Ba tôi hồi nhỏ được bà nội chúng tôi nuôi nấng dậy dỗ ở Úc châu. Bà nội cha tôi, di cư từ xứ Tô Cách Lan tới Úc, là một người rất khắc khổ ; dưới mắt bà, ăn Noel là tham dự vào trò chơi của quỷ Satan. Vì thế mà, trong suốt quãng đời thơ ấu, cứ mỗi lần tới lễ Giáng sinh, bị đánh thức bởi những tiếng reo hò mừng rỡ của trẻ con hàng xóm trước những món đồ chơi, cha tôi thấy bữa đó giống như một ngày Chủ nhật.
Mỗi khi dùng điểm tâm xong, cha tôi có quyền ra vườn đi dạo một chốc lát, tuy nhiên cấm không được chạy, cho tới giờ đi nhà thờ. Sau bài đọc kinh dài như không bao giờ hết, tới bữa ăn, rồi tới giờ ngủ trưa. Đến buổi chiều, bận chiếc áo dài tang đẹp nhất, ngồi cứng ngắc trên ghế giống như quan tòa, bà nội tôi lớn giọng đọc một vài đoạn trong Cựu Ước, hay những mẩu chuyện trích từ Cuộc du ngoạn của người hành hương ; cho đứa cháu nội ngồi trên một chiếc ghế nhỏ ở dưới chân. Ngày Noel khiếp sợ đó chấm dứt vào lúc sáu giờ chiều tối bằng bữa ăn đồ lạnh ; rồi tất cả đi ngủ sớm hơn mọi bữa. Cha tôi nằm gặm nhấm nỗi khổ sở không làm sao ngủ được. Những món quà chất đống ở trên nóc tủ gương của bà nội chẳng thể nào an ủi nổi cha tôi. Người chỉ được quyền tiếp nhận chúng một tuần lễ sau, vào dịp Saint Sylvestre.
Khi đã thoát khỏi sự kiềm chế, cha tôi liền bắt tay vào việc cử hành ngày lễ Noel với tất cả sự say sưa, cuồng nhiệt. Người không bỏ một "ban" nào cả, cũng như những dạ tiệc, những buổi họp mặt suốt trong dịp lễ Giáng sinh. Rồi người lấy vợ, và tám năm liền, tôi là đứa con độc nhất trong gia đình, cha tôi đã xếp đặt ngày lễ Noel một cách thật huy hoàng, rực rỡ.
Người bầy ra đủ mọi cách khiến tôi, cho tới năm lên chín vẫn còn tin có ông già Noel. Thí dụ như một năm, ông nhờ một người bạn có giọng hát thật trầm và ấm vừa đúng sáng sớm tới ngay dưới cửa sổ phòng tôi để ca một vài khúc nhạc Giáng sinh. Một lần khác, ông sai một tay chuyên nghiệp, đúng vào lúc tôi thức giấc, chỉ kịp nhìn thấy một cái bóng mầu đỏ bay vút qua ngang nhà. Nhưng ly kỳ nhất là lần ông để một mảng tuyết lớn ở cạnh lò sưởi phòng khách trên có vết một đôi giầy bốt lớn để lại.
Còn cây Noel nữa! Đối với tôi, ở trên cõi đời không có cái gì bằng cây thông Noel ở trong nhà tôi, đẹp nhất, sáng lóng lánh nhất và cũng lạ nhất! Cha tôi đã trang hoàng lấy và mỗi năm ông lại mua thêm những dụng cụ. Dưới những ngón tay của ông, vẻ đẹp từ từ hiện ra giống như phép lạ. Rồi khi những cây nến đã được đốt lên, cả linh hồn tôi hình như cũng sáng lên cùng với chúng.
Đến bữa ăn Noel, thường rất muộn, chúng tôi ít ra cũng độ hai chục người, quây quần quanh bàn ăn. Thức ăn nhiều vô kể, lại thêm một cái bánh Noel lớn đến nỗi một mình vú già không thể bưng nổi.
Rồi tới một năm, lúc đó tôi độ mười tuổi ; một cơn khủng hoảng kinh tế xẩy ra. Gia đình chúng tôi bị ảnh hưởng nặng nề. Cha tôi mất gần hết lợi tức hàng năm.
Nhưng biến cố này chỉ kích thích cha tôi giống như một cuộc phiêu lưu mạo hiểm lớn. Một người bạn của cha tôi, vốn là nghệ sĩ đang sinh sống ở ngoại quốc, bằng lòng cho gia đình chúng tôi tới ở trong một căn nhà của ông, bỏ không từ nhiều năm nay giữa một vùng đất hoang. Gia đình tôi hồi đó gồm có bốn người tất cả: cha tôi, mẹ kế của tôi, một em trai cùng cha khác mẹ mới có hai tuổi và tôi. Cha tôi vốn là một tay súng khá, ông còn có tài trồng trọt. Người tuyên bố một cách vui vẻ rằng toàn thể chúng tôi sẽ phải xoay sở để sống bằng những nguồn tài nguyên sẵn có ở đây. Điều này cũng khá vui!
Bận rộn với đời sống mới, tôi quên không để ý gì tới ngày lễ Noel. Và lúc nhớ ra, nó đã gần kề. Cha tôi hội họp tất cả mọi người để bàn bạc. Chúng tôi dù sao cũng cố gắng xoay sở để có được một cái lễ Noel, nhưng chúng tôi không có tiền để mua quà tặng. Vì thế - cha tôi tuyên bố - mọi người sẽ tìm kiếm trong những món đồ riêng tư của mình một món quà để tặng lẫn nhau.
Tôi nghĩ rằng chẳng thể nào chúng tôi có được một cây thông Giáng sinh. Bỗng nhiên tôi nhớ tới lời một người bà con đã phiền trách cha tôi tiêu xài hoang phí vào những trò nhảm nhí như thế... Tôi không nói gì nhưng viễn tượng một lễ Noel không có cây thông Giáng sinh làm cho tôi đau lòng. Đó là một va chạm đầu tiên giữa tôi với thực tế phũ phàng.
Chiều ngày 24, tôi ngồi treo những chiếc tất cho tôi và cho John, em tôi ; nhưng tim tôi ở tận đâu đâu. Căn phòng lớn trong nhà thiếu mọi thứ trang hoàng trông trần tục một cách thảm thương! Tôi đi ngủ, buồn rầu vô hạn. Giấc ngủ đầy những cơn mộng dữ.
Sáng hôm sau, tôi thức dậy sớm nhưng thay vì nhảy xuống khỏi giường, tôi nằm ngắm bầu trời xanh thẳm và lắng nghe tiếng chim ca hát.
- Lại coi! - Tiếng cha tôi kêu lớn.
Cho tới bây giờ, tôi vẫn còn cảm thấy rộn ràng khi nhớ tới niềm vui xâm chiếm tôi lúc đứng trước cửa phòng khách, trông thấy một cây Noel ở trong đó!
Không phải cây thông, nhưng là một cây khuynh diệp mềm và dài, cành lá thật cân đối, được trồng lên trên một cái thùng bằng gỗ. Những nhánh nhỏ được trang hoàng bằng những đồ vật quen thuộc làm chúng nổi bật, sáng trưng lên. Những chiếc dây ruy băng buộc tóc của tôi được thắt một cách khéo léo ; những chiếc muỗng nhỏ treo tòng-teng bằng những sợi chỉ mầu, những nữ trang nho nhỏ của bà mẹ kế (toàn là đồ giả bởi vì đồ thật đã bán hết) ; những bông hoa mới nở, còn tươi, vừa hái ở ngoài trời. Lại có mấy chiếc mề-đay của cha tôi nữa. Được treo trên những chiếc ruy băng hình cầu vồng mặt trời, chúng chiếu sáng lóng lánh dưới ánh sáng mặt trời lọt qua mấy cửa sổ căn phòng.
Rồi tới những quà tặng. Mặc dầu cha tôi không đưa ra ý kiến cần phải hy sinh ; nhưng tôi cũng quyết định tặng người món đồ quý nhất của tôi. Một con dao nhỏ có cán bằng xa-cừ. Cái trâm cài đầu bằng ngà voi của tôi đã dùng để tặng bà mẹ kế. Còn John, em tôi, được một con búp bê có thể nằm ngủ, nói năng, chơm chớp mắt. Thằng John mê mẩn vì tiếng nói hơi run run, đôi mắt nhắm mở được của nó.
Cha tôi tặng cho con búp bê của John tượng một con khỉ Tầu mà cha tôi có từ hồi nhỏ. Bà mẹ kế của tôi nhận được một cái hộp bằng da, không hiểu trong đó chứa đựng cái chi mà khi bà mở ra, tôi thấy bà khóc òa.
Bà tặng lại cha tôi một chiếc nón, một chiếc khăn len ở đảo Fair. Mấy món này thật hợp với cha tôi, nhất là vào mùa đông sắp tới. Bà cũng tặng tôi một chuỗi hạt trai. Còn cha tôi cho tôi một tập thơ bao bìa bằng da.
Chỉ có cây khuynh diệp Giáng sinh là làm tôi sung sướng nhất. Đứng lặng đi vì kinh ngạc xen lẫn thán phục, tôi không hề so sánh nó với những cây thông xinh đẹp khác trong những mùa Noel trước của chúng tôi. Không, cây Noel tuyệt diệu nhất, thần tiên nhất, chính là sự có mặt tầm thường giản dị của một cành cây Noel. Cha tôi đã mang đến cho tôi một mặc khải lớn lao về đời sống. "Ở trong hoàn cảnh nào, chúng ta vẫn sống được".
Người dịch : NGUYỄN TUẤN ANH
(Trích từ giai phẩm THOÁT số Noel 72)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét