, đưa má, chìa môi cho đêm hôn, sương xanh sẽ run rẩy thủ thỉ thu về rồi mình ạ! Vâng. Vừa thu. Đang thu.

Và, đứa con gái ngồi trước mặt tôi có thể gọi nàng bằng danh xưng: Thu lạc đường không? Thu từ một thành phố khác, lạc tới đây. Ngồi trong căn quán hẹp này. Cứ gọi tạm nàng là Thu, tên Thu đi.

- Thu à, cám ơn em đã tới viếng thăm thành phố tôi ở.

Nàng chớp mắt kinh ngạc nhẹ:

- Anh lẩm bẩm gì thế? Anh gọi cô Thu nào đó.

- Tôi muốn gọi cô là Thu. Hẳn cô không phải tên Thu, nhưng cứ nhận đi.

Nàng chẳng hiểu thâm ý của tôi gì cả. Nàng hỏi một câu thật ngu:

- Bộ anh nhìn tôi giống cô Thu nào trong mộng hả?

Tôi ghét giải thích. Gật đầu đại.

- Thế anh, anh tên là gì nhỉ?

Tôi tinh nghịch:

- Tên hồi nhỏ hay hiện tại?

- Cả hai.

- Hồi nhỏ tôi tên Cu-Anh, vì ở nhà có thằng Cu-Em nữa.

Nàng khẽ nhún vai, mặt rạng vẻ thích thú:

- Hiện tại, anh?

- Không kể tên trong khai sinh, bạn bè thường gọi tôi là Thất-tình đại hiệp.

- Anh không định đùa chứ?

- Đúng vậy.

- Anh thất tình mấy lần rồi, thưa đại hiệp?

- Tiếc quá tôi không đếm, đã có những thằng bạn quỷ sứ của tôi chúng đếm dùm.

Tôi đốt một điếu thuốc, nụ cười nàng nở sau làn khói nhuốm vẻ huyền hoặc màu hồng pha tím. Nàng vụt trầm ngâm như một đạo sĩ.

- Thu, cô đang nghĩ gì?

- Thất-tình đại hiệp, tôi tiếc không còn ở đây lâu để thường xuyên được gặp anh. Lát nữa tôi rời chỗ ngồi này và, mai tôi rời thành phố này.

- Sớm quá!

- Sáng nay, trước khi gặp anh tôi đã tới Air Việt Nam mua cái vé máy bay.

- Về đâu?

- Sàigòn, đại hiệp ạ.

Tôi giả vờ làm mặt lạnh, giấu xúc động, nhấc ghế đứng lên:

- Vẫn còn kịp cho một cuộc đi dạo dưới mưa.

Nàng gật đầu dễ thương in một con mèo buồn ngủ.

Quên hết đám đông thiên hạ và đường phố, chúng tôi đi rong : lan man nhắc kể những lần gặp nhau trước. Lần thứ nhất, tôi làm cái đuôi theo nàng đi hết hai quãng đường, lòng vòng hết một khu chợ. Lần thứ hai, trong phòng tranh của một họa sĩ thời danh. Lần thứ ba, nàng thân ái gửi tôi một nụ cười, nói cảm ơn khi tôi nhường ghế cho nàng ở buổi độc tấu dương cầm của một nhạc sĩ Tây Đức tại trường Quốc gia Âm nhạc. Lần thứ tư, tình cờ cùng tới dự tiệc cưới của một cô bạn ; lần này thuận lợi nhất nhưng tôi không nói với nàng lời nào ngoài những nụ cười và những khóe nhìn chơi trò cút bắt. Lần thứ năm, sáng nay, tôi khoan khoái "bắt gặp" nàng đi một mình và, thở ra nhẹ nhõm khi nàng nhận lời vào quán nước.

Bây giờ, nàng làm mới cuộc chuyện trò bằng cách bỏ tiếng "tôi", xưng Thu, cái tên do tôi đặt.

- Thất-tình-đại hiệp ạ, về Sàigòn trí nhớ Thu giàu thêm một mớ kỷ niệm.

- Ừ, giữ lấy, sau này làm của hồi môn. Nhưng Thu sẽ nhớ những gì?

Nàng đưa tay hứng những giọt mưa:

- Thu nhớ có một chàng trai trẻ tóc xanh da tái huyền hoặc, chàng tên Thất-tình-đại-hiệp. Nhớ những dĩa bánh bèo, bánh cuốn, những tô cơm hến có ớt đỏ cay xé môi. Nhớ...

Tôi ngắt lời:

- Hình ảnh chàng Thất-tình-đại-hiệp sẽ được hân hạnh trộn lẫn với các món đồ ăn trong cái nồi súp của trí nhớ Thu.

Nàng cười dòn:

- Nói thật đó, đừng đùa, đại-hiệp!

Lòng tôi gợn lăn tăn những đợt sóng êm ái. Mắt nàng âu yếm phát ra tia lửa bí mật nào đó làm trái tim tôi nóng hực trong lồng ngực. Qua những chặng đường vắng hoe, tôi cố kềm giữ bàn tay muốn nổi loạn của mình trong túi quần tôi, bàn tay, lỡ thả nó ra chắc nó sẽ chụp vội bàn tay đang hứng mưa dễ thương của nàng mất.

Đến lúc phải chia tay. Tôi cảm khái thốt một lời hò hẹn, không quên chớp mắt vài ba cái cho thêm phần cảm động:

- Ngày mai anh sẽ ra phi trường tiễn Thu đi.

Lần nữa, nàng ngoan ngoãn gật đầu, dễ thương in một con mèo buồn ngủ.

*

Tôi ghét đám em họ, anh họ vây quanh nàng cười nói, dặn dò tíu tít, chọn một chỗ khuất thầm lặng ngắm nghía nàng.

Sáng nay, nàng vận jupe ngắn màu tím than, áo vàng màu da bò nóng cháy. Vừa nói chuyện với đám anh em họ của nàng, thỉnh thoảng nàng đảo đôi mắt đẹp dớn dác nhìn bốn phía. Tôi tin rằng những khóe nhìn tìm kiếm ấy dành cho tôi, tôi càng không muốn ra mặt, tới chào nàng. Tôi đang dành cho nàng một ngạc nhiên lớn.

Trời không mưa, căn phòng tường kính ồn ào tiếng cười nói. Chiếc Boeing 727 nằm im lìm ngoài phi đạo.

Nàng đảo mắt nhìn lần thứ ba thì, giọng nói dẻo dẹo của một cô ngồi ở quầy đổi vé vang lên trong máy phóng thanh: "Mời quý vị hành khách đi Sàigòn lên tàu".

Lên tàu. Nàng bối rối ngạc nhiên khi thấy tôi chọn chiếc ghế cạnh nàng và ngồi xuống. Nàng khéo léo chấm dứt sự ngạc nhiên bằng một nụ cười:

- Anh cũng đi nữa à?

Dở ẹt. Câu chào mừng của nàng đáng lẽ phải ấm áp: A! Anh quyết một lòng một dạ theo em há! Nàng đã không thể nói được một câu tương tự như thế. Tôi thất vọng chút chút. Tôi khẽ nhún vai. Điệu nhún vai bất cần của anh chàng J. P. Belmondo trong một phim nào đó, tôi rán bắt chước:

- Ừ, lâu lâu cũng nên đi xa, ở mãi một chỗ cuồng chân quá.

Và, tôi nói thầm trong bụng: Em bé, em ngu quá. Bộ em ngỡ anh là dân hào hoa chăng? Em thừa biết một vé boeing đi Sàigòn thời buổi này đắt kinh khủng. Trưa hôm qua anh phải tạm cho một cái áo len, cây đàn guitar, một cái đồng hồ vào "nghỉ mát" trong tiệm cầm đồ. Chưa đủ, phải năn nỉ ỉ ôi mượn thêm hai thằng bạn nữa mới có một số tiền, khả dĩ gọi là kha khá cho cuộc rong chơi này đấy.

Trong một thoáng, tôi bỗng nghĩ tôi ngu quá, dại gái quá. Ai đời lại theo cô nhỏ một cách bạt mạng vậy? Trưa hôm qua tôi đột ngột quyết định phải đi Sàigòn và, đêm hôm qua nhớ nàng quắt quay, nhức nhối.

Nhưng này! Có hề gì đâu. Muốn phiêu lưu, ta cứ phiêu lưu một chuyến chơi. Trái tim nằm trong ngực tôi chính nó, nó lôi tôi đi đó.

Nàng dựa ngửa vào lưng ghế:

- Anh về Sàigòn có chuyện gì thế, Thất-tình-đại-hiệp?

Đôi mắt nàng nhắm hờ như sẵn sàng đi vào cơn mơ nào. Tôi trầm giọng, cố làm ra điệu thì thầm:

- Rong chơi, và tiếp tục được gặp cô, Thu ạ!

Máy bay rời mặt đất, lướt êm qua những bụng mây nõn. Kệ xác máy bay, kệ xác mây gió trời đất. Tôi say mê tán tỉnh nàng. Chẳng bao lâu, hai bàn tay chúng tôi quấn quít nắm lấy nhau. Nồng nàn, nóng ấm và cảm động hết sức.

Tôi muốn có đông đủ mặt những thằng bạn quỉ sứ của tôi ngay lúc này, cho chúng tha hồ chiêm ngưỡng, để từ nay chúng hết âu yếm chế diễu tôi là Thất-tình-đại-hiệp nữa. Tôi cảm thấy bằng lòng với chuyến đi này và phục mình quá cỡ. Hỡi cái áo len, cây đàn guitar, cái đồng hồ! Ta trân trọng cám ơn các ngươi. Các ngươi là những "thánh tử đạo" đầu tiên hy sinh cho cuộc tình ta đó. Ta nhớ ơn các ngươi đời đời. Cái mặt nhăn nhó của mụ chủ tiệm cầm đồ trong trí nhớ tôi cũng trở nên dễ thương.

Tôi muốn chuyến bay kéo dài chừng nào tốt chừng ấy. Bay lạc sang Úc châu, Mỹ châu gì đó cũng được, miễn là tôi được ngồi gần nàng, nghe nàng thỏ thẻ và hai bàn tay nắm rin rịn thứ mồ hôi hạnh phúc. Nhưng chẳng thể được, chuyến đi nào rồi cũng phải tới đích.

Lúc tiếng cô tiếp viên phi hành âm vang trong lòng tàu, báo máy bay sẽ đáp xuống Sàigòn trong vài phút tới, nàng cười một nụ tươi ; lục ví lấy cuốn sổ tay ra xé một tờ, nhăn mày suy nghĩ 2, 3 phút gì đó, rồi viết cái địa chỉ dúi vào tay tôi:

- Chiều nay 3 giờ mời anh tới nhà Thu chơi, nhà vắng lắm, chỉ có hai đứa em nhỏ của Thu thôi, papa đi làm. Lát nữa có papa đón ở phi trường, mình không thể cùng về. Nhé, anh nhé!

Tôi định đề nghị nàng một chỗ hẹn khác. Tôi rất ghét dẫn xác tới nhà lạ, nhưng không kịp nữa, máy bay dừng lại, nàng rời ghế ngồi, tôi chỉ kịp siết chặt tay nàng (cho những ngón tay cùng được chia xẻ sự ngọt bùi của lời hò hẹn). Tôi đưa miếng giấy ghi địa chỉ nàng lên môi hôn rồi âu yếm nâng niu nhét nó vào túi.

Ông bố tới đón nàng thật. Nàng leo lên chiếc xe bốn bánh sơn màu kem sữa. Tôi ngẩn ngơ trông vời. Hồn và xác đều ngậm ngùi.

*

Bạn thân mến! Đọc đến đây chắc bạn nghĩ tôi sắp có một buổi chiều tuyệt vời ở Sàigòn, với cô bé nho nhỏ xinh xinh?

Không đâu bạn ạ! Bây giờ và cho tới chết, hình tôi vẫn là kẻ ngây thơ, đuổi bắt những hình sương bóng khói của cái mà người ta gọi là tình yêu.

Và, có lẽ tôi chưa hề rũ bỏ hỗn danh Thất tình đại hiệp do những thằng bạn quỉ sứ của tôi thân tặng nên, khi tìm tới địa chỉ do cô nhỏ jupe tím áo vàng ghi lại, bâng khuâng ngước mắt nhìn lên bắt gặp tấm bảng to tổ bố, kẻ những chữ đậm nét : DƯỠNG - TRÍ - VIỆN X.

Nàng tinh quái còn hơn con chồn trong truyện cổ tích, phải không?


MƯỜNG MÁN       
9-72               

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 71, tuần lễ từ 5-10 đến 12-10-1972)
 

 
 
 

Thứ Ba, 8 tháng 10, 2024

NHỮNG NGÔI MẢ TỔ - Bình Nguyên Lộc

Sáng hôm ấy, dân trong xóm Sỏi đang không làm gì cả, vì mùa lúa đã mãn từ hơn một tháng rồi, thì rất ngạc nhiên mà thấy ba người đàn ông mặc Âu phục đi vòng quanh xóm.

Xóm cất trên một cái gò thấp nhưng vẫn nằm cao hơn ruộng chung quanh. Gò rộng độ bốn mẫu, hình tròn không đều nhưng những kẻ đi vòng quanh đó cũng có vẻ đánh nhiều vòng tròn như các ông thầy chùa chạy Kim Đàng.

Đây là một xóm đèo heo hút gió, nhưng người dân ở đây vẫn thường thấy người ở thành thị, những người đi săn, thỉnh thoảng ghé qua đó để xin vài tô nước, đi mua một con gà, hoặc để thuê một chiếc xe bò, loại xe chà rẹc đi vào rừng kéo một con thịt lớn mà họ săn được, cọp hoặc nai to chẳng hạn.

Nhưng hôm nay họ lấy làm lạ lắm là ba kẻ lạ mặt cứ đi vòng quanh xóm mãi chớ không vào xóm. Ba kẻ ấy lại không có mang súng, nghĩa là không có vẻ gì là thợ săn cả.

Cả ba đi trên ruộng khô - ruộng nầy cũng là ruộng gò, tức ruộng cao ở ven rừng - nằm sát bờ gò xóm Sỏi.

Cả ba người đều cúi gầm mặt xuống đất như để tìm kiếm tiền bạc gì mà họ đánh rơi dưới ấy lúc nào không rõ. Thỉnh thoảng một người cúi xuống lượm cái gì lên xem, có lẽ là một hòn sỏi, rồi họ trao tay nhau món ấy, rồi họ bàn tán với nhau rất lâu.

Dân trong xóm hơi sợ, dĩ nhiên là họ sợ cái gì mà họ không thể đoán được, con người vẫn thế. Vào rừng, họ biết có thể gặp cọp, nhưng họ không lo bằng khi họ vào thành phố Sài gòn chẳng hạn, mà họ không biết cái gì đang đợi họ ở đó.

Cái trò đi vòng quanh xóm kéo dài hơn một tiếng đồng hồ thì có chuyện lạ xảy ra: ba kẻ lạ mặt quả quyết bước lên gò để vô xóm.

Xóm Sỏi chỉ đông có năm cái nhà thôi. Nói nhà để nghe cho sang trọng chơi vậy chớ đó chỉ là năm cái chòi. Chòi cất bằng tre, không cửa, không vách, lợp bằng tranh, tức làm toàn bằng vật liệu tìm được tại chỗ dễ dàng, không tốn của mà cũng chẳng tốn công là bao nhiêu. Nhưng dân ở đây nghèo khổ quá nên họ không buồn nghĩ tới tiện nghi. Họ là tá điền, chủ ruộng ở xa lắm, mà là thứ tá điền hạng bét vì ruộng gò rất thất lúa, cho nên chủ ruộng mà còn không đong được bao nhiêu giạ thóc sau mùa gặt hai mươi mẫu ruộng khô ở đây thì nói chi tá điền họ thường không đủ lúa ăn tới sáu tháng.

Ruộng rừng bị nai và heo rừng phá lúa dữ quá, canh gác không xuể, chỉ đành đánh bẫy chúng để ăn thịt trừ cơm, nhưng ăn bao nhiêu cũng không hết thú rừng nên họ nhẫn nại chịu số phận vậy.

Dân số trong xóm, đếm đầu được hai mươi mạng, vừa già, vừa trẻ, vừa nữ, vừa nam. Người mình rất đông con, nhứt là trong giới nghèo. Nhưng nghèo vừa kìa, chớ nghèo sát đất như dân xóm Sỏi thì lại hiếm con.

Đáng lý gì năm gia đình nầy gồm ít lắm là bốn mươi người, vậy mà số nhân khẩu ở đây không bao giờ vượt lên khỏi hai mươi. Khí hậu bất bao dong ở đây, nhứt là bịnh sốt rét rừng, cọng với nghèo đói, tàn phá sức khỏe của người dân nên đường tử tức của đàn bà bị giảm, mà họ có đẻ đi nữa, con cái của họ cũng yểu tử vì hoàn cảnh, vì thọ khí bẩm không tốt của cha mẹ chúng. Vậy mà xóm nầy là một xóm rất lâu đời, bằng vào những nấm mộ sau xóm, đông đúc bằng mười lần dân số hiện tại, mà nấm mộ nào cũng có chủ cả, nghĩa là người ngày nay là con cháu của những kẻ đã sanh cư ở đây từ thuở nào rồi.

Chó trong xóm từ nãy tới giờ chỉ đứng ở các sân nhà mà sủa cầm chừng kẻ lạ mặt ngoài xa. Giờ thấy họ vào xóm, chúng đổ xô ra mà sủa dữ dội. Trẻ con sợ hãi, níu áo mẹ, còn người lớn thì hồi hộp mong đợi coi việc gì xảy ra. Ở đây buồn quá, một bác thợ săn ghé lại xin một tô nước cũng đủ làm huyên náo cả xóm rồi, và đó là một "biến cố" hay ho, giúp họ dùng làm đầu đề câu chuyện cả tuần, phương chi ba người nầy có vẻ bí mật, lạ lùng, thì "biến cố" có thể đáng kể hơn nhiều lắm.

Ba kẻ lạ mặt vào ngay nhà Tư Hoặc là cái nhà ngói ở đầu xóm. Sân không có rào, nên họ khỏi gọi cổng, cứ bước thẳng vô nhà.

Tư Hoặc không hề giao thiệp với ai, trừ với người trong xóm, mà họ đã quá thân với anh, thành thử anh không bao giờ biết xã giao là gì. Anh lại quen làm thinh cả ngày trong một thế giới gần như không người nên anh chỉ nhìn khách chớ không chào hỏi bằng lời hay bằng cử chỉ nào hết.

Người trẻ tuổi nhứt trong bọn ba người lạ mặt, hất hàm ra hỏi một cách bửa củi:

- Nhà nầy anh bán bao nhiêu?

Xóm nhà nầy xơ rơ quá, mà đất gò lổm chồm đá sỏi, đến cỏ mọc cũng không được, làm cho nó càng xơ rơ hơn. Người trẻ tuổi thiếu kinh nghiệm ở đời, ngỡ đề nghị giá cao, là họ bán ngay. Hoặc há miệng trố mắt mà nhìn khách rất lâu không nói không rằng gì cả.

- Mười ngàn, anh bán hay không?

Tư Hoặc vẫn trố mắt há miệng mà nhìn những con người kỳ dị nầy. Phong tục Việt nam ta, hỏi mua nhà ai mà không có lời rao bán của người ta, không những là một sự xúc phạm danh dự của người ta không thể dung tha được, mà lại còn là một lời trù rủa cho người ta sạt nghiệp, có thể làm cho người ta điên tiết lên mà giết mình nữa là khác.

Nhưng Tư Hoặc không giận. Nhà anh không đáng giá một ngàn bạc mà kẻ nầy trả đến mười ngàn nên anh tưởng đó là một lũ điên. Anh chỉ cười lặng lẽ rồi lắc đầu.

Người cao niên hơn hết trong bọn, nói với người trẻ tuổi bằng một thứ ngoại ngữ, Tư Hoặc không hiểu nhưng anh cứ cho đó là tiếng Tây.

Người lớn tuổi ấy nói với người trẻ tuổi:

- Thưa ông chủ, ông chủ hành động như ở Sài gòn không được đâu. Dân Sài gòn bị Âu hóa với lại bị tình trạng khan nhà hai mươi năm nay tập cho họ quen với việc bán nhà, mua nhà dễ dàng và cấp tốc như mua một hộp diêm, nhà họ đang ở ấm êm, ta nhào vô xáng xả đòi mua, họ bán ngay tức khắc nếu ta đề nghị giá cao, mặc dầu họ không có ý định bán nhà bao giờ. Người nhà quê thì khác.

- Chớ biết làm sao bây giờ?

- Ông chủ cho phép tôi dàn xếp có được không?

- Anh cứ tự tiện đi, tôi cho anh trọn quyền hành động

Xin được phép của chủ hắn xong, người lớn tuổi đi ra ngay. Hai người kia nối gót theo hắn. Hắn rảo khắp xóm, dòm vào từng nhà, đoạn dừng lại trước một cái thum mà trong đó hắn thấy một ông lão râu tóc bạc phơ.

Hắn đứng ngoài sân, xá ông ta một cái, ông ta gật đầu, mời hắn vào nhà. Y như Tư Hoặc, ông lão nầy cũng không hỏi han gì khách cả, đợi khách nói mà thôi.

Người cao niên lễ phép thưa:

- Thưa bác, gò nầy có phải thuộc quyền sở hữu của chủ dãy ruộng nầy hay không?

- Ơ...không. Đây là đất công thổ.

- Nghĩa là đất của làng, bà con mướn năm mà ở.

- Ừ.

- Vậy thì hay quá! Thưa bác, anh em cháu là người Sài gòn, chán đời nên muốn tìm chỗ hẻo lánh mà ẩn dật. Thấy cuộc đất nầy thuận tiện để anh em cháu cất một cái am, anh em cháu xin thử hỏi bác coi bà con ở đây có bán nhà, hoặc nhường đất, dọn đi nơi khác hay không. Anh em cháu sẵn sàng đền bù cho mỗi nhà bán hoặc dọn đi một số tiền là mười ngàn đồng.

Ông lão choáng váng mấy giây rồi nổi giận nói:

- Trời ơi, chú thật là vô phép, lại không biết cữ kiêng cho người ta; nhà người ta đang ở yên lành, khi khổng khi không dám cả gan xáng xả đòi mua, đòi đuổi. Xui cho bà con tui quá, tui nói cho chú đặng biết, bà con tui ở chung quanh đây không nghe cho chú đâu.

- Xin bác tha thứ cho. Anh em cháu bằng lòng đền bù thiệt hại cho bà con mỗi người mười ngàn tức mười lần nhiều hơn giá cái nhà của bà con. Có phải bà con được lợi hay không?

Khác hẳn Tư Hoặc, ông lão nầy tuy biết bị mích lòng, mà lão lại cũng biết tham lợi nữa. Vì thế mà lão dịu cơn thịnh nộ ngay rồi suy nghĩ rất lâu.

Nhưng rốt cuộc, lão vẫn lắc đầu từ chối.

- Không thể được, lão nói.

- Anh em tôi thấy cách đây độ hai cây số, nghĩa là ở bên kia dãy ruộng nầy, có đất trống, mà lại là đất tốt nữa, trồng trọt được, chớ không phải đất cỏ cháy như ở đây. Bà con có thể...

- Không, nhứt định không, chú đừng có nài nỉ mất công.

Người thương thuyết lắc đầu, đoạn xin phép chủ nhà ra đi, cả ba đều rời khỏi xóm.

Ra tới ruộng, ông chủ trẻ tuổi cười nói:

- Anh có tài Trương Nghi, Tô Tần, nhưng cũng không thành công hơn tôi.

Bây giờ người trung niên mới mở lời lần thứ nhứt. Hắn trạc ba mươi lăm tuổi, gương mặt lanh lợi và một vẻ gì ác hiểm ẩn trong đó. Hắn hỏi:

- Nhưng các anh có chắc ăn lắm hay không mà dám dùng đến phương tiện lớn như vậy?

Người cao niên cười ha hả mà rằng:

- Tôi năm nay đã bốn mươi hai rồi, và đã lặn lội trong nghề nầy hồi tôi mới mười chín tuổi, thì các anh biết cái vốn kinh nghiệm của tôi có kém hiểu biết của một ông kỹ sư mỏ chút nào không.

Chẳng những xem mặt đất tôi không thể lầm về cái chứa của gò nầy, mà tôi còn ước lượng được sức chứa của nó nữa. Hết lớp đá sỏi trên mặt thì tới đất sét, và qua khỏi độ một thước đất sét ta sẽ gặp hai ngàn thước sạn trắng đang ngủ yên dưới ấy từ mấy ngàn đời rồi không rõ. Mỗi thước sạn trắng, trừ đi mọi tổn phí như là vận động, khai thác, chuyên chở, thuế má, là còn kiếm được lối một trăm đồng, nghĩa là ta sẽ bỏ túi hai trăm ngàn như chơi.

Nhưng đó là không kể khối sạn nằm dưới hằng trăm nấm mộ sau xóm mà ta không làm sao khai thác được cả trừ khi hành động theo cách nầy là đào hầm ăn thông dưới mộ rồi dùng trụ hầm mà chống đỡ cho đất đừng sụp, nhưng họ sẽ dòm ngó ta mà ngăn cản, và về sau nầy trụ mục thì mồ mả ấy sụp hết, mang tội lắm.

Hai người kia rất tín nhiệm bác chuyên viên nầy. Họ phấn khởi lắm vì họ biết rằng các hầm sạn trắng ở miền Nam nầy đã cạn hết rồi, không dễ dầu gì mà phát kiến được một mỏ vàng to như thế nầy đâu.

Sạn trắng ngày nay quí như vàng. Các nhà thầu, xây cất bằng bê-tông, đã phải xay nhỏ đá xanh để tạm dùng đỡ, còn sạn trắng thì chỉ để dành làm gra-ni-tô, làm vách tô rửa, hoặc để cho các bực triệu phú trải sân biệt thự thôi.

Người trung niên suy nghĩ giây lát rồi nói:

- Nếu quả đúng như vậy thì tôi sẽ có cách, miễn ông chủ chịu tốn thêm vài ngàn.

- Ừ, bao nhiêu cũng được, nói nghe thử coi.

- Nhưng phải chắc bác nầy không lầm kìa, vì cách đó tàn nhẫn lắm, có đáng việc mới nên dùng tới.

- Tôi bảo đảm bằng cả hăm ba năm lành nghề của tôi.

Người trung niên bèn hạ giọng xuống rồi thì thầm rất lâu với bạn đồng hành của hắn, mặc dầu ở đây xa xóm, không thể nào ai nghe được lời của họ. Đấy, có những điều mà người ta chỉ dám nói thầm với nhau thôi, vì người ta sợ chính cả người ta nữa.

Người chủ trẻ nghe xong, hoan nghinh liền.

Nhưng người cao niên thì châu mày tỏ vẻ bần dùng lắm.

Hắn hỏi:

- Liệu sẽ gây kết quả tai hại nào không?

- Nhứt định là không. Ở đây xa xóm. Nhà họ lại không có vách, không có cửa gì hết thì đâu có lo họ bị kẹt trong đó.

Rồi cả ba kéo nhau ra làng, ở ngoài bờ sông, cách đó độ năm cây số, nơi nhà họ tạm trú. Trước khi rời xóm, người cao niên gọi với người trong xóm mà hô rất to:

- Xin bà con nghĩ kỹ lại, vài bữa chúng tôi sẽ trở vô đây.

Đêm đó, ba người làm nghề khai thác hầm sạn nầy tổ chức nhậu nhẹt để đãi cả xóm ngoài, xóm lớn nhứt của làng nầy. Họ nhậu với kỳ nhông xé phay, rượu lậu nấu trong làng, thứ nước nhứt. Cả xóm say mèm.

Liền tiếp ba đêm liền, đêm nào cũng tiệc tùng như vậy cả, đêm thứ nhì họ nhậu với một con trút xào lăn, đêm thứ ba thì tuyệt, bởi món nhậu là hai cái vú nai đang nuôi con, bùi và thơm không tả được. Khi cả xóm cúp bình thiếc cả rồi thì người trung niên ra đi một mình. Hắn chỉ uống rượu cầm chừng thôi, nên hắn không say như chủ hắn và người đồng nghiệp cao niên của hắn. Hắn ra khỏi làng rồi băng rừng mà tiến mau vào xóm Sỏi, tay xách một cây ná lảy. Hai tiếng đồng hồ sau, hắn mới tới nơi, vì đường rừng rất khó đi. Trời đã trở bấc, khí lạnh làm cho chó trong xóm rất lười, chúng trốn mà ngủ hết, nên gã cầm ná đi tới bờ gò rồi mà không gây động.

Hắn rút ra một cây tên kỳ lạ lắm. Tên rất dài, nhưng tà đầu. Đầu tên buộc bó nhang và giữa một chục cây nhang ấy, cách đầu nhang độ hai phân tây, mười cây diêm quẹt được chôn thật chặt. Hắn núp sau một bụi cây cơm rượu, đoạn bật cái bật lửa lên mà châm nhang cho cháy. Xong đâu đấy, hắn đặt tên lên ná, nhắm nhía rồi lảy cò ná liền.

Trong bóng đêm mũi tên lửa than nầy xẹt đi, trông như một ngôi sao băng. Nếu có ai còn thức và rủi ro trông thấy, có lẽ họ sợ sệt cho rằng "Bà" giáng hạ, vì ở thôn quê, người ta tin "Bà" giáng như thế.

Hắn lùi ra xa, rồi ngồi xuống mà đợi kết quả. Nhang cháy độ năm phút thì lửa nhang gặp đầu diêm quẹt. Diêm quẹt cháy lên thành lửa ngọn mà cây tên lại đang nằm trên mái tranh của một cái chòi.

Không mấy chốc mà năm cái chòi ấy đều ra tro. Chỉ có hai mươi người trong xóm là kêu la, và năm con chó sủa om thôi, ngoài ra cả thế gian, không ai hay biết có cuộc hỏa hoạn nầy hết.

Sáng hôm sau, ba kẻ "chán đời muốn cất am để tu" trở vào đây, đúng y theo lời bữa hôm nọ, nên không ai ngạc nhiên cả.

Họ rất tốt bụng, giúp cho mỗi gia đình một ngàn bạc rồi người cao niên nói:

- Bà con phải cất nhà ngói mới tránh hỏa hoạn được: Mà cất nhà ngói phải có tiền. Ít lắm là mười ngàn. Ở đây, cây thì bà con đốn lậu được, vậy không tốn hao bao nhiêu. Bà con nên nhận đề nghị của anh em tôi hôm nọ đi.

Cả xóm làm thinh, nhìn nhau, hỏi nhau bằng mắt rất lâu, đoạn lão hôm nọ đáp thay họ:

- Bà con tôi đội ơn quí thầy tới ngàn ngày về khoản trợ giúp nầy và về đề nghị kia. Nhưng rất tiếc là không thể nhận được. Bà con tôi ở đây đã bảy đời rồi, mồ ông mả cha của bà con tôi đều nằm ở đây. Chúng tôi thương yêu cái gò cỏ cháy nầy quá rồi, không làm sao mà rứt ra để đi đâu được hết, cho dẫu là chỉ đi ở cách đây vài dặm hú.

- Bà con không tiếc mười ngàn sao?

- Tiếc lắm chớ nhưng chúng tôi lại tiếc cái gò nầy hơn.
 
 
(Trích từ tập truyện ngắn Cuống Rún Chưa Lìa)

 

Thứ Bảy, 5 tháng 10, 2024

NGƯỜI CON GÁI CÙNG ĐƯỜNG - Hoàng Minh

 

Đã từ lâu, cũng như thành một thói quen, sáng sáng tôi gặp nàng với đứa em trai nhỏ đi học. Nhà nàng ở cạnh nhà tôi, ông bố nàng làm lính thỉnh thoảng thấy chở hai chị em nàng đi học. Tôi biết được là nàng học ở VHQĐ nhờ ở phù hiệu thêu trên áo nàng. Không hiểu từ lúc nào ngồi trên chiếc ghế đu bên hiên nhà, ánh mắt tôi chăm chú dõi theo tà áo dài thướt tha của nàng và ánh mắt nàng cũng bắt gặp cái nhìn đó, nàng luống cuống một chút rồi khẽ cúi đầu bước nhanh hơn. Chỉ có thế, tôi thoáng nghe bâng khuâng trong lòng. Hai ba lần như vậy, đứa em để ý biết. Nó hình như khó chịu dùm cho nàng và có lẽ đâm ghét bản mặt của tôi. Đôi khi gặp nó đi mua đồ một mình, tôi muốn nở một nụ cười làm quen nhưng mặt ông tướng cứ lạnh như tiền. À, chú nhỏ nhà ta làm cao. Mà tôi có cần cười với nó đâu chứ, tôi chỉ ước đủ can đảm nở nụ cười... giao duyên với nàng. Tiếc thay lòng can đảm tôi nhỏ hơn cả gan ruồi, chưa bao giờ tôi dám đường hoàng... chiêm ngưỡng nàng. Những lần thấy bóng dáng nàng từ xa, tuy mắt mũi làm như chúi vào quyển sách đọc say mê lắm vậy, thật ra tôi đang dọn lòng hồi hộp qua một bên để sửa soạn... Sửa soạn gì tôi cũng chẳng biết. Sửa soạn ngắm nàng chăng? Có lẽ thấy tôi không dám "giở trò" gì, thằng em nàng xem ra khinh thường tôi. Hắn thường nhe răng cả với tôi, cái nụ cười chế nhạo thách đố ấy mới dễ ghét làm sao. Nhưng cần gì, tôi biết nàng thầm thương hại tôi, nàng đang thông cảm sự nhút nhát của tôi. Không thế sao bữa nọ, thằng em nàng mới cất miệng oang oang nói:

- Bực mình ghê nơi chị Thư nhỉ? Xóm mình sao có lắm kẻ tò mò thế?

Nàng khẽ liếc nhẹ về phía tôi, nàng cau mày rầy nhỏ em. Cu cậu cụt hứng nên tỏ vẻ bực tức cứ đưa mắt gườm gườm tôi. Tôi khoái chí quá, tôi biết được tên nàng là nhờ công chú nhỏ đó nhé... Buổi tối ngồi học, tôi viết nguệch ngoạc những chữ Thư đầy lên trang cuốn vở. Ngồi học nửa buổi, nửa buổi còn lại tôi mải lo tìm vần thơ. Tôi có cảm tưởng máu thi sĩ đang chảy đầy trong huyết quản tôi. Tôi thầm cảm tạ Thượng Đế đã cho nàng bênh tôi, về phe với tôi. Làm thơ chán tôi nằm dài ra giường lẩm nhẩm đọc thơ mình, những câu thơ ngây ngô và vần điệu ôi mới chói tai làm sao.

Hôm nọ, bố nàng nhờ gửi chiếc xe Jeep của mấy người bạn trong sân nhà tôi. Nàng đi qua, lúng túng trước cửa. Thấy tôi nàng vội nói nhỏ, giọng dịu dàng thanh thoát:

- Xin anh cho gửi nhờ cái xe bên này ạ... Nhà Thư chật quá không có chỗ để.

Tôi cũng bối rối không kém, hình như tôi có ngơ ngẩn giây lát trên mái tóc có dắt cái kẹp mầu đỏ của nàng. Lúc gật đầu, nàng cám ơn và quay trở ra, môi nàng hơi mỉm cười. Nụ cười làm tôi bàng hoàng cả hồn. Những lần sau đó, hai đứa có vẻ thân thiết nhau hơn trước. Đi học về, nàng không cúi đầu đi một mạch mà gặp tôi, nàng mỉm cười. Bữa kia, nàng đi học về có một mình, tôi đánh bạo hỏi chuyện:

- Sáng Thư đi học sớm ghê! Em Thư hôm nay sao không thấy đi?

- Dạ, nó đau đó anh! Thư học sáng thôi à...

- Tôi nằm nhà chờ ngày tựu trường, thấy Thư đi học thèm ghê!

- Trường anh tựu lâu ghê nhỉ?

- Tại vì tôi học chương trình Pháp...

- Anh thích đọc sách lắm hả? Có rảnh ghé sang Thư lấy vài quyển về mà đọc.

- Sao Thư biết tôi thích đọc sách?

- Có lẽ tại lần nào gặp anh, Thư cũng thấy anh cầm một quyển sách hết. Thôi Thư về nhé anh.

Nàng cười khoe chiếc răng khểnh và vén tà áo bước nhanh. Tôi ngượng ngùng vì những lần nàng thấy tôi cầm quyển sách trên tay chỉ là những tập thơ của các thi sĩ ca tụng về tình yêu mới lớn. Biết được nguyên nhân nào tôi nổi hứng nghiền ngẫm... thi văn, nàng sẽ cười vào mũi tôi. Với cặp kính dầy cộm đeo trên mắt, chắc nàng tưởng tôi thông thái lắm. Bỏ kính ra, tôi đau khổ nhiều vì không tưởng tượng ra được... cái răng khểnh xinh xắn của nàng. Thỉnh thoảng thấy nàng đứng vơ vẩn trước nhà, gương mặt nàng sao đăm chiêu mơ màng lạ. Lúc này chị Thành thường lấy làm lạ khi thấy cây đàn đóng bụi treo trên vách được tôi trịnh trọng gỡ xuống lau chùi. Chị cười bảo phép lạ đã đến với "cây đàn bỏ quên". Tôi nói lâu nay tâm hồn nghệ sĩ phải có lúc tỉnh giấc chứ... Xem ra chị Thành ghê lắm, đôi mắt điều tra của chị khó để yên cho tôi. Chỉ đợi khi nào chị vắng nhà, tôi mới ôm đàn ra ngồi dưới gốc cây. Sao lúc này tôi thương yêu những cây đào nhà tôi làm sao, chúng xum xuê những tàn lá to lớn mát rượi. Ngồi bên nầy tôi không sợ nàng nhìn thấy và ngược lại tôi có thể quan sát vùng đất bên kia. Tôi đàn bản "Cô láng giềng", "Ngày xưa Hoàng Thị"... Bài "Sang ngang" của Đỗ Lễ tuy thích, tôi cũng bỏ sang một bên vì sợ nàng tưởng lầm tâm hồn tôi là ủy mị, ướt át... rẻ tiền. Những lần nghe tiếng đàn, thỉnh thoảng nàng có ngó sang, nhưng chỗ tôi ngồi khuất nên chỉ thấy mắt nàng thoáng ngỡ ngàng đôi chút. Nhìn ánh mắt đen lay láy của nàng, tôi biết tôi yêu nàng ghê lắm ngay từ phút đó. Và vì vậy tôi dè dặt hơn với ông bố nàng. Bố nàng mặc đồ lính thật oai, nhất là khi ông vỗ vai tôi và nói chuyện oang oang. Ông khen tôi là "cậu bé hàng xóm ngoan nhất ở đây", tôi đỏ mặt khi thấy nàng quay mặt đi cười. Chẳng ngoan gì đâu ạ, nếu ông biết tôi đang... tương tư nàng. Nhà tôi có nhiều cây gỗ, ba tôi hay bảo tôi đem sang cho bên nhà nàng một ít. Ngược lại bố nàng thường qua giúp ba tôi trong công việc đóng cọc, rào tường nào đó... Hai ông xem ra coi chuyện "láng giềng giúp đỡ nhau" là thường lắm. Có tôi là thấy buồn ghê gớm, mấy quyển sách nàng cho mượn tôi còn bỏ nằm lăn lóc trên đầu tủ. Chả là vì hôm qua đi chơi về tôi bắt gặp nàng ngồi sau xe Honda anh chàng nào chở. Nàng không thấy tôi, nàng mải nói chuyện với người con trai có ngạc nhiên vì thấy ánh mắt tôi nhìn chăm chú. Thả nàng xuống đầu ngõ, người con trai quay xe đi mất. Lúc nầy nàng mới nhìn thấy tôi đang uể oải dắt xe vào nhà.

- Anh đi đâu về đó?

- Tôi đi lại nhà bạn mới về. Thư cũng mới đi học về hả?

Rồi tôi thản nhiên bỏ vào trong. Hình như nàng có hơi ngẩn ngơ, ánh mắt tươi vui bỗng trở thành buồn bã. Cho bõ ghét, tôi lẩm nhẩm và thấy mình độc ác, bần tiện lạ. Lúc nầy tôi mới thấy câu nói tôi cộc lốc, gương mặt tôi nhăn nhó lạnh lùng... Tôi bỏ cơm, chỉ lên giường nằm ngó trần nhà. Chị Thành kêu, tôi ừ hử cho lấy lệ. Buổi chiều, tôi lại thay đồ xách xe đi nữa. Nàng gọi, tôi hơi ngần ngừ một chút.

- Anh có biết Thư sắp dọn nhà rồi không?

- Vậy hả? Sao Thư không cho tôi hay sớm?

- Mấy lúc nầy anh hay đi hoài, Thư cho hay sao được.

- Làm tôi chưa kịp đọc xong mấy quyển sách mượn Thư.

- Anh cứ giữ luôn đi. Bố Thư bảo Thư tặng anh đấy...

- Thư tiếc không?

- Với anh, Thư đâu có hẹp hòi...

Nghe giọng nàng run run, tôi biết nàng đang xúc động. Bao nhiêu giận hờn tan biến cả, tôi nhìn sâu vào mắt nàng và thấy nỗi sầu mang mang từ đấy.

- Thư đợi một chút. Tôi lấy cái nầy cho Thư...

Nàng đón lấy quyển sổ tay tôi trao cho. Quyển sổ do chính tay tôi đóng và ngay trang đầu nàng đọc được những dòng thơ Nguyên Sa:

Tôi muốn ví mắt em như một vì sao
Chưa có ở trên trời
Một vì sao : ngủ muộn hơn sao hôm...

Người con trai tôi thấy chỉ là anh họ nàng, gặp dọc đường anh chở nàng về có việc đi gấp.

Hôm nàng ra đi, tôi nhớ trời mưa lất phất. Cửa nhà nàng đóng kín, quạnh hiu. Tôi bỗng mong ngày tựu trường mau đến. Nhưng chiều nay, tôi vẫn ngồi đây, tiếng chim hót lạc lõng ở trong vườn và tôi thấy tháng tám còn đâu đây, với nắng tàn, với mắt ai...


HOÀNG MINH      

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 72, tuần lễ từ 12-10 đến 19-10-1972)


Thứ Tư, 2 tháng 10, 2024

CHO ĐÀ LẠT YÊU DẤU - Trần thị Gia Lai

 

Chiếc xe lam chạy từ từ rồi dừng hẳn lại trước cây xăng. Ba tôi nhảy xuống trả tiền còn tôi ôm gói quần áo theo sau. Trời hãy còn tối và hình như có mưa, mưa bụi. Dưới ánh đèn néon trắng ở vườn hoa từ phía bờ hồ, tôi nhìn thấy những sợi mưa dài, mong manh, bay lất phất. Chiếc đồng hồ trên tay tôi chỉ 6 giờ 30 sáng. Hãy còn sớm. Những khu phố tôi vừa đi ngang chưa thức dậy, nhưng ở bến xe này thì thật đông và ồn ào. Cái náo nhiệt, những âm thanh, những dáng người chạy lui, chạy tới, hấp tấp, vội vã làm tôi khó chịu. Tôi chợt thấy một nỗi chán ngán vây quanh lấy mình và hơn lúc nào hết tôi muốn trở lên xe, bảo tài xế trở về con đường cũ, qua những dãy nhà im lìm, vắng vẻ, để rồi cuối cùng trả tôi lại cho ngôi nhà nhỏ, mang một vẻ hiu quạnh, buồn bã, nằm khuất sau hàng rào ngũ sắc và những cây ổi cao, đầy trái, ngôi nhà mà trước đây vài mươi phút, xe đã rồ ga, chuyển bánh...

Có tiếng ba bên tai tôi. Đoan, đi con. Tôi như kẻ mất hồn, bỏ mặc ý muốn mình chơi vơi, hụt hẫng, thẫn thờ đi cạnh ba. Ba dẫn tôi đến bến xe MT và bảo tôi ở đấy đợi ba vào mua vé. Dựa người vào tấm kính, tôi cảm thấy rã rời. Đoạn đường từ nhà tôi đến đây không xa, gói áo quần trên tay tôi không nặng. Nhưng đầu óc tôi tràn ngập ý nghĩ và tâm hồn tôi nặng trĩu buồn phiền. Tôi đưa tay vuốt tóc, vuốt mặt, làm những cử chỉ đem đến cho mình một sự tỉnh táo thật gượng gạo. Tóc tôi ướt vì mưa, mặt tôi cũng lành lạnh và ướt, không hiểu do mưa hay nước mắt. Tôi nhìn về phía bờ hồ, cố làm ra vẻ thản nhiên để tránh những đôi mắt soi mói chung quanh. Ánh sáng từ đường vào chợ và ở vườn hoa không được sáng để chọc thủng bóng tối, cho tôi nhìn thấy mặt nước hồ gợn sóng lăn tăn. Tôi cắn môi, thôi rồi, môi tôi lại mặn. Từ lúc ngồi trên xe lam đến giờ, tôi không nhớ rõ mình đã khóc bao nhiêu lần rồi, chỉ biết tôi cứ phải cúi đầu, nhìn xuống sàn xe để giấu đôi mắt mình đo đỏ, mỗi lúc xe vượt qua những cột đèn mà ánh sáng hắt xuống chiếu rõ cả một khoảng đường, để ba không trông thấy và nhìn tôi bằng đôi mắt ái ngại lẫn buồn rầu.

Một tháng trước đây, khi ba đề nghị cho tôi lên nghỉ hè ở cái xứ Đà Lạt mưa ngày, mưa đêm này, tôi đã vui mừng đến khóc được. Nghĩ đến mẹ, hai đứa em và cả cuộc sống mới ở ngôi nhà xa lạ mà thân thiết của mẹ nữa, tôi đâm nao nao, chỉ muốn rời Nha Trang sớm phút nào hay phút ấy. Cho đến khi chiếc xe MT cũ kỹ mang tôi đi sâu vào thành phố miền cao nguyên rét mướt này, nhìn thấy những ngọn đồi xanh xanh, mặt nước hồ êm ả, và những con đường quanh co, khi lên cao, lúc xuống thấp, tựa những làn sóng lớn, rồi những cơn mưa chợt đến, chợt đi, mưa theo từng đám mây, từng cơn gió, tôi mơ hồ thấy được phần nào chuyến đi của mình. Nó sẽ không vui như tôi tưởng. Mà thật thế, suốt những ngày sống ở đây, bên cạnh mẹ và hai em, không hôm nào là tôi không khóc, cũng như hôm nào trời cũng mưa. Hôm đầu tiên bước chân vào ngôi nhà của mẹ, tôi xúc động vô cùng, tim tôi như muốn nhảy khỏi lồng ngực và tôi đã không cầm được nước mắt khi khuôn mặt mẹ xanh xanh hiện ra ở cửa. Lâu quá rồi tôi không gặp lại mẹ. Nhiều khi tôi băn khoăn tự hỏi, không hiểu mẹ có còn nhớ đến tôi hay đã quên rồi đứa con gái lớn hay buồn, khóc cũng chẳng ít của mẹ. Qua hôm sau ba tôi trở về Nha Trang, khi đã đưa tôi đến với mẹ và hẹn ngày lên đón, tôi lại khóc. Cũng như sáng nay, ngồi trên chiếc xe lam nhìn lại bóng dáng mẹ lẻ loi in lờ mờ trong bóng tối bên chiếc cổng, tôi đã nhìn mẹ, nhìn ba tôi rồi để mặc nước mắt tuôn dài trên má. Tôi không muốn bỏ mẹ. Tôi thèm những cử chỉ âu yếm của mẹ. Tôi cũng không muốn để ba sống trơ trọi một mình. Nhưng tôi không thể nào hàn gắn được vết rạn nứt giữa Ba và Mẹ tôi, mỗi ngày một lớn. Nhiều khi tôi tưởng như mình là trẻ mồ côi. Sống với ba, tôi có ý nghĩ mình mất mẹ. Ở với mẹ, tôi thấy mình như kẻ không cha.

Nếu ba tôi lơ là một chút, hoặc mơ tưởng xây dựng đời sống mới, chừng ấy dư để cho tôi lợi dụng chuyến nghỉ hè này mà ở mãi với mẹ, từ giã Nha Trang không chút lưu luyến. Nhưng tình thương ba dành cho tôi sâu đậm quá khiến tôi không thể làm gì hơn là cố gắng để ba hài lòng mãi về tôi. Có những buổi chiều, mẹ tôi bận bịu với bếp núc, tôi một mình đi lang thang trên những con đường vắng vẻ, có lẽ là vắng nhất thành phố, và tôi buồn rầu nghĩ đến nỗi cô độc, trống vắng của ba tôi. Không có tôi gian nhà nhỏ xấu xí ba thuê ấy sẽ thiếu hẳn tiếng đối thoại dù lạc lõng, rời rạc của hai cha con. Và những bữa ăn sáng, ăn trưa, ăn tối hẳn là phải vô cùng giản dị, ngắn ngủi. Tự dưng tôi ao ước mình có cánh, bay về tức khắc với ba, tôi muốn xua tan nỗi yên lặng đang vây quanh ba bằng cái ồn ào, vui tươi giả tạo của mình... Tôi cứ nghĩ vẩn vơ như thế và đi mãi, chẳng biết mình đi đâu và đã qua những con đường nào. Đến khi trời sẫm tối, hơi lạnh của nước mưa thấm vào da thịt, tôi rùng mình và chợt tỉnh người, nhìn quanh để hỏi lối về nhà. Rồi những đêm khuya không ngủ được, tôi ngồi dậy mở cửa sổ nhỏ của căn gác mẹ dành cho tôi và tôi ngồi đấy mãi, mắt rưng rưng, thấy nhớ ba hơn bao giờ hết. Cho đến khuya thật khuya, khi con đường đã hoàn toàn yên lặng và tối đen, tôi không còn nhận ra đâu là nhà cửa, là cây cối, là đất trời... tôi cũng chưa buồn trở vào giường. Để sáng hôm sau thức dậy, tôi bàng hoàng nhìn thấy đôi mắt mình thâm quầng trong gương. Tôi ôm mặt. Có thể nào cuộc sống của tôi u buồn đến thế chăng? Có thể nào con bé Đoan, 17 tuổi có cha mẹ và hai em lại tội nghiệp đến thế chăng?

Hai em tôi còn nhỏ chưa hiểu được nỗi buồn có cha mẹ mà không được sống gần, nhưng lớn lên, hạnh phúc của gia đình bè bạn sẽ đập vào mắt chúng và chúng sẽ thấy thấm thía vô cùng. Tôi ái ngại nghĩ đến Trang, em gái tôi, nó có vẻ yếu đuối hơn tôi nhiều đó, dù tôi không cứng rắn tí nào. Cái ngôi nhà yên lặng ở con đường vắng nhất thành phố này sẽ không phải là môi trường thích hợp cho sự lớn lên của em tôi. Tôi không muốn ngày tháng lớn lên của Trang buồn rầu như cuộc sống tôi. Tôi không muốn nhìn thấy nét suy tư hiện trên khuôn mặt em tôi sớm. Tôi muốn khi đang tuổi lớn lên, giấc ngủ của em tôi phải thoải mái, vô tư để sáng hôm sau thức giấc, khuôn mặt không phờ phạc, mắt không thâm, gối nằm không ẩm ướt.

Nhớ lại hôm đầu tiên lên đây, gặp lại Trang và Bảo - em trai tôi - sau mấy năm xa cách, tôi buồn buồn. Khi tôi mở gói áo quần xếp trong tủ, hai em tôi đứng bên cạnh, chờ đợi một món quà. Nhưng tôi chẳng có gì cả, tôi gieo vào đầu chúng một nỗi thất vọng rồi. Tôi ra đi với hai bộ áo quần gói chặt trong giấy và trở về cũng với gói quần áo vỏn vẹn hai bộ trên tay, lạc lõng vô duyên. Không còn gì nữa cả. Chuyến đi xa hơi lâu này, tôi cũng không mang về cho Nguyện, nhỏ bạn thân, một món quà nào cả. Hôm trước tôi đã băn khoăn nhiều về món quà đó. Tôi sợ làm Nguyện buồn như em tôi đã buồn. Tôi có nghĩ đến một mẩu gỗ thông, khắc tên Nguyện, một bó hoa, một vài ký bơ, và đặc biệt hơn là một ít mưa Đàlạt bỏ vào bọc ny lông. Cuối cùng loay hoay mãi với những buồn rầu, tôi quên bẵng...

Một chiếc xe sắp chạy, bóp còi kêu inh ỏi làm tôi giật mình. Sửa lại gói quần áo trên tay cho ngay ngắn, tôi nhìn quanh để kiếm ba tôi. Vừa lúc ông đang bắt tay người bạn rồi đi nhanh lại phía tôi đứng. Ba tôi hỏi. Con chờ ba lâu không? Dạ không. Ba gặp người quen nên phải nói chuyện. Tôi hỏi nhỏ. Mấy giờ xe chạy ba? Bảy giờ, bây giờ là bảy giờ kém mười. Mười phút nữa xe chạy. Mười phút nữa tôi rời thành phố này. Tôi nhìn người tài xế sắp đồ trên mui xe. Trời đã sáng, ba dễ dàng nhận ra khuôn mặt tôi với đôi mắt, cái mũi đều đỏ. Ba dẫn tôi đến bên chiếc xe MT màu xám đậm bảo tôi lên ngồi trước. Tôi nghe như có tiếng ba tôi thở dài rất nhẹ nhưng đủ làm tôi xót xa. Đoan ơi, đừng khóc nữa. Tôi bảo thầm với tôi như thế. Buổi tối hôm qua, hôm kia và nhiều lần nữa, tôi đã chẳng gật đầu, hứa với mẹ làm vui lòng ba là gì. Nhưng sáng hôm nay tôi lại làm ba buồn mất rồi. Ba ơi, con xin lỗi ba. Mẹ ơi, con xin lỗi mẹ...

Xe chuyển bánh. Giã từ Đàlạt. Giã từ những con đường, những đồi thông, hồ Xuân Hương. Giã từ mẹ và hai em... Chợt dưng tôi mong xe chạy mãi, chạy mãi chẳng bao giờ ngừng...


TRẦN THỊ GIA LAI        

(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 70, tuần lễ từ 28-9 đến 5-10-1972)
 
 

Chủ Nhật, 29 tháng 9, 2024

LAN RỪNG - Bình Nguyên Lộc

 

Ông Xương Ký không bớt tốc lực, quanh gấp để chạy vào sân nhà và nơi đó, ông thắng xe một cái két rít dài lên.

Nhưng ông thất vọng lắm. Nơi thềm nhà, chỉ có vợ chồng ông Trần đứng đợi ông thôi. Ông chạy xe một cách thể thao như vậy cốt để cho một người kia thấy, nhưng người đó lại vắng mặt.

Ông hơi lo trong bụng và tự hỏi: "Hay là nàng bịnh thình lình?". Ấy, vào phút chót, con người hay bị hụt giò như thế. Ông lại bàn thầm: "Hay nàng giả đau để có cớ thối thác? Nhưng không, xem ra, nàng đã nhẫn nại chịu số phận rồi kia mà!".

Người khách đi xe hơi, tươi nét mặt ra và chào chủ nhà rất lễ phép. Vợ chồng ông Trần cũng đủ lễ trả lại, nhưng nét vui tươi của hai ông bà rất là gượng gạo.

Ông Trần hỏi cho có chuyện mà nói, để khách đỡ bỡ ngỡ:

- Xe không có mui à?

- Thưa có chớ. Nhưng chiếc xe nầy kiểu tối tân, mui xe bí mật và ngộ nghĩnh lắm. Xe mới qua tới là tôi lấy ra liền.

Đó là một chiếc xe hình dáng vừa vạm vỡ lại vừa nhanh nhẹn, sơn màu lam lợt. Đuôi xe hơi dài quá. Xe lại giống hệt xe trần, không thấy dấu vết sườn mui đâu cả.

Ông Xương Ký chỉ giải thích mập mờ như thế mà không chỉ coi mui ấy giấu ở đâu. Ông lại hỏi một câu cốt dang ra xa đầu đề:

- Thưa bà, cô Thu sửa soạn chưa xong, hở bà?

- Xong rồi, nó sắp ra đây. Cả nhà tôi ai cũng đúng hẹn cả.

Bây giờ khách đã xuống xe, đã đến gần chủ nhà. Hai người đàn ông bắt tay nhau. Khách có vẻ sốt ruột. Bà chủ nhà kêu với vào trong:

- Thu a ! Ông Xương Ký đợi con đây !

Không nghe đáp, nhưng tiếng giày báo có người đi ra, rồi quả nhiên cô Thu đã hiện nơi khung cửa, tay xách va ly.

Người con gái ấy mặc toàn đen và gương mặt u buồn cùng với màu sắc tang tóc kia gợi ra một tuyệt vọng vô biên. Nhưng quả cô ta đẹp tuyệt trần. Không kể chi tiết nhỏ mọn là nước da trắng mịn nổi bật lên bên cạnh y phục và màu tóc, màu mắt đen huyền, toàn thân cô là một bài thơ ca ngợi đường nét huyền hoặc của những pho tượng cẩm thạch cổ điển Âu Châu.

Ông Xương Ký mỉm cười rất vô duyên, nghiêng mình rất vụng về để thi lễ. Cô Thu chỉ hơi ngả đầu. Bà mẹ giục:

- Thôi con đi kẻo trưa, nắng lên rồi mệt đa !

Nói xong bà đưa tay giành valy với con. Bà biết con sẽ không buông, nhưng như thế bà sẽ có dịp kéo valy và cả nó ra xe.

Ông Trần chỉ đứng lặng nhìn, vẻ mặt bất nhẫn.

Người khách chạy vội trở ra xe và làm một việc mà hồi nãy ông cố ý quên. Ông bấm vào một cải nút tức thì mui xe từ từ mọc lên. Mui xe là những tấm kim khí sáng trắng, tấm nầy đè lên tấm kia, xếp lại, kéo ra được, tất cả chôn giấu giữa lưng nệm sau và đuôi xe. Mui vừa mọc vừa bò ra, tới phía trước rồi cúi xuống níu lấy tấm kính cản gió. Ông Xương Ký lại quay kính cửa, kính nầy lại mọc lên đến đụng mui xe, hai thứ ấy ôm lấy nhau, khít rịt, một hột bụi vào cũng không lọt.

- Kiểu tối tân - ông Xương Ký mỉm cười mà nói thế, mắt nhìn giai nhân để rình một vẻ thán phục nơi gương mặt nàng. Nhưng cô Thu vẫn thản nhiên như tượng đá.

Ông Xương Ký không mở cửa xe cho người đẹp lên, lại mở đuôi xe. Một bồn rửa tay bằng sứ tráng men trắng nằm sẵn trong ấy. Chủ xe vặn một cái nút, tức thì có nước chảy ra.

- Kiểu tối tân - ông ta lại khen.

Nhưng thấy không ai xúc động cả, ông ta đành thôi và mời cô Thu lên băng trước.

Bà Trần giọng van lơn nói:

- Em nó còn dại lắm, xin ông thật tình sửa dắt nó. Bề gì rồi ông cũng cưới nó nay mai, ông hãy nương nó, chớ nên có gì đáng tiếc.

- Thưa bà, tôi hiểu.

Hai người trên xe chào hai người dưới đất, rồi chiếc xe tháo lộn ra đường một cách kiếm hiệp như khi vào.

Phụ nữ đẹp ngồi trên chiếc xe đẹp bên cạnh một thanh niên đẹp thì đó là cảnh đẹp. Phụ nữ đẹp ngồi trên chiếc xe đẹp bên cạnh một người đàn ông đứng tuổi, tóc nhuốm hoa râm, cũng vẫn là cảnh đẹp.

Nhưng trong trường hợp trước, người ta nghĩ nay đến sự xứng đôi vừa lứa. Trong trường hợp sau, người ta đoán đó là một ông cha góa vợ đưa con đi đâu đó. Cũng chẳng hề gì. Ngặt ông Xương Ký lại muốn người ta nghĩ khác, nghĩ theo trường hợp trước, và biết chắc là muốn thế không được, nên ông ngượng nghịu lắm. Cô Thu cũng một tâm trạng với ông. Cả hai cùng khó chịu.

Ông Xương Ký muốn nói cái gì để bớt ngượng, nhưng vừa tìm ra được một câu hỏi xoàng là ông lại phải do dự ngay từ tiếng đầu. Ông muốn kêu cô Thu bằng em nhưng không đủ can đảm. Mà kêu bằng cô thì cũng tức. Ông là vị hôn phu của Thu kia mà!

Ông Xương Ký góa vợ đã lâu. Ông Trần là bạn ông, lớn hơn ông bốn tuổi. Ông Trần là giáo viên về hưu. Không cam với hưu bổng, ông ta mở trường tư. Lỗ lã, nợ nần. Ông Xương Ký giúp cho để ông ta chịu đựng. Nhưng giúp mãi mà ông Trần cứ lụn bại, thành ra số nợ, sau khi đổi chủ, cứ to lần lên. Năm nay thì ông Trần kiệt quệ. Chỉ là bạn thường thôi chớ không thân thiết ơn nghĩa lắm, ông Xương Ký rất sốt ruột vì số tiền kẹt chết của mình. Tịch thâu bất động sản của nhà trường, chỉ vớt vát được mớ nào mà thôi, mà lại tội nghiệp ông Trần nữa. Nhưng một hôm ông Xương Ký lại nảy ra ý muốn tục huyền. Ông soát lại những phụ nữ mà ông quen biết và rốt cuộc chấm cô Thu.

Quyết định đó là sự dở chứng của cái tuổi quá thì của người đàn ông. Ông năm nay bốn mươi hai, tuổi khó khăn mà người đàn ông lắm khi ngỡ trẻ như hai mươi. Nhưng ông xét kỹ, không thấy phạm luân lý. Cô Thu trẻ hơn ông những hai mươi tuổi. Phải. Nhưng ông không vợ, và cưới xin thật sự kia mà!

Cái ngày mà ông tỏ ý muốn cho vợ chồng ông Trần nghe, ông bà nầy bỗng như lảo đảo say rượu. Một tuần lễ sau, sau khi nghiền ngẫm điều kiện của ông Xương Ký đưa ra là hủy hết số nợ, lại viện trợ thêm hai mươi vạn để tiêm thuốc khỏe cho trường, ông bà Trần thấy rằng hôn nhơn nầy, nghĩ kỹ ra cũng không có gì xấu hổ cho lắm.

Còn một điểm khó khăn nhứt là cô Thu. Thu là nữ giáo viên nơi trường của cha. Nàng trẻ đẹp, rất trẻ, rất đẹp, không lẽ lại ưng ông già tóc bắt đầu điểm trắng.

Bà Trần thạo tiếng ngoại quốc, có đọc truyện cổ tích Tích Tân và Ỷ Sơ của Pháp. Bà cứ mơ hão có được thứ tiên được yêu đương mà bà Hoàng hậu ấy đã trao cho con gái là công chúa tóc vàng Ỷ Sơ để nàng nầy uống lúc đi về nhà chồng, hầu yêu được người chồng già là ông vua hiếu sắc kia.

Không có thuốc tiên, bà đành sử dụng những phương tiện thiết thực hơn: thuyết lý cho con thấy rõ nỗi nguy của nhà và hôn nhơn ấy là cơ hội may để cứu vớt những ngày cùng của ông bà: khi Thu đã nuốt nghẹn nhận lời, ông bà lại cho hai "trẻ" gặp gỡ nhau thường để Thu bớt xúc tâm lần lần.

Ông Xương Ký thì tham lam hơn, mong Thu yêu mình. Ông đã nịnh đầm, đã biếu quà, đã lịch sự, đã thơ mộng, đã ăn tiệc, nhưng vô hiệu quả.

Nay ông xin đưa vị hôn thê đi Ban Mê Thuật cốt để khoe những mặt khác của ông: ông còn khỏe và rất thể thao; lái xe hơi chạy đường xa như không không, leo đồi, trèo cây, lội rừng, băng suối tắm nước hồ lạnh, thảy thảy không thua ai. Và biết đâu, trong một phút kia, giữa cảnh hùng vĩ của cao nguyên, trên bờ các suối mơ khảm toàn rêu nõn, nàng lại không cảm bài thơ man rợ của rừng sâu, và khi cảm xúc, lại không yêu được người dìu dắt ở bên cạnh nàng?

Ông bà Trần, vốn biết ông Xương Ký đứng đắn và thành thật nên ưng thuận. Cô Thu thì một liều, ba bảy cũng liều. Và cuộc quảng cáo rầm rộ xui cô cũng muốn biết đất mới Ban Mê Thuật ra sao, biết những Sơn nữ hồn nhiên mà cô rất thích qua các tiểu thuyết đường rừng lãng mạn. Với lại chính cô cũng cố gắng để yêu cho được người chồng già, cho đỡ khổ cảnh lấy chồng so le của cô.

- E... m... cô có đem theo đủ các thứ cần dùng chớ ?

- Có.

Một câu hỏi hơi dài, một câu đáp quá ngắn. Rồi thôi. Những cặp vợ chồng son trẻ trên những chiếc xe mà họ gặp dọc các phố lại càng khiến họ khó chịu hơn. Có những đôi trai gái rất xấu xí trên những chiếc xe khổ, có những đôi trai gái chênh chông với nhau về sắc đẹp trên những chiếc xe tầm thường. Nhưng họ lại ước nếu được như vậy còn đỡ hơn.

Khi qua khỏi cầu Băng Ky, ông Xương Ký cho phóng xe mau để qua mặt những chiếc xe trên đó có người cứ ngó ngoái lại mà dòm. Ông ghét nhứt là vết-pa có đèo phụ nữ,vì luôn luôn đó là những cặp rất xứng lứa, và người ham mặc sơ mi ngắn tay để khoe bắp thịt của mình.

Khỏi ngã ba Bình Triệu, họ qua một cánh đồng minh mông mà người địa phương gọi là đồng Chó Ngáp. Gió thổi vù vù lại thêm năm nay, cái lạnh của tháng chạp còn chần chờ ở nán lại lâu quá, nên Thu rùng mình rồi khoanh tay lại trước ngực.

Ông Xương Ký vuốt lại tóc mình. Tóc nầy ông nhuộm đen mấy tháng nay: Nước thuốc nhuộm cho tóc một màu đen kỳ dị và giả tạo, lại làm tóc cứng ra, không thể chải bằng gôm, bằng gì được nữa. Nó rối bời trước gió ngược chiều nên ông thấy cần phải sửa sang lại cho nó có trật tự một chút và nhứt là để lấy cánh tay đưa lên đó mà che, hầu liếc nhìn người bạn đang làm một cử chỉ khả ái.

Bỗng ông Xương Ký ngây người, suýt lạc tay lái. Không, đừng ai nghĩ quấy gì hết. Đành là ông đang nhìn hai cánh tay khoanh lại trên ngực của Thu, và đành là ông đang nhìn cái ngực ấy. Nhưng quả không phải hình ảnh tuyệt mỹ kia làm ông say sưa.

Chính hai bàn tay trắng như bông của nàng nằm trên nền áo đen đã gây xúc cảm dữ dội ấy vì nó nhắc ông đột ngột nhớ đến một điều mà ông xao lãng mấy hôm nay, vì bận chuẩn bị đi với người vợ chưa cưới.

Một năm nay, ở Sài gòn có phong trào chơi lan rừng. Từ Đà lạt, Gia linh, Blao, Ban Mê Thuật người ta gỡ trăm ngàn loại lan đem về bán tràn ngập đô thành. Ông Xương Ký không thua ai hết về mặt ăn chơi, hưởng thụ. Quanh nhà ông, toàn những lan là lan. Một hôm ông thấy một người đàn bà Âu cầm một khóm lan kỳ lạ: lan cành trắng như tuyết, không có lấy một chiếc lá, dáng khô khan như nhánh chết, mà hoa lại đen huyền. Màu đen của bông lan ấy láng mướt như nhung, lại lóng lánh sáng như bạc, nếu nhìn cánh hoa ngang mắt, ngỡ lan nầy cũng nhiều như các thứ khác, ông không hỏi thăm người cầm, chỉ đi tìm mua, nhưng tìm mãi không ra.

Suốt mấy tháng, ông Xương Ký mơ thứ lan đen kia. Ông chiêm bao thấy mình lên rừng và gặp cả một khu toàn lan đó. Ông săm soi huyền lan, vuốt ve nó và lạ sao, trong hoa hiện ra một sơn nữ da trắng, y phục đen, chạy trốn trong khói lá xanh rậm của rừng già. Người sơn nữ ấy mặt hao hao giồng Thu và như Thu, cũng mơ buồn không dứt.

Đêm nào ông cũng thấy sơn nữ, khi nhập vào hoa, khi từ trong hoa mà ra. Vốn thuở nhỏ thích xem truyện Tàu và truyện đường rừng của ta, ông Xương Ký tin có hồn hoa, có yêu tinh lan rừng và sự tích huyền lan của ông, như thế, càng tăng thêm.

Đã bảo, tuổi quá thì rất khó khăn. Ông Xương Ký mơ mộng như một thiếu niên. Trong trí ông, các thứ đó bị xáo trộn lại: ông chạy tìm lan đen; hồn lan đen từ trên rừng sâu, cảm động trước tâm thành của ông, nên hiện ra để kêu gọi ông lên đó rước nàng về. Hay hồn ấy lại nhập vào xác của Thu cũng nên?

Ông Xương Ký định bụng thế nào cũng đi tìm hoa, tìm hồn hoa. Nhưng từ hôm mời Thu đi Ban Mê Thuật với ông được rồi, ông mừng quá, quên mất người sơn nữ trong mộng.

Hai bàn tay no và nõn và trắng mịn ló ra khỏi hai tay áo đen mướt, nằm trên gò ngực huyền bỗng xua mơ cũ tới. Người yêu ngồi bên cạnh đây rồi, gần gũi quá, nên không còn sức quyến rũ mạnh của người trong mơ nó hão huyền như bọt xà bông mà trẻ nhỏ thổi lên không trung, lóng lánh nhiều màu. Phải chăng là như vậy? Nếu không, sao ông vẫn mơ sơn nữ, mặc dầu ngồi gần Thu? Không, thật ra, gần Thu mà vẫn xa Thu như từ thuở giờ. Sự gần gũi về thể chất không thỏa mãn được tâm hồn ông Xương Ký, nó lãng mạn, nó mộng hão như một chàng trai trẻ. Thành ra gần Thu, ông không say sưa được mà vẫn ước mong chưa toại, và cứ mộng đến Thu qua hình ảnh hão huyền của hồn lan trong giấc chiêm bao.

Xe lướt gió vùn vụt. Sợ Thu lạnh, Xương Ký vói tay mặt quay kính lên, rồi càng phóng mau thêm nữa. Qua những cầu gỗ hẹp, ông không thèm bớt tốc lực, chiếc xe nhảy lồng lên trên những đầu cầu bên kia. Ông Xương Ký mỉm cười, biết rằng Thu đương thót ruột. Chắc Thu sợ hãi và giận ông lắm. Nhưng qua những cơn giận ấy, thấy không việc gì, chắc chắn Thu sẽ nghĩ đến hai cánh tay của ông mà nàng sẽ đoán là còn rắn chắc, bắp thịt còn đủ sức dẻo dai, tinh thần còn đủ lanh lẹn, mắt còn đủ sáng tỏ. Rồi sau nhiều trận như thế, nàng sẽ quen đi, say tốc lực như say rượu bia nhẹ, trí nàng sẽ triền miên với cái động, lòng nàng sẽ mê man bối rối vì hai thứ tình trái ngược: kinh sợ và ham nhanh. Một khi tâm trạng ấy xâm chiếm lòng nàng thì nàng sẽ có cảm giác nhỏ bé, cảm thấy cần được bảo vệ và cố nhiên nghĩ đến người bên cạnh và sức khỏe của y.

Đành rằng tình yêu không đến sớm được liền sau cuộc say sưa đó. Nhưng quả những giây phút nầy là những hột cát phù sa bồi đắp xây dựng lần lần mối tình mong ước.

"Còn nhiều dịp nữa mà! Ông Xương Ký tự bảo thầm. Rồi nàng sẽ thấy mình trèo cây, mình tắm suối lạnh".

*

Ông Xương Ký gởi Thu nơi nhà một người chị, chủ hiệu uốn tóc độc nhứt tại thành phố Ban Mê Thuật, còn ông thì tạm nghỉ nơi trại của một người bạn, chủ đồn điền.

Cả hai người, không ai có ý xem hội chợ, nhưng ông Xương Ký cũng đưa Thu đến đó. Ông nghĩ trong một hội chợ nhà quê người đi xem chắc là cục mịch và sẽ không có những cặp vợ chồng xứng đẹp nó làm cho ông và Thu bị tự ti mặc cảm. Nhờ thế ông sẽ dạn ra, bảnh thêm được với vị hôn thê quá trẻ, và riêng Thu nàng cũng sẽ bớt ngờ ngợ vì ông chồng quá già. Ông Xương Ký nhớ rõ là hôm qua, khi ra khỏi thành phố Sàigòn là ông nghe dễ chịu ngay và lén dòm Thu thì nhận thấy mặt nàng cũng giãn ra như trút được một gánh nặng. Vì ra khỏi đô thành là thôi gặp những chàng và nàng tốt đôi, là khỏi bị ám ảnh vì sự so sánh thường xuyên giữa họ và mình.

Nhưng ông ta đã lầm. Người Sàigòn ở đâu cũng có mặt cả, giữa cao nguyên họ vẫn lên để mà trẻ đẹp.

Người đàn ông đứng tuổi nào khác có thể hãnh diện được khi đi với một cô gái trẻ. Nhưng vị hôn phu nầy khác hơn họ. Ông không cần dư luận bên ngoài trầm trồ ông tốt phước, mà chỉ cần sự cảm thông giữa người yêu và ông thôi. Sự cảm thông nầy không có là ông tủi thân, là ông xấu hổ như nghe rõ chính Thu đang nói lớn lên để chê ông là già.

Ông Xương Ký đành phải trốn bằng cách chúi mũi vào các gian hàng. May quá, Thu bỗng vui lên và nói:

- Đẹp quá, đẹp quá!

Đẹp thật, ông Ký cũng nhận thế. Những tấm vải do người cao nguyên dệt, mới xem ngỡ hàng ngoại quốc. Chỉ có ba màu thôi: đen, trắng, và đỏ mà họ kết hợp lại thành những kiểu mẫu trang hoàng rất là mỹ thuật, màu sắc dùng rất tiết độ. Chỉ tiếc là sợi quá thô và mặt vải quá thưa.

Vải dệt thành những tấm dài từ hai thước đến trên ba thước. Ông Ký cầm lên một tấm rồi nhìn Thu hỏi trống:

- Cỡ này mặc được không?

- Thưa quá! - Thu cũng đáp trổng lại nhưng ông Ký nghe êm ái như ai vuốt lên tim mình. Đây là lần thứ nhì mà giai nhân thốt lời, và lần thứ nhứt mà người đẹp trao lời với ông.

Đâm bạo, ông xổ tấm vải, hai tay cầm vải dang ra rồi phủ vải ấy lên mình Thu và nói:

- Đẹp lắm. Nhưng có vẻ cổ sơ. Nếu... em mặc đầm thì may cũng được.

Nói được tiếng em, ông Ký thấy là dễ dàng quá. Chỉ khó lúc tiếng đó còn nơi cổ họng, chực vọt ra mấy mươi lần mà vẫn lấp ló như con dế hang. Bây giờ nó ra xong mà nghe sao mà không có gì khó khăn hết. Vậy mà từ lâu ông không dám nói, nghĩ cũng lạ.

Thu cúi xuống dòm tấm vải nằm trên mình nàng, chống đầu gối ra để xem nó có dịu, có nặng mình hay không và hai ngón tay mân mó sớ vải.

Vụt có sáng kiến mới, ông Ký nói, giọng reo vui:

- Hay là em may một bộ y phục trá hình mặc chơi. Phải, em choàng vải nầy lên mình, xem giống như một cô sơn nữ.

Nói tới đây, bỗng ông nhớ lại cô gái trong chiêm bao. Nhưng lần nầy sao người con gái ấy bớt quyến rũ nữa. Có lẽ nhờ gần được với người đẹp trước mặt. Dầu sao, ông cũng nghĩ đến lan đen mà ông tha thiết muốn có một kiểu mẫu trong vườn.

Thu ngước lên mỉm cười:

- May áo ghế bành thì được.

Ông Xương Ký mua năm tấm vải nền đen, và năm tấm nền mỡ gà, cả thảy đều để tặng Thu: Ông lại mua nào gạc nai, gùi, mác để biếu bạn hữu, ôm vác kè kè như hai vợ chồng mới, đi mua sắm để dọn nhà lần đầu.

*

Cuộc đua voi, và đua ngựa không yên cương là một trận hửi bụi không tiền khoáng hậu. Nhưng đó là trò mà Thu thích nhứt.

Ông Xương Ký nghe mình hứng dữ lắm trước nỗi vui của ngươi yêu. Ông còn chưa biết làm cái gì hơi động, hơi ồn cho nó có vẻ trẻ ra để xứng với vẻ hân hoan của bạn thì may quá, đoàn ngựa đua giải tán, lướt chậm tới chỗ hai người đứng.

- Anh ơi, cho tôi cỡi thử một chút chơi.

Ông xin liều như vậy mà một người kỵ mã trai trẻ kia nghe hiểu, xuống ngựa liền và mời ông.

Ngựa tuy nhỏ thó nhưng không có yên cương gì cả. Nó lại có vẻ hăng lắm khiến ông Xương Ký đâm sợ. Biểu diễn trước người yêu mà thành công được thì tuyệt nhưng nếu rủi bị ngựa quăng xuống đất thì đi đời kết quả ít ỏi của cuộc chinh phục trong mấy ngày nay.

Nhưng không thể lùi được nữa, ông Xương Ký bậm môi, vói tay níu gáy ngược rồi thót lên lưng nó. Không việc gì đáng tiếc xảy ra cả.

Con ngựa vưng theo cái thúc chơn của ông, bắt đầu nhảy. Nhưng mới chạy được một quãng, nó lồng lên, nhảy dựng lên như con chó đi hai chơn trong rạp xiếc. Muốn còn ngồi ngay được, nghĩa là thân mình khỏi nằm ngã nằm, vì lưng ngựa đã đứng sững lên như tấm vách, ông Ký níu chặt gáy ngựa và áp sát mình vào lưng con thú. Ngựa khó chịu, thôi lồng nữa, nhưng lại vục vặc đầu lia lịa để thoát gáy ra khỏi người cỡi. Tuy nó đã đứng lại bốn chơn như thường, nhưng người kỵ mã không dám rời lông cổ nó ra. Thoát không được, ngựa sải tán loạn, làm đủ trò chứng để quăng gánh nặng trên lưng.

May quá, nhờ ngựa nhỏ thó, nhờ ông Ký cố bám níu như đó là vấn đề sống chết, nên sau một hồi nổi loạn, con vật chịu thua. Nhưng ông Ký không dám trổ tài lâu nữa. Bấy nhiêu đó hơi vừa đủ rồi, tiếp thêm, rủi không xong, sẽ khổ thân lại mang nhục trước giai nữ.

Bấy giờ áo ông Xương Ký ướt mồ hôi như vừa mắc mưa: Ông thở không kịp và ở hai bên màng tang, ông nghe mạch máu nhảy như muốn bứt ra.

Ông trở về chỗ Thu đứng đợi ông, cố đi thật chậm để khi đến nơi, bớt thở cho dễ coi một chút. Khi đang đi, trong một giây, ông nghe choáng váng muốn té xỉu. Qua cơn đó, ông cảm thấy thân già mà cố làm trẻ thì thật là khổ. Tủi thân quá, ông bỗng nảy ra cái ý bỏ vãi tất cả. Hạnh phúc đâu chưa thấy mà đã khổ thân như tội đồ bị bắt buộc làm những công việc quá sức mình.

Nhưng dòm lại người ngọc đàng xa, ông nghe được kích thích như người leo cột mỡ vào những ngày hội, mệt nhoài ra, trèo lên tuột xuống hoài, mà vẫn cố gắng vì bị giải thưởng treo ở đầu cột lôi hút mãi.

Đêm ấy ông Xương Ký trằn trọc đến khuya không chợp mắt được, Ông bận trí về sự dùng thì giờ ngày sau đó. Đưa Thu đi đâu cho nàng vui, mà ông lại trổ tài được?

Người chủ nhà có mời đi săn. Đi săn bằng khí giới cổ sơ do người Thượng tổ chức. Nhưng ông sẽ làm gì được trong cuộc săn ấy.

Có lúc ông Ký nghe chán lạ. Ông cảm thấy mệt mỏi vì sự chinh phục thường xuyên nầy. Không phải chỉ mệt mỏi về thân thể mà về cả tâm thần. Cái gì mà không giờ phút nào khỏi nghĩ đến việc làm vui lòng người vợ chưa cưới?

Chẳng những thế, cuộc chinh phục sẽ bị tiếp tục một khi cưới xong người đẹp. Chồng già, vợ trẻ, không thể buông trôi như những cặp mà anh chồng không so le với vợ. Mệt ôi là mệt!

Ông Ký nhớ lại thuở trai trẻ, ông đã o mèo như bất kỳ ai. Ông đã chịu khó, đã bền chí một cách gian khổ, nhưng sao không thấy chán nản như bây giờ. Phải chăng vì thuở ấy, tình yêu, đối với ông thiêng liêng lắm. Ngày nay thì ái tình đã mất vẻ huyền ảo của nó, bao nhiêu ý đẹp đã tan, đã lắng xuống, chỉ còn nổi lều bều lên như bọt dơ, những cái gì chỉ dính líu đến vật chất mà thôi. Mà về vật chất, cố công như xưa là uổng công.

Tuy suy luận như thế, ông Ký vẫn không bỏ cuộc được vì ông đang ở vào tuổi quá thì như đã thấy trên kia. Không say đậm với tình yêu như hồi trẻ nữa, nhưng vẫn hơi điên dại như trai tơ. Rốt cuộc ông nhắm mắt với quyết định ngày mai đưa Thu theo đoàn săn bắn của chủ đồn điền.

*

Mặt đất dợn sóng như mặt đại dương. Mà đây toàn là sóng thần cả. Không phải thần về sự cao, mà chỉ về sự rộng lớn thôi. Mỗi trái đồi to độ bảy tám mẫu, liên tiếp nhau trùng trùng điệp điệp như một bầy thú lưng gù đang ăn cỏ giữa trời.

Ở những khu đất không có rừng, bầy thú nầy hiện ra đông đúc như kiến.

Đoàn săn gần hai mươi người Thượng, toàn là phu ở đồn điền của bạn ông Xương Ký, người chủ đồn điền ấy, Thu và ông Ký.

Để cho gọn, dễ day trở, người Thượng hôm đó không thèm mặc y phục, chỉ đóng khố. Mười tám người không võ trang mà chỉ mang tù và. Còn hai người kia thì cầm mỗi người hai cây ná và mang mỗi người hai gùi tên thuốc.

Khi qua khỏi một cánh rừng, cả đoàn đổ ra một khoảng trống rộng bảy quả đồi.

Sau một lịnh của hai người Thượng đứng tuổi có võ trang ná, mười tám người kia túa ra, chạy lùi vào rừng trước mặt và hai bên.

Bọn người ở lại ngồi trên chóp trái đồi cao hơn hết ở giữa khu đất.

Đồi trọc lóc, cỏ đế cũng không cao. Họ như đang tắm lội giữa một hồ tắm mà bờ hồ là rừng xanh bao quanh đó.

Độ nửa tiếng đồng hồ sau, tù và khắp bốn phương tám hướng túa tên một lượt.

Hai người Thượng đứng lên giương ná, đặt tên vào, rồi trao cho chủ đồn điền và ông Xương Ký mỗi người một cây.

Giây lâu, nhím, trút, chồn, thỏ từ trong rừng rậm chạy tán loạn ra ngoài. Đây là một cuộc săn nhỏ, tổ chức mua vui, người đuổi thú đã ít oi lại không đi xa, nên không có thú lớn chạy ra.

Hai người Thượng bắn trước. Dây ná kêu lên một cái xạch, tên bay véo một cái là hai con vật ngã quay ra.

Ông chủ đồn điền bắn một phát, trật lất, rồi cười ha hả mà hỏi Thu:

- Chị xem tôi bắn có tài không. Nhứt phát là nhứt trúng...đất.

Thu thở không khí lành từ sớm đến giờ nên cũng trở nên vui tánh cười theo rồi vừa chỉ vừa khen:

- Mấy ông Thượng kia bắn sao mà y như là con vật bị cột gần sát họ.

Ông Xương Ký cũng bắn một phát. Trúng ngay đích, thật là may kỳ lạ. Nhưng con mồi lại là một con trút vảy dày và cứng nên mũi tên trợt lớt rơi xuống đất. Con vật tiếp tục chạy như không có gì xảy ra, khiến Thu nheo mắt cười giòn rụm mà chế nhạo:

- Coi con trút kìa, nó lêu lêu mắc cỡ kia!

Ông Xương Ký sung sướng đến muốn rơi cây ná. Ông sung sướng vì bắn trúng mồi thì ít mà vì được Thu chế giễu thì nhiều. Sự chế giễu ấy không ác ý, trái lại chứng tỏ cảm tình, muốn thân mật và hàm kín đáo sự khâm phục tài bắn của ông.

Lần cỡi ngựa tuy không suôn sẻ, và lần bắn nầy tuy cũng trục trặc nhưng quả đã khiến Thu có cảm tình đôi chút với vị hôn phu già. Chắc cô ta đã bảo thầm trong bụng: "Tuy không xong xại gì chớ cũng đỡ hơn các thanh niên ôm măng-đô-lin, ôm ghi-ta nhiều lắm!"

Bắn được một phát, ông Xương Ký rất toại chí vì đã gần đạt mục đích. Chỉ gần đạt thôi mà toại nguyện được là ông biết không thể nào đạt hẳn. Tệ hơn hết, bắn lần sau, sẽ trật lất như ông chủ đồn điền kia.

Nhưng cái tánh muốn làm tàng, tới già con người bỏ cũng chẳng được. Nên ông ta lại toan bắn nữa.

Nãy giờ ông ta đã quan sát cách lên ná của người Thượng. Họ làm công việc ấy như chơi chơi: đuôi ná chống vào bụng, tay trái giữ ná, tay mặt vói lên vai để rút tên ở chiếc gùi mang sau lưng. Tay rút tên ấy lại hạ xuống và cùi chỏ của tay đó kéo dây ná. Cùi chỏ kéo dây vào bụng và cùng một lượt bàn tay đặt tên lên mình ná.

Cứ nhìn họ làm, ông Ký nghe dây ná rất mềm, cung ná rất dẻo và trò lên ná là trò trẻ con. Nên chi ông cũng lập y lại những cử chỉ đã quan sát được. Nhưng khi ông hạ tay rút tên xuống thì cùi chỏ của ông chỉ kéo dây ná vào bụng ông được vài phân thôi. Cung ná xem ra cứng rắn nhường sắt, không chịu cong thêm một chút xíu nào cho dây dễ kéo. Cùi chỏ đè lên dây bây giờ lại đau như bị thanh sắt quất vào và càng cố sức kéo, đuôi ná càng chống mạnh vào bụng đau như bị ai thọc gậy mạnh.

Rõ cuộc săn bắn nầy là một buổi chơi thể thao của những ông bụng bự, chỉ ngồi trên dàn mà xem người ta đá banh. Ông Ký và bạn ông cũng thế, đợi người ta lên ná sẵn mà bắn thì được, còn chính mình thì không cử động bao nhiêu. Cho đến con mồi cũng phải có người đuổi ra trước mặt chớ họ không chịu cực được mà lội rừng để tìm mồi.

Ông Ký nói gượng:

- Trời, đau nơi bụng chết đi thôi, làm sao mà tiếp tục chống để lên dây!

- Đâu anh chống dưới đất rồi lên thử coi.

Bạn ông Ký biết ông cố che lấp sức yếu của ông, nên đùa như thế.

- Không, như vậy lại càng không được. Khi mà nắm trái tay ai có sức trời kéo cũng chẳng nổi.

Tuy lỡ một dịp biểu diễn thể thao, ông Xương Ký cũng rất bằng lòng mà chưa mang nhục. "Ná mọi" kia mà ! Nó nổi danh là cứng như thép, thì giương không nổi cũng chẳng xấu hổ bao nhiêu. Vả lại, ông chỉ vì chịu đuôi ná vào bụng không quen thôi, chớ ná thì ông bảo kéo được kia mà. Thích một cái là Thu đi bộ thì thở hổn hển, còn ông thì không. Ông đã già đâu, bằng cớ là lội rừng, ông tỏ ra khỏe hơn cô gái hai mươi nhiều.

Người Sàigòn lần lượt về và ngày hội chợ bế mạc, cảnh có vẻ như một đám hát đình nhà quê ngày đưa sắc thần.

Tỉnh ly nhỏ ấy thâu hồi lại sự sống bình thường của nó với toàn là những gia đình tận lực làm ăn để gây sự nghiệp. Đi rong phố, rất ít người, mà họ cũng đi đâu đó có việc gì chớ cũng chẳng phải đi khoe áo như ở Sàigòn. Những cặp vợ chồng công chức đi dạo mát cũng rất là khiêm tốn, đến những người vợ tây sở cũng tỏ ra con nhà.

Cặp Thu - Ký nghe dễ thở bội phần. Lần nầy đôi bạn so le được người ta nhìn để trầm trồ vì ông Ký dầu sao cũng "đẹp già", và nhờ biết ăn diện nên xem cũng khá trẻ ra, nhứt là khi xen lẫn với toàn những người bận làm ăn, ai cũng không tươi lắm. Họ hết bị nhìn bằng những vẻ mặt kinh ngạc như khi ở Sàigòn hoặc khi đang giữa hội chợ.

Ông Ký nghĩ nếu ở đây luôn, sống với đồn điền, có lẽ hạnh phúc được nhưng ông biết chắc không thể chôn vùi tuổi hai mươi của người vợ trẻ nơi chốn thâm sơn nầy mà không bị phản đối. Tuổi hai mươi ham sống biết bao nhiêu! Nhưng họ ham sống với xã hội loài người, cái xã hội phù hoa, chớ dễ gì ham sống gần thiên nhiên hoặc gần xã hội cần cù ở đây.

Cô Thu cũng thấy là không khổ lắm nếu theo chồng sống trên các đồn điền nầy. Nhưng rồi nỗi nhớ ánh sáng và tuổi trẻ ở đô thành luôn luôn ngùi ngùi như là nỗi sầu xứ của một kẻ lìa quê.

Tạm trong vài ngày nầy, cô thấy cũng dễ chịu và gần vị hôn phu già, cô lần lần tìm được thêm nhiều đức tánh của người nầy và cả nhiều chi tiết về sự trẻ đẹp muộn màng của hắn.

Thu có đọc một quyển sách ngoại quốc, trong đó có tác giả đề cao người chồng già. Người nầy giàu kinh nghiệm về mọi mặt, biết đoán ý muốn của vợ, biết xử thế với những bạn bè của vợ, sành đời hơn người tình nhân trẻ tuổi nhiều. Thu nhận là sách nói đúng khi gần gũi ông Ký, nên cảm tình đối với vị hôn phu cũng bắt đầu nứt mộng đâm chồi.

Người con gái đang thì nào cũng đói yêu đương. Nếu gặp người lý tưởng được thì tuyệt. Bằng không, lắm khi tình yêu đi lạc nên cũng đến lắm cô lầm lỡ với người già. Trong trường hợp Thu - Ký, lòng cô gái đang muốn phiêu lưu. Nề nếp nhà chắc chắn sẽ giúp cô khỏi ngả với ai hết. Nhưng người bạn già nầy, cô đang đói lại cối và cố sức yêu, nên cố nhiên tình yêu của cô bắt đầu lấp ló.

Ông Xương Ký đoán hiểu tâm trạng của Thu. Ông rất sành về lòng người nên mới có cuộc đưa Thu đi chơi nầy, thì sao bây giờ lại không hiểu được.

Nhưng quả là chán phèo, cái trái cấm ấy một khi đã gần hái được. Chán vì mệt mỏi quá rồi. Trên sân khấu, người Ký trẻ chỉ dán râu vào mép, bôi mặt sơ sịa và thêm vào đó một chút tài nghệ là làm lão già được, mà chỉ trong vài giờ thôi. Anh kép già nầy, trái lại, không thể hóa trang được mà phải trổ tài nghệ tuyệt luân ròng rã ngày nầy qua ngày khác để làm kép nhứt trẻ trung thì còn khổ nào bằng. Cái khổ nghĩ chắc sẽ không bù lại được với cái hạnh phúc mong muốn, nên chán là phải.

Hồn lan rừng thế mà ít đòi hỏi hơn. Nó lại quyến rũ như một mội nước xa đối với người bộ hành trên sa mạc. Sức nóng của nắng trưa đủ làm sai lạc thị giác của người nầy, nên mội nước càng được trang trí bằng muôn ngàn màu sắc rực rỡ ma quái khác.

Ừ, lan rừng! Từ hôm lên rừng đến nay, ông Ký quên mất nó. Phải tìm nó mới được. Ông đã đưa Thu vào những thôn xa, đã thấy hằng vạn nhánh cây có lan bám vào, nhưng chưa hề gặp lan đen lần nào cả.

Có một buổi vào thăm một cái nhà dài của người Thượng, ông nhìn dưới bộ ván dài thấy một cành lan đỏ, mà đã héo khô. Người Thượng ở trong những ngôi nhà dài hai mươi thước. Ván cũng dài gần bằng nhà. Hôm đó, trên ván có mấy mươi người đang lên cơn sốt rét ngã nước nằm la liệt nên ông không hỏi gì được. Từ đó, không hề thấy dáng lan đen nữa.

Hôm nay ông Ký đưa Thu đến một con suối ít người biết đến. Ông thích những nơi hẻo lánh, ông lại cố ý đi xa để tìm hoa lạ.

Riêng Cao Nguyên không dày mịt như rừng dưới ta. Giữa những thân cổ thụ mọc rất hiếm những dây leo, những kè gai, những mật cật lá rè, nên ông Ký dắt bạn xâm nhập đại vào khối cây xanh, không theo những lối mòn mà ai cũng biết. Ông biết hướng con suối đâu, và đi liều lĩnh như thế mới đổ ra được những bến lạ chưa hề thấy dấu chơn người.

Suối báo hiệu bằng một vùng đất hơi ẩm, phủ rêu nõn. Nó lại lên tiếng trước bằng lời chim như tụ về đó để uống nước. Đến gần sát bờ mới nghe thủ thỉ dưới lá.

Nếu một chiếc xuồng thả trôi theo dòng xuôi thì người ngồi xuồng có cảm giác là đi xe lửa và đang chun vào hang núi. Cây giao nhánh giấu mất dòng nước dưới mắt kẻ tò mò; suối sống âm thầm trong rừng sâu nên được một người ham sống âm thầm như thế tìm đến. Đây đó vài giọt ánh sáng nhểu xuống từ trên vòm lá. Có giọt to như giọt nước máng xối lúc trời mưa lớn, soi sáng nếp sống thân mật bên trong. Hai người dòm xuống thì thấy dưới đáy một màu lục sậm, có nơi đen ngòm khiến Thu rùng mình tưởng tượng đến những con thủy quái hung dữ ẩn nấp đâu dưới đó trong một hang hiểm hóc nào. Nàng thò tay xuống nước rồi toàn thân mọc ốc. Nước lạnh như nước trong một ly nước đá bào. Cái lạnh lại theo đi mà chạy mau như điện đến lưng người. Đây là một thứ lạnh, khó chịu như cái lạnh dún mình lúc sắp đến cơn sốt rét rưng.

- Tắm em nhé - ông Ký nói.

Thu lắc đầu. Nàng có đem y phục tắm theo, nhưng vì ớn màu lục đen dưới đáy nước, ngại sức lạnh của suối và nhứt là e dè trước ông Ký nên nàng bỏ dự định tắm đó.

- Công trình đi đến đây mà không tắm cũng uổng.

 Ông Ký vừa nói vừa cởi ra y phục một cách tự nhiên. Cũng không nài nỉ thêm gì người yêu cả. Khi chỉ còn đồ tắm trên thân mình, ông ngó quanh quất và mừng rỡ mà thấy một cây quỳ. Cây như mọc lên được một thước thì bị ai uốn ngã nằm. Nó tiếp tục lớn lên bằng cách bò dài ra, và vô tình bây giờ dùng làm ghế được.

Ông Ký cầm tay Thu mà dắt đi, nàng không chống cự. Ông đưa nàng đến gốc cây quỳ ấy rồi bước lên trước mà nói.

- Thôi, em ngồi đây, đợi anh tắm mát vài phút rồi ta đi tìm lan.

Cây quỳ bò ra mặt nước nên ông Ký khỏi phải xuống, đợi Thu ngồi xong ông theo cây mà ra giữa suối như đi cầu khỉ.

Sách khoa học quả quyết rằng con người không già nơi tuổi tác mà già nơi sự suy mòn của thớ thịt. Có người sáu mươi mà thớ thịt còn tươi, trái lại có người ba mươi mà thịt đã bắt đầu lão.

Nếu sách nói đúng thì ông Ký còn trẻ. Thân mình ông quả còn đều đặn, các bắp thịt quả còn sơn sở.

Không biết suối sâu hay cạn, ông cũng chắp tay phóng xuống vì thân cây mà ông đứng, không cao cho lắm.

Nước suối văng tóe lên rồi mặt suối khép lại sau gót chân người nhảy. Vài giây sau, ông Ký trồi đầu lên cách đó gần mười thước. Vì ông phóng xuôi dòng nên bây giờ phải lội ngược về chỗ cũ. Nước chảy thấy thì rất mạnh, thế nên ông Ký lội cũng vượt tới mau lẹ như lội rạch đất bưng. Khi về ngay cây quỳ ông nhắm nhía rồi lướt qua khỏi đó vài thước. Đoạn thả trôi xuôi trở lại. Trôi tới thân cây, ông từ dưới nước phóng lên, níu lấy cây quỳ, đánh đu lộn ngược nơi đó.

Ông đang say với sự khoe bắp thịt như một nhà điền kinh mê tập luyện vào buổi sáng, bỗng một tiếng kêu thất thanh của Thu trên bờ làm ông rụng rời. Ông Ký rơi xuống nước rồi không kịp nhìn, bơi sải vào bờ sau vài ba cử động mạnh của tay chơn.

Khi ông trườn lên bờ thì thấy Thu đang té ngửa xuống và cũng lẹ như chớp, ông nhảy lại đống quần áo, chụp lấy cây mác cán dài rồi day lại chặt chụp xuống một cái, sát đầu Thu.

Máu phun có vòi...

Đó là một con trăn con, vụng về tập sự quất mồi, hay giỡn chơi cũng nên, hệt như con chó con lạ gì cũng cắn rồi tha đi cho đỡ ngứa răng. Thấy cô Thu ngon quá, nó quấn chơi, chớ con mồi to như vậy, làm gì nó ăn được. Đuôi trăn đang quấn cổ vội tháo lẹ ra trong lúc đầu lăn lóc muốn bò thoát đi. Nó sẽ không bò được xa nhưng ông Ký cũng chẳng thèm biết tương lai đích xác của nó. Ông bận đỡ Thu lên, Thu mà giờ đây đang nằm trên tay ông, Thu ấy mặt cắt không còn một hột máu và nhăn lại như nhờm gớm cái gì.

- Em có làm sao không?

Thu mở mắt ra, rồi rùng mình:

- Chỉ nghẹt thở trong một giây. Nhưng nhờn quá, nó lang láng, nhơn nhớt ghê muốn chết.

- Chết là nó, chớ không phải em. Em xem kìa...

- Thôi, ai dám ngó nó... Anh...

Giọng Thu nhõng nhẽo như trẻ con sợ ma, và tiếng "Anh" thốt ra để toan nói một câu còn ngập ngừng nơi cổ họng, tiếng ấy hàm trách móc rất đáng yêu, có lẽ trách ông bỏ nàng một mình nên mới gặp nạn.

Người đẹp ở trong tay đây rồi! Người yêu lại không phải ở đó vì bị bắt buộc mà vì muốn ở để được bảo vệ. Người ấy đang nũng nịu, đang trách móc... Ôi, thần tiên là sự đụng chạm lần đầu trong đời niên thiếu với một người bạn lòng. Ông Ký quả nghe ngây ngất gần được y như thế, nên như một chàng niên thiếu, ông bỗng đâm bối rối, vụng về, không biết phải làm sao nữa.

Ông hồi hộp nhìn Thu, tiếc sao nàng không bất tỉnh như người cung nữ trong phim Địa ngục môn, và xấu hổ thấy mình như chàng tướng trẻ trong phim đó, hớp nước suối để làm bộ cho nước, mà lại sợ sệt nhìn quanh dáo dác rất buồn cười.

Không, ông không hèn như chàng tướng trẻ ấy. Ông phải yêu đường hoàng chớ không được lợi dụng sự bất tỉnh của người đẹp để cho nước. Nhưng ông phải yêu lễ độ chớ không hỗn hào như một chàng trai hai mươi được.

Quyết định được thái độ, ông Ký tay nưng vị hôn thê lên, mặt cúi lần xuống rồi chỉ đặt môi lên tóc nàng, hun thật nhẹ một cái ngắn rồi thôi. Trong khi Thu rùng mình rồi ngây ngất dưới hơi thở ấm của người chồng chưa cưới thì ông Ký bỗng nghe một cảm giác thật kỳ lạ. Đó là một sự nhờm gớm, không phải nhờm gớm hương trời trong tay, mà giựt mình đánh thót lên và vẳng nghe đâu đây lời trách móc, hơn nữa, lời hăm dọa tội tù.

Tám tháng trời đeo đuổi, nửa tháng chinh phục không ngừng, hai phút lồi hộp đến tim như muốn nhảy thoát ra khỏi lồng ngực, bao nhiêu ngày tháng công lao ấy dầm trong một giấc mơ hạnh phúc vô biên. Nhưng giờ đây, ê chề hối hận như lỡ tay đánh phải một đứa bé dại, săn phải một con khỉ non và lòng quặn thắt, đau trước tuyệt vọng, căm hờn, khi ẩn trách của khỉ mẹ.

Ông Ký đặt Thu nằm xuống cỏ, nhưng nàng không chịu nữa.

Người con gái họ giữ gìn nết hạnh rất chín chắn. Nhưng khi đến lúc thấy không cần giữ gìn nữa, với một người nào, là họ suôn sẻ một cách rất lương thiện. Đường họ đi, không đi thì thôi nhưng hễ đi thì suông như đi trên một đại lộ, không quanh co, không ngập ngừng một cách ích kỷ như ta. Hơn thế, nàng vừa mới yêu trong một phút, lần đầu tiên trong đời nàng. Tình yêu chỉ có thế thôi a? Không, nàng không chịu bị thất vọng. Ông Ký đành phải tiếp tục nâng đỡ người vợ chưa cưới, mà lòng khổ như phải nâng một người vợ già, ốm đau liên miên mấy tháng trời.

Thu nằm đó, lòng băn khoăn chờ đợi cái gì nàng không rõ, nhưng tin chắc không phải như thế rồi thôi.

Bỗng một tiếng soạt trong lá khiến cả hai giựt mình ngó lại.

Lá xanh như một tấm màn giấy bỗng bị xé rách một lỗ và nơi lỗ rách ấy một mặt người ló ra. Đó là một Sơn nữ không giống người trong mộng chút xíu nào cả. Nàng không trắng, không đẹp, mắt nàng không mơ huyền mảy may nào; nàng cũng chẳng ngây thơ nhìn người đàn ông đất Kinh như ông Ký đã mộng thấy. Ông đang vừa ra khỏi một thất vọng lại đâm đầu vào thất vọng khác nữa! Người sơn nữ vạch lá bước tới, không ngại ngùng như ta, trước cảnh thân mật của người khác.

Hồn hoa ơi, không lẫn trốn nữa à? Ảo mộng ơi! Bây hùa nhau mà ra mặt một lượt, bổ tới như những đợt sóng mạnh xô ngã người đang đứng nơi bãi cát nhìn xa ra khơi mà mơ hão những chân trời lạ, những nước non huyền diệu ở đâu đâu!

Để đỡ khó chịu, ông Ký hỏi bậy một câu, không mong người kia hiểu:

- Ở đây có lan đen không chị ? 

Sơn nữ nhìn ông giây lát rồi đáp:

- Có, thầy hỏi làm chi?

Tiếng Việt đúng giọng của người nầy khiến đôi bạn ngạc nhiên. Ông Ký nói:

- Tôi muốn tìm lan đen, chị làm ơn chỉ giùm.

- Đi theo tôi.

Đôi bạn uể oải đứng lên sau lời mời xẵng lè nầy. Lá rừng khép lại sau lưng họ như muốn lấp nẻo vào quê hương của lan lạ.

Đến một khu rừng kia, thiếu nữ dừng lại và làm thinh, lấy tay chỉ lên cây:

- Ôi! Lan đen sao mà nhiều như dế sau trận mưa đầu mùa. Ông Ký chóa mắt không biết chọn chùm nào. Ông lại nghe hết thích hoa đó nữa. Không có thì ham, có rồi thấy cũng chẳng thích mấy. Có nhiều quá lại phát ngấy lên.

Ông Ký hỏi:

- Làm sao mà mang về cho chắc sống chị? Về rồi trồng đâu?

- Không, không trồng ở đâu được cả. Không đem về mà sống được.

- Tôi thấy họ chặt luôn nhánh cây mà nơi đó nó bám, nhưng rồi nhánh cây khô, hết nhựa, nó chết đi.

Cô sơn nữ cười ngất:

- Nó có ăn nhựa cây như chùm gởi bao giờ đâu. Nó chết không phải vì nhánh hết nhựa, trái lại nữa.

- Chớ nó ăn gì?

- Nó ăn vỏ cây chết nên... Ông Ký bỗng nhớ lại một câu của nhà văn Michelet: "Giống lan uống sự chết, sự chết ấy tạo sự sống cho nó". Ông chận sơn nữ mà nói:

- Nếu nó ăn cây chết thì chặt nhành cây về là đúng lắm rồi.

Sơn nữ mỉm cười:

- Chùm gởi ăn nhựa cây sống nên sống bám vào cây đó là phải. Nhưng lan ăn vỏ cây chết rồi còn phải tạo lấy sự sống cho mình, nên không phải chỉ sống gởi là đủ. Còn phải có khí hậu nào, hơi gió nào và một vạn thứ bí mật khác nữa mà ta không biết. 

Ông Ký bỗng giựt nảy mình, nhìn lại Thu đang trố mắt soi mói người thiếu nữ Thượng.

Một cô gái ăn chơi son trẻ, sẽ vui lòng thỏa chí bám vào ông như chùm gởi bám vào cây sống. Ông sẽ chết trước chùm gởi và khỏi đau khổ mà thấy người đẹp héo sầu. Nhưng Thu, một khi bám vào vỏ cây già cỗi của ông, chưa chắc đã đủ điều kiện để tạo sự sống cho Thu. Ông lặp lại trong trí lời sơn nữ: "Còn phải có khí hậu nào, hơi gió nào và một vạn thứ bí mật khác nữa mà ta không biết". Không, vô ích, cuộc hôn nhơn kỳ lạ của ông và Thu! Ông vừa thất vọng sau cái hun trên tóc, ông không nên mò đến một thất vọng lớn lao nữa.

- Thôi, cám ơn chị nhé, tôi thôi không mang lan về nữa. 

Nói rồi ông ra hiệu cho Thu theo, không nắm lấy tay nàng mà dắt đi như ông đã sung sướng làm mấy bữa rày.

Khí hậu Khí hậu! Ông lặp lại mãi hai tiếng ấy trên đường về. Khí hậu nhà ta là những cuộc chạy áp phe quay cuồng. Rồi vài năm nữa đây, nó sẽ là khí hậu tu viện của một ông già lùi về quê. Cả hai lối sống đều không hợp với Thu, nàng cần không khí vui tươi hơn là những con số, những kiện hàng, và cần không khí trẻ trung hơn là một khu vườn ở nhà quê trong đó chủ nhà dưỡng lão. Ra đến lối mòn, ông nhìn Thu rồi ngập ngừng giây lát, ông đánh bạo nói:

- Thu, cháu ơi, chú thấy chú đi sai đường lạc nẻo sâu lắm rồi. Nhưng trở lại còn hơn liều tiến đến miệng hố. Cháu nghĩ sao?

Thu kinh ngạc đến tột độ. Sau một phút nhìn ông Ký nàng bỗng chợt hiểu. Nàng ngồi phệt xuống cỏ ôm đầu khóc mùi mẫn. Người con gái đi đường suông. Và nếu phải trở bước thì khó khăn thay. 

 
(Trích từ tập truyện ngắn Đèn Cần Giờ)