Thứ Tư, 14 tháng 12, 2022

MƯA MÙA ĐÔNG - Hoàng Ngọc Tuấn

 


Mùa Hạ của phố Huế có nhiều hoa phượng. Trên con đường vắng chạy dọc theo bờ sông, người đi đường đôi khi ngước mắt nhìn lên, bao giờ cũng thấy những dải hoa đỏ rực rỡ kết đầy trên tàng lá cây xanh. Trong lớp học, cô giáo mệt nhọc đọc từng chữ cho học trò chép. Cô bảo sắp đến kỳ thi lên lớp cuối năm rồi, các em phải cố gắng chăm chỉ thêm chút nữa. Thi đỗ là mùa nghỉ hè thênh thang tươi đẹp trao tặng cho các em.
 
Nhưng hầu hết bọn học trò đều ngủ gục trên bàn, hơi nóng gắt gỏng của mặt trời và tiếng ve kêu vang um, không đánh thức được chúng. Tôi cố gắng chống chọi với cơn buồn ngủ để làm một bài thơ. Thủa ấy có lẽ tôi được mười lăm tuổi. Vào tuổi đó, các cậu bé con chỉ có thể làm thơ tả cảnh đầm ấm trong gia đình hoặc làm thơ tình gởi đến cho những cô con gái trong mộng. Tôi làm một bài thơ tình và phải chăm chú nhìn cô giáo để diễn tả nét mặt của cô trong thơ.
 
Cô giáo của tôi tên là Dạ Thảo, đó là một cô gái xuất sắc chưa hề thấy trên đời. Cô dạy môn văn chương nhưng bọn học trò con trai cả năm không biết một tí gì về văn học sử cả, chúng chỉ mê mẩn ngắm thân hình mảnh mai của cô trong những chiếc áo dài mềm mại mà cô mặc thay đổi mỗi ngày. Khi thì áo màu tím, màu xanh, hay màu trắng, màu nào trông cũng thật là quý phái. Mái tóc đen óng ả, làn da trắng, đôi mắt trong và nụ cười thắm của cô, tất cả đều dễ thương quá, nên chẳng có đứa nào sợ cô cả. Lớp học mỗi khi đến giờ cô dạy thật thú vị. Bọn học trò chia ra làm hai hạng: bọn có tâm hồn mơ mộng nhìn cô không chớp mắt, còn bọn có tâm hồn bằng đá, cứ tự do chuyện trò, đọc truyện kiếm hiệp hay chụm đầu chơi ca-rô với nhau.
Tôi thuộc vào bọn thứ nhất. Tôi lại ở trong hạng nhỏ con trong lớp, nên được ngồi ở dãy bàn đầu, chỗ gần với cô giáo nhất. Vì thế tôi thuộc lòng những ý nghĩa trong mắt cô Dạ Thảo. Khi nào cô hài lòng điều gì, đôi mắt cô biến thành màu nâu dịu dàng, khi cô giận dỗi màu nâu ấy đổi sang màu đỏ. Nhưng màu nâu hay màu đỏ đều quyến rũ cả. Mỗi tuần thằng nào làm được bài luận Việt văn cao điểm nhất, cô bảo nó đứng dậy đọc cho cả lớp nghe, rồi cô xoa đầu nó khen ngợi. Cái trò đó quả thật tuyệt vời. Tôi dần dần bỏ bê hết tất cả những môn học nào ngoài môn Việt văn, suốt ngày chúi đầu đọc một lô sách truyện đủ thứ, tiểu thuyết tiền chiến, truyện trinh thám, ái tình, truyện kiếm hiệp... để được “văn chương thấm vào người”, như cô Dạ Thảo nói. Rồi cái ngày thần tiên nhất của tôi cũng đến. Bài luận của tôi, tả một cảnh biệt ly trong gia đình, được chấm nhất lớp. Trong khi đó, tôi bị các ông giáo môn toán chửi mắng thậm tệ, vì tôi luôn luôn bó tay trước bất cứ một bài toán nào, dầu dễ nhất.
 
Cô Dạ Thảo gọi tôi đứng dậy. Tôi lắng nghe tên mình phát ra từ đôi môi dễ yêu của cô, và tôi run run đọc bài luận cho cả lớp nghe. Xong xuôi, cô khen tôi vài lời, nói rằng mong muốn tôi cứ xuất sắc mãi như vậy. Rồi cô ban phần thưởng như thường lệ, nghĩa là dùng năm ngón tay trắng mềm mại xoa lên mái tóc tôi. Hạnh phúc làm người tôi nóng bừng, tôi lén ngước mắt nhìn lên và bắt gặp vội vàng đôi mắt của cô âu yếm lạ thường.
 
Thuở ấy, tôi yêu cô Dạ Thảo vô cùng và tôi quả quyết với bạn bè là cô giáo cũng mê tôi như chết. Nhưng về sau, sự thực đã chứng minh ngược lại, không ai còn nghe được tiếng trách móc và lời giảng bài ngọt ngào của cô nữa. Cô giáo yêu dấu của một thời tuổi thơ đã bỏ trường, bỏ học trò, đi lấy chồng. Ngày đó tôi hậm hực viết đầy trên trang giấy vở những chữ to tướng: Cô giáo phản bội. Những chữ ấy thật ghi đậm dấu vết trong tâm hồn tôi, nhưng giá có người nào đọc được, chắc họ sẽ cười lăn ra chết.
 
Một lần nào đó, cô Dạ Thảo ngạc nhiên khi thấy tôi không làm bài luận nhan đề: “Tả một cảnh êm ấm trong gia đình với cha mẹ và anh em”. Tôi không biết gì về cảnh đó. Tôi không được sống trong mái nhà êm ấm mà trẻ thơ nào cũng mơ ước. Tôi mất cha từ nhỏ, chưa hề thấy mặt người. Mẹ tôi yêu tôi, nhưng bà cũng yêu thêm một người đàn ông khác. Bà sống với một người chồng mới và muốn có tôi bên cạnh, nhưng tôi thích ở với bà ngoại tôi hơn. Trong ngôi nhà cổ kính có vẻ lạnh lùng của bà ngoại, tôi cảm thấy bình yên, vì ở đó không có người lạ. Hồi nhỏ, người ta sợ hãi những người lạ biết bao.

Người ta không yêu Huế vì mùa Hạ. Mùa Hạ nắng chảy trên da người như đè nặng cả một khung trời lửa. Tôi yêu Huế vì mùa Đông mặc dầu mùa Thu là mùa dễ thương nhất. Mùa Thu lá vàng rụng nhiều, làm buồn lòng người phu quét đường còm cõi. Tôi sẽ nhớ mãi hình ảnh mơ màng của mùa Đông ở Huế.
 
Hình như Huế là một thành phố mưa. Bầu trời, mái ngói, những ngọn cây đều là một màu trắng mờ chao động. Mưa kéo dài suốt tuần lễ, có khi suốt tháng trường, thỉnh thoảng mưa tạm dừng lại giây lát cho những cậu bé con chạy ào ra bờ sông, ao hồ để câu cá. Trường học đóng cửa vì “lễ lụt”. Nước ngập cao ở mọi đường, khiến thầy giáo và học trò đều không đến trường được. Nước sông lên cao chôn vùi Đập Đá. Những người đi xe đạp, khi băng qua đập, phải dắt xe chậm chạp từng bước, người nào không cẩn thận sẽ té nhào xuống sông và bị dòng nước cuốn phăng đi mất. Mực nước trong thành phố lên cao mãi. Những nhà cửa đã bị nước tràn vào sân và rồi nước ngập khắp các căn phòng. Bàn ghế, đồ đạc, chồng chất lên nhau, trên chỗ cao nhất đặt một tấm gỗ làm nơi cư trú cho cả gia đình.
 
Ngôi nhà của tôi nằm trên một trũng đất thấp. Nước đã xâm chiếm khắp căn nhà, phá hoại hết khu vườn đầy cây trái và hoa cỏ, chuồng gà sau bếp cũng mất tích theo dòng nước lũ. Người lớn lo âu vì gạo dự trữ sắp hết và không thể đi đâu được. Nhưng trẻ con khoái biết bao, được nghỉ học, được ngồi yên trên một con đò nhỏ và nhờ bác chèo ghe chở đi vòng quanh nhà hay sang nhà hàng xóm mượn vài lon gạo. Tôi thích sang nhà trước mặt nhất, vì nhà ấy có một cô gái tên Bích Câu. Bích Câu lớn tuổi hơn tôi nhiều, nàng học trường  Đồng Khánh nên sáng nào cũng thướt tha điệu bộ đi học ngang qua nhà tôi. Ngày lụt lội, Bích Câu mất hết cái vẻ đài các. Nàng mặc chiếc áo cụt tay thấm đầy nước mưa, quần xắn đến đầu gối để lộ làn da chân trắng nõn. Bích Câu đang mải mê lội nước, tìm những cành cây trôi vật vờ, đem về nhà nhóm bếp, nấu nướng. Tôi bỏ con đò, nhảy xuống nước tìm củi giùm cho Bích Câu. Tôi phải bậm môi cố bíu chặt chân mình trên mặt đất mềm nhũn. Rồi tôi cũng đem đến cho Bích Câu một bó củi to tướng. Nàng cười nói cảm ơn, nàng khen tôi dễ thương và nói rằng tôi khoan về nhà, cứ ở đây kiếm củi cho nàng, đến trưa ăn cơm ở nhà nàng luôn, mẹ nàng cũng mến tôi lắm. Nhưng tiếng kêu của bà ngoại tôi đã vang lên:
 
- Đông ơi, về nhà ăn cơm. Con đi đâu từ sáng đến giờ?
 
Tôi vội vàng quay về ngay, tuy trong bụng tiếc kinh khủng. Bích Câu dặn dò:
 
- Đông cẩn thận kẻo nhào xuống ao nghe. Cứ theo đường thẳng này mà đi là đúng đường, còn hai bên là ao sâu cả đó.
 
- Yên trí. Tôi thuộc lòng vườn nhà tôi mà, cây ổi nào vừa có trái chín là biết ngay, huống gì hai cái ao to tướng. Chỉ tiếc không được ăn cơm ở đây thôi, trưa nay nhà chị ăn cơm với gì đó?
 
Bích Câu cười, nàng đưa tay vén lại mái tóc đen nhánh của nàng, giờ đây đã ướt sũng nước.
 
- Nhà hết thức ăn rồi. Trưa nay mỗi người ăn một chén cơm với nước mắm ớt. Thấy nhà nghèo ghê chưa?
 
- Nghèo gì? Trời lạnh như thế này mà đớp một chén cơm nóng hổi... nghe nói đã chảy nước miếng.
 
- Thế nhà Đông ăn gì?
 
- Có lẽ ăn cơm với mắm cá.
 
- Trời ơi! Tuyệt quá.
 
- Qua tôi ăn cơm đi.
 
- Không được, mẹ la chết. Thôi Đông về đi, chiều qua chơi nghe.
 
Tôi vùng vẫy chân dưới nước chảy xiết, đi khó khăn từng bước một. Tôi cứ quay đầu nhìn Bích Câu mãi, nên suýt chút nữa bị ngã xuống ao. Khi bàn chân đạp trúng ngay bờ ao, tôi sợ tái người và vội vàng hụp cả thân người xuống nước, hai tay hối hả khoát bơi mạnh qua một bên. Áo quần ướt nhèm, dính sát vào da thịt làm tôi lạnh cóng. Tôi đứng run lẩy bẩy như một con gà bị thả vào hồ nước. Mái ngói của ngôi nhà trước mặt mà bây giờ sao thấy quá xa. Tôi bỗng thèm ghê lắm một lò lửa có những thanh củi nổ tí tách.
 
Buổi trưa, cơn bão tố từ đâu kéo về thổi ào ào như muốn nhổ bật cả khu xóm. Tiếng gió réo và tiếng những cành cây gẫy nghe thật bồi hồi.
 
Buổi chiều mưa ngớt hột, một vài chiếc đò chèo đến trước nhà rao hàng. Bà ngoại mua một ít gạo và cá khô để dành cho những ngày sắp đến. Khi bà ngoại quay vào trong nhà, tôi leo lên đứng trên cánh cửa sổ, mực nước bây giờ đã lên ngang bằng cánh cửa. Tôi kêu lên khi người lái đò sửa soạn nhổ cây sào để chèo đi.
 
- Bây giờ bác chèo đi đâu nữa?
 
Người lái đò hất đầu hướng về những mái nhà hàng xóm đang chìm ngập trong biển nước, chiếc nón lá trên đầu của bác ta rách tơi tả dưới cơn mưa.
 
- Còn phải đi bán cho mấy nhà khác, có lẽ tối mới về nhà.
 
- Bác chở giùm tôi qua nhà trước mặt một chút đi. Bác qua bên đó bán cho người ta luôn, họ cũng hết thức ăn rồi.
 
Người lái đò gật đầu, chờ tôi leo xuống đò xong, bác ta mới nhổ cây sào ra khỏi mặt đất và mệt nhọc chống sào xuống dòng nước để con đò trôi chậm từng bước ngắn. Khi đò trôi vào cổng nhà Bích Câu, đã thấy nàng ngồi trên cửa sổ, khuôn mặt nàng không hiểu sao trông thật buồn bã, bàn tay thả những tờ giấy màu xanh rơi lả tả trên mặt nước. Bích Câu ngẩng đầu lên.
 
- Tôi buồn quá Đông ơi!
 
Nàng làm tôi ngạc nhiên, tôi nhìn thấy đôi mắt nàng hơi đỏ vì hình như đã khóc.
 
- Tại sao buồn? Trời lụt được nghỉ học mà còn buồn gì nữa. Bộ nhà hết gạo ăn rồi hả?
 
- Không phải. Tại vì tập thơ của tôi, tôi mất hết tập thơ rồi.
 
Bích Câu nói món đồ nàng quý nhất là tập thơ chép tay của nàng. Nàng đã mua mấy trăm tờ giấy pelure màu xanh, khâu chỉ đóng lại thành một tập dầy, có đóng bìa cứng cẩn thận. Trên những trang giấy đó, nàng đã chép biết bao bài thơ thật hay, trích từ những tờ báo hay sách mà nàng mượn của bạn bè.
 
- Tôi cất kỹ nó trong hộc, lúc bận dọn dẹp đồ đạc, bỗng quên mất nó đi. Đông xem, còn gì nữa đâu, nước ướt hết, rách nát hết rồi... chỉ còn vài tờ.
 
Tôi cầm lấy một tờ giấy màu xanh từ tay nàng, trang giấy ướt mèm nước dơ bẩn, những dòng chữ viết bằng mực tím của nàng, bây giờ trông nhòe nhoẹt, có chữ bị xóa mờ hẳn đi. Một bài thơ nào đó không còn toàn vẹn.
 
Bích Câu cứ ngồi âu sầu một chỗ mãi. Tôi nghĩ rằng có lẽ nàng cứ ngồi lặng yên như thế, cho đến khi biến thành một hòn sỏi lăn xuống nước, và tôi làm thế nào tìm được một hòn sỏi nhỏ bé trong sóng nước mù tịt này. Con gái khi buồn trông thật đáng yêu, tôi muốn mình cao lớn thêm thật nhiều, lớn thêm vài tuổi nữa, để có thể vuốt ve mái tóc dỗ dành nàng. Tôi có một cách riêng để an ủi con gái. Lúc đầu là chọc cho nó giận dỗi thêm để khóc òa, và sau cùng là dỗ dành thực sự cho cô nàng hết khóc.
 
- Thôi đừng buồn nữa. Mùa lụt này có khối người mất hết nhà cửa, ruộng vườn, chị mất một xấp giấy vớ vẩn mà cũng bày đặt buồn.
 
- Đông không có tâm hồn. Đông không biết yêu văn chương gì cả.
 
- Đừng đùa. Trong lớp tôi đứng nhất về môn Việt văn đó.
 
- Vậy tại sao Đông không tiếc giùm tôi? Mấy trăm bài thơ chép cả hai năm nay bây giờ mất hết. Giờ có muốn chép lại cũng cũng không mượn đâu cho có đủ những bài thơ đó.
 
Tôi bắt đầu pha trò của tôi.
 
- Chép lại làm gì cho mất công. Bây giờ lo để dành tiền mua sách về tâm lý đàn ông, tâm lý ái tình mà đọc. Này, nói thật cho chị biết, chị lớn rồi nghe không, lo kiếm chồng là vừa, chứ không phải lúc nào cũng thơ thẩn mãi được.
 
Bích Câu đỏ bừng mặt, nàng kêu lên:
 
- Đông nói gì kỳ cục vậy?
 
- Con gái lớn rồi phải đi lấy chồng, chứ có gì mà kỳ cục. Mấy lúc này thấy có nhiều ông nào lượn quanh nhà chị hoài, chọn đại một ông đi.
 
Bích Câu bĩu môi. Mặt nàng trở nên nghiêm trang, đôi mắt nhíu lại khó chịu nhìn tôi.
 
- Đông vô duyên quá. Khi không để ý vào chuyện người khác làm gì vậy?
 
Tôi đứng sựng lại, mặt nóng bừng vì sượng sùng. Cái chữ “vô duyên” quá nặng nề đối với tôi, và bất cứ một ai nói với tôi câu đó đều làm tôi sợ hãi. Khuôn mặt của Bích Câu bây giờ hết vẻ tội nghiệp, đôi mắt nàng thật xa lạ, lạnh lùng. Nàng đã không khóc như tôi chờ đợi, và trái lại, bây giờ tôi có vẻ là người muốn khóc hơn cả. Tôi đứng yên ngẫm nghĩ về mình và nghĩ rằng có lẽ mình vô duyên thật, điều đó làm tôi buồn bã vô cùng. Bích Câu càng thêm vẻ thờ ơ, nàng không nhìn tôi, không nhìn ra ngoài bầu trời mưa nữa. Nàng đã buông hết những tờ giấy màu xanh xuống nước và nàng dùng những ngón chân của nàng đùa nghịch trong lòng nước sóng sánh.
 
Con đò đã bỏ đi từ hồi nào tôi chẳng hề hay biết. Những hạt nước mưa tuy không còn rơi mạnh mẽ, nhưng cũng thấm ướt trên đầu và thân người tôi từng giọt thật lạnh băng. Hôm nay lại thêm một bữa tắm mưa lạnh gần chết.
 
Tôi quay về nhà, nhìn khuôn mặt mình không còn ra hình dáng gì nữa, dưới làn nước đục ngầu một màu bùn đỏ.
 
Tôi cảm thấy giận Bích Câu lạ lùng. Nếu tôi là người luôn luôn sẵn sàng dỗ dành con gái, thì trái lại, cóc có một cô nào chịu khó dỗ dành tôi cả. Bích Câu không nói thêm một tiếng, nàng thản nhiên nhìn tôi bỏ đi.
 
Cứ mỗi buổi chiều xám nặng nề, nước bao la dưới chân và nhiều gió lạnh, tôi thường nghĩ đến một lò lửa ấm áp. Nhưng rồi khi nằm bên cạnh lò lửa trong nhà, lại mơ tưởng đến bầu trời cao ngoài kia xanh bát ngát.

Ba ngày sau, mực nước xuống nhiều, chỉ còn cơn mưa tầm thường mà bất cứ thành phố nào cũng có thể có. Trời thôi không còn gió bão.  Nước lũ lượt rút đi khỏi ngôi nhà và khu vườn, theo ao và đường cống hai bên đường chảy ra sông. Khu vườn bây giờ là một miếng đất xác xơ, đám ớt xanh, bắp cải, những cây rau quế, rau dền, rau khoai hư nát hết. Vườn hoa hồng và hoa huệ mà sớm mai nào bà ngoại cũng thức dậy tưới nước, bắt sâu, bây giờ ngã rạp nhàu nát trên bùn đất, trông buồn bã như những xác người chết.
 
Tôi thức dậy sớm vì nghe tiếng gọi tên mình từ bên nhà hàng xóm. Thoạt đầu tưởng như tiếng gọi của Bích Câu, nhưng khi vừa dụi mắt mới biết là không phải. Tôi nhận ra khuôn mặt quen thuộc của anh Đào. Anh Đào đang đứng co ro mình trong chiếc áo mưa nhà binh bạc màu, đầu anh đội một chiếc mũ cát-két như những tay thợ săn, chân đi giày ba-ta rách bươm. Tôi chỉ bằng tuổi mấy đứa em của anh Đào, nhưng anh thường rủ tôi chơi với anh trong những vụ tắm sông hay đạp xe lên các lăng tẩm. Anh Đào đưa hai bàn tay trước miệng làm ống loa rồi la lên:
 
- Ê, Đông ơi, thức dậy đi lội nước với tao.
 
- Trời còn mưa nhiều không?
 
- Còn. Mưa mới khoái, mày kiếm cái áo mưa với bộ đồ nào dơ nhất mặc vào rồi qua đây nhanh lên. Đi ra bờ sông coi người ta câu cá.
 
Tôi vùng dậy ngay. Đi chơi lang thang dưới cơn mưa thật tuyệt, dù người tôi đang run lên vì lạnh, tôi cũng không thể nào bỏ qua được. Tôi vội vã tìm ba chiếc áo sơ mi thật dầy, mặc chồng lên nhau vì trời còn lạnh, cổ quấn khăn kín mít. Tôi may mắn tìm được đôi giày ba-ta há mõm nhưng thiếu chiếc mũ thợ săn như của anh Đào. Cuối cùng, tôi đành trùm lên đầu chiếc mũ to tướng của ông cậu tôi. Tôi chạy nhanh ra khỏi cổng nhà, anh Đào đứng chờ trước cửa nhà anh. Anh đang hút thuốc, khi thấy tôi anh nhe răng ra cười để lộ hàm răng thiếu một chiếc ở giữa. Vì sún răng, nên anh có thể làm cái trò rất thú vị là gắn điếu thuốc lá vào hàm răng anh, giữa kẽ hở nhỏ xíu. Tôi bật cười, anh Đào vỗ vai tôi.
 
- Mấy bữa nay mày đi đâu mất tao tìm hoài không thấy?
 
- Qua nhà chị Bích Câu chơi.
 
Anh Đào tỏ vẻ ngạc nhiên nhìn tôi.
 
- Bên đó có gì vui đâu?
 
- Chị Bích Câu dễ thương lắm.
 
Đôi mắt của anh Đào mở tròn kinh ngạc, anh nhún vai và vứt điếu thuốc xuống đất.
 
- Dễ thương? Cái con nhỏ chua ngoa nhất xóm này mà mày bảo dễ thương? Con nhỏ có bộ mặt dài như ngựa mà lúc nào cũng vênh lên, tưởng mình đẹp ác lắm.
 
Đến lượt tôi ngạc nhiên.
 
- Mặt vậy mà bảo là dài? Chị ấy đẹp quá trời đi, lại văn nghệ ghê lắm. Anh biết không, chị Bích Câu có một tập thơ quý lắm, chép nhiều bài thơ xưa thật hay.
 
- Bộ mày mê con Bích Câu rồi phải không?
 
Tôi gật đầu, tôi không giấu diếm điều gì với anh Đào, nhất là những chuyện tình cảm, bởi vì anh Đào là ông giáo đầu tiên dạy cho tôi những bí quyết chinh phục con gái, dầu tôi không bao giờ thấy anh Đào quen với một cô nào cả. Tôi buồn buồn thú nhận với anh Đào là tính tôi đơn giản đến nỗi yêu hầu hết những người đàn bà nào tôi quen hay chỉ vừa gặp. Tôi lại biết điều khiển giấc mơ của mình thật tài tình. Mỗi đêm, trước khi đi ngủ, tôi dành chừng nửa giờ nghĩ đến người con gái nào là khi thiếp đi, tôi sẽ gặp nàng trong giấc mơ.
 
- Đêm qua mới nằm mơ thấy chị Bích Câu. Nhưng hơi kỳ lạ... thấy chị ấy đi lấy chồng rồi ông chồng nào cũng bị rơi xuống giếng chết đuối cả. Có chừng mười người chết như vậy, nên rốt cuộc không ai dám lấy chị cả. Đến năm 90 tuổi, chị Bích Câu vẫn góa chồng... nhưng thật kỳ cục, già như thế mà nước da chị vẫn trắng như tuyết...
 
Anh Đào bực mình ngắt lời tôi.
 
- Thôi, dẹp chuyện mơ mộng của mày đi. Nếu tao có khá tiền, tao sẽ dẫn ngay mày đến một ông bác sĩ trị bệnh thần kinh.
 
Anh Đào nắm tay tôi lôi đi. Trên mặt đường, nước mưa chỉ còn lúp xúp ngang mắt cá chân, vừa đủ để tôi nhúng đôi chân trong làn nước mát lạnh và đá văng tung tóe những hạt nước văng lên cao. Mưa rơi từng giọt lộp bộp trên đầu nghe thật vui tai. Đôi khi một cơn gió mạnh thổi qua, cành cây nhỏ nào đó rơi trúng vào vai làm tôi giật mình. Tôi với anh Đào đi dọc theo bờ sông Hương. Trên bờ sông, cứ cách một quãng ngắn là một lão già đang đội mưa giăng lưới. Hình như tất cả những cậu bé con của thành phố đã đổ xô ra những bờ sông. Đứa đứng nhìn, đứa vút mạnh lưỡi câu xuống dòng nước. Những đứa nào mới tập tành câu cá thì ra những bờ ao và ruộng cạn, ở đó có rất nhiều cá bống và cá rô, thứ cá dễ ăn mồi nhất.
 
Tôi nhìn thấy những điếu thuốc bốc khói xanh thật đẹp, cứ liên tiếp đốt trên môi anh Đào, tôi xin một điếu nhưng anh không cho. Tôi cố gắng nói và nghĩ rằng nếu tôi không nói lên được, chắc người tôi sẽ chết cóng:
 
- Anh Đào ơi, xin điếu thuốc hút cho ấm bụng.
 
- Nói lớn lên... tao không nghe gì cả, trời mưa lớn quá.
 
Tôi nổi cáu gân cổ lên:
 
- XIN ĐIẾU THUỐC!
 
- Không được. Mày còn nhỏ đừng bày đặt.
 
- Mười lăm tuổi rồi chứ còn nhỏ gì?
 
- Nói lớn lên... tao không nghe gì cả.
 
- MƯỜI LĂM TUỔI RỒI!
 
- Đợi sang năm mười sáu tuổi rồi hút thuốc.
 
Tôi thèm một điếu thuốc lá quá chừng. Tôi lầm lũi đi nhanh, bàn chân bực dọc đá văng tất cả những cành cây gãy gặp phải trên đường. Hai người đi qua cầu Trường Tiền và tôi phải bám chặt vào thành cầu để khỏi bị gió thổi bay xuống sông. Anh Đào đi còng lưng như người già. Anh đưa hai tay giữ chặt chiếc mũ thợ săn và nhăn nhó vì những hạt nước mưa thi nhau quất vào mặt. Anh nói lắp bắp:
 
- Mày thích vô tiệm ngồi cho ấm không?
 
Tôi giả vờ kêu lên:
 
- Nói lớn lên... Trời mưa quá, không nghe gì cả.
 
Tôi nhìn thấy anh Đào há miệng thật lớn, chắc nước mưa đã bay vào đầy cổ họng anh.
 
- THÍCH VÀO TIỆM KHÔNG?
 
- Không. Anh đi một mình đi, tôi về.
 
- Đừng đùa. Mày về một mình rủi nhào xuống sông chết đuối, tao biết nói sao với bà ngoại mày?
 
- Mặc kệ. Tôi về đây.
 
Anh Đào hoảng hốt nắm chặt lấy chiếc áo mưa của tôi, năn nỉ:
 
- Thôi đi với tao vào tiệm rồi tao cho hút thuốc lá.
 
- Nói lớn lên... không nghe gì cả.
 
- THẰNG QUỶ! TAO CHO MÀY HÚT THUỐC, KHỎI ĐỢI ĐẾN SANG NĂM NỮA.
 
Tôi cười sặc sụa vui thích, cùng với anh Đào chạy nhanh qua cầu để đến tiệm cà phê. Chắc anh Đào cũng thèm uống một ly nước gì đó như tôi, vì cả hai vừa hét quá nhiều đến khan cả cổ.
 
Quán ít người, người nào cũng co ro trong chiếc áo đi mưa và một điếu thuốc lá trên miệng. Mưa tạt vào những bàn ghế đặt ngoài quán, nên anh Đào phải tìm một chỗ kín nhất trong góc quán. Anh Đào vẫn đội chiếc mũ thợ săn thật đẹp, còn tôi vội vàng lột chiếc mũ to tướng và lố bịch của tôi ra. Người bồi tiến lại trước mặt anh Đào.
 
- Cho tôi một ly cà phê sữa... còn thằng này, mày uống gì? Một ly chè trái cây hay chè đậu xanh nhé.
 
- Trời ơi, lạnh như thế này mà uống cái thứ dành cho trẻ con đó!
 
Tôi nói với người bồi bằng cái giọng thản nhiên và thành thạo như đã vào quán này cả ngàn lần.
 
- Anh cho tôi một ly cà phê đen với một  “ lon”  Ruby.
 
Anh Đào nhún vai, lắc đầu nhìn tôi rồi nhìn ra ngoài đường. Đường phố mờ mịt trong cơn mưa, một vài người vội vàng đi qua lại. Chiếc máy hát trong quán rè rè chạy một bản nhạc ăn khách nhất lúc này, bài Bambino do giọng hát ma quái của Dalida trình bày. Lát sau, người bồi trở lại với hai ly cà phê bốc khói thật ấm, và một lon sữa bò trong đó đựng năm điếu thuốc lá hiệu Ruby Queen. Tôi châm một điếu trước tiên, khói nóng nặng nề trong miệng và cay xè đến chẩy nước mắt. Trời đã mờ vì mưa, đôi mắt lại bao phủ thêm bằng một vài giọt nước mắt, nên khi tôi nhìn sang bên kia đường, cảnh tượng hết sức mờ nhạt như một khúc phim bị hư. Rạp chớp bóng vừa mới vãn, khán giả chen chúc đi ra đường phố, có những đàn bà mặc áo đi mưa màu xanh, đỏ hay tím, trông thật vui mắt.
 
Đến ngày cuối tuần, cơn mưa hoàn toàn chấm dứt. Nước đã khô trên đất, chỉ còn những ao sâu hai bên đường là vẫn còn đầy ắp dòng nước chảy xiết. Mặt trời đã lâu không ai nhìn thấy, bây giờ hơi ửng một chút hồng hào như má con gái. Và dần dần, tia nắng đỏ rực rỡ trên mái ngói và những cành cây chỉ còn một ít lá xanh. Ban đêm, tôi sang nhà Bích Câu để xin vài viên thuốc cảm. Người tôi bây giờ lúc nào cũng lạnh run từ trong da thịt, vì những vụ đội mưa đi chơi vừa rồi. Tôi chăm chú nhìn khuôn mặt của Bích Câu để xem mặt nàng có dài như mặt ngựa không, nhưng tuyệt không, khuôn mặt nàng vẫn tròn và trắng xanh, che lấp sau mái tóc đen nhánh.
 
- Đông thấy tóc tôi đẹp không? Mới gội đầu với bồ kết đó.
 
- Ừ.
 
- Đông có giận tôi phải không?
 
- Không.
 
- Thế sao mấy ngày này không qua đây chơi?
 
- Bận đi chơi với anh Đào, anh ấy vui vẻ hơn chị nhiều.
 
Bích Câu mở tròn mắt ngạc nhiên, tôi lại nhớ đến nét mặt của anh Đào khi nghe nói về Bích Câu.
 
- Chơi gì với cái thằng răng sún dễ ghét đó?
 
- Đừng nói bậy, anh ấy dễ thương lắm.
 
- Dễ thương? Cái thằng ăn bận như cao bồi, sáng nào tôi đi học cũng bị nó chận lại ở góc đường chọc ghẹo.
 
- Anh ấy đâu có thèm chọc chị làm gì. Chị tưởng chị đẹp lắm sao?
 
Tôi ra về. Bây giờ nước đã cạn khô, con đường gạch đá hay ao sâu đều hiện rõ, nên Bích Câu không dặn dò tôi phải đi cẩn thận nữa. Bích Câu chỉ kêu nhỏ:
 
- Đông có hơi giận tôi phải không?
 
- Phải. Nhưng giận ít thôi.
 
- Vậy làm sao cho Đông hết giận?
 
- Đừng làm gì cả. Cứ để tự nhiên rồi hết.
 
Bích Câu bật cười. Tôi không quay lại, nhưng vẫn thấy rõ ràng trong trí não đôi môi nàng đỏ hồng tươi thắm, trời bây giờ có nắng ấm, nên môi của nàng không còn tái xanh nữa.
 
Đêm khuya, tôi nhìn sang nhà Bích Câu, phòng nàng vẫn còn thắp ánh điện vàng. Chắc nàng đang sửa soạn lại bài vở và ủi chiếc áo dài trắng. Tôi lấy chăn đắp kín người, để đôi mắt mở ra vẫn không nhìn thấy gì cả. Sáng mai, trên đường sẽ có nhiều người đi. Bích Câu sẽ thướt tha trong chiếc áo dài trắng, khuôn mặt nàng sẽ nghiêm trang như thường lệ. Có thể nàng làm lơ khi thấy tôi hay chỉ nhếch mép cười mỉm rất nhanh. Dầu sao tôi cũng mong con đường của nàng đi sẽ đen nhánh, lóng lánh như hột nhãn sau những ngày nước mưa quét sạch bụi bặm. Nếu thỉnh thoảng trên đường có một vài màu xanh lấm tấm, đó là màu xanh của những trái sầu đông đã rơi vội vàng trong mùa mưa bão.
 
Người nữ xướng ngôn viên của đài phát thanh loan báo theo một nguồn tin của Sở Khí tượng, cơn bão lụt ở thành phố Huế đã chấm dứt. Xe buýt đã chạy như thường lệ, và bắt đầu từ sáng thứ hai, học trò sẽ lại cắp sách đến trường.
 
Như thế là cơn mưa mùa Đông trên thành phố này đã qua đi. Khi Huế hết mùa mưa, tôi thấy bớt yêu Huế nhiều hơn.
 
 
Hoàng Ngọc Tuấn
 
(Trích từ tập truyện Học Trò, Vàng Son xuất bản 1973)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét