Thứ Hai, 4 tháng 11, 2024

CON CHIM VÀNH KHUYÊN - Khái Hưng

Ngày nay ngắm chim vành khuyên tự do nhảy ngót trên cành, tôi không khỏi bùi ngùi hối hận. Là vì tôi nhớ tới một sự thê thảm đã xảy ra.

Hôm ấy, một buổi sáng cuối thu, trời vừa bắt đầu lạnh lại thêm có mưa phùn gió bấc trông như cảnh tháng chạp về gần tết vậy.

Chẳng biết làm gì, táy máy tôi lấy củi đốt lò sưởi ngồi nhìn lửa cháy và nghe than nổ rắc rắc cho vui.

Sự sung sướng - cái sung sướng êm đềm, lười biếng - như cùng khí nóng tiết ở các thớ củi ra mà theo hơi thở thấm vào trí não, tâm hồn tôi. Ngồi gác chân lên bàn giấy, tôi mỉm cười nhìn khói thuốc lá từ từ tản mạn bay lên trần, và tôi cảm thấy lòng tôi khoan khoái nhẹ nhàng.

Tôi vẫn định hút hết điếu thuốc là đi làm việc liền vì cuốn tiểu thuyết của tôi đã mấy hôm ròng không hơn một chữ. Nhưng gần hết điếu thuốc ấy thì lơ mơ nhưng không tưởng tới tôi đã đánh diêm hút điếu thuốc khác.

Tờ báo hôm trước, ai xem xong để mở trên bàn. Tôi uể oải đưa tay ra với lấy. Ðọc hết trang đầu nhưng bởi tâm trí tôi đầy những sung sướng không đâu, nên những tư tưởng ở ngoài không có lối lách vào được nữa...

Ðể mắt tới hàng chữ lớn "Có bão ở Vịnh Bắc Kỳ", thốt nhiên, tôi nhìn cảnh mưa phùn, gió bấc, lá rơi đập vào cửa kính đóng, tiếng kêu tí tách, và tôi tìm hiểu vì đâu trong những chuỗi ngày bình tĩnh lại bỗng xảy ra một ngày mưa gió như kia ! Há chẳng phải trận bão rớt đó chăng ?

Rồi tôi nghĩ tới những người bị nạn, khổ sở; những cảnh nhà đổ trước mắt tưởng tượng của tôi, rõ ràng hoạt động.

Bên ngoài gió thổi vù vù, màn mưa thướt tha che mờ cửa kính. Lá vàng bay tựa những chiếc thuyền trôi giạt trên làn sóng thảm.

Trong lò lửa than âm ỉ...

Bỗng thấy tiếng chíp chíp nho nhỏ dưới chân ghế, tôi cúi nhìn xuống : Một con chim non ướt lướt thướt đương xù lông, run lập cập.

Trong lúc mơ màng thương xót những kẻ bị khốn trong cơn giông tố ở chốn xa xăm, lòng trắc ẩn của tôi tưởng tượng con chim ra một người thoát nạn vào đây ẩn núp.

Tôi rón rén đưa tay ra bắt, con chim chỉ chiêm chiếp kêu mà không bay không nhảy. Có lẽ nó sợ hãi quá, có lẽ ban nãy một cơn gió mạnh đã phá tan ổ nó, và nó đã rơi xuống cùng với cái nệm êm ấm của mẹ nó đã làm.

Nằm trong lòng bàn tay tôi, con chim vành khuyên, vì kẻ bị nạn là một con chim vành khuyên, vẫn run lẩy bẩy, vẫn kêu chiêm chiếp. Lương tâm tôi thì thầm bảo tôi rằng tiếng kêu ấy là tiếng cám ơn của con vật ngây thơ.

Tôi lấy tờ báo gập lại dùng làm cái mền, xúc ít tro ấm trong lò, rồi tôi đặt kẻ chịu ơn tôi nằm lên trên. Bấy giờ con chim được sưởi đã hoàn hồn, nó không chịu nằm yên một chỗ, vừa kêu vừa nhảy dưới gầm bàn, gầm ghế.

Vì nhà có mèo, tôi sợ con chim xinh xắn kia gặp nạn một lần thứ hai, tôi liền đứng dậy săn nó khắp trong phòng, bắt kỳ được mới nghe. Tôi chỉ muốn nó được sống, được thoát nạn, dầu nó tưởng nhầm rằng tôi dữ tợn đuổi bắt nó, tôi há cần chi ? Thi hành một điều thiện với ai, ta có e gì kẻ kia không ưa, không muốn ?

Tôi lấy cái lồng bàn nhỏ úp lên con chim, định bụng khi nào tạnh mưa im gió, tôi sẽ thả nó lên cây. Sự làm ơn của tôi thực đã chu đáo.

Vào buổi trưa, khi trời quang đãng, khi ánh sáng một ngày thu tốt đẹp đã trở lại rực rỡ, trong trẻo tiếng chim trưa hót, nhảy nhót trên cành, khiến tôi nhớ tới sự giải phóng con chim vành khuyên của tôi, chưa đủ lông đủ cánh, chỉ biết kêu, biết nhảy, mà chẳng biết bay. Lòng sính làm phúc của tôi nghĩ đến tìm con chim mẹ mà giao trả lại con. Song trong trí tôi hiểu ngay là vô lý, và làm tôi phải tức cười.

Tôi liền mua một cái lồng nhỏ, thả con chim của tôi vào, chờ vài hôm, nửa tháng, khi nó đủ sức biết bay tôi sẽ trả tự do cho nó. Thiết tưởng cũng chẳng muộn gì...

Ở đời người làm ơn bao giờ cũng sung sướng hơn người chịu ơn. Ðó là do lòng tự phụ của ta hay đó là một bản năng thiên nhiên của loài người để giúp đỡ nhau trong sự bảo thủ Tôi không biết, mà tôi cũng không biết cái tính tự phụ trong sự thi ân và cái tính tự coi mình bị khuất phục trong sự thi ân có sẵn trong loài chim vành khuyên chăng. Tôi chỉ biết rằng từ hôm tôi tưởng cứu sống được một con vật yếu ớt thì tôi lấy làm sung sướng lạ lùng, còn trái lại, con chim vành khuyên, kẻ chịu ơn tôi, thì ra chiều tức tối giận dữ tôi lắm. Không một lần nào, khi tôi lại gần để cho nó ăn, nó thân chào tôi bằng tiếng chiêm chiếp ngây thơ buổi đầu gặp gỡ, nó bay nhảy huyên thuyên, đạp phá then công để tìm lối trốn ra.

Mà tôi, thì nào tôi có vẻ dữ tợn cho cam. Tôi vẫn tươi cười, se sẽ hút sáo, để khiến cho con chim yêu quý lầm tôi là đồng loại với nó. Thật ra, tôi rất mến nó, tôi thương nó, tôi ân cần săn sóc nó. Tôi nghĩ hết cách, làm hết mọi việc dù là cỏn con mà tôi đoán là sẽ làm cho nó vui lòng. Cái công nó ở bao giờ tôi cũng lau chùi cho được sáng sủa.

Trong cái nắp hộp kem tí hon, bao giờ nước uống cũng trong sạch. Trước kia bất cứ thứ hoa quả hay bánh mứt gì tôi đang làm thức tráng miệng cũng được : Tôi vẫn có tính dễ dãi. Ngày nay vì con chim của tôi, tôi bảo bếp bữa cơm nào cũng phải có chuối tiêu là thứ quà mà loài chim khuyên rất ưa, rất thích, vì thế con chim yêu quý của tôi mỗi bữa được ăn một mẩu chuối mới, vừa thơm vừa sạch.

Một sự lạ, nghĩa là lạ cho tôi ? Tôi càng ân cần săn sóc tới con chim bao nhiêu, nó càng tỏ lòng căm tức tôi bấy nhiêu. Buổi đầu, lúc tỳ tay lên lan can tôi đứng sát công, tò mò ngắm nghía, nó mới đạp, nhảy, phá phách. Một tuần sau, hễ thoáng thấy bóng tôi trong nhà bước ra hiên ra nó bắt đầu công lộn rồi. Ðến lúc về sau tôi sinh sợ hãi nó. Lòng sợ hãi ở lòng thương kia mà ra : Tôi không muốn vì tôi mà kẻ chịu ơn bị xây chân, rụng lông, sứt mẻ. Buổi sáng, bắt buộc phải ra thay nước, thay chuối cho nó, tôi làm các công việc ấy rất mau, rồi lại chạy vội vào trong nhà đứng nấp sau bức rèm ren nhìn ra.

Con chim đưa mắt nhìn quanh mình tưởng thấy bóng đêm bấy giờ nó mới chịu ăn chịu uống.

Một tính tình trái ngược nẩy ra trong lòng tôi. Con chim xinh đẹp càng ghét tôi, tôi lại càng yêu nó. Nửa tháng sau, tôi tưởng chừng hai chúng tôi không thể rời nhau ra được. Tôi nhớ lời hứa của tôi, tôi nghĩ tới ngày tôi sẽ giải phóng cho nó mà tôi buồn rầu lo lắng.

Tôi đã quen đứng sau bức rèm ren, nghe tiếng chiêm chiếp ngây thơ của nó, thì nó nhẹ nhàng nhảy nhót trên cái cầu tre bắc trong công. Khi nó biết bay, và giữ lời hứa tôi thả nó ra thì sao khỏi có một chỗ trống trong đời tôi. Sáng nào cũng vậy, vừa ngủ dậy, ở trên giường bước xuống dép là tôi chạy ra ngắm con chim của tôi trọn gần nửa giờ, vậy khi nó xa cách tôi thì trong mẩu đời ấy của một ngày dài đằng đẵng tôi sẽ làm cái gì ?

*

Một buổi sáng, mở mắt thức giấc, tôi nhận thấy một sự phi thường mới xảy ra. Mọi khi, tôi có đến gần nó mới phá phách, thế mà sáng hôm ấy, con chim nhu mì bỗng dưng làm ầm y như điên như cuồng. Thì ra trên cây sấu, lá xanh rũ bên hiên, có hai con chim vành khuyên đang vui vẻ tí tách chuyền cành, nên con chim của tôi muốn sổ công ra với bạn.

Tôi tức giận, nên đuổi hai con vật ranh đến làm mất sự bình tĩnh và có lẽ sự sung sướng của kẻ mà tôi sẵn lòng yêu thương, săn sóc.

Trong khi ngắm cành lá um tùm, tươi tốt, rung động trong bầu không khí trong trẻo lênh láng ánh sáng quanh mình, tôi lại quay nhìn cái lồng trơ trọi chật hẹp không một chút mỹ thuật, mà tôi nhốt con vành khuyên. Tôi là kẻ xưa nay vẫn thích cảnh đồi, cảnh núi,cảnh nước chảy mây bay, cớ sao tôi lại nhẫn tâm nhốt một con vật xinh xắn, nhanh nhẹn vào trong cái nhà tù kia được ?

Tôi vụt nhớ tới, và quả quyết mở cửa công giải phóng con chim. Thốt nhiên, tôi buông một tiếng thở dài; tôi tiếc cái thời kỳ sum họp của chúng tôi. Thực tôi nói ra, có lẽ không ai tin, nhưng tôi đã quen coi con chim vành khuyên của tôi như một người bạn tôi, tôi đã làm đủ thứ để mua chuộc lòng bạn tôi, để mong bạn tôi, không bao giờ muốn tự ý rời tôi ra, nhưng mà, mà, than ôi ! Tôi còn biết làm những gì để được bạn nhớ tới lưu luyến ?

Tôi buồn rầu rút cửa công lên, rồi tôi lại vội sập cửa công xuống. Rồi tôi thì thầm thành thật nói với con chim : "Thôi ta khất đến tuần lễ sau."

Buổi trưa, tôi loay hoay lấy cành sấu mềm xuống, buộc vào thân cây cọ đã sẵn có một cành khô mộc rất đẹp mà tôi cho leo từ xưa. Tôi treo lồng chim ở đó, cho lá khô mộc rũ lòng thòng qua then tre, như thế, dẫu bị nhốt, con chim của tôi vẫn được sống tron cảnh thiên nhiên. Ấy là vì tôi tưởng thế và tôi tưởng chắc "bạn tôi" sẽ được vui lòng.

*

Ðau đớn biết bao ! Tôi hối hận biết bao ! Một buổi sáng, ra hiên coi, tôi thấy con chim vành khuyên của tôi đã chết nằm trên những nan tre, hai chân màu nâu thẫm giơ lên và co quắp như chân con chim quay, cái đầu tý hon nghiêng về một bên, cặp mỏ vẫn ngậm khít và có một tia máu đen chảy ra mép. Hai cánh nó rã rời xõa ra. Có lẽ nó mới biết bay và trong khi nó thử sức bộ cánh của nó, nó đã quá văng mạnh mình vào then lồng đến hộc máu tươi ra đằng mồm mà chết.

Trời ơi ! Có thể như thế chăng ? Có thể cái vỗ cánh thứ nhất tập bay chuyền trong lồng là nguyên nhân cái chết kia ?

Trời ơi ! Có thể như thế được chăng ? Có thể cái ngày tôi hy vọng được cùng con chim nhỏ của tôi mãi mãi gần nhau lại là ngày nó cùng tôi vĩnh biệt. Phải, chiều hôm trước một người bạn chơi chim đã đến cho tôi một cách thần hiệu để giữ con chim ở mãi với tôi mà không cần đến lồng, đến dây buộc. Tôi cứ cho nó ăn bánh đậu xanh và dầu có thả nó ra, đến bữa nó cũng phải mò về. Thành thử tuy được tự do bay nhảy trên cây mà với mình nó vẫn còn có tình lưu luyến.

Tôi mừng quýnh, và buổi tối, tôi đã vội ra phố hàng Bạc mua một phong bánh đậu mùi va ni sực nức thấm qua lần giấy áo bọc ngoài.

Thế mà nó chết nó chẳng sống mà ăn bánh đậu của tôi.

Hay có tâm linh báo cho nó trước, nên nó không muốn để tôi lừa dối ?

Thế là hết, thế là từ nay mỗi sáng tôi chẳng còn núp sau cái rèm ren, ngắm nghía nó nhảy trong lồng. Ðứng trước tử thi con chim tôi buồn rầu bồi hồi và tôi hối hận.

Tiếng chiêm chiếp của đàn chim sâu, chim sẻ ở trên cành cây sấu càng làm tăng tình thương xót trong lòng tôi. Sự sum họp của chúng tôi vừa được ba tuần lễ.

Từ hôm ấy, mỗi khi ngồi bên lò sưởi, tôi lại nhớ tới buổi sáng cuối thu, u ám gió bấc mưa phùn cái buổi bão rơi đã gợi lòng trắc ẩn của tôi đối với nhân loại, đối với vạn vật.

Ngồi nhìn lửa cháy trong lò, nghe tiếng nổ rắc rắc tôi liên miên nghĩ tới những sự thiện, ác của loài người.

Tôi tin rằng con người vốn sẵn có lòng tốt.

Song chỉ có lòng tốt liệu đã đủ chưa ? Có khi vì bản tâm tôi tốt, vì tôi sốt sắng làm điều thiện quá mà tôi gây nên toàn những sự tai hại, cũng chưa biết chừng.

Ðối với con chim vành khuyên, bản tâm tôi chỉ muốn cứu sống. Khi lòng trắc ẩn hiện ra trong tâm hồn tôi, tôi có ngờ đâu một ngày kia nó sẽ đổi ra tình lưu luyến. Tình lưu luyến ấy chỉ là lòng ích kỷ, nhưng nào có nghĩ tới.

Lòng tốt của tôi khiến tôi ân cần săn sóc đến sự ở sự ăn, sự uống của con chim, tưởng như nó không còn thiếu một thứ gì. Tôi có ngờ đâu rằng đời con chim không phải chỉ có sự ở, sự ăn, sự uống. Trời đã sinh ra nó có đôi cánh, thì nó phải dùng để bay. Không được bay thì nó chết.

Cho hay ta muốn thi ân cùng ai mà ta không xét tới nguyện vọng, tới lòng sở thích của người ta thì sự thi ân của ta chỉ gây nên oán, nào có ích gì.

Nhìn lửa cháy trong lò, nghe tiếng nổ rắc rắc, tôi buồn rầu ngẫm nghĩ.
 
 (Trích từ tập truyện ngắn Dọc Đường Gió Bụi)

Thứ Sáu, 1 tháng 11, 2024

ĐƯỜNG XƯA LỐI CŨ - Trần thị Phương Lan


Vậy là một trong muôn vàn những giấc mơ lớn nhỏ của tôi cuối cùng cũng đã trở thành sự thật: Tôi được quay lại thăm Châu Đốc sau hơn nửa thế kỷ rời xa. Xưa Từ Thức cùng người thương/tiên nữ tiêu dao quên cả tháng ngày nơi tiên giới. Lúc sực nhớ đến cha mẹ bèn quay trở lại chốn hồng trần tìm kiếm thì hỡi ôi, hơn 500 năm đã trôi qua, cảnh cũ đã khác xưa, người xưa đã trở thành thiên cổ.

Còn tôi ư? Nếu không có "thổ địa" Châu Đốc là chị Thơ con bác giáo Đ., hàng xóm láng giềng của chúng tôi khi trước, làm "hướng dẫn viên du lịch", thì tôi đã không thể nào nhận ra lại được đường xưa lối cũ. Ví dụ, nhà công vụ của thân phụ chị Thơ trước đây nay đã trở thành một quán cà phê hai mặt tiền, hoặc Ty Thông Tin cách nhà công vụ của bác tôi một hương lộ nhỏ, qua bao đời chủ, đã biến hình đổi dạng thành khách sạn nơi chúng tôi vừa tạm trú qua đêm! Đúng là vật đổi sao dời!

Trong suốt chuyến đi về Châu Đốc kỳ này, tôi may mắn được nghe nhiều câu chuyện xoay quanh những nhân vật mà tôi từng biết khi còn nhỏ. Ví dụ như ông giáo sư Luông, người thường dắt chúng tôi đi hái hoa lục bình vào mỗi chiều thứ bảy, chính là cháu ruột của Tổng Trưởng Giáo Dục dưới thời Việt Nam Cộng Hòa Ngô Khắc Tỉnh, rồi sau này ông Luông lại trở thành con rể của ngài đại sứ Việt Nam Cộng Hòa tại Trung Hoa Dân Quốc là ông Nguyễn Văn Kiểm, bào huynh của tổng thống Thiệu. Nghe kể tới đây tôi đã mừng hết lớn, vì lúc "quen biết" ông Luông tôi chỉ mới "tí tuổi đầu", chưa đủ lớn để mê mệt ông giáo sư đào hoa ấy, bởi vì nếu tôi sàn sàn tuổi người chị họ của tôi và những nữ sinh bạn của chị ấy, nếu phải lòng ông Luông thì tôi chỉ còn nước ôm đầu máu chạy về, từ chết tới bị thương, vì ông Luông dòng dõi danh gia vọng tộc như vậy, khó lòng có chuyện "Đài gương soi xuống dấu bèo cho chăng" lắm!

Đêm. Nằm trằn trọc trong khách sạn trước đây từng là Ty Thông Tin của Châu Đốc, tôi tiếc nhớ mùi hương hoa Dạ Lý và hoa Quỳnh bên nhà bác giáo lúc xưa thường thoang thoảng bay sang lúc đêm về. Cuối cùng tôi cũng biết được loài hoa nhỏ li ti màu trắng và rất thơm trước đây cũng được trồng trong vườn nhà bác giáo mà tôi tình cờ thấy lại ở Sài Gòn lúc gần đây mà tôi cứ thắc mắc mãi có tên là hoa Đuôi Chồn!  Không thích đi xe hơi vì bít bùng khó thở, dễ làm tôi nôn ói, tôi cũng chẳng thích nằm máy lạnh vì cùng lý do. Đối với tôi, hiện đại chỉ tổ hại điện.

Tôi mở cửa bước ra, ngắm thành phố Châu Đốc về đêm. Nhìn sang bên kia là chùa Bồ Đề, một địa danh vẫn còn giữ lại chút ít nét quen thuộc. Đối diện chùa, trước đây là bến xe đò đậu quanh bồn kèn, nay là bến xe taxi. Còn bồn kèn đã được lát gạch láng, gắn đèn xanh đỏ chớp tắt, nửa quê nửa tỉnh. Ôi còn đâu cây hoa phượng thương yêu thuở nào mọc ở bồn kèn, đã khiến tôi mang vào những bài tập làm văn luôn đứng đầu lớp. Gần chùa giờ có một quán ăn mặn bề ngoài tuy đơn sơ giản dị nhưng đồ ăn ngon hết biết.

Bờ sông Châu Đốc đối diện dinh Tỉnh Trưởng xưa kia nay có vẻ đông đúc bát nháo hơn, hướng nhìn sang Tân Châu cũng bị che khuất bởi những bè cá, và cầu tàu năm xưa chúng tôi thường ngồi đón gió tối tối nay có một bức tượng hình cá ba sa được dựng lên là biểu tượng của Châu Đốc. Dù vẫn biết rằng…You can never go home again (Thomas Wolfe)... Bạn không thể nào trở về chốn cũ lần nữa, vì mọi việc đều thay đổi, tôi vẫn không khỏi cảm thấy thất vọng giùm bài hát Tôi Đi Giữa Hoàng Hôn của Văn Phụng giờ đây không còn thích hợp để tả cảnh bờ sông Châu Đốc nữa rồi. https://youtu.be/k8uelmx3wcg?si=CcHjdKfsAvlR01ni

Đi hết cả Châu Đốc, tôi chẳng tìm thấy đâu một cành hoa lục bình kỷ niệm thời ấu thơ, nhưng ít ra tôi vẫn còn được trông thấy lối đi hẹp khi xưa dẫn đến ao hoa lục bình, đàng sau những căn nhà phố, cách khu nhà công vụ ông Luông và những giáo sư trường Thủ Khoa Nghĩa ở, nơi lưu dấu những bước chân chúng tôi tới hái hoa những chiều cuối tuần.

Một đặc sản của Châu Đốc mà tôi đã vội "vồ" ngay lấy trong chuyến "hồi hương" này là những chiếc xe lôi chất chứa nhiêu kỷ niệm. Nhưng nhìn những người đạp xe lôi ốm nhách đến lòi cả xương, tôi thật lòng rất muốn trách móc những ai có bổn phận/trách nhiệm nhưng lại không tạo ra công ăn việc làm cho những người dân thấp cổ bé miệng nơi đây, dù đã suýt soát nửa thế kỷ từ "ngày ấy" đã trôi qua rồi.

Trần Thị Phương Lan     
(Bút nhóm Hoa Nắng)      

Hình đính kèm: Chùa Bồ Đề (giữa), xa xa là khách sạn Thành Phát màu trắng (Ty Thông Tin cũ)
 

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2024

TIẾNG HÚ BAN ĐÊM - Thế Lữ

 

Tiếng hú đưa từ phía rừng Sam Na lại. Đêm nào mưa gió thì nghe rõ từng hồi một: trước còn thấp, sau bổng cao, kéo dài ra, rồi chìm biến vào trong bốn bề rừng núi. Trời đất âm thầm lạnh, vì hồi ấy về cuối thu. Tiếng hú đưa lên ai oán thảm thê, tưởng như giọng ba bốn đứa trẻ xác xơ đang ngồi trên bãi vắng hay bờ lau mà gào mẹ chết.

Người Mán Khao-la ngủ không yên giấc, đêm đêm nằm trong khiếp sợ mà lòng mê tín của họ làm tăng mãi lên.

Bởi vì trước đó không lâu, trong làng có nhiều điều quái dị xảy ra như đi  trước đón đường cho tiếng hú bí mật. Rừng Sam Na là một khu rừng lớn, người Mán thường ngày vào săn bắn những cầm thú nhỏ và khai phá những của thiên nhiên. Bỗng dưng đã một tháng nay có một con hổ cái hung dữ lạ thường, chẳng biết từ đâu về rừng đó ở. Con hổ to lớn khỏe mạnh lắm, giữa ban ngày cũng dám ra bắt súc vật của dân Mán - có khi lại vồ cả người. Đến những thiện xạ xưa nay vẫn làm tai làm họa cho thú rừng cũng nhiều lần bị khốn vì con hổ cái. Họ tìm đủ mọi phương kế: nào vây đón, nào bẫy cạm mà không tài nào bắt được - lần nào hổ cũng thoát rất dễ, lại còn tha được cả mồi đi. Người Mán thường coi hổ háo chỉ như một con chó dữ mà bây giờ nghe tiếng nó gầm cũng phải run sợ. Cùng một thời kỳ hiện ra cái nạn rừng ghê gớm này, một người đàn bà với một cô con gái làng khác đến ở ngụ. Xem chừng là hai mẹ con. Hai người dựng một cái lều tận đàng xa, bên một cái cụm cây lớn, ở ngay cửa rừng. Như thế hình như nhà này muốn cách biệt hẳn với thôn xóm ở đây. Cả một làng dăm ba mươi nóc, chen xít nhau trong đám cây cối dưới sườn một quả núi thấp và quay mặt hướng về Sam Na. Dân cư vẫn giúp đỡ nhau, thân cận nhau, nay đột nhiên có người ở đâu đến, lại ra ý tỵ hiềm chia rẽ, thì ai cũng phải cho là những nhân vật lạ lùng.

Không ai hiểu tính tình hai mẹ con nhà ấy. Mà từ khi rừng thành dữ không mấy người dám đến, nên không biết họ ăn ở ra sao. Chỉ những ngày phiên chợ mới thấy hai người ra mặt, họ gánh củi từ cửa rừng đem ra chợ đổi lấy gạo muối về nhà. Người đàn bà trong vòng năm mươi tuổi, váy áo màu chàm đã bạc, bao giờ cũng dúm núm, хốс xếch, người khô xác, thấp bé, chỉ tinh nhanh ở hai con mắt sắc rất linh động, nhưng lúc nào cũng gườm gườm. Cô con gái độ mười bảy mười tám, ăn mặc gọn ghẽ, nét mặt xinh xắn và có vẻ e lệ ngây thơ. Cô ta theo sau như bám lấy bà mẹ. Các cậu trai tân ở trong làng ra chợ cậu nào trông thấy cô ả cũng phải ngây ngất mà nhìn hoài. Họ thích cánh và cười vụng với nhau, nhưng không cậu nào dám toe toét lả lơi, tỏ ra ý mon men trêu ghẹo cô bé. Vì có mụ già đấy: mụ sẽ trả lời lại những lối trai lơ kia bằng một cái lườm nguýt khỉnh bỉ và hằn giận đến rùng mình. Anh nào to gan, không sợ cứ sấn gần đến cô bé, tức thì mụ rủa cho như khạc lửa vào mặt rồi chẳng đổi chác thì chớ, cầm ngay lấy tay cô bé, cất gánh củi, một mạch đi về.

Người Mán vốn đang đột thật thà, không có lòng hiểm độc ghen ghét, nhưng thấy cái thái độ lạnh lùng và kỳ dị của mụ già khô khan kia họ chẳng khỏi sinh bụng nghi ngờ. Vì thế, sau những buổi chợ, hoặc khi ngồi chuyện vãn với nhau, người Mán thường chỉ bàn tán đến chuyện hai mẹ con  người đàn bà lạ mặt. Trước thì còn bảo đó là một mụ ké cay nghiệt, hiểm ác sau cho là một mụ dí cấy thuốc độc ở móng tay. Nhiều người chắc thế nào nhà mụ cũng có thờ ma. Rồi mỗi ngày đẻ thêm ra những điều quái gở để gán cho mụ. Điều kỳ quặc đến đâu cũng không ai cho là thái quá, thậm chí có người dựng đứng lên bảo rằng mụ đàn bà ấy là một con hùm tinh. Mọi người liền tin theo, mà tin như thế một cách vững vàng, như là chuyện hiển nhiên trước mắt. "Phải, chính nó đấy, chính nó là con hùm trong rừng, nó biến thành con mụ ké với đứa con gái đẹp để đánh lừa chúng ta đấy. Тa cứ để yên rình lúc nó vô ý nắm ngay lấy đuôi nó là bắt được, vì con mẹ này có đuôi!".

*
 
Bỗng nhiên mấy phiên chợ sau cùng, người ta không thấy mặt mẹ con mụ ké nữa. Mà từ ngày mụ ké không ra chợ thì dân cư bắt đầu nghe thấy tiếng hú ban đêm. Người Mán lại càng tin mụ ké không phải là người thật. Họ chắc mụ ké biết đã lộ việc kín, nên không dám giao tiếp với người trong làng nữa, từ nay đành phải giữ nguyên hình. Thế rồi thường thường trong những lúc buổi tối quây quần, nhà nào nhà ấy đóng cửa cho kín, họ vây quanh ngọn đèn hay bếp lửa kể cho nhau nghe những chuyện hoang đường truyền khẩu từ đời này qua đời khác, những chuyện có một tầm quan trọng thần bí trong tâm hồn của dân đồng rừng.

Theo những câu chuyện họ kể thì trước kia ở Sam Na cũng có một con hùm tinh. Người ta thường gặp nó trên núi, dưới ruộng, trong rừng, nhất là ở các đường lối có người hay qua lại. Con hùm tinh ấy trèo được lên những cây cao, nói được tiếng người. Khi thi hát như ru em, khi thì khúc khích như đùa, khi thì than khóc. Thấy người nào một mình quãng vắng thì nó giả tiếng bà già hay đứa bé nheo nhéo gọi: "Thầy ơi, u ơi, ông ơi hay cô ơi...". Theo tiếng gọi, người ta thử nhìn хеm thì hoặc ở sau lưng hoặc ở trên cây chỉ thấy một con hổ đang cười sằng sặc. Người kia khiếp sợ ríu chân lại: hùm tinh cứ việc nhẩy tới tha đi. Về sau con hùm tinh ấy như bị sét đánh chết, nên dân cư mới được yên cho mãi đến bây giờ.

Rồi đến nay, lại có một con nữa đến. Cái tiếng hú kia từ phía rừng đưa lại chẳng phải là tiếng con hùm tinh đó sao?

Một đêm kia, dân Khao la lấy làm kinh ngạc lắm. Có lẽ con hùm tinh đã đến lúc bầy mưu chước để giáng thêm tai họa: Tiếng hú không thấy vẳng đưa nữa, mà đêm hôm ấy lại tạnh ráo, không có tiếng mưa gió nào qua. Khắp làng Mán lạnh lẽo trơ trơ dưới ánh sáng non của mặt trăng còn khuyết. Cách rừng Sam Na bằng một bể ruộng, ngút ngát mấy chục nóc nhà xám chen úp trong những đám cây cối sẫm đen. Cái lo sợ nặng nề như bầu sương ẩm ám trong không khí.

Mọi nhà đều đóng cửa thật kín. Hơi có một tiếng động cũng tưởng là tiếng con hùm tinh đi qua.... Giả thử có ai đứng gọi xin lửa ở ngoài, họ cũng không dám mở vì biết là tiếng yêu quái hay tiếng người? Một vài nhà đánh bạo nhìn qua khe cửa phên trông ra. Bên ngoài vắng yên như cảnh chết. Trên những từng ruộng khô và trắng, chỉ thấy mấy đống rạ lớn ngồi lù lù. Đằng xa dải rừng lặng ngắt mập mờ vẫn giữ kín những cái bí mật.

Gần hết canh hai, bỗng nhiên từ phía làng xóm có một toán sáu bảy người lực lưỡng rảo cẳng đi về mạn Sam Na. Đó là bảy người đi săn giỏi và khỏe nhất trong làng Mán. Họ tiến lên những bước mạnh bạo và yên lặng, mấy người đi trước cầm dao lớn, ba người đi sau mang một cuộn dây dài.

Từ lúc trời bắt đầu tối, không thấy tiếng hú đưa ra, họ đã họp nhau ở nhà ông lang để bàn định. Họ nhờ một thầy pháp bện cho họ mấy sải dây ngũ sắc và yểm phép vào dây để họ đem đi rình trói con mụ ké hay là con hùm tinh.... Những việc ác hại làm khổ dân làng đã quá lắm rồi, bây giờ không thể để cho con quái vật kia hoành hành mãi được nữa. Họ quyết lòng trừ cho dân làng một cái họa lớn. Không thì họ chết chứ không trở về.

Bọn người can đảm ấy tiến lên, không mấy chốc đã đến nhà mụ ké. Một người ra hiệu cho ai nấy nhẹ bước; dặn khẽ nhau hễ trông thấy con mụ già thời đem dây phép mà trói nghiền lại ; rồi hễ vớ được đuôi của nó là giết phăng ngay đi.

 

Cổng ngoài mở, cưa phên cũng mở, trong nhà đen tối, nhìn kỹ thì như không có người! Bọn này đã sinh nghi, cùng đi ra lối sau nghe ngóng... Một người bỗng kéo áo người đi cạnh, trỏ vào một vật lù lù nằm ở sân sau. Mọi người nhìn xem, thì đều sởn cả gai ốc. Bên cái vò nước, dưới ánh trăng mờ, một con vật lông vằn nằm không cử động... Không phải chỉ một con, coi lại thì như ba bốn con nằm đó, mà con nào cũng như ngủ mê mệt không biết gì. Ghê sợ quá, họ cùng nhau hết sức nín tiếng mà lùi - "Vô phúc nó trở dậy bây giờ thì chết cả" - Cũng có người sực tỉnh khẽ bàn nên nhân lúc nó còn ngủ đem dây ngũ sắc trói lại cho mau. Khốn nỗi chưa mấy ai hoàn hồn! Đột nhiên gặp thấy cái cảnh bất ngờ ấy thì táo tợn đến đâu cũng phải núng. Vả lại, con mụ ké là yêu tinh, nên nó khôn lắm. Biết đâu đó chẳng là một mưu chước nó bầy ra để lừa người?

Trước họ tiến lên cẩn thận bao nhiêu thì nay họ thoái bước cũng cẩn thận chừng nấy. Người nọ bám lấy người kia thực chặt. Bỗng thấy gầm lên một tiếng cực lớn, nghe rất dữ dội. Bọn con trai không còn hồn vía nào. Họ nhảy choàng lên, cùng kêu thét như bị vứt vào lửa. Tiếng gầm kia lại rống, ngày một gần, một lớn, một gấp, như vỡ trời đổ núi bên mình. Anh nào anh nấy cũng mong thành cánh ở chân, tranh nhau cắm cổ chạy về làng, lăn cả xuống rãnh, chui cả vào cây, đâm vào cả bụi rậm.

 Về đến làng xóm thì vừa hết cả sức, họ gào lên những tiếng khàn, líu lưỡi lại mà gọi, đập cửa như phá rồi vào nằm vật cả xuống đất, thở không ra hơi. Bên ngoài, không có gì đuổi theo, nhưng tiếng gầm vẫn hét vang cả một phía rừng. Sam Na như chuyển động, như có bao nhiêu hổ báo cùng vật lộn xâu xé nhau. Cho mãi đến quá nửa đêm, tiếng gầm rống thưa dần và yếu dần, rồi tắt hẳn. Bốn bề dân làng trong sự im lặng kinh hoàng vẫn tưởng như tiếng hú mọi đêm còn vẩn vơ trong hơi gió.
 
 Kể từ hôm ấy, người Mán Khao la lại càng thêm lo sợ. Họ biết thế nào cũng sẽ có những tai họa phi thường. Nhưng lạ thay! Hết ngày nầy sang đêm khác, dân làng cứ mất mật mà sẵn chờ những điều ghê gớm không xảy đến bao giờ.
 
 

Tiếng hú trong rừng thấy mất. Người Mán và trâu lợn của họ vẫn bình yên. Con hùm lớn cũng không thấy để lại một bóng vết nào qua. Hơn một tháng rưỡi trời, mụ ké hay con hùm tinh biến đâu? Chết rồi chăng? Hay đi nơi khác. Mà hùm tinh chết hay đi nơi khác, dân làng đã hẳn được mừng chưa?

Cái ngờ vực áy náy vẫn như tiếng vang còn lại của bao nhiêu điều khiếp sợ. Cách đó hơn hai tháng cũng chưa ai dám đánh liều vào rừng xem. Đến nhà mụ ké cũng không ai bén mảng tới. Mụ ké với người con gái đẹp cũng không thấy ra nữa. Người Mán thản nhiên kết luận rằng:

"Phải rồi, con mụ ké ấy chính là con hùm tinh, con hùm tinh ấy nó bỏ Sam Na nó đi vì dân Khao la có thầy pháp, có quan tang, dân Khao la khôn hơn con hùm tinh ấy".

Đó là việc có thực xảy ra ở làng Khao la ngày trước, đến nay dân Mán vùng đó ai cũng biết, ai cũng nói lại, từ người già cả cho đến bọn trẻ con. Nhưng chuyện thực sao lại có lắm vẻ hoang đường quá như thế?

Người Mán không cần biết; họ chỉ vững tin những điều họ tưởng, những điều mà lòng mê tín của họ cắt nghĩa ra thôi.

Bởi vậy duyên do câu chuyện này không mấy ai cho là thực.

Người đàn bà Mán mà họ ngờ cho là hùm tinh ấy nguyên là người ở một làng xa, cách đó những gần hai ngày đường. Bà ta góa chồng từ năm ba mươi tuổi. Nói là góa, nhưng thực ra thì bà ta bị chồng lừa: lấy nhau chừng một năm, đến khi bà ta có mang thì người đàn ông bỏ nhà đi mất.

Bà căm tức lắm, nguyền rằng hễ sinh con trai thì giết chết ngay.

Nhưng đứa trẻ ra đời lại là con gái. Bà ta mới đổi oán làm mừng, nưng niu chăm chút con thơ và ra sức làm lụng để nuôi cho nó khôn lớn. Người con gái ấy là cái hạnh phúc của bà mẹ: nó làm cho sự sống của bà ta có nghĩa và thay cho cái ái tình đã chết đi. Mẹ đặt tên cho con là Mi Nàng, bỏ tên chồng nhận lấy tên ấy để tỏ ra hai mẹ con như một.

Nhan sắc trong trẻo của Mi Nàng cùng tăng lên với ngày tháng. Năm Mi Nàng mười tám tuổi thì trong làng có người đem rất nhiều của cải đến xin kết hôn. Bà mẹ Mi Nàng không nghe. Cô ấy tuy bằng lòng nhưng cũng từ chối. Mi Nàng ngây thơ lắm. Bên con trai tìm cách dỗ dành không ngớt. Rồi trong vòng bảy tám phiên chợ làng, những tiếng hát ái ân của họ đã làm cho người thiếu nữ phải say mê. Mi Nàng một khi sa ngã, rất hổ thẹn ăn năn, bèn đem sự lòng thú thực cả với mẹ. Bà mẹ tức khắc sang điều đình với bên kia nói là thuận gả con gái. Nhưng anh con trai giở mặt, muốn bà ta đem Mi Nàng biếu không cho minh. Bà mẹ tím mặt lại vì giận, nhớ đến người chồng mà bà ta coi như đã chết rồi, nhớ đến con người đã lừa dối tình phụ. Bà ta trở về, không nói năng gì cả. Đến đêm lăm lẳm thanh đao rừng ở tay, bà ta đứng rình ở một chỗ khuất rồi xông ra chém một nhát vào sau gáy thằng con trai kia. Giết nó xong, không hối hận, không sợ hãi, người đàn bà Mán sốc ngay cái xác còn đeo lủng lẳng cái đầu ma, đem về vất ra sân vườn, rồi vào gọi con gái vác nải gạo, với bọc quần áo đi trốn.

Hai mẹ con trông thẳng mạn Sam Na đi suốt đêm, đến chiều tối hôm sau thì tìm chỗ tạm nghỉ. Bấy giờ bà mẹ mới cầm hai má cô con gái mà nhìn. Bỗng nước mắt tràn ra, rồi ôm chặt lấy con khóc rưng rức:

- Mi Nàng! Mi Nàng! Nong khon nó muốn đánh lừa mẹ, đánh lừa con, mẹ đã chém Nong khon cho nó chết.

Rồi bà ta lại khóc như muốn lấy tiếng nức nở để nói nốt bao nhiêu lời. Mi Nàng cũng khóc, có lẽ nửa thương tình nhân bỏ mạng, nửa thương bà mẹ phạm tội ác vì yêu dấu cô ta.

- Mi Nàng ơi! Mẹ với con đi xa, đi trốn; ở đây làm gì với những người nó chỉ chực cướp sống con gái của mẹ. Con nghe chưa?

- Con nghe rồi. Con cũng... muốn thế...

- Ừ! Thế thì hay lắm, mẹ với con đi rõ thực xa! Xa lắm. Rồi làm nhà riêng một nơi, mẹ đi làm, con đi làm, mẹ con nuôi nhau, con yên vui mà mẹ cũng vẫn được yêu dấu con. Mẹ sung sướng.

Đêm hôm ấy hai người đến dưới bóng một cây to, trải áo trên đám cỏ cao và sờ sạc. Mi Nàng mỏi quá ngủ ngay, nhưng bà mẹ vẫn thức, vừa thở dài vừa xua muỗi hay kéo lại khăn áo cho con nằm yên.

Sáng hôm sau, hai mẹ con lại lên đường. Cô con gái thì đi trước xách bọc vải lớn; bà mẹ đi sau, khòm lưng địu một nải gạo nặng nề. Mi Nàng hai mắt đỏ hoe, chốc chốc lại ngảnh đầu trông lại, trông trời cao mây vẩn; trông rừng lá vây quanh, trông cái phía đường xa núi chắn, nó ngăn cách người con gái với chốn quê hương. Nhiều lúc cô ta gặp mắt bà mẹ. Bà mỉm cười cho con gái quay đi, rồi đăm đăm nhìn thẳng trước mặt, như tìm xét xem nơi nào mới chắc chắn, nơi nào mới kín đáo để mẹ con ẩn náu mà nuôi nhau. Đối với lúc phải bỏ nơi sinh trưởng của mình, ai là người không buồn cảm? Nhưng bà mẹ Mi Nàng lúc ấy vui mừng lắm, vai mừng vì vẫn giữ được con gái là sự vui sống của bà ta. Từ ngày bị người chồng bỏ đi, bà ta chỉ biết lấy cái bông hoa quí này để làm cho đẹp cái cảnh đời thảm đạm. Bao nhiêu căm giận người đơn bạc, nay vứt đổ đi hết mà để lại trong lòng cái tình rất đằm thắm là tình yêu con. Người đàn bà ấy yêu Mi Nàng một lòng say đắm dữ dội, một cách ghen tuông ích kỷ, như không muốn ai được dòm dỏ, không muốn cho ai được tấm tắc khen cô ta. Cái quả báu kia, cái nhan sắc kia là của bà ta, của riêng của bà ta mà thôi, bà mẹ lấy làm đắt chí mà chiếm giữ lấy một mình cái thú được yêu, được ngắm.
 

Đi chừng ngót một ngày đường nữa thì đến cánh rừng Sam Na. Thấy gần đấy có nhà cửa dân cư, nên mẹ con quyết định lấy làm chỗ nương náu. Ở lẫn với người trong làng thì lại sợ cho con, nên bà mẹ Mi Nàng mới dựng một túp nhà nhỏ ở xa cho cách biệt.

Từ đó bắt đầu cuộc đời vất vả nhưng rất sung sướng cho bà mẹ. Sáng đi xới vườn, kiếm củi, tối về rau cháo bên ngọn mồi con. Sự ái ân với lòng thương xót ở đời có lẽ thấy cái hình ảnh cảm động nhất ở trong gian nhà tranh húp túp ấy.

Một tháng bốn ngày phiên chợ, bà mẹ lại dắt con gánh củi ra đối lấy gạo muối và những thứ cần dùng. Đến nơi, đổi chác cho mau rồi về, bà ta rất gờm những trai làng nó chỉ giở thói nhăn nhở để câu mất con gái.

Mẹ con ở với nhau được hơn một tháng, mẹ kiên nhẫn, con chịu khó, cặm cụi suốt ngày quên cả nhọc nhằn. Thực là yên vui. Bà mẹ vẫn nhắc đi nhắc lại một mình rằng: "Suốt đời người, bấy giờ mới thực biết cái sung sướng". Tuy thế, trong lòng bà ta vẫn phấp phỏng sợ, cho rằng mình không thể được sung sướng mãi. Cái phúc của bà cũng như giọt sương mai tuy đẹp đẽ, nhưng đến lúc rực rỡ thì tan mất - mà chỉ đậu trong khoảng một buổi sớm thôi! Người thiếu nữ là con gái bà ta kia trông yêu kiều nhan sắc quá! Bà ta nhiều khi chợt thấy như chỉ được làm mẹ nó để rồi thương khóc nó, chứ không được âu yếm nó trọn đời. Mi Nàng vẫn hết lòng tươi cười vui vẻ. Nhưng con mắt nồng nàn tình cảm của người mẹ ấy nó sắc sảo lạ thường. Trên khuôn mặt cô Mi Nàng bà vẫn thấy cái bóng mây buồn nó vương vít, cái nét đau khổ nó ẩn núp, nó cứ chực len vào đôi con mắt ươn ướt với cái miệng cười như сố gượng сủa cô ta. Có khi đang cùng ngồi nhìn nhau, bà ta để cô ngồi một mình trong nhà, lặng yên ra núp một nơi, rón rén bước lại khe hở vách nghé mắt dòm qua mà xem mặt con gái. Những lúc đó, mặt Mi Nàng chưa đổi sắc, vẫn còn giữ nguyên cái vui tươi vừa rồi. Bà mẹ thấy thế nhẹ bay lên vì mừng rỡ, chạy ngay vào bế lấy cô con gái mà nưng niu hú hí trong lòng.

- Con yêu mẹ nhé, con thương mẹ nhé. Con khỏe đi, con lớn đi, con vui vẻ đi để cho mẹ sung sướng với con.

Rồi bà ta ôm chập lấy Mi Nàng, giấu đầu vào ngực cô ta mà không biết là cười hay là khóc. Mi Nàng cảm động lắm, càng ngày càng cố làm cho mẹ vui mừng hơn lên. Sau mấy lần rình xem như thế, bà mẹ mới hơi yên lòng, rồi lâu dần cũng quên hẳn được những điều lo ngại.

Mẹ con đã bàn nghĩ với nhau đến những kế sinh nhai khác cho cuộc đời thêm có thú và thêm dễ dàng. Xới thêm đất trồng các giống rau, đánh những cây có quả về chung quanh nhà, lại tìm lấy mấy cái tổ ong gây lấy mật. Rồi ra, nếu trời thương, hai mẹ con sẽ kiếm lấy mấy con lợn, con bò về nuôi, đợi cho sinh nở ra nhiều thì cũng dễ đổi chác với người làng lấy thóc gạo. Mi Nàng lại nghĩ thêm được mấy cách nữa, nào chăn tằm, kéo sợi, rồi tìm cách đóng lấy một cái khung cửi nhỏ dệt lụa, dệt vải hay thêu thùa vá may trong những buổi không đi kiếm trên rừng.

 

Cô con gái tính cách nào mẹ cũng khen hay, nói đến câu nào cũng rất phải, bà già đã trông thấy trước cái cảnh tượng mới mẻ và sung túc trong cái chốn lều vườn bé nhỏ của mẹ con mình.

Chiều hôm ấy đang chém củi hái nấm trên rừng, bà mẹ Mi Nàng sực nhớ tới mấy cái bẫy chim ở nhà nên bảo con đứng đợi, tất tả chạy về lấy đem lên, Mi Nàng dặn theo: "Mẹ đem cả cái giỏ mới đan lên nữa nhé! Nấm này hãy còn non xâu vào dây thì rụng hết".

Lần này là lần thứ nhất bà để con một mình trên rừng, vì chỗ ấy gần nhà, bà ta lại lên ngay được. Tuy thế nhưng trong bụng vẫn thấy bồn chồn như sắp thấy một điều không hay. Chạy một mạch về rồi lại tức khắc chạy một mạch lên rừng. Đến nơi, Mi-Nàng đã không thấy đâu nữa. Bà ta chắc con gái đứng sau một chỗ khuất nào đó nên chưa muốn nghĩ đến cái nguy. Bụng bảo dạ: "Không, con ta không việc gì đâu, không việc gì hết". Rồi tươi cười giơ mấy cái bẫy và cái giỏ ra, bà ta nói:

- Lạy  ông trời nhé, ông cho mẹ con tôi đến chiều bắt được nhiều chim... Mi Nàng ơi! Giỏ đây rồi, bẫy đây... Ra đây mắc bẫy với mẹ.

Hai mắt bà mẹ Mi Nàng lộ ra vẻ sợ, mà miệng cứ mỉm cười:

- Con ơi, Mi Nàng ơi! Mi Nàng à!

Bà già bỗng thất sắc. Mặt nhăn như người chực khóc, tiếng gọi hơi run run:

- Mi Nàng, Mi Nàng đâu con?

Bà già liền đi quá vào chỗ con tìm nấm lúc nãy rồi  cất tiếng gọi lớn. Các bụi cây quanh đó yên lặng không trả lời! Bà già cuống cuồng lên, vứt mấy cái bẫy xuống đất, sấn vào trong đám lá rậm, đâm thẳng xuống bờ suối rồi tức tốc lại trở ngược lên, hai mắt mở trừng trừng, vùa chạy vừa nhìn hết mọi chỗ, miệng thì mấp máy không ra lời; chốc chốc lại gào lên mấy tiếng gọi:

- Mi Nàng!... Mi Nàng!... Mi Nàng!!!...

Trời đã gần tối, tìm Mi Nàng không thấy được nữa, bà già bỏ cả củi, cả nấm, cả bẫy, không thiết gì hết, vừa khóc thê khóc thảm, vừa lểu thểu về nhà. Bây giờ vẫn còn chút hy vọng! Vào trong lều: vắng ngắt. Trông khắp bốn phía, nhìn cả xuống gầm chõng, lục cả sau đám chăn áo: không thấy đâu! Không thấy đâu! Con gái bà già hẳn bị hổ bắt mất rồi. Thế là xong, thế là biến mất cái vui sướng mà bà ta đã tốn biết bao nhiêu công lao mới được hé thấy...

Bà già bỗng thét lên khóc rồi văng mình xuống chân chõng, dứt tóc, cào đất, vùng đứng dậy rồi lại gieo mình! Khóc đã khản cổ, đã mất cả tiếng; tâm thần muốn cho say mê để quên khổ, trời đất muốn cho tan nát để mình tiêu diệt theo... Trong lúc đau đớn, mình khóc gào như vẫn nghe thấy con gái sùi sụt, như trông thấy con gái đứng ở tận những quả núi nào đang cứ vùn vụt lùi xa... Bỗng lại vùng đứng lên, bà già đâm bổ vào trong rừng, đầu thì lắс, mồm thì há, tay thì múa, chân thì lảo đảo, rồi ngồi xuống bên một bụm cây âm tối nói cho nó nghe những lời kỳ quái như không phải tiếng người. Rồi lại đứng vươn thẳng mình trong giữa cái cảnh thầm thì bí mật ấy, bà ta quắc mắt nhìn đây nhìn đó, quần áo sốc sếch, đầu tóc bù rối, ghê gớm, độc ác như hình tượng của sự căm hờn. Đứng như thế một lúc lâu, không nói năng gì, rồi chân nam đá chân chiêu, bà già lảo đảo về nhà nằm vật lên trên mặt chõng.

Sáng hôm sau, bà mẹ Mi-Nàng chợt tỉnh cái giấc mê mệt mà bao nhiêu đau đớn đã làm cho ngất đi từ đêm qua. Bà ta ngồi dậy khóc lóc một hồi. Thoắt nín bặt, mắm môi lại, bà ta đai lưng vấn tóc, cầm lấy con dao rừng lăm lẳm, rồi bước ra. Trên mặt không còn ngấn nước mắt chảy, chỉ thấy hiện ra một vẻ dữ tợn lạ thường. Bà ta xông thẳng vào rừng, từ cái chỗ vứt những bẫy chim hôm trước đi trở lên, rồi cứ đi sâu vào mãi, theo một đường cây lá rẽ ra chỉ để vừa lọt được một người. Đến một chỗ ánh sáng soi xuống nhiều nhất, người đàn bà đứng lại, chăm chú nhìn như mới trông thấy vật gì quái gở lắm. Cúi xuống nhặt, thì ra đó là những mảnh áo chàm thẫm máu, những mảnh áo của Mi Nàng! Bà già mặt tái đi như người chết, răng nghiến lại, rít lên một tiếng tưởng đứt ruột, rồi vừa nguyền rủa vừa cắm đầu bước lên.

Suốt một ngày hôm ấy bà mẹ Mi Nàng không lúc nào ngơi chân, chúi vào các bụi cây, len qua mọi chỗ rậm rạp, luôn tay chém những dây dợ chằng chịt nó soắn suýt dưới chân và những cành lá đâm ngang trước mặt; luôn mồm vừa chửi vừa nói:

"À phải, à phải, bà không có sợ mày, bà giết chết mày! Giết chết mày bằng được, bà mới nghe".

 Cái giọng nói với cử chỉ của bà Mi Nàng quả quyết và đáng sợ đến nỗi giá con hổ lớn ở Sam Na có nghe thấy chắc cũng phải rùng mình. Vì chính nó đã vồ mất người con gái.

Từ ngày hai mẹ con nhà này đến ở đây, con hổ ấy vẫn có ý dòm dỏ nhiều lần. Nhưng bà ta đã phòng bị sẵn. Ban đêm thì trong túp lều vẫn có đống lửa cháy sáng làm cho nó phải xa lánh. Ban ngày thì nó lại sợ tiếng cái ống nứa ngộ mà lúc nào bà ta cũng đem theo. Vả lại cái vẻ mạnh bạo của người đàn bà Mán hình như đã có một oai lực làm nhụt hẳn cái dữ tợn của con quái vật. Hai con mắt bà ta lúc nào cũng như lửa, hình như vẫn coi chừng cái nguy hiểm, mà nếu gặp phải thì bà ta sẽ một tay ôm giữ lấy con, một tay múa con dao rừng ra tứ phía như vung ra bao nhiêu cái đảm lực thiêng liêng của tình mẫu tử. Chết thì bà ta liều chết, chứ chạm vào con gái bà ta là không xong.

Không ngờ cái lúc bà mẹ Mi Nàng để con gái một mình lại là lúc con hổ vẫn chờ đợi. Bà ta chua xót hối hận. Hết chửi rủa con hổ lại lấy đủ các tiếng tệ hại để tự rủa lại mình. Nhiều lúc đang bước xăm xăm, bà ta bỗng đứng lại lấy tay cử vả mãi vào mặt, rồi hai chân dậm đất, bà ta ngửa cổ hắt ra bao nhiêu tuyệt vọng cay đắng trong một tiếng hét dài.

Rồi từ đó, người đàn bà Mán quên ăn, bỏ ngủ, quyết chí tìm cho được con hổ để báo thù cho con.

Ban ngày thì không có bụi cây hõm núi nào bà ta không sục đến, đầu tóc thì chằng quấn dây rợ, váy áo thì bươm rách vì cành gai, mặt mũi chân tay bị lá sắc nó cứa vào như  bị chém; máu có chảy nhiều quá thì bà ta chỉ lấy cánh tay chùi ngang một quệt, như không biết gì là đau. Ban đêm thì lại ngồi ở cửa rừng mà đợi.

Những lúc vắng khuya một mình giữa nơi hoang dại, tưởng chừng như hồn con gái bây giờ đương vơ vẩn bên mình, nỗi thương đau của người đàn bà như dội lên đến cực điểm. Nhưng không khóc hay là không khóc ra lời, bà ta chỉ đem bao nhiêu nổi phẫn giận cực khổ trong lòng gửi vào một tiếng hú. Đó là cái tiếng hú hồn lạnh lùng thê thảm đã làm cho dân Khao la sợ hãi luôn mấy đêm trời.

Bà ta ngồi đó, cố ý đợi cho con hổ đến. Nhưng hình như con vật cũng biết, chỉ tìm lối khác ra kiếm ăn. Còn ban ngày thì nó vẫn lẩn lút một nơi không để cho người đàn bà bắt gặp. Nhiều lần nó có dịp để hại người đàn bà Mán, nhưng có lẽ nó còn ghê còn gớm một sức gì khó hiểu ở một người dữ tợn nhất trong giống người tinh khôn kia. 

*

Đến mãi ngày thứ bảy bà ta mới tìm đượс sào huyệt con hổ cái. Sau bảy đêm ngày cơ cực. Giá không có ngọn lửa hăng hái mà tấm lòng quả quyết báo thù nó vẫn đốt lên trong lòng người mẹ kia, thì chắc hẳn bà ta không còn gan sức nào chống được với nỗi khổ sở mệt nhọc. Chiều hôm ấy, bà ta đi tới một chỗ có nhiều bụi cây rậm và lớn thì chợt thấy mấy con hổ còn nhỏ đang lăn lộn ở trước một cái hõm tối cành lá chùm phủ như che tàn. Bà ta đứng nấp một nơi rình xem thì biết con hổ mẹ đi vắng. Bà Mi Nàng liền rón rén lại gần rồi xô ra đâm chết được ba соn. Hai con kia hồng hộc chạy trốn mất. Sức lực đã gần đến lúc kiệt, bây giờ lại thấy trở về đầy đủ, bà ta vác ngay ba con hổ chết đem về quẳng ở sau nhà. Biết trước con hổ cái thế nào cũng về hang, bà ta liền sắm dây rợ rồi nai nịt gọn ghẽ cầm lăm lăm con dao đi vào rừng. Đến bên hang nằm đợi cho tới khuya mà vẫn không thấy con hổ mẹ về: có lẽ nó đi tìm những con hổ con đã bị bà ta giết.
 
Đêm ấy là một đêm về giữa tháng chín, bóng trăng sáng tỏ ló qua những từng lá cây thưa. Vào khoảng quá nửa canh hai, bà ta thấy trong hang thơ thẩn đi ra hai con hổ chạy thoát lúc nãy. Bà Mi Nàng nghĩ ra được một ý, lập tức chạy ra giết phăng đi rồi vừa trói chặt hai chân sau hai con hổ lại vừa nguyền rủa:

"Mày giết con tao! Mày không trả con tao. Tao cũng giết con mày. Tao lại giết mày nốt". Nhưng chỉ giết con hổ cái cũng chưa hả giận, bà ta muốn cho trước khi bị giết, hổ mẹ phải trông thấy hổ con chết, mà chết vì tay mình.

Bà ta vừa trói xong hai con hổ con thì chợt nghe thấy những tiếng chen lá dẫm cành đi gần lại. Biết rằng con hổ lớn đã đến, bà ta bèn cầm lấy một đầu dây rồi trèo lên một cái cây ở gần.

Trong nẻo đường tối từ chân rừng đi lên, bà ta thấy hai con mắt xanh lè ở giữa những mảnh sáng trăng mập mờ và lay động. Một lát thì trông thấy cả cái mình vừa dài vừa lớn của con vật. Nó đứng lại một lát dưới những tàn lá thấp, đuôi hơi ve vẩy, hai mắt từ từ chớp như úp mở hai ngọn đèn to. Rồi nó lại thong thả bước lên; đi chưa được xa nghe tiếng động đằng sau nó toan quay trở lại. Nhưng xem chừng đã ngửi thấy hơi lạ nên nó đủng đỉnh bước thẳng về hang.

 

Trên kia người đàn bà Mán đã buộc hẳn mình vào một cành cây to và đã thắt cái dây dài trói hổ vào trạc bên cạnh. Con hổ vào hang hình như kinh ngạc lắm. Nó ngoắt ra, trông ngay thấy hai con mình treo lủng lẳng gần đó thì nhe nanh mà gừ. Chợt lại thấy có bóng người trên cây, con hổ nghe chừng đã hiểu, nên lồng lên và gầm một tiếng cực dữ.

Bà mẹ Mi Nàng lấy làm đắc chí lắm. Bởi vì bà ta biết rằng hổ cũng có con, hổ cũng làm mẹ. Con hổ bị giết, mẹ hổ chắc cũng xót thương. Vậy thì cái đau khổ kia bây giờ bà ta gây nên và được trông thấy. Bà ta lại cầm dây giật mãi khiến cho hai con hổ cứ lay lắc dưới đầu dây. Một tiếng gầm nữa, hai chân trước con hổ đã quét gần đến tay bà Mi Nàng. Bà ta chém xuống một cái thực nhanh, con hổ tụt xuống rồi lại nhẩy lên tức khắc. Một chân trước nó bám được một cành nhỏ, thiếu chút nữa chân kia tát được vào mặt người đàn bà, con dao đã gần văng đi mất; nhưng rắc một cái, cành cây gẫy, con hổ ngã lăn kềnh dưới gốc cây. Bà Mi Nàng đã bắt đầu lo: không ngờ con hổ nhẩy giỏi được đến thế. Bà ta tưởng rằng nó thấy mình trên cây thì chỉ biết tức tối mà không làm gì được mình. Hay đâu hổ cũng đã nhẹ, đã khỏe, lại thêm phần hăng sức vì giận, nếu không leo mau có lẽ thế nào con hổ cũng đã bám được vào người. Nhưng bà ta đã trót buộc rất chặt mình vào cành cây từ trước rồi, bây giờ thì không còn tay nào mà cởi ra được nữa. Con hổ cứ chồm lên mãi, mỗi lúc một nguy bách, mỗi lúc một cao thêm. Mặt bà Mi Nàng ba lần bị tay hổ lướt qua. Con dao gạt phải những vuốt của nó rít lên những tiếng như sỏi xiết lên sắt. Một lần bà ta nhắm mắt lại bổ xuống một nhát rất dữ. Con hổ vừa lúc tung mình tới bị nhát dao bập vào giữa đầu. Hổ bị choáng hồn, tai cụp lại, gầm lên một tiếng như sét nổ. Nó đứng sững lên hai chân dưới, hai chân trên quờ quạng quãng không như muốn ôm lấy người đàn bà. Nhưng bà Mi Nàng vẫn hết sức cẩn thận luôn tay chém xuống. Con hổ tức giận như cuồng dại, nó vừa rống vừa chạy lồng lộn chung quanh đấy, gậm cây, rứt cỏ, cào đất để tìm cách vồ lấy bà già...

Lúc ấy cả một khu rừng như nín hơi. Người làng Khao la thì trên mặt không còn một hột máu. Bảy anh con trai bạo dạn đi dòm dỏ nhà mạ ké lúc đó tuy đã thoát, nhưng vẫn còn tưởng con hùm tinh sắp đuổi tới nơi. Còn những tiếng gầm dữ dội đêm ấy cũng như những tiếng hú bí mật mấy đêm trước kia thì không ai biết đó là những tiếng hờn giận khóc thương của một người và một vật cùng nặng tình mẫu tử.

Bà già chống nhau với con hổ đến gần nửa trống canh không một phút nào ngơi. Những lúc con hổ không nhẩy lên, bà ta cũng vẫn luôn tay chém xuống. Dần dần sức đã kiệt cái lo sợ cũng hiện đến: bà ta chắc rằng mình chết mất, chết mà chưa báo thù được cho con... Hai mắt đã hoa, trông thấy bốn năm cái đầu hổ nó còn chồm lên và không biết bao nhiêu nanh vuốt nó chực đâm vào mặt.

Thần trí chập chờn như say, con dao mấy lần muốn rơi ra khỏi cái nắm tay đã thấy bủn rủn, bà Mi Nàng chợt nghĩ đến cái thân cơ khổ, đến cái cảnh thảm hại của hai mẹ con mình; bên tai nghe thấy tiếng con gái khóc than, trong trí thoáng trông thấy lúc thân con gái bị xâu xé, con gái yêu quí bị hổ cướp sống mất, giữa lúc đang vui tươi khôn lớn, khiến cho bà đau khổ rồi đến nỗi nước này. Mặt đương tê tái bỗng nóng bốc lên, vừa lúc con hổ quờ móng đến. Bà ta rít lên một tiếng quái gở, giáng con dao xuống; con hổ bị què mất một chân. Bà già lại lăm lẳm con dao, quắc mắt nhìn con vật ngã trên cỏ, phun xuống những lời nguyền rủa độc địa tưởng không phải là tiếng người. Dưới đất con hổ đã đứng lên nhe nanh đáp lại. Bà già cầm lấy cái dây trói hai con hổ giật lấy giật để, rồi vừa khóc vừa quát tháo, vừa băm vằm mãi xuống quãng không. Con hổ lại há miệng gầm. Hai mắt ngầu đỏ, hai bên mép vành chởm gai râu, nó thu hình lấy sức nhảy vọt lên bám lấy ngang lưng bà Mi Nàng. Bà già không biết đau nữa, cứ nhè đầu con ác thú mà ghè xuống. Con hổ gào vang lên như vỡ núi, song nhất định không chịu buông. Bà già chém bừa đi, vào cả mặt cả vai, cả miệng con hổ. Nó nhô đầu lên để chực ngoạm lấy đầu người đàn bà Mán nhưng chỉ cắn được lưỡi dao. Lúc ấy mặt người với mặt hổ gần nhau, cùng ghê gớm như nhau: bốn mắt lồng lộn con ngươi, nhìn nhau trao tráo, lộ ra không biết bao nhiêu cay độc, bao nhiêu hằn học căm hờn, lẫn với chút cảm giác bi ai trước khi phải chết. Mẹ Mi Nàng còn sức chém, con hổ còn sức bám lấy lưng bà ta. Dần dần bà ta đuối sức không giơ được dao lên nữa thì con hổ cũng yếu tiếng kêu gào. Đến lúc người đàn bà tắt hơi buông thõng tay xuống thì con hổ cũng vừa hết sức mà rã rời chân ra.

Dưới đám cỏ sắc lá khô đầm đìa những máu, thây con hổ rơi nặng xuống trong một "tay" còn nắm lấy một mảnh áo trên miếng thịt lưng bà già.
 
(Trích từ tập truyện Ba Hồi Kinh Dị)
 

Thứ Bảy, 26 tháng 10, 2024

BỨC THƯ CHƯA GỞI - Bình Nguyên Lộc


 Có nhiều người kinh nghiệm thường bảo rằng hôn nhơn chỉ là một cuộc xổ số, may rủi khó lường.

Không rõ với thiên hạ thì sao, nhưng nhận xét ấy đúng với trường hợp của tôi lắm.

Tôi gặp chàng do một sự tình cờ. Rồi quen nhau. Nhưng quen nhau, chỉ có thể biết tánh tình nhau thôi chớ không có nghĩa là biết hết mọi điều : dĩ vãng, dòng họ của chàng...

Sau trận thế chiến, trong nước ta lại có chiến tranh riêng của ta, khiến nhiều gia đình ly tán, tàn rụi, và mất gốc.

Chàng thuộc hạng người đó và tôi cũng vậy. Không còn cha mẹ, anh em, họ hàng gì cả, chúng tôi trôi nổi lên Saigon thì làm sao dọ hỏi về nhau như thời xưa cho được.

Âu là yêu nhau thì nhắm mắt lấy nhau vậy. Xã hội ta, dầu không muốn, cũng phải chịu giống các xã hội Âu Mỹ về khía cạnh đó. Bên ấy, trong các thành phố lớn, họ cũng nhắm mắt lấy nhau như thế chớ một cá nhân bị chìm trong một đô thị tám triệu người thì còn biết cá nhân ấy thật rõ làm sao cho được.

Tôi có thể đã ba con rồi, giấu đút mướn vú nuôi trong một xóm nhà lá nào, chàng cũng có thể đã hai ba vợ, một cô ở Bàn Cờ, một cô ở Gia Định, cô thứ ba ở Bàu Sen, làm sao tôi biết được.

Cái câu :"Thân gái mười hai bến nước, trong nhờ đục chịu" cứ ngỡ chỉ đúng trong thời xửa thời xưa nào, thế mà lại cứ đúng mãi mới kỳ.

Nhưng tôi đã gặp bến trong đấy, các bạn gái ơi ! Mừng giùm tôi nhé.

Tuy không còn bà con họ hàng, nhưng tôi có nhiều bạn, rất đông bạn gái và vài bạn trai. Tất cả đều đồng thinh bảo là tôi có phước. Mà quả đúng như vậy.

Chàng đẹp trai, lương to, địa vị vững, không rượu chè, cờ bạc gì cả, cho đến đổi thuốc điếu thơm mà chàng cũng không hút được thì quả là một ông thánh sống, một con người "lành mạnh xây dựng" nhứt thế gian.

Tôi lại có cảm giác rằng chàng chưa biết đến đàn bà trước khi cưới tôi.

Là trinh nữ, tôi vẫn có xem chiếu bóng, vẫn có đọc tiểu thuyết tình mê ly. Chàng rất vụng về trong đêm tân hôn, chớ không phải bảnh như mấy vai chánh trong phim, hoặc trong tiểu thuyết.

Tôi đã thẹn quá, mà chàng lại không biết làm sao, không biết nói gì, không biết gạt gẫm tôi, thành thử chúng tôi sống "lành mạnh" suốt tuần lễ đầu. Có buồn cười chưa !

Nhưng chính vì thế mà tôi sung sướng không biết bao nhiêu vì tôi chắc chắn rằng tôi đã rơi vào một tay trinh nam mà tấm lòng còn trong vắt như tấm lòng của chính tôi.

Chàng rất nhát gái, bạn của tôi đến chơi chàng không dám tiếp, có bị tôi bắt ép ra ngồi cầm khách, chàng chỉ ngồi làm cảnh mà thôi, các chị ấy có hỏi gì, chàng ửng đỏ hai tai lên và trả lời ú ớ những gì không ai nghe rõ gì cả.

Nhưng không vì thế mà lũ bạn gái của tôi chê chàng. Trái lại, chúng nó mê chàng như điếu đổ, vì chúng nó là một lũ quỉ dịch, một số có kinh nghiệm, một số còn trong trắng nhưng rất tinh nghịch, mà con gái kinh nghiệm và rắn mắt nào cũng đều mê con trai thật thà.

Tôi hãnh diện lắm, và sung sướng ghê đi chớ không phải mặc cảm có chồng khờ đâu. Và tôi ghen quá sá, mệt lắm. Nhưng chính sự ghen tương cũng làm cho tôi sung sướng hơn lên.

Tôi yêu, tôi quí chàng như ông lão quí vợ bé mười tám tuổi vậy lận. Sao mà chàng hiền lành như ông Phật, và chân thật như hòn đất.

Môi chàng chưa hôn cô nào cả nên nó ngọt và thơm như môi trẻ con, và mỗi lần chàng hôn tôi, tôi nghe rõ ràng tình yêu của chàng như một thứ nước cam lộ nó chảy vào tôi. Trời ơi sao mà tôi sung sướng đến thế nầy !

Ngoài giờ đi làm, ngoài những chuyến đi công tác ở Hậu Giang và ở miền Trung, chàng không hề rời tôi nửa bước.

Chiều chiều, chàng đi làm về, tôi đang thổi nấu dưới bếp, mặt lọ lem và má với lại tóc hôi nước mắm, tanh cá ghê lắm, thế mà chàng chạy a xuống, ẵm tôi lên hôn trơ hôn trất, bất kể chiếc sơ-mi trắng nõn như áo của chú học trò ngoan, bất kể nó bị tay bẩn của tôi làm hoen ố.

Có mặt con nhỏ ở, chàng cũng thây kệ, cứ nựng nịu tôi cho thỏa lòng nhớ vợ của chàng suốt mấy tiếng đồng hồ vắng mặt.

Chàng đi thay đồ trong buồng thì con nhỏ ở cười với tôi :

- Thầy cưng cô quá sá. Không bằng thầy năm mà em ở hồi trước, thẩy chửi vợ tưới hột sen.

Chàng không có thề non hẹn biển với tôi như những anh chồng đời xưa, vì đời nay, các cô vợ tinh khôn hơn, có kinh nghiệm hơn, giỏi tâm lý đàn ông hơn, nên họ không thèm nghe lời thề thốt nào nữa cả mà chỉ quan sát để rồi kết luận về mức độ của tình cảm của chồng họ đối với họ thôi.

Tôi đã quan sát chàng và tin chắc rằng chàng yêu tôi với tất cả tấm lòng chàng, một tình yêu không bợn bởi giấc mơ phiêu lưu tình ái ngoại hôn nào cả.

Hạnh phúc của tôi hoàn toàn và đầy đủ quá khiến tôi đâm sợ. Tôi tin dị đoan, vì người ta thường bảo trong tình vợ chồng phải có cái gì đó không được tròn trịa lắm chớ nó quá trơn tru thì đó là điểm chẳng lành cho sự bền vững của cuộc sống chung.

Đôi lần, tôi thỏ thẻ nỗi lo lắng của tôi cho chàng nghe thì chàng phá lên cười mà rằng :

- Nếu thế thì rất dễ đề phòng. Em hãy để cho anh có mèo, tức là tạo ra gai góc cho nó hết trơn tru, thế là vợ chồng ta sẽ sống trăm tuổi, bách niên giai lão.

Tôi véo chàng một cái mỗi lần chàng pha trò như vậy rồi chúng tôi cười xòa với nhau, tôi quên tất cả mọi băn khoăn lo sợ.

Ở với nhau đúng một năm rưỡi thì tôi thọ thai.

Trời, phải các bạn mà thấy được cái mức cưng vợ của chàng.

Chàng đã đích thân chà gạch sàn nước mỗi hôm bằng bàn chải sắt, không dám giao công việc quan trọng ấy cho con nhỏ ở. Chàng sợ gạch trơn tôi trợt chơn mà té thì nguy.

Tôi nhõng nhẽo ghê lắm và chàng hay nói rằng :

- Ừ, ráng mà nhõng nhẽo đi cưng, để vài tháng nữa, chú bé ấy chú ra, chú giành nhõng nhẽo hết đa.

Mấy tháng đầu tôi ốm nghén, ăn không được thì chàng cũng bỏ cơm. Thành thử chính chàng cũng ốm nghén nữa.

Đó là mùa mà chàng phải đi công tác ở miền Trung rất thường và mỗi lần xách va ly là chàng âu sầu và hôn tôi hằng trăm cái, rồi mỗi bước là mỗi ngập ngừng.

Bé Thành ra đời rồi thì ôi thôi là thích. Hạnh phúc của tôi đã lên cao tột đỉnh vì bản năng làm mẹ của người đàn bà đã được thỏa mãn mà chồng tôi lại cưng tôi hơn trước kia nữa, bởi tôi hóa ra là người có công trận lớn, công mang nặng đẻ đau, cho chàng một đứa con nối dõi.

Nhưng nỗi lo sợ của tôi trước kia lại hóa thành sự thật. Chúng tôi hưởng chung được ba năm hạnh phúc thần tiên thì một hôm, chàng bị tai nạn xe cộ. Một chiếc tắc-xi ép xe sì cút tơ của chàng vào lề. Xe ngã, chàng té, đầu bị đập vào đá ba bê.

Ba hôm hấp hối trên giường bịnh, chàng mê man không trăn trối gì cả. Vả lại, chắc chàng cũng chẳng có gì dặn dò. Đôi vợ chồng trẻ, chưa sự nghiệp. Bất quá khóc với nhau mà nói rằng :"Anh sẽ yêu em cả đến khi xuống tới tuyền đài".

Tôi chắc chắn chàng sẽ nói như vậy, chỉ như vậy thôi.

Thế rồi chàng tắt nghỉ, lúc tôi được hăm bốn xuân xanh.

Mồ chàng đã xanh cỏ từ lâu, thế mà tôi vẫn ôm ấp kỷ niệm mến yêu của người chồng lý tưởng.

Tôi không có thề với tôi rằng sẽ thủ tiết cùng chàng cho đến lúc đầu bạc răng long, nhưng tôi nghe rằng khó lòng mà yêu người khác được. Tái giá, riêng đối với tôi là một sự phản bội trắng trợn linh hồn của một người đã yêu tôi tột bực, không hề phạm một lỗi nhỏ nào trong đạo vợ chồng.

Thỉnh thoảng tôi hay soát đồ đạc của chàng, để tìm lại hình ảnh người quá cố qua bao kỷ vật ấy, nhứt là tôi hay ngửi y phục của chàng, mớ y phục không dùng trong cuộc tẩn liệm, để tìm lại mùi riêng biệt rất thân yêu của chàng.

Một hôm, dỡ chồng quần tây để đuổi những con hai đuôi, một bức thư màu lam nhạt, bỗng lưu ý tôi. Cầm thư lên xem, tôi suýt ngất vì dòng chữ đầu do chính tay chàng viết :

Em Thúy cưng của anh.

Tôi chết lặng đến mấy phút, nhưng cố trấn tỉnh, cố suy luận thuận lợi cho linh hồn chàng, vì tôi vẫn chưa tin được rằng đây là bức thơ tình của chính chàng. Biết đâu, chàng lại chẳng có người bạn có tuồng chữ giống tuồng chữ của chàng.

Thế nên rồi tôi tiếp tục đọc, và mỗi chữ mỗi vận xé lòng tôi.

Em Thúy cưng của anh.

Sai hẹn với em vì chị sửa soạn về quê để bán ruộng thì tới phút chót lại hủy chương trình, dời lại hai tháng sau.

Dạo nầy, anh chỉ có thể trốn vào giờ làm việc để đến với em thôi, nhưng lại quá bận nên cũng đành để cho em cô đơn.

Vuốt giận em và xin sẽ tạ tội với em bằng cái món quà mà em cứ ao ước mãi đó.

Nay mai, anh sẽ bịa rằng đi công tác miền Trung trong mười hôm và anh sẽ sống với em suốt tuần trăng.

Thân yêu

Đức


Thư đề ngày 20 tháng chạp năm 1962 tức vào ngày mà chàng bị tai nạn xe cộ. Đây là một bức thư chưa kịp gởi, có lẽ viết tại sở, nhưng bận việc, cất vào túi mang về nhà, hoảng hốt, cố giấu thật kín rồi quên luôn, hoặc tìm chưa ra.

Trời ơi ! Sao lại rủi ro cho chàng và cho tôi đến thế ? Nếu thư đã gởi đi, tôi nào hay biết rằng trong thành phố nầy đã có một cô gái chia sớt tình yêu của chồng tôi !

Chàng ơi ! Em không trách chàng đâu ! Em rất hiểu luật sinh lý, và mấy tháng em thọ thai bé Thành, chàng đã phải nhịn lâu quá.

Có lẽ chàng không hề muốn phản bội em, nhưng chàng đâu có phải là ông già hoặc thánh nhơn !

Chỉ là sự rủi ro thôi. Không, sự rủi ro mà em nói đây, không phải là mối tình vụn trộm của chàng mà là sự không gởi thư kịp.

Cái lỗi của chàng, trên thực tế là có thật, nhưng nếu en không bắt gặp thư nầy thì như là không có. Thành thử, cái gì cũng là ảo ảnh cả, thực là hư, hư là thực.

Chàng ơi ! Ba năm thần tiên ! Nhưng giờ biết ra thì chỉ là hư ảo ! Em đau xót vô ngần mà không còn tin tưởng vào cái gì nữa cả, kể cả sự thành thực nhứt trần đời của một người chồng gương mẫu.

Không trách chàng, em tha thứ cho chàng vì ít ra, chàng cũng đã lịch sự mà giấu khéo quá, giấu nhẹm quá !

Em cũng tha thứ người kia có lẽ vì buổi đầu nàng cũng không biết sự thật, và khi đã trót yêu anh, nàng đành phải liệu luôn vậy.

Và nhứt là em tha thứ em. Vâng, em là kẻ có lỗi phần nào, chính em đã lên án gái buôn hương, khiến anh mặc cảm tội lỗi, tránh họ, nên lại phạm tội nặng hơn là bẻ gãy cuộc đời của một cô gái có thể là ngây thơ trong trắng. Em là nhà đạo đức tầm ruồng.

Nhưng em tha thứ em vì em đã đền tội rồi, đền tội vì niềm đau nầy đây.


(Nhựt báo Tia Sáng, 1964)

(Trích từ tập truyện ngắn Diễm Phượng)
 

Thứ Tư, 23 tháng 10, 2024

NÀNG VÀ TÔI - Bình Nguyên Lộc

 

Chín giờ đêm, đang ngồi ở tiệm cà phê, tôi bỗng nghe buồn buồn nhơ nhớ ai. Nỗi nhớ cứ man mác mãi và lẩn lút mãi, khiến tôi có cảm giác rằng đó chỉ là cái buồn mà người Pháp gọi là cafard.

Tôi không nhớ quyết ai, và chỉ nhớ thương nhè nhẹ thôi, thì là gì nếu không phải là nỗi buồn vô căn cứ vào một buổi chiều chán nản nào ?

Bỗng vụt thình lình, tôi ý thức được căn nguyên của nhớ nhung nầy. Có lẽ trí tôi đã âm thầm làm việc nãy giờ để truy nã người nầy, nên bây giờ tiềm thức tôi mới thả y ra cho tôi gặp mặt.

Người đó là NÀNG.

Tôi xa nàng đã bốn tháng rồi. Nhớ chết đi được lận.

Ngày ấy tôi ra đi đúng cái lúc mà nàng xô Hiến ra. Hiến một thanh niên đẹp trai, đã có công theo đuổi nàng từ lâu và được nàng chấm đậu.

Chính tôi đã tổ chức cho hai đứa nó gặp nhau, giúp cho tình cảm của hai đứa nó tiến triển đến chỗ gặp nhau lần thứ nhì nghĩa là trên địa hạt tinh thần.

Nàng đoan trang và dè dặt lắm, nhưng tôi vẫn phải xoay thế nào cho rốt cuộc nàng vẫn bằng lòng cho chàng một buổi hẹn ở một nơi nào và vào một giờ rất là thơ mộng.

Như thế thì hai đứa chỉ còn làm cái gì sót lại phải làm mà thôi, chớ chúng nó đã hiểu thấu ruột gan nhau rồi, không còn phải dọ dẫm gì nữa cả.

Nhưng đến phút chót, tôi lại xui nàng xô Hiến ra khi Hiến choàng tay qua vai nàng rồi từ từ kéo nàng về phía chàng, kéo càng giây càng mạnh và rốt cuộc siết chặt nàng trong tay hắn.

Nàng không hề cưỡng lại.

Tôi nhìn xem hai đứa nó "mùi" với nhau, tim đập thình thình mà theo dõi từng giây, từng phút, cái đà thân mật giữa hai đứa nó.

Tôi ghen ghê lắm, ngay từ phút đầu đã muốn nhảy tới phá đám rồi, nhưng phận sự bắt buộc tôi phải cứ để vậy, phải chịu đau khổ âm thầm, phải cắn răng nhìn người mà tôi trộm yêu, nằm trên tay một tình địch.

Hiến ban đầu là bạn của tôi đấy. Tôi cũng thương mến hắn với tất cả tấm lòng tôi, nhưng mà... không, không thể để cho nàng lọt vào tay hắn !

Tôi đau, tôi xót, tôi tức tối, tôi bứt rứt, mồ hôi tôi nhỏ giọt, hơi thở hổn hển mãi cho tới cái giây kia, khi mà bốn mắt của họ say đắm nhìn nhau, ót của nàng nằm trên tay hắn, đôi mắt nàng he hé chờ đón một cái hôn, và đầu Hiến từ từ hạ xuống.

Tim tôi đập mạnh hơn bao giờ cả và tôi nghe nghẹt thở ghê lắm.

Đầu Hiến hạ xuống, hạ xuống !... Chỉ còn hai phân nữa thôi là môi hai đứa nó chạm nhau. Chỉ còn một phân nữa thôi...Chỉ còn có năm ly nữa thôi.

Bấy giờ tôi đã nổi xung thiên lên rồi, không cần cóc gì phận sự nữa hết, nhưng nói cho đúng ra là phận sự đã cho phép tôi can thiệp, nên tôi nhảy đến nắm lấy tay nàng và xô Hiến ra.

Phải, chính tôi đã cầm tay nàng để làm cử động ấy chớ nàng thì đang phiêu diêu trong một thế giới huyền ảo và đã nhắm mắt lại để nhận và tận hưởng cái hôn đầu trong đời con gái của nàng.

Xác thịt yếu hèn lắm đấy nhé, hay nói cho đúng ra nó mạnh ghê hồn. Nó yếu khi ta tranh đấu với ta để tránh tuột dốc, còn nó lại mạnh khi nó tuột dốc mà ta muốn níu nó lại.

Nàng đã chịu ngã trên tay chàng rồi, đã nhắm mắt lại, hé môi mà hứng cái hôn thì còn làm sao chợt tỉnh kịp lúc nữa.

Và nàng đâu còn lý do để mà chợt tỉnh : đã dám hẹn hò với trai ban đêm ở một nơi vắng vẻ thì cứ mà yêu luôn đi có phải hợp tình hơn không ?

Đã nói là phận sự đã cho phép tôi can thiệp. Nhưng cỡ phận sự không cho phép, tôi cũng bất tuân kỷ luật lúc đó, vì cơn ghen của tôi, tôi không dằn được nữa.

Phận sự ? Vâng. Nói rõ hơn là chén cơm. Và nói rõ hơn nữa, nàng chỉ là một nhơn vật của một tiểu thuyết đăng báo hằng ngày do tôi sáng tác.

Nếu hai đứa nó yêu nhau rồi thì hết chuyện, còn khỉ khô gì nữa mà nói. Mà ông chủ báo lại muốn cho độc giả của ổng tức, nên lại ngầm xúi tôi cho hai đứa nó dang ra vào cái phút mê ly nhứt trần đời ấy, thành thử phận sự chẳng những cho phép tôi can thiệp mà lại còn bắt buộc tôi can thiệp nữa.

Nhưng tôi đã cóc cần phận sự. Tôi hành động theo tình cảm. Quả tôi ghen, ghen thật sự, mặc dầu nàng chỉ là một nhơn vật tưởng tượng.

Tôi đã làm tạo hóa trong một thời gian, lấy Vô Cực mà tạo ra Nàng từ chỗ không có gì hết.

Nói cho đúng ra, tôi đã ăn cắp của nhiều người để tạo ra nàng. Tôi ăn cắp của cô Liên, một cô gái có thật, ở cạnh nhà tôi, ăn cắp của cô ấy đôi mắt đen huyền và hơi ươn ướt, đôi mắt u buồn một nỗi buồn bí mật nào, không sao đoán được, nhưng chính nhờ thế mà hấp dẫn vô song, hấp dẫn vì cái bí mật có lẽ không có, nhưng ai cũng ham khám phá.

Tôi đã ăn cắp của cô Lệ, một cô gái buôn hương quen biết với tôi, đôi môi mà khi nhoẻn miệng cười một cái thì chủ của đôi môi ấy mà có bảo tôi nhào ra giữa phố cho xe cam nhông cán, tôi cũng vâng lời.

Tôi đã ăn cắp của cô Cúc, một cô nữ thư ký của nhà báo, mái tóc Carroll Baker, một Carroll Baker Á Đông, và nhứt là tôi đã ăn cắp của cô Thuận, một nữ giáo viên xấu như ma, cái tâm hồn đẹp như một bản tình ca...

Tôi đã ăn cắp đôi chân của một nữ thực khách xa lạ kia mà tôi thường gặp tại một hiệu ăn sang trọng, đôi chơn đẹp như đôi chơn vũ nữ Âu Châu và tôi đã ăn cắp đôi bàn tay của một nữ bác sĩ nhổ răng kia.

Tôi đã ăn cắp nơi nhiều người rồi ráp những thứ ấy lại để tạo ra Nàng, thành thử

Nàng đã là một cô gái lý tưởng... đối với tôi.

Vâng, chỉ đối với tôi thôi vì có lẽ chỉ có tôi là thích đôi mắt cô Liên, đôi môi cô Lệ, mái tóc cô Cúc, đôi chân của cô thực khách lạ, đôi tay của nữ bác sĩ nhổ răng, mà tâm hồn của cô giáo xấu như Chung Vô Diệm, chớ chưa chắc người khác đã thích.

Nhưng vì chủ quan, tôi ngỡ ai cũng thích một người con gái như vậy, nên đưa Nàng ra trình diện, không dè độc giả cũng thích. Tôi sung sướng ghê mà thấy rằng khiếu thưởng thức của mình đúng.

Đó là một cô gái mà tôi đợi chờ từ hai mươi năm nay, sắp già mất rồi mà nàng chưa xuất hiện.

Sở dĩ tôi bền chí đợi chờ lâu năm như vậy là vì tôi tin chắc rằng Nàng có mặt trên đời nầy.

Tạo hóa, thứ thật, chớ không phải giả hiệu như tôi, đã tạo ra một cô Liên với đôi mắt ấy, một cô Lệ với đôi môi ấy, một cô Thuận với cái tâm hồn ấy thì tại sao không tạo ra một cô A, một cô B có đôi mắt cô Liên, đôi môi cô Lệ, tâm hồn cô Thuận ?

Vâng, chắc chắn là có NÀNG, nhưng hiếm lắm, có thể chỉ có một mẫu độc nhứt như vậy thôi và có thể đã năm con bảy cháu rồi cũng nên - vì hai mươi năm đã qua rồi kia mà - nhưng tôi cứ bền chí đợi trong ảo tưởng rằng nàng không thể bị thời gian tàn phá hường nhan.

Ban đầu, khi mới tạo nàng ra, tôi không nghĩ gì về nàng cả. Nhưng rồi nàng có đời sống tâm tưởng, ăn nói hoạt động, khiến tôi hồi hộp theo dõi nàng.

Viết cái tiểu thuyết nào, tôi cũng sống mãnh liệt với nhân vật trong đó. Tôi cũng nổi giận, cũng căm tức, băn khoăn và bâng khuâng như họ, cũng ngậm ngùi trước một cuộc biệt ly nào, và cũng phấn khởi trước một cuộc tranh đấu. Ở đoạn đầu nào tôi cũng thủ vai chủ động, nhưng đến giữa chừng, lắm khi nhân vật có cá tính mạnh quá, lại lôi kéo tôi qua những nẻo thật bất ngờ.

Nhưng riêng về tiểu thuyết ấy tôi đã sống hoàn toàn với nàng. Khi khởi viết tôi giống như một đấng tạo hóa hay một vị tiên ông, lấy lá sen kết thành hình cô ta, đoạn hà sinh khí vào hình nộm ấy, thế là cô ta cười nói, đi đứng. Về sau cô gái cứ tự cô hoạt động, tôi có điều khiển cô ta thật nhưng vẫn nương tay cho nàng được tự do phần nào.

Tôi không đủ lời để tả nàng. Tôi chỉ trình diện một thiếu nữ đẹp, có duyên, có nết, nhưng riêng tôi, tôi thấy những đức tính ấy sâu đậm hơn độc giả.

Ôi chao, làm sao mà tả cho nổi đôi môi của nàng, cái màu đen huyền diệu của đôi mắt nàng?

Tôi quen thân với nàng và hai người thường trò chuyện với nhau mỗi khuya, sau khi tôi viết xong một chương tiểu thuyết, đi lại giường nằm nghỉ. Lúc bấy giờ nàng giống như một cô đào sân khấu, hết vai rồi nên rời rạp hát, về nhà với tôi, sống với tôi chớ không sống với anh kép đóng cặp với nàng nữa.

Thế nên, rồi tôi đâm ra si nàng, và chỉ muốn để dành cho tôi thôi. Nhưng cái ông chủ báo và cái bao tử của tôi, cả hai đều âm mưu thúc giục tôi, thành thử tôi đành phải cho nàng yêu cái thằng khốn nạn đó.

Cũng đỡ khổ là tôi chỉ có một thằng đeo đuổi nàng thôi. Thằng ấy là CHÀNG. Ban cái ân huệ ấy cho nhiều thằng quá, tôi sẽ phải ghen nhiều, mệt lắm, với lại tôi có thể chậm tay, giữ không xuể, một thằng nào nó chiếm mất NÀNG thì chết.

Ông chủ báo nhứt định để cho CHÀNG yêu NÀNG, tôi đành phải vâng dạ để lấy tiền mua gạo, nhưng tôi dục hưỡn cầu mưu, cứ kéo dây dưa mãi.

Tôi làm như trẻ con chơi cá lia thia, đựng mỗi con trong một bồn thủy tinh để được xem chúng nó phùng xòe đá bóng với nhau suốt ngày, chớ nếu cho chúng nó đá thật thì sẽ có một con thua chạy te, còn gì nữa mà xem.

Ông chủ báo khám phá ra rằng trò chơi ấy thế mà hốt bạc cắc vì độc giả cứ hồi hộp theo dõi mãi, nên khuyến khích tôi cho hai đứa nó đá bóng với nhau mãi.

Được nước, tôi làm tới, không phải vì tuân lệnh chủ báo, mà vì, như đã nói, tôi ích kỷ ghê hồn, si ghê hồn và ghen ghê hồn.

Tôi bắt buộc phải cho hai đứa nó yêu nhau, nhưng tức sôi gan mỗi lần CHÀNG cầm tay NÀNG.

Rồi rốt cuộc tôi bắt nàng phải xô thằng khốn nạn ấy ra, và chấm dứt tiểu thuyết đó, mặc kệ ông chủ báo nói gì thì nói.

Cái ngày mà tôi phải xa nàng là ngày đau đớn nhứt trong đời chưa hề yêu của tôi. Đó là mối tình thứ nhứt, đó là một mối tình lớn nhứt, nên niềm đau của tôi không có bờ bến.

Tôi mất ăn mất ngủ như thế đến trót ba tháng trời, thế nên đêm nay chưa cạn tách cà phê đen, tôi trả tiền rồi vội về nhà để đọc lại hết thiên tiểu thuyết đã đăng báo ấy, mà tôi cắt mỗi ngày, để dành bán cho các nhà xuất bản.

Tôi đang nằm trên một chiếc ghế bành để đọc truyện do chính mình viết ra, thì bỗng giựt mình mà nghe tiếng giày phụ nữ bước lên thềm.

Tôi ngỡ đó là cô bạn gái nào, nhìn ra thì... ồ nầy lạ : NÀNG.

Vâng, đúng là NÀNG, không khác một làn mi, một sợi tóc nào cả với đôi mắt của cô Liên, đôi môi cô Lệ, đôi chân người nữ thực khách, đôi tay của bà nữ bác sĩ nhổ răng.

Tôi đâm sợ, toan chạy trốn. Không, tôi không nhát gái đâu. Nhưng tôi ngỡ nàng là ma. Tôi nghĩ đến nàng hằng giây, hằng phút rồi bị loạn óc, thấy ảo ảnh, hay oan hồn thiếu nữ nào đoán biết giấc mơ của tôi, hiện ra để trêu tôi chơi ?

Hay là hồ ly tinh ?

- Có phải nhà nầy là nhà của nhà văn Huyền - Hoặc hay không thưa ông ? - Nàng hỏi.

- Thưa phải - tôi ấp úng đáp - Huyền-Hoặc chính ơ...là... tôi. Xin mời cô vào nhà.

Nàng vào trong, tôi chỉ ghế nhưng nàng không ngồi. Giờ đã trấn tỉnh được, nhưng tôi lại run vì bị xúc động trước con người mà tôi chờ đợi đã hai mươi năm rồi.

Nàng không ngồi mà nóng nảy hỏi ngay :

- Thưa ông, cái tiểu thuyết đó sao chấm dứt đi ? Tôi tìm ông đã gần hai tháng rồi, mới được gặp đây.

Tôi sung sướng phồng mũi lên. Thật là sao đào hoa chiếu mạng. Viết tiểu thuyết rồi được gái đẹp, nữ độc giả tìm thăm là phần thưởng lớn lao hơn tiền nhuận bút nhiều lắm.

Mà gái đẹp làm sao chớ ? Đâu có phải là một cô gái đẹp thường mà tôi gặp ngoài phố. Đây là NÀNG, người tôi mơ ước đã hai mươi năm, tạo ra cho đỡ khổ, tạo rồi yêu ngay, rồi đau khổ vì Nàng.

Rươm rướm lệ hạnh phúc tôi đáp :

- Thưa cô, chuyện bị cúp ngang vì theo quyết định mới, báo chỉ đăng ba tiểu thuyết thôi, bao nhiêu cái khác phải bỏ hết. Dầu sao tôi cũng hân hạnh được cô biết đến.

Tôi đáp láo, nhưng đúng theo một tình trạng có thật trong làng báo thuở ấy.

- Nhưng kết cuộc ra làm sao, thưa ông. Chàng có lấy NÀNG không ?

Tôi mỉm cười hỏi lại :

- Cô muốn thế nào tôi sẽ chìu theo ý cô thế nấy. Nhưng xin mời cô ngồi.

Cô gái ngồi xuống trong cái dáng ngồi y hệt dáng của NÀNG mà tôi đã tả trong truyện, thật là khả ái.

- Tôi không thích họ lấy nhau. - Nàng đáp.

- Hoan hô. Tôi cũng không thích cho họ lấy nhau. Thành thử chìu ý cô rất dễ dàng cho tôi.

- Thưa ông CHÀNG có thật hay không và có thể nào ông giúp tôi gặp CHÀNG được hay không ?

Hơi lo, tôi hỏi :

- Chi vậy ?

- Thú thật với ông là tôi mê CHÀNG ghê lắm, mê đến đỗi ghen, không muốn chàng lấy ai cả.

Tôi bỗng như bị ai búa lên đầu, choáng váng suýt chết ngất.

Thì ra NÀNG tìm tôi, không phải vì tôi mà vì CHÀNG.

Chua xót, tôi gượng gạo mỉm cười đáp :

- Tiểu thuyết chỉ là chuyện bịa thôi cô à.

- Nhưng mà bịa dựa theo sự thật, đôi khi rất cần sự thật. Và tôi tin chắc có Chàng trên đời nầy, nếu chàng không ở trong vòng quen biết của ông.

- Quả đúng như vậy. Tôi cũng thú thật với cô là chính tôi cũng mê nàng ghê lắm, đã tìm nàng từ lâu và may mắn hơn cô, tôi đã gặp nàng nơi cô.

Cô gái cũng thình lình bị sét đánh. Nhưng không phải là sét đánh ái tình đâu nhé. Lời nói bóng gió của tôi rõ nghĩa quá, lại đột ngột, bất ngờ quá, khiến nàng rụng rời vì tánh cách kỳ dị của nó : tôi cao niên hơn nàng đến hai mươi tuổi.

Nàng đứng lên, lảo đảo như say rượu, rồi xin phép ra về.

- Rất tiếc ! - Nàng nói.

- Rất tiếc ! - Tôi lặp lại như một tiếng vang.

Đó là hai câu ngắn mà khách và chủ đã trao nhau thay lời từ giả và cảm ơn.

Tiễn khách ra tới cửa tôi tần ngần đứng lặng nhìn cô gái thất thểu đi trên vỉa hè, đau xót không biết bao nhiêu cho thân phận của chúng tôi. Cả hai đứa đều là đồ điên, đã yêu một người không có thật.

Người không có thật ấy rồi cũng có, bằng cớ là tôi đã gặp NÀNG, nhưng rất trễ muộn.

Phần NÀNG, hai mươi năm sau có lẽ, NÀNG cũng sẽ gặp CHÀNG đấy chớ chẳng không đâu, nhưng bấy giờ nàng đã con đàn cháu đống rồi mà CHÀNG thì chỉ mới trưởng thành.

Cho đáng kiếp NÀNG, NÀNG nhé ! NÀNG sẽ bị cậu ấy thờ ơ, y như NÀNG đã thờ ơ với tôi hôm nay.

Dầu sao chúng tôi cũng là bạn đồng tâm, NÀNG ạ ! vì cả đôi ta đều điên, một chứng điên giống hệt nhau, cái chứng điên của kẻ si một hình bóng.


(Nhật báo Tiếng Vang, 1964)   

 (Trích từ tập truyện ngắn Diễm Phượng)
 

Chủ Nhật, 20 tháng 10, 2024

HỘI TÓC ĐỎ - Conan Doyle

 

Mùa thu năm ngoái, tôi đến thăm Sherlock Holmes thì bắt gặp anh đang say sưa trò chuyện với một người đàn ông đứng tuổi có vóc người to béo, sắc mặt hồng hào, tóc màu hung đỏ rực như lửa. Tôi xin lỗi vì sự đường đột và đang định quay ra thì Holmes vội kéo tôi vào phòng.
 
- Watson thân mến, anh đến thật đúng lúc. - Holmes nhiệt tình nói.
 
- Tôi e là anh đang bận.
 
- Đúng thế! Tôi đang rất bận là đằng khác.
 
- Vậy tôi sẽ sang phòng bên cạnh đợi anh.
 
- Ồ không. Thưa ông Wilson, bác sĩ Watson đây là người cộng sự và là trợ thủ đắc lực của tôi trong nhiều vụ án. Tôi tin chắc trong vụ này của ông, anh ấy cũng sẽ giúp được tôi rất nhiều.
 
Người đàn ông to béo kia hơi nhổm dậy, gật đầu chào tôi, cặp mắt ti hí của ông ta liếc nhìn tôi đầy vẻ nghi ngờ.
 
- Anh ngồi trên chiếc ghế tựa kia đi. - Holmes nói rồi trở lại ghế của mình, mười ngón tay đan chéo vào nhau. Đây là thói quen của Holmes khi quá tập trung suy nghĩ về một vấn đề gì đó.

- Watson thân mến, tôi biết anh cũng giống tôi, không thích những thứ tầm thường, đơn điệu, mà thích khám phá những điều kỳ quặc, bí ẩn. Và anh còn cẩn thận, tỉ mỉ ghi chép lại tất cả. Điều đó chứng tỏ rằng, anh rất hứng thú khám phá các vụ án. Nếu anh không phiền thì hãy ngồi lại, cùng tôi bước vào những công việc mạo hiểm mới.
 
Tôi trả lời:
 
- Quả thực những vụ án của anh luôn làm tôi vô cùng thích thú. Chắc anh còn nhớ tôi nói với anh trước khi nhận giải quyết một vụ đơn giản cho cô Mary Sutherland rằng: để thu được kết quả mỹ mãn, để có được sự phối hợp ăn ý tuyệt đối, chúng ta cần phải dấn thân vào cuộc sống, nơi chứa đựng sự mạo hiểm nằm ngoài sức tưởng tượng.
 
- Vậy sao, bác sĩ? Tôi hơi hoài nghi về cách nói này của anh. Nhưng anh rồi vẫn phải đồng ý với tôi thôi. Vì nếu không, tôi sẽ đưa ra một loạt dẫn chứng thực tế khiến anh phải tâm phục khẩu phục mới thôi. Nhưng chuyện đó để sau. Ông Jabez Wilson đây sáng sớm hôm nay đã đặc biệt đến thăm và kể cho tôi nghe một trong những câu chuyện kỳ lạ nhất mà tôi từng biết. Như tôi đã nói với anh là những chuyện kỳ lạ nhất, độc đáo nhất thường không liên quan gì đến những vụ án lớn, mà lại hay liên quan đến những vụ nhỏ hơn, thậm chí đôi khi còn cần phải suy xét xem liệu có đúng là đã có một hành động phạm tội hay không. 
 
Với những gì được nghe, tôi vẫn chưa thể khẳng định được liệu đây có phải là một vụ án hay không, nhưng rõ ràng qua những tình tiết mà ông Wilson kể lại thì quả thật đó là câu chuyện đặc biệt nhất mà tôi từng nghe.

Ông Wilson, liệu ông có thể kể lại câu chuyện từ đầu một lần nữa được không? Tôi yêu cầu như vậy không phải chỉ vì anh bạn bác sĩ Watson của tôi chưa được nghe phần đầu, mà còn vì chuyện này quá lạ lùng, khiến tôi muốn nghe lại từ chính miệng ông để nắm bắt mọi tình tiết dù là nhỏ nhất.

Thông thường, chỉ cần nghe qua vài tình tiết là tôi đã có thể liên tưởng đến hàng ngàn vụ án tương tự, nhưng với vụ này, tôi phải thừa nhận là nó quá đặc biệt, không giống với bất kỳ vụ nào.
 
Vị khách béo tốt ưỡn người, với vẻ khá kiêu hãnh. Ông ta lôi từ trong chiếc áo khoác to đùng đang mặc ra một tờ báo ố bẩn, nhàu nát, đặt nó lên đùi và vuốt thẳng, rồi cúi xuống xem mẩu tin quảng cáo trên đó.

Lúc này tôi mới quan sát vị khách, mong có thể tìm ra được điều gì đó thông qua quần áo và vẻ bề ngoài của ông ta như Holmes vẫn hay làm.Tuy nhiên, những gì tôi đoán biết được sau khi quan sát không nhiều. Nhìn bề ngoài, có thể thấy vị khách này là một thương nhân người Anh không giàu có, béo phì, hãnh tiến và chậm chạp. Ông ta mặc một chiếc quần xám cũ kỹ, áo choàng không mấy sạch sẽ, cúc áo trước không đóng. Chiếc áo chẽn ngắn đến thắt lưng cũng một màu xám xịt với một sợi dây xích nặng nề bằng đồng thau có mặt trang trí là một miếng kim loại hình vuông. Trên thành ghế ông ta ngồi đặt chiếc mũ đã sờn và áo khoác bạc màu có cổ áo bằng nhung nhăn nhúm.

Tôi thấy vị khách này ngoài bộ tóc màu hung, vẻ mặt đầy chán nản và thất vọng ra, thì không có gì đặc biệt cả. Đôi mắt tinh nhanh của Sherlock Holmes mau chóng nhận ra ý đồ của tôi. Khi bắt gặp ánh mắt nghi ngờ của tôi, anh mỉm cười, lắc đầu và nói:
 
- Ông đây đã từng làm công việc nặng nhọc vất vả, nghiện thuốc nặng và là hội viên của Hội Tam Điểm, từng đến Trung Quốc, gần đây viết khá nhiều. Ngoài những điểm đó ra, tôi không suy luận được thêm điều gì khác nữa.
 
Ông Jabez Wilson bỗng đứng phắt dậy, tay vẫn cầm chặt mẩu báo cũ, nhưng mắt thì nhìn chằm chằm vào Holmes.
 
- Ôi lạy Chúa, ông Sherlock Holmes! Làm sao ông biết nhiều chuyện về tôi như vậy? Sao ông lại biết tôi từng làm việc chân tay? Chính xác, trước tôi đã từng là thợ đóng tàu. - Ông ta trợn tròn mắt, ngạc nhiên hỏi.
 
- Thưa ông, chính cánh tay của ông nói lên điều đó. Tôi thấy tay phải của ông to hơn tay trái rõ rệt. Vì ông lao động nhiều bằng tay phải nên cơ bắp tay phải của ông phát triển hơn tay trái.
 
- Ồ, đó là chuyện vặt vãnh. Còn chuyện hội viên Hội Tam Điểm thì sao?
 
- Tôi không dám qua mặt ông bằng cách nói cho ông biết vì sao tôi nhận ra điều đó. Có thể thấy rất rõ là ông đang đeo một chiếc ghim càvạt hình 1/3 vòng cung compa.
 
- Ồ, đúng vậy, tôi quên mất điều này. Nhưng còn việc viết lách?
 
- Đó là vì gấu ống tay áo bên phải của ông đã bạc trắng, và phần gần khuỷu tay bên trái, nơi thường xuyên tì vào bàn, lại có một đường vá rất cẩn thận.
 
- Vậy về Trung Quốc thì sao?
 
- Hình xăm trên cổ tay phải của ông chỉ có thể thực hiện được ở Trung Quốc. Tôi cũng đã nghiên cứu về các hình xăm, thậm chí đã từng viết bài về vấn đề này. Chỉ ở Trung Quốc mới có cách pha mực tinh xảo và có thể tô màu hồng mịn như thế này cho hình con cá. Ngoài ra, tôi còn thấy một đồng xu tiền Trung Quốc treo ở dây đồng hồ của ông, điều này càng khẳng định cho giả thiết của tôi.
 
Ông Jabez Wilson cười phá lên. Ông ta vui vẻ nói:
 
- Đúng quá, tôi đã không nghĩ đến những điều này! Ban đầu tôi nghĩ ông thật là một người thông minh, nhưng sau khi hiểu rõ vấn đề thì thấy chẳng có gì là khó hiểu cả.
 
Sherlock Holmes quay sang tôi:
 
- Watson này, bây giờ tôi mới biết mình không nên giải thích hết mọi việc ra như thế. Đó là một sai lầm. Anh biết đấy, danh tiếng của tôi có thể bị hủy hoại nếu tôi cứ quá ngay thẳng, thật thà.

Ông Wilson, ông đã tìm ra mẩu quảng cáo đó chưa?
 
- Tôi thấy rồi. - Ông ta vừa nói vừa giơ ngón tay mập tròn, hồng hào chỉ vào giữa mục quảng cáo - Nó đây. Toàn bộ câu chuyện bắt đầu chính từ cái mẩu tin này đây. Xin ông tự đọc lấy thì hơn.
 
Tôi đón lấy tờ báo, rồi đọc to:“Gửi hội những người tóc hung. Thể theo di chúc của ông Ezekiah Hopkins ở Lebanon, Pennsylvania, Mỹ, hiện nay chúng tôi đang cần một người tóc hung đảm nhận một vị trí công việc nhàn nhã với mức lương bốn bảng Anh một tuần.

Điều kiện dự tuyển: Nam, tóc hung, trên hai mươi mốt tuổi, sức khỏe tốt, trí lực tốt.

Đơn dự tuyển nộp trực tiếp cho ông Duncan Ross vào sáng thứ hai, lúc 11 giờ tại văn phòng Hội, số 7 Pope’s Court, đường Fleet, London”.
 
Sau khi đọc đi đọc lại hai lần mẩu quảng cáo kỳ lạ này, tôi bật kêu lên:
 
- Thế này là thế nào?
 
Sherlock Holmes ngồi đung đưa trên chiếc ghế và mỉm cười, đó là biểu hiện khi anh đang ở trạng thái hưng phấn. Anh nói:
 
- Mục quảng cáo này kỳ lạ quá đúng không? Còn bây giờ ông Wilson, ông hãy kể tất cả những gì về ông, về người ở cùng ông, và mẩu quảng cáo này đã ảnh hưởng gì đến cuộc sống của ông.

Bác sĩ Watson, trước tiên anh hãy ghi lại tên tờ báo và số báo lại đã.
 
- Đó là tờ “The Morning Chronicle”, ra ngày 27 tháng 4 năm 1890, cách đây đúng hai tháng.
 
- Tốt lắm, nào ông Wilson, ông hãy bắt đầu kể đi.
 
- Vâng, thưa ông Sherlock Holmes. Như tôi vừa mới kể với ông, - Jabez Wilson vừa nói vừa nhăn trán - tôi có một hiệu cầm đồ nhỏ ở quảng trường Coburg gần trung tâm thành phố. Nó quả là không bề thế gì, mấy năm nay lời lãi chỉ đủ ăn. Trước kia tôi có thuê hai nhân viên giúp việc, nhưng giờ chỉ còn thuê được một người và cũng khó trả đủ tiền lương cho anh ta. Anh ta chấp nhận hưởng mức lương bằng một nửa mức bình thường, để học hỏi kinh nghiệm kinh doanh. 
 
- Thế anh chàng tốt bụng này tên là gì? - Sherlock Holmes hỏi.
 
- Tên anh ta là Vincent Spaulding. Thực ra thì anh ta cũng không còn trẻ nữa, nhưng rất khó đoán tuổi. Anh ta là một nhân viên nhanh nhẹn, hoạt bát, ông Sherlock Holmes ạ! Tôi thừa biết rằng anh ta dễ dàng kiếm được một công việc khá hơn với số lương gấp đôi thế. Nhưng anh ta vẫn nhận lời làm ở chỗ tôi, và nếu anh ta đã bằng lòng như vậy thì tôi cũng chẳng có gì phải phản đối cả.
 
- Đúng. Tại sao phải làm vậy? Xem ra ông thật may mắn khi có một người phụ việc chấp nhận tiền lương rẻ mạt như vậy. Đây quả là một điều khá bất thường. Liệu anh chàng giúp việc này có kỳ lạ như chính mẩu quảng cáo này không?
 
Ông Wilson tiếp tục:
 
- À, anh ta cũng có điểm yếu đấy, thưa ông. Tôi chưa từng gặp ai thích chụp ảnh như anh ta. Anh ta mang máy đi chụp khắp nơi, rồi vội vàng chui xuống tầng hầm để rửa ảnh. Đó là nhược điểm lớn nhất của anh ta. Nhưng nhìn chung, anh ta là một nhân viên tốt, rất mực trung thành.
 
- Tôi đoán hiện anh ta vẫn đang sống cùng ông?
 
- Vâng, thưa ông. Ngoài anh ta ra còn có một cô bé mười bốn tuổi chuyên lo việc bếp núc và dọn dẹp nhà cửa. Trong nhà chỉ có ba người, vì tôi góa vợ và không có người thân. Chúng tôi sống rất bình lặng, có nợ thì cùng lo chi trả, cho đến khi một loạt chuyện xảy ra.

Chuyện đầu tiên làm thay đổi cuộc sống của chúng tôi chính là mẩu quảng cáo này. Đúng tám tuần trước, Spaulding bước vào văn phòng với tờ báo này trong tay và nói: 
 
“Ông Wilson ạ, tôi ước gì Chúa ban cho tôi một mái tóc hung”.
 
“Tôi hỏi:
 
- Sao vậy?
 
- Tại sao ư? - Anh ta nói - Hội tóc hung đang cần tuyển một người. Ai mà có được công việc này thì sẽ khấm khá. Theo tôi được biết, họ còn thiếu nhiều hội viên so với tiêu chuẩn, số tiền của ban điều hành còn không biết sử dụng vào việc gì. Nếu mái tóc của tôi đổi màu thì tôi sẽ xin nhập hội ngay, vì đây quả là một cơ hội tốt.
 
- Sao, vậy nghĩa là sao? - Tôi hỏi anh ta.
 
“Ông thấy đấy, tôi là người sống rất kín đáo, công việc lại không đòi hỏi phải bôn ba ngược xuôi, nên có khi suốt mấy tuần liền tôi không bước chân ra khỏi nhà. Vậy nên tôi không biết nhiều về những chuyện xảy ra ngoài xã hội, do đó mỗi khi có tin tức gì mới tôi đều rất thích thú.
 
- Ông chưa bao giờ nghe kể về Hội tóc hung này sao? - Anh ta tròn mắt nhìn tôi và hỏi lại.
 
- Chưa bao giờ.
 
- Lạ thật đấy, vì ông hoàn toàn có đủ điều kiện để có được làm việc ở đó đấy.
 
- Thế công việc đó được bao nhiêu?
 
- Ồ! Lương một năm chỉ khoảng hai trăm bảng Anh, nhưng bù lại việc này rất nhàn nhã, không ảnh hưởng gì đến công việc hiện nay của ông.
 
“Vâng, các ngài cũng dễ dàng nhận thấy rằng điều này đã thực sự hấp dẫn tôi. Mấy năm nay, công việc làm ăn của tôi không phát đạt lắm, nên cơ may kiếm được vài trăm bảng quả là hết sức hấp dẫn.

Vậy là tôi nói với anh ta: “Anh hãy kể cho tôi nghe những gì anh biết về cái hội này đi”.
 
“Anh ta đưa cho tôi xem mẩu quảng cáo nọ và nói: 
 
- Vâng, đây ông tự mình xem đi. Hội đó đang có một chỗ trống. Họ cho địa chỉ rõ ràng, ông có thể đến đó để phỏng vấn. Theo tôi được biết, hội này do Ezekiah Hopkins, một triệu phú tính tình kỳ lạ người Mỹ, lập ra. Ông ta có bộ tóc hung đỏ và rất thân thiện với những ai có bộ tóc cùng màu. Vì thế mà sau khi mất đi, ông ta để lại một tài sản khổng lồ cho những người được ủy quyền quản lý với yêu cầu là dùng lợi tức từ khoản tiền đó để tạo cơ hội tốt cho những người đàn ông có cùng màu tóc hung như ông ta. Theo những gì tôi được biết thì công việc này rất đơn giản mà đãi ngộ lại rất tốt.
 
“Tôi bất giác nghi ngờ:
 
- Nhưng, cũng sẽ có hàng triệu đàn ông tóc hung đến xin làm công việc này mất.
 
“Anh ta trả lời chắc chắn:
 
- Không nhiều đến thế đâu. Ông nghĩ mà xem, họ chỉ dành công việc này cho những người đàn ông là người London thôi. Vì ông triệu phú này vốn sinh ra và lập nghiệp ở London, nên ông ta muốn làm những việc tốt đẹp cho thành phố này. Hơn nữa, tôi còn nghe nói Hội sẽ không tuyển những người có mái tóc màu hung nhạt, hung sẫm hay bất kỳ màu hung nào khác ngoài màu hung đỏ tự nhiên. Ông Wilson, nếu ông muốn nhận công việc này thì ông hãy đến ngay đi.

Thật là khó từ chối một cơ hội kiếm tiền tốt như vậy.
 
“Thưa các ngài, như các ngài thấy đấy, quả thực tóc tôi có màu hung đỏ rực rất nổi bật. Bởi vậy, tôi nghĩ mình có nhiều ưu thế nếu tham gia dự tuyển cho công việc béo bở này. Vincent Spaulding xem ra có vẻ rất am hiểu chuyện này, nên tôi nghĩ có thể anh ta có ích cho tôi. Vậy là tôi liền bảo anh ta đóng cửa hàng một ngày rồi đi với tôi. Anh ta rất vui vì có một ngày nghỉ và cùng tôi đi đến địa chỉ đăng trên báo.
 
“Ông Holmes ạ, có lẽ tôi sẽ không bao giờ quên được những gì mình đã nhìn thấy hôm đó.

Tất cả những người có mái tóc hung với đủ mọi sắc độ từ bốn phương đều lũ lượt kéo về thành phố để ứng cử vào vị trí việc làm đăng trên báo. Phố Fleet chật cứng những người tóc hung, sân nhà thờ trông giống như một chiếc xe chở đầy cam của tay bán hàng rong vậy. Tôi không ngờ rằng một mẩu quảng cáo nhỏ lại có thể thu hút được nhiều người đến thế. Tóc của họ cũng đủ màu: vàng rơm, vàng nâu, vàng chanh, hung đỏ, cam, màu gạch, màu gan gà… Nhưng Spaulding nói, số người có mái tóc đỏ rực tự nhiên như tôi thì không nhiều.

Khi thấy có quá nhiều người đứng đợi, tôi rất thất vọng và chán nản, định bỏ về. Nhưng Spaulding không chịu nghe. Tôi cũng chẳng hiểu khi đó anh ta chen lấn thế nào mà lôi tôi được vào trong đám đông và chúng tôi đã đến đứng ngay dưới chân bậc thềm dẫn lên văn phòng.

Trên cầu thang có hai dòng người lên xuống, những người đi lên có vẻ tràn đầy hy vọng, còn những người đi xuống thì lại vô cùng buồn bã và chán nản. Chúng tôi nhanh chóng chen lên, và cuối cùng thì tôi thấy mình đã ở trong văn phòng.”
 
Sherlock Holmes đứng cạnh vị khách của mình, hít một hơi thuốc dài, trầm tư suy nghĩ rồi nói:
 
- Đoạn ông đang kể là thú vị, rất đáng quan tâm, xin ông hãy kể tiếp đi.
 
- Trong văn phòng, ngoài chiếc ghế gỗ và một cái bàn thì chẳng còn có gì cả. Ngồi sau cái bàn là một người đàn ông nhỏ nhắn, màu tóc còn đỏ rực hơn cả của tôi. Mỗi khi người dự tuyển nào đến trước mặt, anh ta chỉ nói vài câu rồi cố tìm ra một lỗi nào đó để đánh trượt họ. Xem ra, để có được công việc này thật không dễ dàng chút nào. Tuy nhiên, khi đến lượt chúng tôi, anh chàng nhỏ bé này lại tỏ ra lịch sự và ưu ái tôi hơn hẳn những người khác. Sau khi chúng tôi vào phòng, anh ta đóng cửa lại để có thể trò chuyện với chúng tôi một cách thoải mái.
 
“Anh chàng giúp việc của tôi nhiệt tình giới thiệu:
 
- Đây là ông Jabez Wilson, ông ấy sẵn sàng vào làm ở vị trí mà Hội đang tuyển.
 
“Anh chàng kia cũng vui vẻ trả lời:
 
- Ông rất thích hợp với công việc này. Ông đáp ứng tất cả những yêu cầu của chúng tôi. Tôi chưa từng gặp ai có mái tóc tuyệt vời hơn thế.
 
“Anh ta lùi một bước, nghiêng đầu nhìn chằm chằm vào mái tóc của tôi, khiến tôi cảm thấy vô cùng bối rối. Rồi bất ngờ anh ta lao tới như tên bắn, chạy lại nắm lấy tay tôi, nhiệt liệt chúc mừng tôi đã dự tuyển thành công.
 
“Anh ta nói:
 
- Chẳng cần phải chần chừ hơn nữa. Song xin lỗi ông, cẩn thận vẫn là hơn, tôi hy vọng ông không phật ý.
 
“Nói rồi anh ta dùng cả hai tay túm chặt lấy tóc tôi rồi giật mạnh, khi tôi phải hét lên vì đau đớn thì anh ta mới buông tay ra.
 
- Ông ứa nước mắt rồi kìa. - Anh ta nói và thả tay ra - Tôi cũng biết là không nên làm thế. Nhưng tôi vẫn phải thận trọng vì chúng tôi đã bị lừa hai lần, một lần là một tên tóc giả, lần khác là một tên nhuộm tóc.
 
“Rồi anh ta bước nhanh đến bên cửa sổ và gào lên bằng một giọng to nhất có thể: 
 
“Đã chọn được người rồi”.
 
“Từ dưới vọng lên những tiếng la hét vì thất vọng, và đoàn người nhanh chóng kéo nhau bỏ đi, tản ra nhiều ngả. Sau khi họ ra về, chỉ còn tôi và anh chàng lo việc tuyển chọn là có mái tóc màu hung đỏ.
 
“Anh ta nhẹ nhàng tự giới thiệu:
 
- Tôi tên là Duncan Ross, một trong những người được hưởng tiền trợ cấp từ ông chủ cao quý của chúng ta để lại.  Ông Wilson, ông đã lập gia đình chưa?
 
“Khi nghe tôi trả lời là góa vợ, hiện nay đang sống một mình, lập tức gương mặt anh ta sầm xuống. Anh ta nói với giọng nghiêm túc:
 
- Hừ, đây là vấn đề lớn đấy. Tình hình của ông khiến tôi lo ngại. Vì lẽ mục đích của quỹ này là để dành cho những người có mái tóc hung và gia đình họ để sinh ra nhiều người có mái tóc hung hơn nữa. Nhưng ông lại là người độc thân, thật đáng buồn!
 
“Ông Holmes ạ, nghe đến đây tôi cảm thấy rất thất vọng vì nghĩ rằng thế là xong, mình đã để tuột mất công việc này vì một lý do thật đáng trách. Nhưng sau khi suy nghĩ một hồi, anh ta lại cho rằng không có vấn đề gì cả.
 
“Anh ta nói:
 
- Nếu như với người khác, việc này quả là không thể bỏ qua. Nhưng với người có mái tóc đẹp như của ông, chúng tôi sẽ thử phá lệ một lần. Vậy lúc nào thì ông có thể nhận công việc mới này?
 
“Tôi băn khoăn nói:
 
- Có một điều hơi khó là tôi đang có một cửa hàng nhỏ ở nhà.
 
“Vincent Spaulding đứng cạnh đỡ lời:
 
- Ồ, ông Wilson! Ông đừng bận tâm về điều đó! Tôi có thể thay ông trông coi cửa hàng.
 
“Tôi hơi ngần ngừ rồi hỏi tiếp:
 
- Thời gian làm việc từ mấy giờ đến mấy giờ?
 
- Từ 10 giờ sáng đến 2 giờ chiều.
 
“Ông Holmes ạ, cửa hàng cầm đồ của tôi chủ yếu làm việc vào buổi tối, đặc biệt là tối thứ năm và tối thứ sáu, ngay trước ngày trả lương. Bởi vậy nếu đến đây làm buổi sáng thì không có gì bất tiện cho lắm. Hơn nữa, tôi biết anh chàng giúp việc của mình là người đáng tin cậy và tháo vát, chuyện gì anh ta cũng có thể lo liệu được.
 
“Tôi hỏi, giọng vui vẻ:
 
- Thế thì cũng rất tiện cho tôi. Còn tiền lương thì sao?
 
- Bốn bảng một tuần.
 
- Tôi phải làm những việc gì?
 
- Đó là những việc rất bình thường.
 
- Ý ông là sao?
 
- Ồ, trong suốt thời gian làm việc, ông phải ở văn phòng, hoặc ít nhất thì cũng phải ở trong căn phòng này. Nếu ông bỏ ra ngoài, ông sẽ bị sa thải và phải bồi thường. Việc này đã được quy định rất rõ ràng. Ông cũng vi phạm hợp đồng trong trường hợp ra khỏi văn phòng trong thời gian làm việc.
 
- Chỉ là bốn tiếng một ngày thì chắc chắn tôi sẽ không nghĩ đến việc ra khỏi đây nửa bước.
 
“Ông Duncan Ross vẫn tiếp tục nói bằng một giọng hết sức nghiêm nghị:
 
- Chúng tôi sẽ không chấp nhận bất cứ lý do nghỉ việc nào cho dù là ốm đau, việc gấp của gia đình hay bất cứ việc gì khác. Dù thế nào ông cũng phải ở lại văn phòng, nếu không ông sẽ bị đuổi việc.
 
- Vậy tôi sẽ phải làm gì?
 
- Công việc của ông là chép lại bộ Bách khoa toàn thư của Anh quốc. Ở đây đã có quyển 1 được xuất bản lần đầu. Ông phải tự lo mực, bút, giấy. Chúng tôi chỉ dành cho ông cái bàn và cái ghế này. Ngày mai ông sẵn sàng bắt đầu vào việc được chứ?
 
- Tất nhiên là được rồi. - Tôi hào hứng trả lời.  

- Vậy bây giờ xin tạm biệt ông, ông Jabez Wilson. Một lần nữa, chúc mừng ông đã may mắn nhận được vị trí quan trọng này. - Anh ta cúi đầu lễ phép chào tôi.
 
“Tôi và cậu giúp việc rời khỏi căn phòng, trở về nhà.

Tôi vô cùng sung sướng vì mình đã quá may mắn. Vâng, chuyện đó khiến tôi mừng thầm suốt ngày. Nhưng đến chiều, tôi lại thấy lo lắng vì cứ có cảm giác toàn bộ câu chuyện này là một trò đùa hay một sự lừa gạt nào đó, mà tôi không thể đoán được mục đích của nó là gì. Thật khó tin khi có người để lại bản di chúc lạ như thế và chịu bỏ ra một khoản tiền lớn chỉ để thuê làm một việc vô cùng đơn giản là chép cuốn Bách khoa toàn thư Anh quốc.

 Vincent Spaulding đã tìm mọi cách để giải thích và cổ vũ tôi. Đến khi ngủ, tôi quyết không nghĩ đến chuyện đó nữa.

Thế nhưng, sáng sớm hôm sau tôi vẫn quyết tâm đến đó để xem chuyện thực hư thế nào.

Tôi mua một lọ mực, một cây bút, bảy tờ giấy khổ lớn rồi đến Pope’s Court.
 
“Và điều khiến tôi sửng sốt và lấy làm sung sướng là mọi chuyện đều diễn ra hết sức tốt đẹp.

Một chiếc bàn đã được kê sẵn, anh chàng Duncan Ross đứng đó lo liệu mọi chuyện để tôi bắt đầu một cách thuận lợi. Anh ta bảo tôi chép từ vần A rồi ra ngoài để tôi ở lại một mình, nhưng chốc chốc lại vào xem tôi làm việc thế nào, có cần gì không.

2 giờ chiều, anh ta khen tôi chép được nhiều và tạm biệt tôi.

Sau khi tôi ra khỏi văn phòng, anh ta liền khóa cửa lại.
 
“Ông Holmes ạ, công việc đó cứ tiếp diễn từ ngày này sang ngày khác.

Đến thứ bảy, anh ta bước vào phòng và phát cho tôi bốn đồng vàng để trả tiền lương tuần đầu tiên cho tôi.

Các tuần sau, mọi chuyện cũng diễn ra tương tự như thế.

Sáng nào tôi cũng có mặt ở văn phòng lúc 10 giờ và ra về lúc 2 giờ chiều.

Về sau, Duncas Ross đến thưa dần, chỉ một lần vào buổi sáng, cuối cùng thì không thấy anh ta đến nữa.

Tuy vậy, tôi vẫn không bao giờ dám rời văn phòng dù chỉ một phút. Vì làm sao tôi biết chắc được lúc nào thì anh ta xuất hiện, hơn nữa công việc rất tốt, thu nhập cao và hợp với sở thích của tôi, nên tôi không muốn bị sa thải.
 
“Tám tuần liền trôi qua như vậy. Tôi đã chép được nhiều phần ở vần A và hy vọng với tốc độ này, tôi sẽ sớm chuyển sang vần B.

Tôi cũng tốn một ít tiền để mua giấy viết, số giấy mà tôi chép được đã chất đầy một giá sách.

Nhưng rồi toàn bộ công việc bỗng nhiên kết thúc một cách rất bất ngờ.”
 
- Kết thúc sao?
 
- Thưa ông, vừa mới sáng nay thôi. Tôi đến nơi làm việc như thường lệ vào lúc 10 giờ, nhưng thấy cửa khóa. Và trên then cài cửa có một mẩu giấy nhỏ hình vuông. Mẩu giấy đó đây, ông có thể tự đọc.
 
Rồi ông Wilson chìa ra một mẩu giấy trắng, cỡ bằng một trang sổ tay, viết chỉ vỏn vẹn mấy chữ:
 
“Hội những người tóc hung giải thể từ ngày 9 tháng 10 năm 1890”.
 
Holmes với tôi cùng xem mẩu giấy nhỏ và nhìn gương mặt rầu rĩ của vị khách, cho tới lúc không nhịn được nữa trước hai hình ảnh ấy, cả hai chúng tôi cùng cười phá lên.Vị khách của chúng tôi vô cùng tức giận kêu lên:
 
- Tôi chẳng thấy có gì đáng buồn cười trong chuyện này cả. Nếu các ngài không thể làm gì khác hơn ngoài việc nhạo báng tôi thì tôi xin phép đi chỗ khác.
 
- Không, không. - Holmes kêu lên và kéo Wilson xuống ghế - Tôi thực tình không thể bỏ qua vụ án này được.

Nó thật khác thường khiến người ta phải tò mò, nhưng nếu ông không phiền thì tôi vẫn phải nói thật là chuyện này quả hơi buồn cười.

Xin hỏi, khi nhìn thấy tờ giấy trên cánh cửa, ông đã làm thế nào?
 
- Thưa ông, khi đó tôi vô cùng ngạc nhiên và không biết phải làm thế nào. Tôi đi hỏi những người ở xung quanh khu phòng đó, nhưng xem ra họ cũng chẳng biết gì cả.

Cuối cùng tôi đến chỗ chủ nhà, ông ta là kế toán và sống ở tầng dưới. Tôi hỏi ông ta có biết chuyện gì đã xảy ra với Hội tóc hung không. Ông ta bảo ông ta chưa từng nghe nói về cái hội nào như thế cả. Sau đó tôi hỏi ông ta có biết Duncas Ross hiện giờ ở đâu không. Ông cũng nói chưa từng nghe thấy cái tên đó.
 
- À, là cái ông ở phòng số 4 đó mà. - Tôi nói địa chỉ phòng gã.
 
- Ồ, có phải là người đàn ông có mái tóc hung đỏ không?
 
- Đúng vậy.
 
 “Ông ta nói tiếp:
 
- Ông ta nói ông ta tên là William Morris. Ông ta là luật sư và thuê phòng của tôi làm văn phòng luật sư tạm thời, chờ văn phòng chính hoàn thành. Tối hôm qua, ông ta đã chuyển đi rồi.
 
- Tôi có thể tìm ông ta ở đâu?
 
- À, ở văn phòng mới của ông ta.

Ông ta đã cho tôi địa chỉ, đó là nhà số 17, phố King Edward, cạnh nhà thờ St. Paul.“Tôi vội đến đó ngay, ông Holmes ạ. Nhưng khi tôi tìm đến nơi thì chỉ thấy một cái xưởng sản xuất nhỏ. Ở đó chẳng ai biết đến cái tên William Morris hay Duncan Ross nào cả.”
 
Holmes hỏi:
 
- Vậy sau đó ông làm gì nữa?
 
- Tôi quay về nhà mình ở quảng trường Coburg để hỏi cậu giúp việc nên làm thế nào, nhưng anh ta cũng chẳng giúp được gì. Anh ta chỉ nói rằng tôi chịu khó chờ, rồi có thể tôi sẽ nhận được thư thông báo của họ. Thế nhưng ông Holmes ạ, tôi vẫn thấy không thể yên tâm được. Tôi không muốn bị mất công việc nhàn nhã mà lương lại cao này. Tôi nghe nói ông luôn giúp đỡ những người đáng thương, nên tôi lập tức đến đây để nhờ ông.
 
- Ông hành động rất khôn ngoan. - Holmes an ủi - Vụ này của ông rất đáng quan tâm, quả là có một không hai đấy, và tôi rất sẵn lòng đứng ra giải quyết. Từ những gì ông kể cho chúng tôi thì tôi nghĩ vụ này nghiêm trọng hơn những gì chúng ta tưởng nhiều.
 
Ông Jaber Wilson rầu rĩ:
 
- Thế này cũng đủ nghiêm trọng rồi, ông nghĩ mà xem, mỗi tuần tôi bị mất bốn bảng Anh lận.
 
- Riêng về phần ông, - Holmes giải thích - tôi nghĩ là ông chẳng có gì phải phàn nàn cả. Ngược lại, ông đã kiếm được hơn ba mươi bảng và học thêm kiến thức cho mình từ việc chép các mục trong vần A. Trong việc này, ông không hề bị thiệt gì đâu.
 
- Đúng là tôi không bị thiệt gì cả. Nhưng thưa ông, tôi muốn biết sự thật là thế nào và bọn họ là những ai, họ chơi trò này với tôi nhằm mục đích gì. Nếu đây là một trò đùa, thì quả là trò đùa khá tốn kém, vì họ đã mất hơn ba mươi bảng.
 
- Về điều này, chúng tôi sẽ cố làm sáng tỏ những băn khoăn giúp ông. Nhưng trước tiên, ông Wilson, ông hãy trả lời tôi vài câu hỏi.

Thứ nhất, anh chàng giúp việc của ông, người đầu tiên khiến ông phải chú ý đến mẩu quảng cáo kia, đã làm cho ông lâu chưa? 
 
- Trước đó khoảng một tháng.
 
- Anh ta đến làm cho ông như thế nào?
 
- Anh ta đến theo quảng cáo tìm người tôi đăng trên báo.
 
- Chỉ một mình anh ta đến đăng ký thôi sao?
 
- Không, có mười người đến dự tuyển.
 
- Sao ông lại chọn anh ta?
 
- Vì anh ta rất tháo vát mà lại chấp nhận mức lương thấp.
 
- À phải, tiền lương chỉ bằng nửa so với nơi khác.
 
- Đúng thế.
 
- Trông anh chàng Vincent Spaulding này như thế nào?
 
- Dáng người thấp, khỏe khoắn, nhanh nhẹn, mặc dù đã khoảng ngoài ba mươi tuổi, da mặt nhẵn nhụi. Trên trán có một vết sẹo bị bỏng do axit.
 
Holmes bỗng ngồi bật dậy với vẻ rất kích động. Anh hỏi tiếp:
 
- Tôi cũng nghĩ vậy. Ông để ý thấy anh ta có bấm lỗ tai không?
 
- Có, thưa ông. Anh ta nói với tôi rằng một người Digan đã xỏ cho anh ta khi anh ta còn trẻ.
 
- Hừm. - Holmes nói và ngồi xuống ghế - Anh ta còn ở chỗ ông không?
 
- Thưa còn, tôi vừa ở chỗ anh ta rồi mới đến đây.
 
- Khi ông không ở nhà, việc kinh doanh vẫn do anh ta quản lý chứ?
 
- Thưa ông, tôi không có gì phải phàn nàn về công việc của anh ta, buổi sáng thường chưa có ai đến mua bán gì.
 
- Thôi, như vậy là được rồi, ông Wilson. Vài ngày nữa tôi sẽ báo cho ông biết thông tin của vụ này. Hôm nay là thứ bảy, tôi hy vọng trước ngày thứ hai chúng tôi sẽ đưa ra kết luận.
 
- Vậy Watson, anh thấy vụ này thế nào? - Sau khi vị khách ra về, Holmes hỏi tôi.
 
- Tôi không phát hiện ra manh mối gì cả. Đây quả là một vụ bí hiểm. - Tôi thành thật trả lời.
 
- Thường thì chuyện kỳ lạ đến đâu, sau khi được làm rõ cũng sẽ không có gì khó hiểu cả. - Holmes bình luận - Những vụ bình thường, không có gì đặc biệt mới là những vụ khó lý giải. Nó giống như một khuôn mặt bình thường, tuy không có gì đặc biệt nhưng cũng lại khó nhận biết. Nhưng tôi phải tiến hành điều tra vụ này ngay lập tức, càng nhanh càng tốt.
 
- Vậy giờ anh định làm gì? - Tôi hơi tò mò hỏi.
 
- Hút thuốc. - Holmes thản nhiên nói - Vụ này phải hút hết ba điếu thuốc mới giải quyết được. Tôi yêu cầu anh trong vòng năm mươi phút đừng nói gì với tôi cả.
 
Rồi Holmes thu người lại trong ghế bành, hai đầu gối khẳng khiu co lại gần chạm vào cái mũi diều hâu.

Anh ngồi đó mắt lim dim, mồm ngậm chiếc tẩu màu đen trông giống như cái mỏ nhọn dài của một giống chim kỳ lạ. Thấy vậy, tôi nghĩ chắc là anh đã ngủ thiếp đi nên cũng tranh thủ đánh một giấc.

Đúng lúc đó, bỗng anh chồm bật dậy như vừa nghĩ ra sáng kiến gì và đặt chiếc tẩu lên thành lò sưởi.Holmes nói:
 
- Chiều nay có buổi hòa nhạc tại thính đường St. James. Anh nghĩ sao Watson? Liệu bệnh nhân của anh có thể để anh tạm nghỉ vài tiếng không?
 
- Hôm nay tôi chẳng phải làm gì cả. Công việc của tôi không bận rộn lắm đâu.
 
- Vậy thì hãy đội mũ vào, và cùng tôi đi thôi. Chúng ta sẽ đi qua trung tâm thành phố rồi tiện thể ăn trưa luôn. Hôm nay có một chương trình hòa nhạc Đức rất hay. Tôi vẫn thích nhạc Đức hơn nhạc Ý hay nhạc Pháp. Nhạc Đức khiến người ta phải suy ngẫm, hồi tưởng, mà bây giờ thì tôi đang cần điều đó. Chúng ta đi nào.
 
Chúng tôi đi tàu điện đến Aldersgate, rồi đi bộ một đoạn tới quảng trường Coburg, nơi diễn ra câu chuyện kỳ lạ có một không hai mà chúng tôi được nghe kể lúc sáng.

Đây là một con phố nghèo, nhỏ hẹp cũ kỹ với bốn dãy nhà hai tầng xây gạch màu xám, xung quanh có tường rào. Trên sân có một khoảng trống cỏ mọc um tùm với mấy cây nguyệt quế ngoan cường vươn lên, trái ngược hẳn với quang cảnh mờ mịt u ám xung quanh.

Trên một tòa nhà ở đoạn rẽ có một tấm biển gỗ màu nâu, trên đó ghi hai chữ màu trắng “Jabez Wilson” cùng ba quả cầu đúc bằng kim loại. Tấm biển cho biết đó là cửa hàng của vị khách có mái tóc màu hung ban sáng.

Holmes đứng ngay trước cửa hàng, nghiêng đầu ngắm nghía kỹ lưỡng mọi thứ bằng đôi mắt sáng quắc.

Anh thong thả đi dọc theo con phố rồi lại quay lại chỗ rẽ đó, mắt vẫn chăm chú quan sát từng ngôi nhà.

Cuối cùng anh quay trở lại cửa hiệu cầm đồ, dùng chiếc gậy nện mạnh xuống vỉa hè hai, ba lần rồi tiến thẳng tới trước cửa hiệu gõ cửa.

Lập tức một anh chàng mặt mũi trông sáng sủa, hoạt bát, râu tóc gọn gàng ra mở cửa và mời Holmes vào.

Đó chính là anh chàng giúp việc của vị khách ban sáng.
 
- Cám ơn. - Holmes nói - Tôi chỉ muốn nhờ anh chỉ giúp đường từ đây đến phố Strand.
 
- Đến ngã tư thứ ba rẽ phải, rồi đến ngã tư tiếp nữa thì rẽ trái. - Anh ta trả lời nhanh gọn, và với một thái độ không lấy gì làm vui cho lắm, đóng sập cửa lại.
 
- Tôi thấy anh ta là một người khôn ngoan. - Holmes nhận xét khi chúng tôi đi khỏi đó - Theo tôi suy đoán, anh ta là tay khôn ngoan thứ tư ở London này đấy, và có lẽ là đứng hàng thứ ba về mặt liều lĩnh.

Trước đây, tôi đã từng biết ít nhiều về anh ta.
 
- Rõ ràng là anh chàng giúp việc này của ông Wilson đóng một vai trò quan trọng trong vụ làm ăn bí ẩn của Hội tóc hung. Tôi chắc rằng việc anh hỏi đường vừa rồi chỉ là cái cớ để nhìn rõ anh ta mà thôi. - Tôi phán đoán.
 
- Không phải để nhìn anh ta đâu.
 
- Vậy thì để làm gì?
 
- Tôi muốn xem quần hắn, ở chỗ hai đầu gối.
 
- Thế anh đã thấy được những gì?
 
- Tôi thấy điều mà tôi muốn thấy.
 
- Vậy tại sao anh lại gõ đầu gậy xuống vỉa hè?
 
- Bác sĩ thân mến ạ, bây giờ là lúc chúng ta nên chú tâm quan sát chứ không phải trò chuyện. Chúng ta đang điều tra trên đất của kẻ thù và đã biết được đôi điều về quảng trường Coburg.

Giờ thì chúng ta còn phải đi tìm kiếm những ngõ ngách khác trong quảng trường nữa.
 
Khi chúng tôi vòng ra sau khu quảng trường vắng vẻ, hiện lên trước mắt chúng tôi là một quang cảnh khác hẳn, giống như hai mặt đối lập của cùng một bức tranh vậy. Đó là một trục giao thông huyết mạch nối liền khu trung tâm với vùng miền Bắc và miền Tây. Đường phố tấp nập người buôn bán đang chen chúc nhau. Trong dòng người ấy, người thì đi xuôi, người thì đi ngược, vô cùng đông đúc. Vỉa hè cũng đông nghịt những người đi bộ.

Khó mà hình dung được những dãy cửa hiệu và văn phòng hoa lệ mà chúng tôi đang nhìn thấy đây lại chính là mặt sau của quảng trường Coburg ảm đạm, nghèo nàn và cũ kỹ mà chúng tôi vừa mới đi qua.
 
Holmes dừng lại ở góc đường và đưa mắt nhìn dọc con phố:
 
- Để tôi ngắm kỹ một lát nhé, tôi muốn ghi nhớ vị trí của các tòa nhà ở đây. Tôi có thói quen rất thích tìm hiểu tường tận và nhớ chính xác về London. Ở đây có một hiệu thuốc lá Mortimer, bên này là một sạp báo nhỏ, bên kia nữa là chi nhánh Coburg của ngân hàng thành phố, rồi quán ăn chay, xưởng đóng xe ngựa. Sau đó, chúng ta sẽ đi sang nhà phía bên kia. Xong rồi Watson ạ! Chúng ta đã làm xong phần việc của mình, giờ thì hãy nghỉ ngơi một chút. Một chiếc bánh sandwich, một tách cà phê, rồi sau đó ta đến dự buổi hòa nhạc, ở đó chỉ có sự ngọt ngào, tinh tế và bình yên, rung động lòng người. Sẽ chẳng một vị khách tóc hung nào đến làm phiền chúng ta bằng những câu chuyện kỳ cục.
 
Bạn tôi đúng là một người say mê âm nhạc, vì anh vốn không chỉ là người chơi nhạc tài ba mà còn là một nhạc sĩ cừ khôi. Suốt buổi chiều hôm đó, anh ngồi trong phòng nghe nhạc, trông rất hạnh phúc. Anh khẽ đánh nhịp bằng những ngón tay dài khẳng khiu theo điệu nhạc. Gương mặt anh mỉm cười bình thản, nhưng đôi mắt lại mơ màng như đang đi vào giấc ngủ. Lúc này, trông anh hoàn toàn khác với dáng vẻ suy tư của nhà thám tử lừng danh Sherlock Holmes túc trí đa mưu, mẫn cảm kiên quyết mà ta thường thấy. Trong anh dường như có hai con người cùng tồn tại, nhưng sự tinh tế mẫn cảm và sắc sảo vẫn chiếm ưu thế. Chính tính cách như vậy khiến anh thoát khỏi sự suy nhược, lao vào công việc với lòng hăng say, hừng hực sức sống. Tôi biết rõ rằng lúc anh sắc sảo nhất, ghê gớm nhất là lúc anh ngồi mấy ngày liền trên chiếc ghế, miệt mài với những suy ngẫm của mình. Đôi khi tham vọng mãnh liệt đến nỗi khiến khả năng suy đoán của anh đạt tới cực điểm, thậm chí những người không hiểu anh có thể còn nghi ngờ không biết liệu anh có phải là siêu nhân hay không mà điều gì cũng biết.

Buổi chiều hôm đó, khi nhìn anh chìm đắm trong âm nhạc, tôi biết rằng những kẻ tội phạm mà Holmes truy lùng đã đến lúc sa lưới.
 
Ra khỏi phòng hòa nhạc, Holmes hỏi tôi:
 
- Watson, chắc anh muốn về nhà ngay phải không?
 
- Đúng vậy, như thế sẽ tốt hơn.
 
- Tôi cũng có việc phải làm, mất khoảng một vài tiếng. Vụ việc xảy ra ở quảng trường Coburg này nghiêm trọng đấy.
 
- Sao lại nghiêm trọng?
 
- Sẽ có một vụ phạm tội lớn. Tôi có đủ lý do để tin rằng chúng ta còn kịp để ngăn chặn chúng. Nhưng hôm nay là thứ bảy nên sự việc sẽ càng trở nên phức tạp hơn. Vậy nên tối nay tôi cần sự giúp đỡ của anh.
 
- Vào lúc mấy giờ?
 
- Khoảng 10 giờ.
 
- Vậy 10 giờ tôi sẽ đến phố Baker.
 
- Thế thì tốt quá. Nhưng, Watson ạ! Đây là một vụ nguy hiểm nên anh hãy mang theo súng đi.
 
Holmes vẫy tay tạm biệt tôi rồi quay đi và lập tức mất hút trong đám đông.Tôi dám chắc rằng mình không hề kém cạnh so với đám bạn của mình, nhưng khi cộng tác cùng Sherlock Holmes, tôi luôn bị ám ảnh bởi ý nghĩ là mình thật khờ khạo. Ví dụ như trong chuyện này chẳng hạn, tôi cũng nghe những gì anh ấy được nghe, thấy những gì anh ấy được thấy. Nhưng qua lời anh, tôi hiểu rằng anh không chỉ hiểu những chuyện đã xảy ra, mà còn tiên đoán được những gì sắp đến, trong khi đó đối với tôi, toàn bộ vụ này vẫn chỉ là một mớ bòng bong.

Trên đường trở về nhà ở Kensington, tôi đã suy nghĩ về mọi thứ, từ câu chuyện chép lại cuốn Bách khoa toàn thư bất thường của vị khách tóc hung đến chuyến đi tới quảng trường Coburg và cả những dự báo không lành của Holmes lúc chia tay.

Nửa đêm thì có chuyện gì xảy ra? Tại sao tôi lại phải mang vũ khí? Chúng tôi sẽ đi đâu và làm những gì? Tôi được Holmes ngầm chỉ cho biết anh chàng giúp việc tháo vát của ông Wison là một tay ghê gớm, có thể là tác giả của những trò chơi thâm hiểm.

Mặc dù đã cố gắng móc nối những chuyện đó lại với nhau, nhưng tôi vẫn không thể tìm ra manh mối nào.

Cuối cùng tôi đành gác mọi chuyện lại một bên, dù sao đến tối chân tướng sự việc cũng sẽ được làm sáng tỏ.
 
Tôi ra khỏi nhà lúc 9 giờ 15 phút, đi tắt qua công viên rồi bắt xe ngựa đến phố Baker.

Khi đến nhà Holmes, tôi thấy trong nhà có tiếng nói chuyện từ trên gác vọng xuống.

Vào phòng Holmes, tôi thấy anh đang chuyện trò sôi nổi với hai người khác.

Tôi nhận ra một trong hai người đó là Peter Jones, một nhân viên của Sở Cảnh sát. Còn người kia thì cao gầy, đội chiếc mũ bóng lộn, mặc một chiếc áo choàng rất dày và nặng nề.
 
- À, vậy là mọi người đã đến đông đủ cả rồi. - Holmes vừa nói vừa cài khuy áo comlê, tiện thể với tay lấy chiếc gậy đi săn nặng trịch xuống, rồi hướng về phía hai người đàn ông và giới thiệu - Watson, tôi nghĩ anh đã biết ông Jones ở Sở Cảnh sát Scotland Yard. Tôi xin giới thiệu đây là ông Merryweather, cộng sự của chúng ta trong buổi tối mạo hiểm hôm nay.
 
Ông Jones từ tốn nói:
 
- Ông bác sĩ, tối nay chúng ta lại cùng nhau phá án rồi. Ông bạn đây của chúng ta là một chuyên gia trinh thám siêu đẳng. Ông ta chỉ cần một chú chó là đã có thể lần ra được bọn tội phạm.
 
Ông Merryweather khiêm tốn nói:
 
- Tôi hy vọng lần này chúng ta sẽ không làm hỏng việc.
 
Cảnh sát Jones cao giọng nói:
 
- Thưa ông, ông nên tin ở ông Holmes, ông ấy chắc chắn đã có phương pháp riêng rất hữu hiệu và thú vị. Thứ lỗi cho tôi nói thẳng, những biện pháp ấy hơi nặng về lý thuyết và quá táo bạo, nhưng quả thực ông ấy có tố chất của một nhà thám tử tài ba. Ví dụ, trong những vụ “Dải băng đốm” và vụ “Viên ngọc bích màu xanh da trời”, ông ấy còn phán đoán chính xác hơn cả cảnh sát chúng tôi. Những gì tôi nói hoàn toàn là sự thực.
 
Ông Merryweather cũng biểu lộ sự đồng ý:-
 
 Ông Jones, ông đã nói vậy thì tôi cũng tạm yên tâm rồi. Nhưng tôi vẫn muốn nói là vì vụ này tôi đã để lỡ mất buổi đánh bài. Đây là lần đầu tiên trong vòng hai mươi bảy năm nay, tôi không đánh bài vào tối thứ bảy.
 
Sherlock Holmes khích lệ ông ta:
 
- Tôi dám chắc với ông rằng, món tiền ông đặt cọc hôm nay lớn hơn tất cả những cuộc chơi mà ông đã từng chơi, hơn nữa đây còn là cuộc chơi đầy thú vị. Ông Merryweather, món tiền đặt cược tối nay của ông sẽ là ba mươi nghìn bảng. Còn với ông, ông Jones, đó sẽ là gã tội phạm mà ông vẫn truy đuổi từ bao lâu nay.
 
- Vâng, đó là John Clay. Tuy còn trẻ nhưng hắn đã phạm tội giết người, trộm cắp, cướp của, lừa bịp và làm tiền giả. Tôi muốn bắt hắn hơn bất cứ tên tội phạm nào khác ở London, hắn là một kẻ sừng sỏ. Ông nội của hắn là một công tước, thuộc dòng dõi hoàng gia, còn hắn đã từng được học ở trường Eton và Oxford. Đầu óc hắn cũng khôn ngoan, tinh quái và quỷ quyệt như đôi bàn tay hắn vậy. Tuy chúng tôi đã phát hiện ra dấu tích của hắn ở khắp nơi, nhưng lại không sao bắt được. Tuần trước, có thể hắn vừa đào hầm ăn cướp ở Scotland, nhưng đến tuần sau hắn lại quyên góp tiền để xây dựng một nhà trẻ mồ côi ở nơi khác. Tôi đã bám theo hắn nhiều năm, nhưng chưa bao giờ được nhìn thấy mặt hắn.
 
- Hy vọng rằng tối nay tôi sẽ có hân hạnh được giới thiệu hắn với ông. Tôi cũng đã một vài lần được đọ sức với hắn, và tôi hoàn toàn đồng ý với ông rằng hắn quả là tên cao thủ trong nghề. Thôi, đã hơn 10 giờ rồi, chúng ta xuất phát thôi. Nếu hai ông lên chiếc xe đầu, thì Watson và tôi sẽ lên chiếc xe thứ hai.
 
Trên suốt đoạn đường dài, Holmes nói rất ít, anh ngồi ngả lưng vào thành xe, ngâm nga điệu nhạc vừa nghe chiều nay. Xe chúng tôi lăn bánh trên những dãy phố dài bất tận mờ mờ ánh đèn, cho tới lúc dừng lại ở phố Farrington.
 
Bạn tôi nói:
 
- Chúng ta sắp tới nơi rồi. Ông Merryweather là chủ nhà băng nên ông ta đặc biệt quan tâm đến vụ này. Tôi muốn để Jones đi cùng, mặc dù về trí tuệ, ông ta chỉ là một tên ngốc, nhưng lại có ưu điểm phải thừa nhận là khi bắt cướp, ông ta vô cùng dũng mãnh và can đảm. Ta xuống đây thôi, họ đang chờ chúng ta kìa.
 
Chúng tôi đặt chân xuống chính đoạn đường đông đúc mà Holmes và tôi vừa tới ban sáng. Sau khi cho xe đi, theo chân ông Merryweather, chúng tôi băng qua một con hẻm nhỏ, rồi bước qua một cánh cửa mà ông ta mở cho chúng tôi. Bên trong là một hành lang nhỏ dẫn thẳng tới một cái cổng sắt đồ sộ.

Ông Merryweather mở cổng, chúng tôi bước xuống những bậc thang xoắn bằng đá dẫn đến một cánh cửa sắt khổng lồ khác. Ông ta dừng lại để thắp đèn, sau đó dẫn chúng tôi xuống một lối đi tối tăm ẩm mốc, sặc mùi bùn đất. Rồi ông mở tiếp cánh cửa thứ ba, đưa chúng tôi tới một căn hầm lớn. Trong căn hầm này là hàng đống những chiếc thùng gỗ và những cái hòm lớn.
 
Holmes giơ cao ngọn đèn lên để quan sát. Anh nhận xét:
 
- Không dễ gì nếu đột nhập từ phía trên.
 
Ông Merryweather vừa gõ gõ đầu cây gậy xuống nền nhà vừa nói:
 
- Cũng không thể đột nhập từ phía dưới. - Rồi ông ta kinh ngạc thốt lên - Ôi! Lạy Chúa, sao nghe như có vẻ trống rỗng thế này.
 
Holmes nghiêm nghị nói:
 
- Tôi yêu cầu các ông yên lặng một chút. Nếu không chúng ta sẽ thất bại trong chuyến phiêu lưu này. Xin các ông hãy ngồi xuống mấy cái thùng kia và đừng gây ồn.
 
Ông Merryweather đành ngồi xuống ngay một cái thùng gỗ, vẻ mặt có vẻ tức tối. Holmes quỳ xuống sàn, dùng chiếc đèn xách tay và kính lúp để bắt đầu xem xét cẩn thận từng kẽ đá. Chỉ vài phút sau, anh đã hoàn thành cuộc kiểm tra của mình với vẻ mặt đầy thỏa mãn, rồi bật dậy cất chiếc kính lúp vào túi áo.
 
Anh thông báo ngắn gọn:
 
- Ít nhất chúng ta phải chờ một tiếng nữa, vì bọn chúng không thể hành động trước khi ông chủ hiệu cầm đồ tốt bụng ngủ say. Sau đó chúng sẽ tranh thủ từng giờ từng phút một, vì công việc kết thúc càng sớm thì chúng sẽ có nhiều thời gian để tẩu thoát. Anh Watson, chắc anh cũng đã đoán được là hiện chúng ta đang ở dưới tầng hầm của Chi nhánh trung tâm Ngân hàng London. Ông Merryweather chính là Chủ tịch Hội đồng quản trị. Ông ấy sẽ giải thích cho anh hiểu tại sao bọn tội phạm khét tiếng nhất London lại quan tâm nhiều đến căn hầm này đến thế.
 
Vị Chủ tịch Hội đồng quản trị ngân hàng nói thì thầm:
 
- Đó là vì số tiền vàng mới chuyển từ Pháp sang ngân hàng chúng tôi. Chúng tôi đã được cảnh báo rằng có thể sẽ có kẻ muốn cướp số vàng này.
 
- Đồng tiền vàng của Pháp?
 
- Vâng. Cách đây vài tháng, do muốn tăng nguồn vốn nên chúng tôi phải vay của ngân hàng Pháp một số tiền trị giá ba mươi nghìn đồng napoleon. Mọi người đều biết rằng chúng tôi chưa thể dùng số vàng ấy, nên những thùng vàng đó vẫn nằm nguyên trong căn hầm này. Cái thùng tôi đang ngồi trên đây chứa hai nghìn đồng napoleon, được bao bọc bằng những lớp chì mỏng. Số vàng chúng tôi hiện có lớn hơn rất nhiều số tiền của bất kỳ một ngân hàng nào khác, nên Hội đồng quản trị rất lo lắng về vấn đề này.
 
Holmes tán thành:
 
- Họ lo lắng là phải. Bây giờ chúng ta phải chuẩn bị tất cả những gì cần làm để hoàn tất kế hoạch. Tôi hy vọng sau một giờ nữa mọi chuyện sẽ kết thúc tốt đẹp. Còn tạm thời, ông Merryweather ạ, chúng ta phải tạm che kín ngọn đèn này đi.
 
- Vậy chúng ta ngồi đợi trong bóng tối sao?
 
- Tôi e là phải như vậy. Tôi có mang theo một bộ bài để bốn người cùng chơi. Nhưng tôi sợ rằng bọn cướp đã chuẩn bị kỹ lưỡng từ trước, nên chúng ta không thể sơ suất để lộ ánh sáng ra ngoài. Trước tiên, ta cần phải chọn một vị trí thích hợp. Bọn cướp này rất táo tợn, chúng dám làm tất cả, không từ một thủ đoạn nào. Và dù có bị bất ngờ, chúng vẫn có thể gây ra những tác hại không thể lường trước được. Vì vậy cần hết sức cẩn thận, nếu không rất có thể ta sẽ phải chịu tổn thất nặng nề. Tôi sẽ đứng nép sau cái thùng này, còn các ông hãy nấp sau mấy cái kia. Khi nào tôi chiếu đèn vào bọn chúng, các ông hãy mau lẹ tóm lấy chúng, nếu chúng nổ súng thì các ông hãy lập tức bắn hạ.
 
Tôi đặt khẩu súng đã lên nòng xuống phía sau chiếc hòm tôi đứng nấp. Holmes nhanh chóng kéo tấm chắn sáng chụp lên trên chiếc đèn, căn hầm lập tức chìm trong bóng tối, tôi chưa bao giờ ở một nơi nào mà bóng tối dày đặc đến vậy. Mùi metan cháy giúp chúng tôi biết rằng ngọn lửa vẫn còn và khi cần, nó sẽ lập tức bùng sáng.

Tôi chờ đợi trong yên lặng, thần kinh vô cùng căng thẳng.

Căn hầm ẩm thấp, lạnh lẽo này khiến người ta có cảm giác bị ức chế ghê gớm và tôi thấy mình run lên trong sợ hãi.
 
Holmes khe khẽ dặn:
 
- Bọn chúng chỉ có một lối thoát, đó là rút lui về căn nhà ở quảng trường Coburg. Ông Jones, tôi hy vọng ông đã làm đúng theo những gì tôi dặn.
 
- Tôi đã phái một viên thanh tra và hai cảnh sát mai phục ở cửa trước của hiệu cầm đồ.
 
- Vậy là chúng ta đã chặn hết tất cả các lối ra vào. Bây giờ chỉ còn phải im lặng ngồi đợi.
 
Thời gian trôi đi thật chậm chạp. Sau này khi xem đồng hồ, tôi mới biết rằng chúng tôi đã đợi ở đó 1 tiếng 15 phút, nhưng với tôi giống như cả một đêm ròng rã đã trôi đi. Vì không dám nhúc nhích nên chân tay tôi mỏi nhừ và gần như tê cứng. Đầu óc căng thẳng tột độ, tai tôi căng ra nhưng chỉ nghe thấy tiếng thở khò khè nặng nhọc của ông Jones và hơi thở rất nhẹ của ông chủ tịch nhà băng. Từ vị trí này, tôi có thể quan sát mọi phía trên sàn.

Bỗng nhiên, mắt tôi bắt gặp một tia sáng yếu ớt.
 
Lúc đầu, đó chỉ là một tia sáng xanh lét ẩn dưới lớp đá. Sau đó, tia sáng cứ to dần, to dần rồi dài ra thành một vệt vàng. Rồi bất chợt, lặng lẽ xuất hiện một vết nứt. Một bàn tay nhỏ nhắn hiện ra, trắng trẻo như tay phụ nữ, sờ soạng giữa quầng sáng nhỏ. Khoảng một phút sau, bàn tay mềm mại ấy nhô cao lên, rờ rẫm trên sàn.

Trong tích tắc, nó biến mất đột ngột như lúc xuất hiện.

Và mọi thứ lại chìm trong bóng tối, chỉ trừ khe sáng le lói dưới sàn.
 
Song bàn tay đó chỉ biến mất trong chốc lát.

Bỗng từ khe hở đó phát ra một âm thanh chói tai và những viên đá trắng bị lật sang một bên, để lộ ra một lỗ hổng hình vuông, khiến một luồng sáng từ ngọn đèn lồng tràn vào căn hầm tối tăm. Qua lỗ hổng đó, một gương mặt thanh niên ló ra, gã nhanh chóng đưa mắt dò xét cẩn thận xung quanh. Sau đó gã vươn người lên, tì vào mép lỗ đu người lên trên. Ngay khi đứng được lên trên sàn nhà, gã liền đưa tay ra kéo tên đồng bọn lên theo.

Cả hai tuy nhỏ nhắn nhưng đều rất nhanh nhẹn, mặt mũi tái xanh với mái tóc hung rực lửa bù xù.
 
Hắn thì thào:
 
- Không có ai, mọi việc đều ổn cả. Scott, mày có mang đục và bao đi không? Chết rồi! Không xong rồi! Archie, nhảy đi, nhảy đi, để tao lo.
 
Nhanh như cắt, Holmes lao ra, tóm chặt lấy cổ áo kẻ đột nhập.

Gã kia vội tụt xuống cái lỗ hổng, tôi còn nghe thấy tiếng vải rách soàn soạt khi Jones túm lấy áo khoác của hắn.

Ánh đèn rọi thẳng vào khẩu súng ngắn của tên trộm, nhưng chiếc gậy của Holmes đã giáng mạnh vào cổ tay hắn, khiến khẩu súng rơi xuống nền đá.
 
Holmes quát:
 
- Vô ích thôi, John Clay. Anh không thoát được lần này đâu.
 
Gã trộm đáp, giọng lạnh lùng ráo hoảnh:
 
- Tao cũng thấy thế, nhưng bạn tao đã thoát được, tuy các ngươi có tóm được vạt áo của cậu ta.
 
Holmes mỉm cười:
 
- Nhưng có ba ngươi đang đợi hắn ngoài cửa đấy!
 
- Hừ, các người chuẩn bị thật chu đáo. Khá khen đó !
 
Holmes bình tĩnh đáp:
 
- Anh cũng vậy. Ý tưởng về Hội tóc hung của anh quả là mới mẻ và rất có hiệu quả.
 
Jones nghiêm mặt cảnh cáo:
 
- Anh và đồng bọn của anh sẽ được gặp nhau ngay thôi. Mặc dù các anh nhanh hơn tôi, nhưng thoát sao được khi lối ra đã bị chặn. Mau chìa tay ra để còng lại.
 
Khi chiếc còng sắt khóa chắc cánh tay gầy gò của tên trộm, hắn phát khùng lên mắng:
 
- Đừng có động bàn tay bẩn thỉu của các ngươi vào người ta. Các ngươi có biết rằng trong ta có dòng máu hoàng gia không? Ta yêu cầu các ngươi phải cẩn thận khi nói chuyện với ta, phải nói “Thưa ngài”.
 
Jones trợn tròn mắt ngạc nhiên, rồi cười phá lên:
 
- Vâng, thưa ngài, xin ngài bước lên cầu thang. Lên trên kia, chúng tôi sẽ đánh xe ngựa đưa ngài về đồn cảnh sát, như vậy được chứ?
 
John Clay bình thản nói:
 
- Thế thì tốt hơn đấy!
 
Rồi hắn cúi chào chúng tôi, lặng lẽ đi sau viên thám tử.
 
Merryweather nói lời cảm ơn chúng tôi sau khi lên khỏi căn hầm:
 
- Ông Holmes! Tôi thật không biết phải cảm ơn và đền đáp các ông như thế nào. Thật tài tình, các ông đã phá vụ án này một cách ngoạn mục. Chưa bao giờ tôi được chứng kiến một vụ cướp nhà băng nào công phu đến như thế.
 
Holmes khiêm tốn trả lời:
 
- Tôi có một vài món nợ phải tính sổ với John Clay. Vì vụ án này mà tôi cũng đã tiêu tốn một khoản tiền, và mong nhà băng sẽ chi trả cho tôi những khoản này. Nhưng ngoài những điều đó ra, điều lớn nhất mà tôi thu được là một kinh nghiệm vô cùng quý báu từ vụ án Hội tóc hung kỳ lạ này.
 
Sáng sớm, khi chúng tôi ngồi nhâm nhi ly rượu whisky tại phố Baker, Holmes giải thích cho tôi nghe về vụ này:
 
- Watson, anh thấy không? Ngay từ đầu, mục đích duy nhất của mẩu quảng cáo và việc chép cuốn Bách khoa toàn thư là để lôi ông chủ hiệu cầm đồ hiền lành đó ra khỏi nhà mình vài giờ mỗi ngày. Cách này có vẻ kỳ quặc, nhưng quả tình không còn cách nào tốt hơn thế. Chỉ có cái đầu khôn ngoan của Clay mới nghĩ ra được. Hắn đã khôn khéo sử dụng màu tóc hung đỏ rực của tên đồng bọn để thực hiện kế sách này. Bốn bảng mỗi tuần là một miếng mồi nhử hết sức cám dỗ đối với ông chủ hiệu cầm đồ, nhưng nó có đáng là bao so với hàng nghìn bảng mà có thể chúng sẽ lấy được. Chúng cho đăng quảng cáo, rồi một gã lừa đảo đã thuê tạm một văn phòng, còn gã khác khuyến khích ông Wilson thi tuyển. Và thế là chúng có thể khiến ông ta vắng mặt vài giờ mỗi ngày. Chỉ cần nghe gã giúp việc chịu làm với chỉ một nửa số tiền lương, tôi hiểu ngay rằng hắn đang theo đuổi một mục đích đặc biệt nào đó.
 
- Nhưng làm sao anh đoán được mục đích của bọn chúng?
 
- Nếu như ở cửa hàng đó có phụ nữ thì tôi còn nghĩ đến một giả thuyết trần tục hơn. Tuy nhiên mọi chuyện không phải như vậy. Công việc làm ăn của ông Wilson chẳng được lời lãi gì nhiều, nhà ông ta cũng chẳng có gì đáng giá để chúng phải trù tính kỹ lưỡng đến thế. Vì thế, rõ ràng mục đích của chúng không phải cái cửa hàng nhỏ bé đó. Nhưng rốt cục chúng muốn gì? Tôi nghĩ đến sở thích chụp ảnh của gã giúp việc và thói quen chui xuống căn hầm của hắn. Tầng hầm! Đầu mối giải quyết câu chuyện chính là đây. Sau đó, tôi liền điều tra về lai lịch của gã giúp việc bí ẩn đó. Tôi phát hiện ra rằng, đối thủ của tôi là một trong những tên tội phạm nhẫn tâm nhất, táo tợn nhất thành London.

Hắn đang làm gì đó ở dưới tầng hầm, một công việc phải mất nhiều giờ mỗi ngày và diễn ra trong hàng tháng trời mới xong. Câu hỏi được đặt ra là, hắn làm việc gì vậy? Tôi nghĩ đó chỉ có thể là việc đào một đường hầm để đột nhập vào tòa nhà nào đó. Khi chúng ta đến kiểm tra hiện trường, tôi đã hiểu ra tất cả. Tôi đã làm anh ngạc nhiên khi gõ gõ cái gậy xuống vỉa hè, vì muốn biết đường hầm đó dẫn đến đâu, phía trước hay phía sau. Và quả thực, nó không đi lên phía trước.

Thế là tôi nhấn chuông gọi cửa.

Đúng như tôi hy vọng, gã giúp việc ra mở cửa.

Trước kia tôi đã từng nghe qua về hắn, nhưng chưa gặp hắn bao giờ. Tôi không quan tâm tới gương mặt hắn mà chỉ chú ý quan sát hai đầu gối hắn. Chắc anh cũng nhận thấy rằng, cả hai đầu gối quần của hắn đều đã bạc màu, sờn rách. Đặc biệt là nó nhăn nhúm và nhem nhuốc. Điều đó cho thấy rằng hắn đang đào bới một cái gì đó trong nhiều giờ.

Nhưng bí ẩn duy nhất chưa thể lý giải được là tại sao hắn lại đào đường hầm.

Đi vòng quanh khu trung tâm, tôi thấy thì ra nhà băng nằm quay lưng lại với cửa hàng cầm đồ của ông Wilson.

Tôi biết rằng mình đã giải quyết được vấn đề.

Khi anh ra về sau buổi hòa nhạc, tôi ghé qua Scotland Yard để gặp ông giám đốc nhà băng và rồi kết quả như thế nào thì như anh đã thấy đấy.
 
Tôi hỏi có phần hơi ngớ ngẩn:
 
- Nhưng tại sao anh lại đoán được chúng sẽ gây án vào tối hôm nay?
 
- Ồ, khi chúng đóng cửa văn phòng Hội tóc hung thì cũng chính là lúc chúng không còn lo nghĩ đến chuyện ông Wilson đi vắng hay ở nhà nữa. Nói cách khác là chúng đã đào xong đường hầm. Nhưng chúng phải nhanh chóng ra tay vì sợ bị phát hiện, và nhà băng sẽ chuyển số vàng kia đi nơi khác. Như vậy thì thứ bảy là một dịp thuận lợi để hành động, chúng sẽ có tới hai ngày để tẩu thoát. Dựa trên những lý do đó, tôi đoán chúng nhất định sẽ hành động vào đêm nay.
 
Tôi không giấu nổi sự thán phục, kêu lên:
 
- Cách suy luận của anh thật tài tình! Hàng chuỗi những sự kiện xảy ra đều cho thấy phán đoán của anh là hoàn toàn chính xác.
 
- Nó chỉ khiến tôi tránh được sự vô vị, nhàn rỗi mà thôi. - Anh ngáp dài một cái rồi nói tiếp - Tôi sợ nhất là cuộc sống của mình trở nên tầm thường, vô vị. Những vụ án như thế này đã giúp tôi rất nhiều.
 
Tôi khen ngợi rất thật lòng:
 
- Anh là ân nhân của rất nhiều người đấy.
 
Anh nhún vai, nói:
 
- Ồ, cuối cùng thì tôi cũng làm được một việc gì đó. Vì như ai đó đã nói: “Con người vô cùng nhỏ bé”...