Gặp mùa nước đổ, nước trong Đồng Tháp Mười tuôn mạnh ra, khiến cho việc chèo ngược dòng là cả một kỳ công.
Thế mà Thạnh đã ba lần đòi quay trở lại khi xuồng tiến mau trên
rạch Ông Mẻ được hai phần đường rồi. Nếu không có bạn chàng khuyên dứt
thì trong cuộc hành hương hôm đó, họ đã chẳng đến nơi.
Phải, đây là một cuộc hành hương thật sự. Chợ Mỹ Lương là nơi đã
nghỉ yên một đoạn dĩ vãng của họ, nghỉ yên một thời thanh xuân không
bao giờ tìm thấy lại nữa. Họ đã yêu ở đó, đã đau buồn vì vận nước ở đó,
và đã phấn khởi làm phận sự ở đó.
Hàng trăm đám lục bình xanh đang chạy đua xuôi dòng rạch Ông Mẻ
vàng khè phù sa khiến họ nhớ đến những đêm năm nào mà họ vượt đồn Cổ Cò
bằng cách lội úp theo những đám lục bình cứu tinh đó.
Sao Thạnh đã gần đến nơi rồi lại còn muốn quay về ? Sự thật thì
chàng đã định bỏ cuộc ngay từ lúc mới xuống xuồng, và càng đi gần tới
đích chàng càng lo sợ và càng muốn thôi không đi nữa.
Cả hai người bạn đều phấn khởi lúc rủ nhau về đây. Mười năm lăn
lóc trong cuộc vật lộn để giành chén cơm, họ thường nghĩ đến cái nơi cất
giữ rất nhiều kỷ niệm của họ.
Và hôm qua đây, nhơn thấy cũng đỡ bê bối tiền bạc phần nào, họ
đồng tình về chốn quê cũ một chuyến, để thăm lại cảnh cũ người xưa, và
nhứt là để xem hòn giả sơn của chú Dầu Ía có còn hay không.
Ở chợ Mỹ Lương chỉ có độc một gia đình Trung Hoa. Chú Dầu Ía,
người chủ gia đình, thích chơi cây cảnh, non bộ. Sau nhà chú, chú có đắp
một hòn giả sơn rất khéo mà Thạnh chưa thấy hòn giả sơn nào đẹp bằng.
Hôm qua đây, cả hai người đều có ý về Mỹ Lương một lượt, và Thạnh hăng hái nhứt, nói là rất nhớ hòn giả sơn đó.
Nhưng thật ra, chàng chỉ bồn chồn gặp lại người kia. Cái háo hức
buổi đầu lại nguôi lần lần trên đường thôn du nầy, vì một lẽ làm chàng
băn khoăn mãi từ lúc bước chơn xuống xuồng.
Khi họ thấy đằng xa sông Cái Cối chắn ngang con rạch Ông Mẻ, họ
nhìn về bên trái thì chợ Mỹ Lương thoáng hiện xa xa, cheo leo trên doi
đất tại ngã ba sông.
Thì ra chợ Mỹ Lương vẫn còn nguyên vẹn, đó là cái chợ thôn dã hiếm hoi không bị tàn phá lúc chiến tranh.
Nước sông đổ rất mạnh, khiến Thạnh hoảng lắm, chàng mong cho xuồng cứ tiến thật chậm để lùi lại cho lâu cái lúc đến nơi.
Ngã ba sông Cái Cối.
Chợ Mỹ Lương là kiểu mẫu cổ điển của nhiều chợ xép Tiền Giang.
Chợ ngó xuống sông, và hai bên hông chợ, hai dãy nhà cũng trông xuống
bến. Nhưng hai dãy nhà ấy lại bị dãy nhà sàn đối diện ngăn tầm mắt lại.
Con đường mòn hẹp té, nhưng ngay bon, đi thẳng giữa hai dãy nhà vừa kể
trên rồi mất hút trong rặng dừa đằng xa.
Bốn dãy nhà gồm bốn mươi căn, mỗi căn bán một thứ hàng hóa giống
hệt ở mọi chợ khác. Có tiệm hớt tóc, mà những giờ vắng khách, mấy anh
thợ ngồi buồn gảy ghi-ta; một tiệm may, vài tiệm chạp phô, một hiệu trữ
dược phẩm Âu Mỹ kiêm bán sách báo, một hiệu ba da, một hiệu bán chén và
đồ gốm v.v...
Họ lên bờ và căn nhà họ tìm trước hết là hiệu thuốc bắc "Tăng-Thọ-Đường".
"Tăng-Thọ-Đường" vẫn vững như một con người được tăng thọ. Tấm
bảng hiệu dựng đứng theo lối Trung Hoa, trên viết lăng nhăng một cột chữ
Tàu, đã rạn nứt vì mưa nắng gió sương, nhưng chữ mạ vàng vẫn còn đọc
được.
Nhà có gác, chiếc gác thấp, mái cong cong như mái chùa, và cửa
song sơn đỏ, gợi nhớ hình ảnh nước Tàu ngàn xưa mà người khách trú chủ
hiệu thuốc nầy thương mến nhái lối kiến trúc ấy được phần nào hay phần
ấy.
Cả hai đứng lại rất lâu nơi doi đất trước ngã ba sông, bùi ngùi
nhìn những mái nhà đóng rêu, bùi ngùi nhìn chơn trời quen bên kia sông.
Cảnh vật như được ướp lạnh hằng bao thế kỷ, và nay mở tủ lạnh ra, nó vẫn
y nguyên như cũ. Chỉ có người là khác xưa. Anh thợ hớt tóc tiệm Nam
Hưng, căn nhà bìa cheo leo trên bờ sông, trẻ hơn anh thợ ngày trước
nhiều. Khách của ông ta cũng trẻ hơn. Cả bọn chơi măng-đô-lin, và ca tân
nhạc, họ tìm trên vách mãi mà không thấy bóng cây đờn kìm cẩn ốc của
bác thợ năm đó.
Mặc dầu lo sợ, Thạnh cũng bươn bả theo bạn sau lúc đứng chiêm
nghiệm ở bờ sông. Hồi hộp lắm ! Nôn nao gặp lại người xưa, mà sợ sự gặp
mặt đó, sợ nhưng cứ muốn gặp gỡ ngay!
Cụp... keng... keng... cụp... keng... keng... Tiếng chày giã
thuốc trong chiếc cối bằng đồng, cứ giã một cái lại nhịp hai cái trên
thành cối, tiếng nhạc đều đều kéo dài từ ngàn đời rồi trong giới dao cầu
Trung Hoa ấy, đã nghe rõ khi họ bước tới trước thềm Tăng-Thọ-Đường.
Người giã thuốc không phải là ông Tăng-Thọ nữa mà là một người
trung Hoa còn trẻ, độ ba mươi. Ông Tăng-Thọ đầu đã bạc phơ, ngồi ngậm
một chiếc điếu dài gần bốn gang tay, mắt lim dim lắng nghe tiếng nhạc
chày nện trên cối.
- Ông chủ a ! Mạnh giỏi chớ, ông chủ ?
Tiếng chày bỗng ngưng nện, tiếng chim chắc chè ngưng gáy trong
lồng và ông Tăng-Thọ nhảy nhổm lên. Ông đẩy cặp kiếng trắng lên cái trán
hói và láng bóng, rồi trố mắt nhìn hai người khách lạ đang bước qua
ngưỡng cửa.
- Ông thầy còn nhớ anh em tôi không ?
Ông Tăng-Thọ vừa bán thuốc, vừa làm y sĩ, nên họ mới gọi thế. Ông ta cười hề hề mà rằng:
- Nhớ... Mà quên... a... nhớ ít ít thôi.
- Thằng Ba với thằng Tư, hai con sâu cam thảo đây mà !
- A, nhớ dồi ! Lâu quá, anh em còn mạnh giỏi hơ. A, ngóa mừng quá mà.
Ông Tăng-Thọ mừng rối rít, hối người nhà pha trà, rồi giới thiệu với khách :
- Thằng Hinh, dể của ngóa.
Thì ra, cái người giã thuốc là rể của ông ta. Thạnh thừ người
ra, không phải vì ngạc nhiên, mà vì hơi bần thần trước một chuyện phải
xảy ra, đã xảy ra, nhưng khó tin vì chàng ta mơ hảo.
Phải, cô Chúi Tín (Thủy Tiên) ấy thế nào cũng phải lấy chồng và
cũng phải được lấy chồng. Cô năm nay có lẽ đã gần ba mươi, đẹp người,
lại con nhà khá giả thì không lý do nào cô làm gái già cho đến lúc doi
đất nơi chợ nầy sụp lở.
Chàng đã yêu cô Chúi Tín ấy, một cô gái Trung Hoa đã được Việt
Nam hóa một trăm phần trăm, nhưng ông Tăng-Thọ, từ khi vợ chết, cứ nghe
cô đơn và muốn chọn rể người Tàu cho có bạn, thành thử hai người không
lấy nhau được.
Mười năm... Không biết bao nhiêu là nước chảy dưới cầu Cổ Cò,
không biết bao nhiêu là nước chảy dưới dãy nhà sàn trước chợ. Trí chàng
cho biết rằng Chúi Tín thế nào cũng đã lấy chồng, nhưng lòng chàng cứ
chối rằng sự ấy đã xảy ra.
Mười năm...
Bây giờ chú rể bắt đầu giã thuốc trở lại, cụp... keng... keng...
cụp... keng... keng.... Ông Tăng-Thọ rót trà ra trong những cái chén
nhỏ bằng ngón tay cái và mời khách. Cả ba ngồi trước một cây xi-cú mà
làm thinh, để nhớ lại năm nào mà họ đã núp sau hàng dừa để xem tàu Tây
rần rộ chạy qua trước chợ, bắn bậy lên mà không ghé lại bao giờ.
Thạnh nóng nảy khi nhìn thấy chủ nhà cứ uống trà từng hớp một, hỏi :
- Ông thầy à, còn hòn non bộ ?
- Hà, cố lứ còn nhớ cái hòn non bộ ấy à. Hà, bây giờ tốt lắm, tốt quá !
- Cho xem được không ông thầy ?
- Sao lại khôn lược.
Ông thầy đứng lên, đi ra sau, hai người khách theo ra bén gót.
Hòn giả sơn ấy nằm ở sân trong, giữa nhà trên và nhà bếp, trong một cái hồ cạn thả bèo và cá lia thia.
Năm, tháng, gió, sương đã đi qua trên đó thêm mười năm nữa nên
lớp rêu xanh bây giờ xanh rậm ri, đẹp không biết chừng nào. Nước cứ theo
sơn khê mà đổ xuống hồ, và lão ngư phủ cứ thả cần câu, bất kể thời
gian, trông hệt như ông già ở sông Vị.
Bộ giả sơn đẹp như một câu chuyện cổ tích bị lớp bụi thời gian phủ lên, càng dầy, càng hay, càng đẹp.
Bỗng tiếng người trẻ thơ lao nhao từ ngoài trước, ông Tăng-Thọ nhìn Thạnh, cười hề hề nói:
- Con Chúi Tín về đó.
Thạnh quay lại thì một á xẩm già tay bồng tay bế những bốn đứa con vừa bước vào tới nơi.
Trời ! Chàng kêu thầm lên trong bụng. Chúi Tín không còn là Chúi
Tín nữa. Á xẩm nầy mới ba mươi tuổi mà răng đã bắt đầu rụng, và má hóp
một cách dị kỳ. Nàng dơ không thể tưởng tượng được vì bận với lũ con.
Vừa lúc ấy thì tiếng đồng hồ con ngựa treo nơi vách nhà trên, chậm chạp gõ.
Keng... keng... keng...
Thạnh quặn thắt lòng, nghe như tiếng thời gian đang rụng, rụng
từng chiếc một. Mười năm! Sinh kế đã làm chàng quên tháng ngày trôi. Nay
bỗng dưng gặp lại người cũ với nhan sắc tàn phai, chàng nghe như thình
lình thời gian, vốn đang ngừng chảy, vụt lướt qua một cái vù.
Keng.. keng.. keng...
Từng chiếc, từng chiếc một, thời gian rụng dần, không hối hả,
nhưng chắc chắn, không một thiên tài nào chống lại nổi cả. Thạnh đã sợ
cuộc gặp gỡ nầy vì chàng biết trước rằng cũng với sự rơi rụng của thời
gian, sự tàn rụng của mối tình mà chàng ấp ủ tận đáy lòng, sẽ đau như ai
bị tình phụ.
Kang... keng... keng...
Mỗi tiếng chuông đồng hồ, mường tượng như mỗi giọt mưa rơi trúng
ngay tim chàng. Thời gian bị quên lửng, bỗng dưng nổi lên với cả chiều
sâu và chiều dài của nó, minh mông như vũ trụ.
Thạnh quì bên bệ hồ, tay vuốt lên rêu xanh non mởn của bộ giả
sơn : thời gian đã lướt qua đây rồi xây dựng vẻ đẹp nơi đây, nhưng sao
khi lướt qua nơi kia, nó lại tàn phá nhan sắc của người đàn bà ? Chúi
Tín ơi, em có biết hay không lòng anh cũng vừa sụp đổ tơi bời. Mối tình
mà anh ngỡ là kiên cố trong tim anh, bỗng dưng cũng vừa tan nát hết khi
thấy mặt em. Anh đã sợ điều đó, vì anh sẽ xấu hổ với anh không biết bao
nhiêu, nhưng sợ mà cũng không tránh được. Bấy lâu nay anh sống với một
giấc mộng, ôm nó mà ngủ mỗi đêm, và mỗi sáng khi choàng thức tỉnh, anh
âu yếm nó để đủ cam đảm mà vật lộn với đời.
Keng... keng...
Giờ đây giấc mộng đã rụng theo tiếng thời gian rồi !
Dưới kia, trong lòng sông Cái Cối, nước Tháp Mười tuôn tràn ra,
chảy mạnh như thời gian, và những đám lục bình trôi mau trên mặt nước,
không đám nào giống đám nào hết, càng không giống đám lục bình của mười
năm xưa.
Thứ Năm, 17 tháng 10, 2024
TIẾNG THỜI GIAN - Bình Nguyên Lộc
Thứ Hai, 14 tháng 10, 2024
MÀU XANH LÁ - Phương Viên
Thứ Sáu, 11 tháng 10, 2024
MÙA THU RONG CHƠI - Mường Mán
Thứ Ba, 8 tháng 10, 2024
NHỮNG NGÔI MẢ TỔ - Bình Nguyên Lộc
Sáng hôm ấy, dân trong xóm Sỏi đang không làm gì cả,
vì mùa lúa đã mãn từ hơn một tháng rồi, thì rất ngạc nhiên mà thấy ba
người đàn ông mặc Âu phục đi vòng quanh xóm.
Xóm cất trên một cái gò thấp nhưng vẫn nằm cao hơn ruộng chung
quanh. Gò rộng độ bốn mẫu, hình tròn không đều nhưng những kẻ đi vòng
quanh đó cũng có vẻ đánh nhiều vòng tròn như các ông thầy chùa chạy Kim
Đàng.
Đây là một xóm đèo heo hút gió, nhưng người dân ở đây vẫn thường
thấy người ở thành thị, những người đi săn, thỉnh thoảng ghé qua đó để
xin vài tô nước, đi mua một con gà, hoặc để thuê một chiếc xe bò, loại
xe chà rẹc đi vào rừng kéo một con thịt lớn mà họ săn được, cọp hoặc nai
to chẳng hạn.
Nhưng hôm nay họ lấy làm lạ lắm là ba kẻ lạ mặt cứ đi vòng quanh
xóm mãi chớ không vào xóm. Ba kẻ ấy lại không có mang súng, nghĩa là
không có vẻ gì là thợ săn cả.
Cả ba đi trên ruộng khô - ruộng nầy cũng là ruộng gò, tức ruộng cao ở ven rừng - nằm sát bờ gò xóm Sỏi.
Cả ba người đều cúi gầm mặt xuống đất như để tìm kiếm tiền bạc
gì mà họ đánh rơi dưới ấy lúc nào không rõ. Thỉnh thoảng một người cúi
xuống lượm cái gì lên xem, có lẽ là một hòn sỏi, rồi họ trao tay nhau
món ấy, rồi họ bàn tán với nhau rất lâu.
Dân trong xóm hơi sợ, dĩ nhiên là họ sợ cái gì mà họ không thể
đoán được, con người vẫn thế. Vào rừng, họ biết có thể gặp cọp, nhưng họ
không lo bằng khi họ vào thành phố Sài gòn chẳng hạn, mà họ không biết
cái gì đang đợi họ ở đó.
Cái trò đi vòng quanh xóm kéo dài hơn một tiếng đồng hồ thì có chuyện lạ xảy ra: ba kẻ lạ mặt quả quyết bước lên gò để vô xóm.
Xóm Sỏi chỉ đông có năm cái nhà thôi. Nói nhà để nghe cho sang
trọng chơi vậy chớ đó chỉ là năm cái chòi. Chòi cất bằng tre, không cửa,
không vách, lợp bằng tranh, tức làm toàn bằng vật liệu tìm được tại chỗ
dễ dàng, không tốn của mà cũng chẳng tốn công là bao nhiêu. Nhưng dân ở
đây nghèo khổ quá nên họ không buồn nghĩ tới tiện nghi. Họ là tá điền,
chủ ruộng ở xa lắm, mà là thứ tá điền hạng bét vì ruộng gò rất thất lúa,
cho nên chủ ruộng mà còn không đong được bao nhiêu giạ thóc sau mùa gặt
hai mươi mẫu ruộng khô ở đây thì nói chi tá điền họ thường không đủ lúa
ăn tới sáu tháng.
Ruộng rừng bị nai và heo rừng phá lúa dữ quá, canh gác không
xuể, chỉ đành đánh bẫy chúng để ăn thịt trừ cơm, nhưng ăn bao nhiêu cũng
không hết thú rừng nên họ nhẫn nại chịu số phận vậy.
Dân số trong xóm, đếm đầu được hai mươi mạng, vừa già, vừa trẻ,
vừa nữ, vừa nam. Người mình rất đông con, nhứt là trong giới nghèo.
Nhưng nghèo vừa kìa, chớ nghèo sát đất như dân xóm Sỏi thì lại hiếm con.
Đáng lý gì năm gia đình nầy gồm ít lắm là bốn mươi người, vậy mà
số nhân khẩu ở đây không bao giờ vượt lên khỏi hai mươi. Khí hậu bất
bao dong ở đây, nhứt là bịnh sốt rét rừng, cọng với nghèo đói, tàn phá
sức khỏe của người dân nên đường tử tức của đàn bà bị giảm, mà họ có đẻ
đi nữa, con cái của họ cũng yểu tử vì hoàn cảnh, vì thọ khí bẩm không
tốt của cha mẹ chúng. Vậy mà xóm nầy là một xóm rất lâu đời, bằng vào
những nấm mộ sau xóm, đông đúc bằng mười lần dân số hiện tại, mà nấm mộ
nào cũng có chủ cả, nghĩa là người ngày nay là con cháu của những kẻ đã
sanh cư ở đây từ thuở nào rồi.
Chó trong xóm từ nãy tới giờ chỉ đứng ở các sân nhà mà sủa cầm
chừng kẻ lạ mặt ngoài xa. Giờ thấy họ vào xóm, chúng đổ xô ra mà sủa dữ
dội. Trẻ con sợ hãi, níu áo mẹ, còn người lớn thì hồi hộp mong đợi coi
việc gì xảy ra. Ở đây buồn quá, một bác thợ săn ghé lại xin một tô nước
cũng đủ làm huyên náo cả xóm rồi, và đó là một "biến cố" hay ho, giúp họ
dùng làm đầu đề câu chuyện cả tuần, phương chi ba người nầy có vẻ bí
mật, lạ lùng, thì "biến cố" có thể đáng kể hơn nhiều lắm.
Ba kẻ lạ mặt vào ngay nhà Tư Hoặc là cái nhà ngói ở đầu xóm. Sân không có rào, nên họ khỏi gọi cổng, cứ bước thẳng vô nhà.
Tư Hoặc không hề giao thiệp với ai, trừ với người trong xóm, mà
họ đã quá thân với anh, thành thử anh không bao giờ biết xã giao là gì.
Anh lại quen làm thinh cả ngày trong một thế giới gần như không người
nên anh chỉ nhìn khách chớ không chào hỏi bằng lời hay bằng cử chỉ nào
hết.
Người trẻ tuổi nhứt trong bọn ba người lạ mặt, hất hàm ra hỏi một cách bửa củi:
- Nhà nầy anh bán bao nhiêu?
Xóm nhà nầy xơ rơ quá, mà đất gò lổm chồm đá sỏi, đến cỏ mọc
cũng không được, làm cho nó càng xơ rơ hơn. Người trẻ tuổi thiếu kinh
nghiệm ở đời, ngỡ đề nghị giá cao, là họ bán ngay. Hoặc há miệng trố mắt
mà nhìn khách rất lâu không nói không rằng gì cả.
- Mười ngàn, anh bán hay không?
Tư Hoặc vẫn trố mắt há miệng mà nhìn những con người kỳ dị nầy.
Phong tục Việt nam ta, hỏi mua nhà ai mà không có lời rao bán của người
ta, không những là một sự xúc phạm danh dự của người ta không thể dung
tha được, mà lại còn là một lời trù rủa cho người ta sạt nghiệp, có thể
làm cho người ta điên tiết lên mà giết mình nữa là khác.
Nhưng Tư Hoặc không giận. Nhà anh không đáng giá một ngàn bạc mà
kẻ nầy trả đến mười ngàn nên anh tưởng đó là một lũ điên. Anh chỉ cười
lặng lẽ rồi lắc đầu.
Người cao niên hơn hết trong bọn, nói với người trẻ tuổi bằng
một thứ ngoại ngữ, Tư Hoặc không hiểu nhưng anh cứ cho đó là tiếng Tây.
Người lớn tuổi ấy nói với người trẻ tuổi:
- Thưa ông chủ, ông chủ hành động như ở Sài gòn không được đâu.
Dân Sài gòn bị Âu hóa với lại bị tình trạng khan nhà hai mươi năm nay
tập cho họ quen với việc bán nhà, mua nhà dễ dàng và cấp tốc như mua một
hộp diêm, nhà họ đang ở ấm êm, ta nhào vô xáng xả đòi mua, họ bán ngay
tức khắc nếu ta đề nghị giá cao, mặc dầu họ không có ý định bán nhà bao
giờ. Người nhà quê thì khác.
- Chớ biết làm sao bây giờ?
- Ông chủ cho phép tôi dàn xếp có được không?
- Anh cứ tự tiện đi, tôi cho anh trọn quyền hành động
Xin được phép của chủ hắn xong, người lớn tuổi đi ra ngay. Hai
người kia nối gót theo hắn. Hắn rảo khắp xóm, dòm vào từng nhà, đoạn
dừng lại trước một cái thum mà trong đó hắn thấy một ông lão râu tóc bạc
phơ.
Hắn đứng ngoài sân, xá ông ta một cái, ông ta gật đầu, mời hắn
vào nhà. Y như Tư Hoặc, ông lão nầy cũng không hỏi han gì khách cả, đợi
khách nói mà thôi.
Người cao niên lễ phép thưa:
- Thưa bác, gò nầy có phải thuộc quyền sở hữu của chủ dãy ruộng nầy hay không?
- Ơ...không. Đây là đất công thổ.
- Nghĩa là đất của làng, bà con mướn năm mà ở.
- Ừ.
- Vậy thì hay quá! Thưa bác, anh em cháu là người Sài gòn, chán
đời nên muốn tìm chỗ hẻo lánh mà ẩn dật. Thấy cuộc đất nầy thuận tiện để
anh em cháu cất một cái am, anh em cháu xin thử hỏi bác coi bà con ở
đây có bán nhà, hoặc nhường đất, dọn đi nơi khác hay không. Anh em cháu
sẵn sàng đền bù cho mỗi nhà bán hoặc dọn đi một số tiền là mười ngàn
đồng.
Ông lão choáng váng mấy giây rồi nổi giận nói:
- Trời ơi, chú thật là vô phép, lại không biết cữ kiêng cho
người ta; nhà người ta đang ở yên lành, khi khổng khi không dám cả gan
xáng xả đòi mua, đòi đuổi. Xui cho bà con tui quá, tui nói cho chú đặng
biết, bà con tui ở chung quanh đây không nghe cho chú đâu.
- Xin bác tha thứ cho. Anh em cháu bằng lòng đền bù thiệt hại
cho bà con mỗi người mười ngàn tức mười lần nhiều hơn giá cái nhà của bà
con. Có phải bà con được lợi hay không?
Khác hẳn Tư Hoặc, ông lão nầy tuy biết bị mích lòng, mà lão lại
cũng biết tham lợi nữa. Vì thế mà lão dịu cơn thịnh nộ ngay rồi suy nghĩ
rất lâu.
Nhưng rốt cuộc, lão vẫn lắc đầu từ chối.
- Không thể được, lão nói.
- Anh em tôi thấy cách đây độ hai cây số, nghĩa là ở bên kia dãy
ruộng nầy, có đất trống, mà lại là đất tốt nữa, trồng trọt được, chớ
không phải đất cỏ cháy như ở đây. Bà con có thể...
- Không, nhứt định không, chú đừng có nài nỉ mất công.
Người thương thuyết lắc đầu, đoạn xin phép chủ nhà ra đi, cả ba đều rời khỏi xóm.
Ra tới ruộng, ông chủ trẻ tuổi cười nói:
- Anh có tài Trương Nghi, Tô Tần, nhưng cũng không thành công hơn tôi.
Bây giờ người trung niên mới mở lời lần thứ nhứt. Hắn trạc ba
mươi lăm tuổi, gương mặt lanh lợi và một vẻ gì ác hiểm ẩn trong đó. Hắn
hỏi:
- Nhưng các anh có chắc ăn lắm hay không mà dám dùng đến phương tiện lớn như vậy?
Người cao niên cười ha hả mà rằng:
- Tôi năm nay đã bốn mươi hai rồi, và đã lặn lội trong nghề nầy
hồi tôi mới mười chín tuổi, thì các anh biết cái vốn kinh nghiệm của tôi
có kém hiểu biết của một ông kỹ sư mỏ chút nào không.
Chẳng những xem mặt đất tôi không thể lầm về cái chứa của gò
nầy, mà tôi còn ước lượng được sức chứa của nó nữa. Hết lớp đá sỏi trên
mặt thì tới đất sét, và qua khỏi độ một thước đất sét ta sẽ gặp hai ngàn
thước sạn trắng đang ngủ yên dưới ấy từ mấy ngàn đời rồi không rõ. Mỗi
thước sạn trắng, trừ đi mọi tổn phí như là vận động, khai thác, chuyên
chở, thuế má, là còn kiếm được lối một trăm đồng, nghĩa là ta sẽ bỏ túi
hai trăm ngàn như chơi.
Nhưng đó là không kể khối sạn nằm dưới hằng trăm nấm mộ sau xóm
mà ta không làm sao khai thác được cả trừ khi hành động theo cách nầy là
đào hầm ăn thông dưới mộ rồi dùng trụ hầm mà chống đỡ cho đất đừng sụp,
nhưng họ sẽ dòm ngó ta mà ngăn cản, và về sau nầy trụ mục thì mồ mả ấy
sụp hết, mang tội lắm.
Hai người kia rất tín nhiệm bác chuyên viên nầy. Họ phấn khởi
lắm vì họ biết rằng các hầm sạn trắng ở miền Nam nầy đã cạn hết rồi,
không dễ dầu gì mà phát kiến được một mỏ vàng to như thế nầy đâu.
Sạn trắng ngày nay quí như vàng. Các nhà thầu, xây cất bằng
bê-tông, đã phải xay nhỏ đá xanh để tạm dùng đỡ, còn sạn trắng thì chỉ
để dành làm gra-ni-tô, làm vách tô rửa, hoặc để cho các bực triệu phú
trải sân biệt thự thôi.
Người trung niên suy nghĩ giây lát rồi nói:
- Nếu quả đúng như vậy thì tôi sẽ có cách, miễn ông chủ chịu tốn thêm vài ngàn.
- Ừ, bao nhiêu cũng được, nói nghe thử coi.
- Nhưng phải chắc bác nầy không lầm kìa, vì cách đó tàn nhẫn lắm, có đáng việc mới nên dùng tới.
- Tôi bảo đảm bằng cả hăm ba năm lành nghề của tôi.
Người trung niên bèn hạ giọng xuống rồi thì thầm rất lâu với bạn
đồng hành của hắn, mặc dầu ở đây xa xóm, không thể nào ai nghe được lời
của họ. Đấy, có những điều mà người ta chỉ dám nói thầm với nhau thôi,
vì người ta sợ chính cả người ta nữa.
Người chủ trẻ nghe xong, hoan nghinh liền.
Nhưng người cao niên thì châu mày tỏ vẻ bần dùng lắm.
Hắn hỏi:
- Liệu sẽ gây kết quả tai hại nào không?
- Nhứt định là không. Ở đây xa xóm. Nhà họ lại không có vách, không có cửa gì hết thì đâu có lo họ bị kẹt trong đó.
Rồi cả ba kéo nhau ra làng, ở ngoài bờ sông, cách đó độ năm cây
số, nơi nhà họ tạm trú. Trước khi rời xóm, người cao niên gọi với người
trong xóm mà hô rất to:
- Xin bà con nghĩ kỹ lại, vài bữa chúng tôi sẽ trở vô đây.
Đêm đó, ba người làm nghề khai thác hầm sạn nầy tổ chức nhậu
nhẹt để đãi cả xóm ngoài, xóm lớn nhứt của làng nầy. Họ nhậu với kỳ
nhông xé phay, rượu lậu nấu trong làng, thứ nước nhứt. Cả xóm say mèm.
Liền tiếp ba đêm liền, đêm nào cũng tiệc tùng như vậy cả, đêm
thứ nhì họ nhậu với một con trút xào lăn, đêm thứ ba thì tuyệt, bởi món
nhậu là hai cái vú nai đang nuôi con, bùi và thơm không tả được. Khi cả
xóm cúp bình thiếc cả rồi thì người trung niên ra đi một mình. Hắn chỉ
uống rượu cầm chừng thôi, nên hắn không say như chủ hắn và người đồng
nghiệp cao niên của hắn. Hắn ra khỏi làng rồi băng rừng mà tiến mau vào
xóm Sỏi, tay xách một cây ná lảy. Hai tiếng đồng hồ sau, hắn mới tới
nơi, vì đường rừng rất khó đi. Trời đã trở bấc, khí lạnh làm cho chó
trong xóm rất lười, chúng trốn mà ngủ hết, nên gã cầm ná đi tới bờ gò
rồi mà không gây động.
Hắn rút ra một cây tên kỳ lạ lắm. Tên rất dài, nhưng tà đầu. Đầu
tên buộc bó nhang và giữa một chục cây nhang ấy, cách đầu nhang độ hai
phân tây, mười cây diêm quẹt được chôn thật chặt. Hắn núp sau một bụi
cây cơm rượu, đoạn bật cái bật lửa lên mà châm nhang cho cháy. Xong đâu
đấy, hắn đặt tên lên ná, nhắm nhía rồi lảy cò ná liền.
Trong bóng đêm mũi tên lửa than nầy xẹt đi, trông như một ngôi
sao băng. Nếu có ai còn thức và rủi ro trông thấy, có lẽ họ sợ sệt cho
rằng "Bà" giáng hạ, vì ở thôn quê, người ta tin "Bà" giáng như thế.
Hắn lùi ra xa, rồi ngồi xuống mà đợi kết quả. Nhang cháy độ năm
phút thì lửa nhang gặp đầu diêm quẹt. Diêm quẹt cháy lên thành lửa ngọn
mà cây tên lại đang nằm trên mái tranh của một cái chòi.
Không mấy chốc mà năm cái chòi ấy đều ra tro. Chỉ có hai mươi
người trong xóm là kêu la, và năm con chó sủa om thôi, ngoài ra cả thế
gian, không ai hay biết có cuộc hỏa hoạn nầy hết.
Sáng hôm sau, ba kẻ "chán đời muốn cất am để tu" trở vào đây, đúng y theo lời bữa hôm nọ, nên không ai ngạc nhiên cả.
Họ rất tốt bụng, giúp cho mỗi gia đình một ngàn bạc rồi người cao niên nói:
- Bà con phải cất nhà ngói mới tránh hỏa hoạn được: Mà cất nhà
ngói phải có tiền. Ít lắm là mười ngàn. Ở đây, cây thì bà con đốn lậu
được, vậy không tốn hao bao nhiêu. Bà con nên nhận đề nghị của anh em
tôi hôm nọ đi.
Cả xóm làm thinh, nhìn nhau, hỏi nhau bằng mắt rất lâu, đoạn lão hôm nọ đáp thay họ:
- Bà con tôi đội ơn quí thầy tới ngàn ngày về khoản trợ giúp nầy
và về đề nghị kia. Nhưng rất tiếc là không thể nhận được. Bà con tôi ở
đây đã bảy đời rồi, mồ ông mả cha của bà con tôi đều nằm ở đây. Chúng
tôi thương yêu cái gò cỏ cháy nầy quá rồi, không làm sao mà rứt ra để đi
đâu được hết, cho dẫu là chỉ đi ở cách đây vài dặm hú.
- Bà con không tiếc mười ngàn sao?