tuổi hoa... râm
kỷ niệm đẹp của tuổi già là tấm vé cuối cùng đi... tuổi thơ!
Thứ Hai, 18 tháng 3, 2024
ĐƯA EM ĐẦU ẢI CUỐI GHỀNH - Trần văn Nghĩa
Thứ Sáu, 15 tháng 3, 2024
TIỀN CHUỘC TÙ TRƯỞNG DA ĐỎ - O. Henry
Mọi việc trông như suôn sẻ. Nhưng hãy đợi đến khi tôi kể hết cho bạn nghe. Khi Bill Driscoll và chính tôi xuống miền Nam thuộc tiểu bang Alabama, thì ý nghĩ bắt cóc nảy ra trong đầu. Ở đó có một thị trấn hẹp như chiếc bánh kếp, tên là Summit. Bill và tôi có chừng sáu trăm đô la, chúng tôi chỉ cần thêm hai ngàn đô la nữa là đủ cho phi vụ mua bán đất chui ở Illinois.
Chúng tôi bắt đầu chọn nạn nhân, nhận ra duy nhất chỉ có một thằng nhóc, con của lão Ebenezer Dorset là người có thế lực trong thị trấn. Thằng nhóc lên mười tuổi có mái tóc đỏ. Bill và tôi cho rằng lão Ebenezer sẽ phải trả hai ngàn đô la tiền chuộc để nhận thằng bé về. Nhưng hãy đợi đến khi tôi kể hết cho bạn nghe.
Cách thị trấn Summit chừng hai dặm có một ngọn núi nhỏ phủ đầy cây tuyết tùng. Phía sau ngọn núi có một lỗ hổng, chúng tôi giấu hành lý ở hang động đó.
Đêm nọ, chúng tôi đánh chiếc xe ngựa ngang qua nhà lão Dorest. Thằng nhóc đang ở trên phố, ném đá vào một con mèo trên hàng dậu đối diện. Bill nói:
- Này em bé! Em muốn có một túi kẹo và một cuộc dạo chơi tuyệt vời bằng xe ngựa không?
Thằng nhóc nhìn thẳng vào Bill bằng cặp mắt sắt đá, tinh thần sẵn sàng chiến đấu như một động vật hoang dã. Nhưng cuối cùng chúng tôi cũng dụ được thằng nhóc lên xe, đưa xuống ngồi ở dãy cuối rồi đánh xe chạy một mạch đến hang động. Thằng nhóc có hai chiếc lông chim to cài trên tóc. Nó đưa tay chỉ vào một chiếc cho tôi xem, rồi nói:
- Ha! Bọn da trắng. Các ngươi dám xông vào trại của tù trưởng da đỏ, khủng bố người da đỏ phải không?
Bill xăn chiếc quần dài của thằng nhóc lên, xem các vết thương trên đôi chân nó, rồi nói:
- Hiện giờ thằng nhóc khỏe mạnh. Chúng ta đóng vai người da đỏ. Ta là già Hank chuyên bẫy thú, bị tù trưởng da đỏ bắt giữ. Ta sắp bị lột da đầu lúc rạng đông!
Tôi nói với thằng nhóc:
- Này tù trưởng da đỏ, ngươi có muốn về nhà không?
Thằng nhóc hỏi:
- Ô, để làm gì? Ở nhà ta không có trò gì vui cả. Ta ghét đi học, chỉ thích đi cắm trại ngoài trời. Các ngươi sẽ không đưa ta về nhà nữa phải không?
Tôi đáp:
- Không phải ngay bây giờ. Chúng ta sẽ ở đây, trong cái động này một thời gian đã!
Thằng nhóc nói:
- Tốt! Đó là ý tốt. Suốt đời ta chưa bao giờ có cuộc vui nào như thế này.
Rồi đến 11g đêm, chúng tôi đi ngủ. Vừa tảng sáng, tôi bị đánh thức bởi một loạt tiếng thét kinh hoàng của Bill. Thằng nhóc đang ngồi trên ngực Bill, một tay giữ tóc tay kia cầm một con dao bén, cố cắt da đầu của Bill như lời nói tối hôm qua. Tôi vội giật con dao khỏi tay nó. Nhưng sau sự việc đó, tinh thần của Bill suy sụp. Bill nằm ngủ, nhưng không bao giờ nhắm mắt lại chừng nào mà thằng nhóc còn ở với chúng tôi.
Bill hỏi:
- Mày có cho rằng có ai đó sẽ trả tiền chuộc để nhận một thằng tiểu yêu như thế về nhà không?
Tôi nói:
- Chắc chắn. Một thằng nhóc như thế đúng là loại mà bố mẹ chúng thương yêu chiều chuộng. Bây giờ mày gọi thằng nhóc tù trưởng dậy đi và làm cái gì để ăn, trong khi đó tao lên trên đỉnh núi này nhìn xung quanh xem sao.
Tôi trèo lên đỉnh ngọn núi, quan sát khắp thị trấn Summit, mong thấy cánh đàn ông trong làng lùng sục các ngõ ngách để tìm thằng nhóc mất tích, nhưng tất cả yên lặng như tờ. Tôi tự nhủ: “Có lẽ chưa ai biết các con sói đã đưa con cừu non vào khe núi đâu!” rồi leo xuống núi.
Khi trở lại hang động, tôi thấy Bill quay lưng ngược ra thở hổn hển, còn thằng nhóc đang dọa đập hòn đá vào Bill. Bill phân trần:
- Nó áp một củ khoai tây nóng hổi vào lưng tao, rồi lấy chân đè lên. Tao đã tát vào tai nó, mày có đem theo cây súng nào không Sam?
Tôi giật hòn đá khỏi tay thằng nhóc, rồi cố can ngăn cuộc cãi lộn. Thằng nhóc dọa Bill:
- Ta sẽ trừng phạt ngươi. Chưa bao giờ có ai dám tấn công tù trưởng da đỏ, ta không thể không đáp trả lại việc này. Tốt hơn ngươi nên cẩn thận!
Sau khi ăn xong, thằng nhóc gỡ một vật bằng da có dây buộc quanh trên bộ y phục đang mặc rồi đi ra ngoài hang động tháo ra. Sau đó chúng tôi nghe tiếng hò hét rất lạ lùng. Thằng nhóc quàng dây vào một tay, tay kia quay chiếc dây quanh đầu càng lúc càng nhanh. Rồi ngay sau đó tôi nghe tiếng thét thất thanh của Bill. Một viên đá bằng quả trứng đập vào ngay sau tai trái của Bill. Bill té vào đống lửa bên kia chiếc chảo nấu nước nóng để rửa đĩa. Tôi vội vàng kéo Bill ra, giội nước lạnh lên đầu Bill trong nửa tiếng đồng hồ, xong chạy ngay ra ngoài tóm thằng nhóc, lay mạnh, quát lên:
- Này thằng nhóc, tao nói cho mày biết nếu mày không sửa đổi hành vi, tao sẽ đưa mày về nhà ngay nghe không. Nào, bây giờ nói cho tao biết mày sẽ sửa lại không?
Thằng nhóc đáp:
- Ta chỉ đùa thôi. Ta không có ý làm cho Già Hank đau đâu. Nhưng ta không hiểu hắn đánh ta để làm gì? Ta sẽ cư xử đàng hoàng nếu ngươi không đem ta về nhà!
Tôi nghĩ tốt nhất là gửi một bức thư cho lão Dorset ngay ngày đó để đòi tiền chuộc và thông báo cách thức trao tiền. Nội dung bức thư như thế này:
“Chúng tôi hiện đang giữ con trai của ông ở một nơi rất xa thị trấn Summit. Chúng tôi yêu cầu ông trả 1.500 đô la để nhận nó về; tiền chuộc giao vào ngay nửa đêm tối nay ở cùng một nơi và đặt trong cùng chiếc hộp như thư trả lời của ông. Nếu ông đồng ý những điều kiện này, hãy viết thư trả lời gửi cho người đưa tin vào lúc 8g30 tối nay. Sau khi băng qua Owl Creek, trên đường tới Poplar Cove, ở đó có ba cây cổ thụ. Ngay dưới chân hàng rào, đối diện cây thứ ba, sẽ có một chiếc hộp nhỏ. Người đưa tin sẽ bỏ thư trả lời vào chiếc hộp này và phải quay lại thị trấn Summit ngay lập tức. Nếu ông không đáp ứng yêu cầu của chúng tôi, ông sẽ không bao giờ gặp lại thằng con của ông lần nào nữa đâu. Còn nếu ông trả tiền chuộc như yêu cầu, thì trong vòng ba tiếng đồng hồ, thằng con của ông sẽ trở về với ông an toàn và khỏe mạnh!”
Tôi cầm bức thư, đi thẳng tới Poplar Cove, ngồi gần bưu điện và cửa hàng bách hóa. Có một ông già ở đó nói rằng ông nghe ở thị trấn Summit đang xôn xao thông tin thằng con trai của ông Ebenezer Dorset bị thất lạc hay bị bắt cóc gì đó. Đó là tất cả những gì tôi muốn biết. Tôi gửi bức thư rồi đi ngay. Người bưu tá nói một giờ nữa xe đưa thư sẽ đến nhận thư để đem đến thị trấn Summit giao.
Đến 8g30, tôi đã ngồi trên cây cổ thụ thứ ba, đợi người đưa tin đến. Đúng vào giờ đó, một thằng bé mới lớn cỡi chiếc xe đạp đang trên đường tới đó. Nó thấy chiếc hộp dưới chân hàng rào, vội dừng xe lại rồi tiến đến chiếc hộp, bỏ bức thư được xếp ngay ngắn vào, rồi đi ngược về hướng thị trấn Summit. Tôi trượt xuống cây cổ thụ, lấy bức thư, nhanh chóng quay ngược về hang động trong vòng nửa giờ. Tôi mở bức thư đọc lên để cho Bill cùng nghe. Bức thư đã viết như thế này:
“Thưa quý ông! Tôi đã nhận thư của quý ông yêu cầu tiền chuộc để trả thằng con trai của tôi về nhà. Tôi cho rằng quý ông yêu cầu hơi cao, do đó tôi có một đề nghị ngược lại mà tôi tin quý ông sẽ chấp nhận. Quý ông hãy đưa thằng Johnny về nhà và trả cho tôi hai trăm năm mươi đô la thì tôi sẽ dang hai tay ra nhận thằng bé về từ tay quý ông. Tốt hơn quý ông nên đến vào lúc nửa đêm bởi vì hàng xóm đang nghĩ rằng nó bị lạc. Và tôi sẽ không chịu trách nhiệm về những gì họ cư xử đối với bất kỳ ai mà họ thấy người đó đem thằng bé về. Kính thư, Ebenezer Dorset.”
Tôi thét lên:
- Táo tợn thật! Đúng là bọn đại hải tặc Penzance…
Nhưng tôi nhìn Bill rồi dừng lại. Đôi mắt Bill hiện lên sự cầu khẩn thiết tha nhất mà tôi đã từng thấy ở một con vật câm hoặc không biết nói. Bill nói:
- Sam này, xét cho cùng thì hai trăm năm mươi đô la là gì? Chúng ta có tiền, thêm một đêm nữa với thằng nhóc này sẽ làm tao điên mất. Tao cho rằng ông già Dorset có ý tốt với chúng ta. Mày sẽ không để vuột mất cơ hội phải không?
Tôi đáp:
- Hãy nói sự thật đi Bill! Con cừu non này cũng đã chọc tức tao. Chúng ta đưa nó về nhà, trả “tiền chuộc” rồi cút nhanh.
Tối đó chúng tôi đưa thằng nhóc về nhà. Chúng tôi dụ được thằng nhóc đi bằng cách kể cho nó biết rằng ba nó đã mua một cây súng để hôm sau cả bọn chơi trò đi săn gấu. Đúng 12g đêm, chúng tôi gõ cửa nhà lão Ebenezer. Bill đếm hai trăm năm mươi đô la, rồi giao tận tay lão. Khi thằng nhóc nhận ra việc chúng tôi sắp kế hoạch bỏ nó lại, nó khóc rống lên, dùng hết sức ôm chặt một chân của Bill. Lão Ebenezer từ từ kéo nó ra. Bill hỏi:
- Ông có thể giữ thằng nhóc trong bao lâu?
Lão đáp:
- Bây giờ tôi không còn mạnh như xưa, nhưng tôi có thể hứa với các ông là tôi giữ được nó trong vòng 10 phút.
Bill đáp:
- Đủ! Trong 10 phút tôi sẽ băng qua các tiểu bang ở miền Trung, miền Nam và vùng trung tâm phía Bắc Hoa Kỳ, rồi chạy đến biên giới Canada.
Rồi trong lúc bầu trời tối đen như mực, Bill với thân hình béo phì nhanh như chớp đã thể hiện mình cũng chạy giỏi như tôi, anh ta đã thoát khỏi thị trấn Summit một dặm rưỡi trước khi tôi bắt kịp.
TRẦN PHI TƠ (dịch)
Thứ Ba, 12 tháng 3, 2024
VỰC HỒNG - Phan Nhã Uyên Uyên
Thứ Bảy, 9 tháng 3, 2024
XEM BÓI - Nam Cao
– Anh không ra còn đứng làm gì đấy?
– Lạy ông, ông không thương con thì con chết đói. Con thất nghiệp…
Hắn toan đọc lại những điều vừa mới nói. Nhưng ông không muốn nghe gì hơn nữa. Ông đẩy hắn ra phía cửa:
– Ra đi! Con khỉ!… Ai hơi đâu mà bạ thằng thất nghiệp nào đến cũng nuôi? Đủ người rồi, ra đi!
Ngay lúc ấy, hắn nghẹn ngào trong cổ. Nhưng chỉ một lúc sau hắn đã bật cười. Bởi nghĩ cho kỹ thì ông nói phải: ông bỏ ra bao nhiêu tiền lập cái hãng của ông, là có ý kiếm lợi chứ có phải mở một nhà tế bần đâu, mà bắt ông phải chứa tất cả những đồ chết đói? Bây giờ nhớ lại, hắn cũng nhếch mép cười một chút. Nhưng cười thì cười, hắn cũng không thể vì thế mà vui vẻ lại. Có điều ý nghĩ của hắn lại quay về lão thầy bói. Hắn tin chắc rằng: lão thầy bói này hay lắm. Lão sẽ dọi một tia sáng vào cõi tương lai mù mịt của hắn. Lão sẽ báo cho hắn biết đời hắn mai sau thế nào?…
“Thì mình cứ vào hỏi xem!… ”. Nhưng sợ đổi ý, hắn chưa nghĩ đến hết câu đã bước vào ngay lập tức.
Mặt hắn hơi tái đi một chút. Tim hắn đập.
Có hai người trong đó, đều nằm cả. Ý chừng họ nghỉ trưa. Một người mặc áo thâm thùng, để nguyên cả cái khăn xếp tàng tàng ở trên đầu và đôi kính đen trên mắt: ông thầy đấy hẳn. Người kia mặt quần áo cánh trắng. Giữa lúc vải khan, xà phòng đắt này mà lành lặn, sạch sẽ được như y kể cũng là sự khó. Bởi vậy mà hắn không đoán được y là gì đối với ông thầy bói: học trò hay đày tớ? Giá ông là người Tàu thì còn dễ hiểu, hắn sẽ bảo: y là thông ngôn. Ông thầy nằm theo bề dọc bộ ghế ngựa quang dầu. Bên trên ông là một cái bàn thờ làm như một cái đôn đóng vào tường. Một cái mành hoa che kín mít đi, nên hắn chẳng biết trên ấy có những chi chi cả. Bên ngoài ông, nghĩa là giữa sập, là một cái tráp, với một cái đĩa để trên, một ống hương và một cuộn hương vòng đang cháy dở, chấm than ủ tròn bốc một dây khói thiu thiu. Anh chàng áo cánh trắng nằm theo chiều ngang bộ ngựa, châu đầu vào với ông thầy bói, làm thành một cái hình thước thợ. Y lim dim ngủ. Nghe thấy tiếng chào của hắn, y nhỏm phắt dậy như một con lật đật. Ông thầy chầm chậm và bình tĩnh hơn. Hắn lại gần anh chàng áo cánh trắng và hỏi khẽ.
– Thưa ông, ở đây xem bao nhiêu một quẻ?
– A, có ba hạng. Nếu ông xem một quẻ chỉ sự hỏi một việc thôi thì có hai hào rưỡi…
Có hai hào rưỡi!… Hắn mở đôi mắt hơi to một chút. Bởi vì đó chính là một sự ngạc nhiên. Nhưng anh chàng kia vẫn nói tiếp. Y pha vào lời nói rất nhiều chữ Nho, hắn không hiểu rõ nên không nhớ kịp.
Nhưng hắn cũng lờ mờ rằng: sau cái hạng hai hào rưỡi, còn một hạng năm hào để xem cả một đời người, (hắn biết vậy nhờ hai tiếng chung thân) và một hạng một đồng để hỏi han đến việc của anh em, bố mẹ… Ờ! Nếu vậy thì rẻ lắm. Hắn sẽ xem một quẻ vào hạng giữa. Hắn ghé ngồi vào cạnh ghế phía trong, có ý để khuất mình vào cánh cửa, để ở ngoài không trông thấy. Người áo trắng nhắc cái đĩa trên mặt tráp đặt ngay trước mặt hắn:
– Ông đặt quẻ.
Hắn móc túi, bỏ vào đấy năm hào. Y lại nhắc cái đĩa đặt về chỗ cũ cho ông thầy bói, rồi đứng lên, ra ngoài. Lão thầy bói mù rút một nén hương, nhờ hắn thắp giùm. Lão mở tráp mấy miếng cau và một xếp độ ba bốn lá giầu không để vào cái đĩa đựng cái giấy năm hào của hắn. Lão đặt nén hương mới thắp nằm ngang ở trên cùng. Rồi sau khi đã hỏi tên, tuổi, làng, tổng, huyện, tỉnh của khách hàng, lão nâng cao cái đĩa lên ngang mặt, và khấn to như một thầy cúng đọc sớ:
– A-di-đà-phật! A-di-đà-phật! A-di-đà-phật!…
Hắn chỉ nghe được ba tiếng, nhắc đi nhắc lại ba lần, trên đầu bài khấn. Rồi đến một hàng chữ Nho, trong đó có tên, tuổi, nơi ở của hắn. Kể rõ ràng như trong một lá đơn. Lão thầy bói mù tịt, nên trong khi lão khấn, hắn có thể nhìn tròng trọc vào cái mặt da thiết bì và béo như phù của lão. Khấn xong, lão gieo tiền, vừa gieo vừa lẩm bẩm đọc những lời bí mật gì. Rồi lão ngồi ngẩn mặt ra một lúc như tính toán. Hắn nhìn đăm đăm vào đôi môi mập mạp và thâm như một miếng thịt trâu luộc chín. Đôi môi ấy chợt mở ra:
– Ông có nhớ giờ sinh không?
– Thưa cụ không biết rõ, chỉ biết vào buổi chiều khoảng chín, mười giờ gì đó.
– Thế thì giờ Tị.
Lão lại lẩm bẩm một lát, rồi mới cao giọng bảo:
– Cứ như cái tuổi của ông, nếu sinh vào giờ Tị, phụ mẫu không còn được song toàn, nghĩa là bố mất mẹ còn hoặc bố còn mẹ mất.
– Không phải thế: bố mẹ cháu khuất cả rồi.
– Thế thì không phải ông sinh vào lúc mười giờ. Chắc là mười một giờ, sang giờ ngọ.
Lão lại lẩm bẩm tính…
– Phải rồi! Giờ Ngọ… Giờ Ngọ thì cha mẹ đều mất sớm. Mà ông tuy không phải là con cả nhưng lại là con cả đấy.
– Thưa cụ, sao lại thế?
– Ấy, ông cứ nghĩ kỹ xem!
Hắn nghĩ… và bỗng gật mạnh đầu một cái. Ờ! Thánh thật! Lão nói vậy là đúng đấy. Tuy hắn có một người anh, nhưng người anh ấy đi tha phương cầu thực mấy năm nay chẳng có thư từ, tin tức gì. Chẳng biết phiêu bạt nơi đâu, còn sống hay đã chết. Việc cúng giỗ ở nhà, hắn phải thay anh mà cáng đáng tất cả, thế chẳng phải là tuy không cả, mà cả ư… ? Lão thầy bói hỏi:
– Có phải thế không cả?
Hắn chịu. Và hắn nói rõ điều ấy cho lão nghe. Lão toét miệng cười!
– Ấy đấy…
Lão lại nghiêm mặt, tiếp:
– Cái số ông, từ bé đến giờ gian truân đã nhiều đây. Nhưng được cung thê thiếp tốt. Bà ấy chắc đảm đang. Nhưng phiền nỗi vợ chồng xung khắc, ngồi nói với nhau được ba câu là cãi nhau…
Trời ơi! Đúng quá!… Câu này thì rất đúng!… Hắn gần như muốn kêu lên như vậy. Nhưng lão còn nói nữa:
– Nhưng hay giận hay lành, cãi nhau xong chỉ một lúc lại đâu vào đấy…
Thì đã hẳn! Ai mà giận được con mẹ ấy! Nó nói nghe tức thật: thật cứ ngang như cua, nhưng cái nết làm, cách ăn ở với chồng con, với hàng xóm láng giềng thì thật không chê trách được. Không có nó hết lòng chạy chữa, hắn đã chết tám đời rồi, đâu còn sống được đến bây giờ? Và tuy nhà túng lắm, một hào cũng khó, nhưng chẳng lần nào hắn đi xin việc, nó không đưa cho đồng bạc. Ấy! Sáng ngày cũng thế:
Nó vừa đưa tiền vừa căn dặn cho dù hắn có xin được việc hay không, cũng đi ăn uống gì đó rồi hãy về, kẻo đói bụng, cảm một cái là không bõ… Nói lạy giời lạy đất! Hắn được con vợ có thể nói là khá thật!… Hắn thích chí được người ta khen vợ, kể lể rất dài dòng với lão thầy như vậy. Hắn khen lão thầy bắt sát, và tin ở tài lão lắm. Hắn bắt đầu hỏi về hậu vận…
– Ông còn long đong năm nay, sang năm nữa. Đến năm băm mốt thì mới khá. Công việc tự nhiên mà gặp. Tài lộc dồi dào…
Lão nói rất nhiều, đại khái tốt nhiều xấu ít, và lão quả quyết đến năm bốn mươi mốt thì hắn giàu bạc vạn…
Chà! Thích quá!… Giàu bạc vạn! Hắn ra về hể hả. Bụng hắn không đói nữa. Người hắn không mệt nữa. Ảo tưởng lóa mắt hắn. Hy vọng nâng chân hắn. Mắt hắn sáng ngời, hí hửng. Hắn lẫng cẫng, mỉm cười một mình, mắt lóng lánh nhìn tương lai rực rỡ, như một thí sinh vừa mới thấy tên mình trúng bảng. Hắn đi thoăn thoắt… Bỗng hắn giật nẩy mình, há hốc mồm ra, rồi tối tăm mặt mũi. Hắn thấy như mình vừa lăn từ trên đỉnh núi xuống tung lên, vật xuống, lắc bên nọ, bên kia nhanh chóng quá, đến nỗi sự đau đớn không kịp hiện ở chỗ nào rõ rệt. Chỉ biết mình sợ quá. Rồi hắn rơi thụt xuống cái hố sâu, đen nghịt. Trên miệng hố, những tiếng xôn xao nhốn nháo. Hắn văng vẳng như lúc nằm ngủ, bị bóng đè. Rồi hắn lịm đi, chẳng còn biết gì nữa.
Ấy là một cái tai nạn xe hơi khủng khiếp. Nạn nhân gần tắt thở. Máu ra nhiều quá, khó còn phương cứu chữa. Nhưng người ta vẫn mải mốt đưa xác hắn vào nhà thương.
Tiểu thuyết thứ Bảy
Số 479, Ngày 18-9-1943
Thứ Tư, 6 tháng 3, 2024
NHỮNG VIÊN ĐẠN BI-DA - Bình Nguyên Lộc
Thái đọc
:
CẦU Ô
Thanh niên hoạt động và chịu khó, đang học lớp đệ tam chuyên
khoa, muốn dạy học thêm ở các tư gia. Hỏi cậu Hồng, 233/20 đường Phát
Diệm.
Chàng mỉm cười. Cái cậu Hồng nầy sao mà giống chàng quá cũng
hoạt động, cũng chịu khó, cũng học đệ tam chuyên khoa, mà nhứt là cũng
muốn dạy học ở các tư gia. Chỉ có khác là chàng không đăng báo để tìm
việc thôi.
Có hằng trăm thanh niên võ trang bằng những đức tính, giống hệt
cậu Hồng nầy, và cùng một mong mỏi với cậu. Thái biết rõ thế. Như vậy,
chàng thấy đăng báo không hiệu quả bao nhiêu: mình đăng báo này, họ đăng báo khác, khó hy vọng được người ta mời.
Thái lại đọc tiếp:
Thanh niên đẹp trai, học lực trung học đệ nhứt cấp giỏi âm nhạc,
thể thao, biết lái mọi thứ xe có động cơ, sành chụp ảnh, cỡi ngựa giỏi,
rất tháo vát, sẵn lòng làm bất cứ công việc gì, với bất kỳ lương bổng
nào, đi xa bao nhiêu cũng được. Hỏi cậu Tân 469/ 178F Phan Đình Phùng.
Thái để tờ báo xuống rồi thở dài. Một thanh niên giỏi chừng ấy
công việc, lại phải thất nghiệp đến cam kết nhận bất kỳ đồng lương nào
và nhận đi bất kỳ nơi nào, thì xã hội Việt Nam quả đang ở vào giai đoạn
tranh sống quyết liệt rồi đây.
Nhưng sau một lúc nghiệm kỹ, chàng giựt mình. Có bao nhiêu tài
giỏi như anh bạn trên đây, cũng bằng không. Đó là những tài ba ăn trợt,
khó lòng sử dụng được. Người ta cần một bác thợ hồ giỏi để đưa đi Ban mê
thuột, người ta cần một anh thợ điện giỏi để coi điện cho một xưởng nào
đó ở Sàigòn, nhưng chắc chắn không ai biết dùng vào công việc nào một
thanh niên cỡi ngựa tài, hoặc sành âm nhạc.
Xét bản thân mình, chàng thấy chàng còn nghèo tài vặt hơn anh
bạn ấy nhiều lắm. Mà tài lớn, chàng cũng chưa có, hoặc có, cũng không
thể bán hoặc cho thuê được.
Như bất kỳ cậu học sinh nào, Thái đã viết văn và làm thơ. Chàng
hơn bạn hữu một tí là thơ chàng được đăng lên vài tờ báo. Chàng lại hơn
những mầm non văn nghệ được đăng báo là giới phê bình đã bắt đầu nói sơ
đến chàng.
Một người bà con của chàng, vốn là ký giả, một hôm xui dại chàng gởi thơ cho những báo nào đăng thơ chàng để đòi tiền nhuận bút.
Đợi mãi không thấy báo nào trả lời cả, mà lạ lùng hơn nữa là thơ
chàng bỗng dưng vắng bóng trên mấy báo ấy, mặc dầu chàng cứ tiếp tục
gởi đến họ.
Và cũng như bất kỳ mầm non nào, Thái nghĩ ngay là họ muốn dìm
một tài ba chớm nở: trong các tòa soạn ấy có những biên tập viên cũng là
thi sĩ, sợ chàng lên quá rồi lấn mất họ, nên họ dìm chàng chăng? Chớ
làm gì bỗng dưng tài của chàng lại thình lình triệt thối ở khắp các mặt
trận như vậy được.
Chàng băn khoăn cậy người bà con nói trên điều tra giùm, và kết
quả của cuộc điều tra ấy đã đánh tan mất trong trí chàng cái ảo mộng đổi
ra sách vở và xi-nê những vần thơ của chàng.
Người bà con ấy nói: "Chỉ có một ông chủ báo là chịu cho biết vì
sao không có tiền nhuận bút cho thơ của anh, còn mấy tòa soạn khác,
nhứt định không trả lời tôi. Ông ấy bảo rằng lệ của nhà báo, bất kỳ báo
nào, hay phần lớn các báo ở đây, không có tiền nhuận bút chữ thơ. Một
bài thơ chỉ choán có một phần tư cột báo thôi, thì không lẽ đưa mười
đồng hay hai mươi đồng. Mà đưa nhiều hơn, một trăm chẳng hạn, để xem cho
được con mắt, thì hóa ra mỗi cột báo chi phí biên tập phải lên đến bốn
năm trăm, và một trang tám cột phải mất đi bốn ngàn bạc à? Ông ấy nói
làm thơ là làm cái gì cao quý, là phục vụ nghệ thuật, thì không nên làm
hoen ố công việc đẹp đẽ ấy bằng cách đòi tiền công.
Thế là rõ! Và đã lâu rồi, Thái chỉ trông cậy vào tiền mà gia quyến anh gởi lên cho mỗi tháng một ít thôi.
Chàng đọc tiếp quảng cáo, và lầm thầm nghĩ rằng chỉ có bọn người
thất nghiệp và bọn người túng thiếu như chàng mới đọc quảng cáo thôi.
CẦN DÙNG
Một học sinh bực trung học đệ nhứt cấp để kèm hai trẻ lớp nhứt tại nhà. Hỏi ông phạm Văn Mìn, thầu khoán 758 đường Cao Thắng.
À, đây rồi! Thái reo thầm lên. Nhưng chàng thấy cái mỉa mai
trong hai bài quảng cáo trên và dưới, nên buồn cười lắm: trên thì tìm
việc, dưới lại tìm người, đúng là cái người tìm việc trên: mà 2 quảng
cáo cứ đăng mãi mấy ngày rồi. Hai người chưa gặp nhau à? Hay đã gặp nhau
mà không thích nhau?
Thái nhứt quyết đi đến nơi cần dùng thầy giáo nầy, và không để trễ, chàng đứng dậy đi thay đồ.
*
Thái có cảm giác rằng ông Mìn không phải là một ông
nhà giàu mới, mặc dầu biệt thự ông đang ở, chưa sơn đến lần thứ nhì từ
lúc dựng lên đến bây giừ.
Ông Mìn có lễ độ. Vâng, nhưng những ông nhà giàu mới cũng có thể
có lễ độ như ông. Không, không thể cắt nghĩa được cảm giác của chàng
bằng một hay hai chi tiết. Nơi ông nhà giàu mới, tất cả cái gì cũng kêu
ầm lên rằng ta đây vừa có tiền đây nè! Nơi ông Mìn, thì tuyệt nhiên
không.
Nhờ cảm giác đó mà Thái có ngay cảm tình đối với gia đình nầy. Cảm tình của chàng quả đặt không lầm chỗ.
Hai đứa bé, mười và mười một tuổi, ngoan ngoãn lắm. Chúng ham chơi, hay lo ra, nhưng có người kềm là chúng chăm chỉ được ngay.
Ngày đầu, Thái được ông Mìn tiếp rồi đưa qua buồng học để giới thiệu cho thầy trò tiếp xúc với nhau.
Mới đi dạy lần đầu, Thái chưa biết phải làm sao cho ra vẻ. Chàng
suy nghĩ kỹ thì thấy cứ cư xử tự nhiên như một người anh lớn đối với em
nhỏ, không cần làm oai, mà trái lại nên gây cảm tình.
Cuộc tiếp xúc được thân mật, và tín nhiệm phát sanh ngay nơi lòng hai đứa bé. Ông Mìn coi bộ mừng lắm.
Những ngày sau đó, chàng đi ngay vào buồng học, và luôn luôn học trò có mặt sẵn nơi đó để đợi chàng.
Buồng học là một buồng trông ra đường và ở giữa nhà. Buồng bìa
bên trái là buồng tiếp khách, còn buồng bên mặt có lẽ là buồng chơi của
trẻ con, vì chàng thường nghe tiếng bóng bàn bên ấy.
Thái dạy vào buổi xế trưa. Trời nóng bức lạ, mặc dầu có quạt
máy, thầy trò vẫn nghe khó chịu. Thỉnh thoảng một chị người nhà bưng ra
ba ly nước cam vắt cho ba thầy trò giải khát và buổi dạy nào chàng cũng
uống ít lắm là hai bận nước cam như vậy.
Thái giảng thêm bài trường và nói chuyện nhiều hơn là dạy, vì
chàng tin rằng phương pháp đó hay hơn. Học trò xem ra cũng rất thích lối
học như vậy.
Hai tuần lễ sau, không xảy ra chuyện đáng tiếc nào cả. Thái có
gởi thơ xin phép ông Mìn dẫn Long và Hưng đi xem "Nàng tiên khác
thường!" và đưa hai cậu bé về tận nhà, rồi thôi, sự thân mật giữa thầy
trò không vượt ra ngoài những câu chuyện bên lề sự học và những câu
chuyện cổ tích ta và ngoại quốc.
Nói rõ là chàng gởi thơ xin phép, vì chàng không gặp mặt được
ông Mìn lần nào cả từ lần mới đến xin việc và lần giới thiệu thầy trò.
Hai đứa bé không tò mò hỏi về đời tư chàng, còn chàng thì tuy
hơi tò mò thật đó, nhưng ngại thất lễ với gia đình ấy nên cũng không tìm
biết gì.
Thái chỉ mong học trò tiến bộ để được tín nhiệm của gia đình, và
mong cho tới tháng để lãnh tiền, hầu mua sắm thêm những vật cần thiết.
Bốn giờ chiều ngày thứ mười sáu, ông Mìn qua buồng học chào thầy giáo rồi khen ngợi:
- Tôi bằng lòng lối dạy của thầy lắm. Tôi có xem tập cháu, không
thấy thầy cho bài nhiều, nhưng cứ nghe chúng nói chuyện thì nhận thấy
chúng nó mở trí thêm nhiều lắm: suy luận đúng, tò mò hữu lý và biết sự
tìm hiểu nhiều bài, nhiều việc xảy ra chung quanh chúng nó. Tôi mong thầy cứ tiếp tục phương pháp ấy mãi. À, thầy có giỏi Việt văn hay không?
- Thưa ông, đó là sở đoản của tôi.
- May lắm. Nhưng có thể làm cho học sanh khá Việt văn được hay không thầy? Tôi cứ nghe họ nói phải có khiếu mới giỏi được.
- Thưa ông, họ nói đúng phần nào. Nhưng đó là khi nào muốn xuất
sắc muốn thành văn sĩ kia. Chớ còn muốn giỏi để đủ làm một bài luận văn
cho sáng sủa, muốn hiểu và cắt nghĩa một bài văn cho thông thì chỉ nhờ
được chỉ dẫn đúng cách và tự mình cố gắng là được rồi.
- Vậy hả! Tôi có một đứa con gái, con thứ ba. Năm nay nó học đệ
tứ mà Việt văn nó kém lắm. Chính nó cũng tự biết thế và rất lo sợ hỏng
thi vì môn ấy. Thầy có thế nào giúp thêm giờ để dẫn cháu đến ngày thi
cho đủ sức với người ta không?
- Thưa ông, hiện giờ tôi dạy từ ba đến năm giờ. Nếu chỉ thêm cho cô Ba, thì tôi ở lại đến sáu giờ, không gì trở ngại cả.
- Tốt lắm. Tôi sẽ có chỗ tạ công thầy riêng về giờ thêm đó.
Ông Mìn vừa nói vừa xây lưng đi. Ra tới cửa, ông nói vói vào:
- Đúng năm giờ, tôi sẽ đưa cháu đến đây để giới thiệu thầy trò với nhau, rồi chiều mai khởi sự học.
Thích chưa! Sẽ có tiền thêm đây, mà một tiếng đồng hồ dạy thêm
nầy, lương bổng ít ra cũng tương đương với hai tiếng đồng hồ dạy trẻ.
Trung học mà, chớ nào phải tiểu học đâu.
Nhưng Thái hơi ngạc nhiên không hiểu vì sao ông thầu khoán này
lại không mướn giáo sư Việt ngữ thật thụ để dạy con gái, lại nhờ mình.
Trung học mà dạy Trung học thì thầy với trò có khác hơn bao nhiêu đâu?
Đệ tứ là lớp chàng vừa bước khỏi chỉ mới mấy tháng nay thôi kia mà, ông
cụ lẽ nào lại quên điều đó?
Hay là ông ta hà tiện, định lợi dụng mình? Ừ mướn giáo sư tốn
tiền lắm. Còn nhờ mình thì bất quá đưa thêm vài trăm mỗi tháng là cùng?
Nghĩ tới đó Thái hơi lo. Nếu bị lợi dụng mà tranh đấu để tự vệ e mất chỗ làm. Còn nín thinh mà chịu thì tức biết bao!
Nhưng dầu sao cũng được chỗ an ủi này là người học trò mới là một cô gái mười tám, như ông Mìn đã nói.
Là thanh niên, Thái hay mơ mộng hão như bất kỳ học sanh nào.
Thanh niên Thái lại là thi sĩ thì giấc mơ tình ái của cậu còn to biết
bao nhiêu.
Đây là một cuộc phiêu lưu ngộ nghĩnh, tốn tiền cũng còn dám tốn nữa kia chớ nói chi là được trả công rẻ.
Vậy đêm nay phải uống thuốc ngủ mới được, kẻo mơ quá rồi không
nhắm mắt được đa nhé, vì ông Mìn đã quên đưa con lại, chàng nóng biết cô
ấy ra sao.
Ngày giờ trôi sao mà chậm chạp đến phát giận lên.
Nhưng mà sợ lắm thay! Có ai chận cho nó đi chậm thêm nữa thì Thái đây cám ơn lắm lắm.
Mà giờ long trọng đã đến, không làm sao bước lui được nữa.
Suốt hai tiếng đồng hồ dạy Long và Hưng, Thái chỉ giảng được mỗi
một bài cách trí thôi, còn thì kể những chuyện đầu Ngô mình Sở cả.
Chiếc đồng hồ Carillon bên buồng bên đổ nhạc rồi thong thả buông từng tiếng như kẻ sát nhơn đếm một, rồi hai, rồi...
Cánh cứa buồng mở, và nơi khung cứa nàng tiên áo trắng hiện ra,
không biết có đẹp hay không, vì Thái bối rối không dám ngước lên, làm bộ
như câu chuyện đang nói với trẻ còn dài lắm mà chàng thì đang kể chuyện
mê mệt, quên cả bên ngoài.
Nàng tiên bước lại trước bàn, nghiêng mình chào thầy giáo rồi nói với hai em:
- Tới phiên chị học đây!
Hai đứa bé cười rồi đứng lên nói:
- Xin phép thầy.
Chúng không đợi thầy cho phép, chạy ùa ra ngoài, vừa chạy vừa la.
- Đổi phiên gác rồi, sướng quá, đi chơi nhé.
Thái nghe mình bình tĩnh hẳn lại. Cô bé xinh quá nhưng chàng
thấy cô ấy còn trẻ con lắm. Cô ta không gây được tiếng sét nơi lòng
chàng.
Thế là hơn, chàng nghĩ. Mình sẽ làm tròn phận sự một cách dễ dàng.
Cô bé Ngồi xuống ghế rồi thưa:
- Thưa... thầy - cô ta do dự giây lát không biết kêu Thái là gì
- em là Huệ. Em học đệ tứ trường "Cô Bắc". Chiều hôm qua, ba em định
đưa em lại đây để trình diện với thầy, nhưng lại có khách thình lình,
rồi cuộc thăm viếng của khách kéo dài hơn tiếng đồng hồ. Khách đi rồi,
thầy cũng đã về mất, Nên ba em biểu em xin lỗi thầy...
- Không cần gì - Thái chận nói - Ông cụ có nói qua là đủ lắm rồi.
Thái nhận thấy cô học trò ăn nói dễ dàng quá, lưu loát quá, và
có bộ tịch dạn dĩ lắm. Thái thấy cần thành thật ngay với cô học trò để
cô khỏi thất vọng, hoặc khỏi bị cô ta "côn" để phá chàng chơi.
- Tôi chỉ mới rời khỏi đệ tứ chưa đầy một năm, không hiểu sao ông cụ lại nhờ tôi dạy cô. Tôi cần cho cô biết điều ấy để...
- Thưa thầy, thầy khỏi ngại - Huệ chận nói - Chính em đã năn nỉ ba
em mướn thầy đó. Em biết thầy sành Việt ngữ lắm, có lẽ còn rành hơn cả
ông giáo sư của em nữa kia. Em biết về thầy nhiều lắm...
Thái hốt hoảng hỏi:
- Cô biết gì về tôi?
- Em biết thầy là thi sĩ Phong Điền...
- Làm sao cô biết được?
- Em có thấy ảnh của thầy đăng báo một lần.
- Vậy à! Nhưng tôi lại không sành nghề dạy học. Biết là một đàng, dạy được là một đàng.
- Mà thầy đã thành công với hai em Long và Hưng, lẽ nào lại không thành công với em.
Thái làm thinh giây lâu rồi nói:
- Té ra cô cũng đã để tâm đến bọn thi sĩ chúng tôi. Vậy chắc là cô thích văn thơ ?
- Thưa, thích lắm.
- Thì sao cô kém Việt văn?
- Thưa thầy, bởi vì đi thi, người ta cho luận văn: Làm bài luận rắc rối hơn đọc một bài sáng tác nhiều.
- À!
Lời cô bé nhắc Thái thớ đến chính một quan sát của chàng: là bên
trung học Pháp người ta ra đề tả cảnh, còn bên Việt lại ra đề luận.
Thiếu niên mười lăm mười sáu tuổi, chưa vững trí thì luận là một việc
quá khó khăn đối với họ. Nhưng đó chỉ là mối hại nhỏ thôi. Cái nguy to
là bao nhiêu cố gắng đều đưa vào luận nên nhiều học sinh chểnh mảng mọi
khía cạnh khác đến đỗi tới đệ tứ mà còn viết sai văn phạm.
Cuộc tiếp xúc tới đó là chấm dứt. Thái lấy sách ra giảng cho Huệ nghe một đoạn "Thu dạ" không có ghi trong chương trình.
Thật ra thì Huệ có khiếu về văn chương. Nàng hiểu rất mau, viết văn sáng rỡ, nhưng vì thiếu chỉ dẫn nên hóa lu mờ đó thôi.
Ngày nào hai thầy trò cũng nói chuyện độ hai mươi phút rồi mới học. Chuyện bên lề học vấn, nhưng không xa học vấn bao nhiêu.
Huệ vô trách nhiệm nên không cần giữ gìn, nói đến cả chuyện nhà
chuyện cửa. Nhờ vậy mà Thái biết cô Lan, cô gái lớn của ông Mìn là một
góa phụ trẻ. Cô ấy lấy chồng năm hăm hai. Được một năm thì chồng chết,
và cô còn ở vậy cho đến năm nay cô đã hăm tám tuổi rồi.
Huệ rất mến thầy, hay biếu quà thầy lắm. Mà nàng khéo làm sao.
Trong câu chuyện, nàng hỏi bâng quơ vài chi tiết về lối sống của ông
thầy, thế mà bằng vào đó, nàng đoán đúng được những gì thầy cần mà sắm
không nổi, những món thật là bất ngờ như cái tourne- disque chẳng hạn.
Thú thật là thầy, từ khi gặp trò, không có ý quấy nào cả, không
phải vì thầy là một nhà đạo đức, trái lại nữa. Nhưng mà cô bé thật là
bé, bé người mà bé cả tâm hồn nữa.
Huệ chỉ mới bắt đầu trổ mã. Tuy thân thể nàng hứa hẹn một sắc
đẹp có hạng, nó vẫn còn cao lỏng khỏng, cổ nàng còn ốm nhom, mắt nàng
nhìn mọi vật còn ngạc nhiên một cách đáng thương hại.
Huệ ăn diện như một cô gái lớn, nhưng sự ăn diện ấy không hòa
hợp được với cái trẻ con nơi người nàng nên trông càng buồn cười thêm.
Thái rất thương em bé Huệ vì những câu suy nghĩ ngộ nghĩnh và hồn nhiên của em bé ấy, vì những mộng mười lăm của em về cuộc đời.
Chỉ có thế thôi.
Huệ là con nhà có giáo dục, nên lời lẽ cử chỉ của nàng không có
gì quá đáng cả. Nhưng không hiểu sao, Thái tế nhận thấy rằng lòng mến
thầy của nàng không phải vô tội đâu. Riêng trong bụng Thái, chàng cũng
không dám nói đến tình yêu. Em bé còn thơ dại quá, bảo rằng nàng yêu
mình, hóa ra vu cáo cho nàng sao. Nhưng mặc dầu không dám nghĩ như vậy,
Thái cứ thấy sự trìu mến thầy của cô Huệ không chỉ là sự mến suông.
Không có bằng cớ nào đích xác cả để cho là như thế. Nhưng chính
sự thiếu bằng cớ ấy khiến chàng len lén nghĩ đến ái tình. Khi người ta
yêu, người ta chỉ làm thinh thôi. Nhưng cái gì miệng không nói ra được,
thì mắt nói lên hết cả, và tay chân, thân thể cũng đều bập bẹ được để
phụ lời.
Huệ có hỏi nhà chàng lần nào đâu, và chàng cũng chưa bao giừ tự
khai chỗ ở trọ ra, thế mà hôm ấy, sáng chúa nhựt, chàng ngạc nhiên hết
sức mà thấy Huệ đi ngang qua trước cửa, vừa đi vừa ngó vào nhà.
Căn nhà chàng ở trọ, trông ngay ra một ngõ hẻm dùng làm địa dịch
qua lại cho cả xóm. Nhà không sân, không hàng hiên thành ra ai đi ngoài
ngõ là y như là đã bước vào nhà nửa chừng.
Sáng hôm ấy, Thái đang ngồi ở bàn ngoài, đọc một chương trình
chiếu bóng. Nghe tiếng giày, chàng ngẩng mặt lên thì hai người như là
gặp nhau trong một căn phòng: họ cách nhau chỉ có hai thước thôi.
Huệ reo lên:
- Chào thầy. Thầy ở đây à?
Thái bối rối, không phải vì gặp con gái, mà vì sự chạm mặt đột
ngột quá nơi một căn nhà tồi tàn mà chàng thấy cô ta không biết là hơn.
- Ừ, tôi ở đây. Cô ba đi đâu đó?
- Thưa, em đi tìm người bạn, nhưng chắc địa chỉ sai nên tìm mãi không ra.
- Người bạn cô tên chi? Xóm nầy tôi biết tên cả mọi người, từ già đến trẻ.
Huệ ấp úng, rồi không đáp, khiến Thái thấy là nàng quyết đến
thăm anh, sau khi đã biết địa chỉ anh nhờ cách nào không rõ, có lẽ nhờ
lục lạo trong quyển sổ tay của ông Mìn chăng?
Huệ đứng đó mà làm thinh, chắc khó chịu lắm, nên Thái mời:
- Mời cô vào chơi.
Huệ mỉm cười, bước vào nhà liền.
- Anh ở trọ, hay là nhà của anh.
Nàng xưng hô như vậy một cách rất tự nhiên, như là đã xưng hô từ lâu rồi.
- Thưa tôi ở trọ. Nhưng nhà bà con, không nhận ai khác cả, ngoài tôi ra.
- Thì cũng như nhà anh. Sáng chúa nhựt anh không đi chơi sao?
- Tôi ít đi lắm.
- Cả chúa nhựt nữa? Trời ơi buồn chết! À, mà chắc anh không buồn. Anh ở nhà để làm thơ. Làm thơ vui lắm không anh?
- Nhọc lắm thì có. Nhưng mình thích nhọc, thành ra cũng hơi vui được.
- Người ta ra đề sẵn, anh gieo vần có được không?
- Tôi chưa thử lần nào: Nhưng chắc phải có hứng mới làm hay được.
- Đâu anh làm thử bài thơ nầy xem. "Sáng chúa nhựt gặp khách bất ngờ".
Thái mỉm cười:
- Nếu cô bắt tôi làm ngay, không cho tôi đợi hứng thì thơ có dở cô ráng chịu nghe không?
- Đợi hứng? Thành ra hiện giờ anh chưa có hứng.
Thái nghe cả sự thất vọng chua cay trong giọng nói của Huệ.
Mặc dầu lòng chàng dửng dưng, chàng cũng không muốn làm phiền cô bé dễ thương nầy, nên vội cứu vãn:
- Có nhưng mà hứng chưa chín muồi.
Nhưng Huệ đã hiểu. Nàng thông minh lắm, việc gì tỉ mỉ nữa kia mà
nàng còn tế nhận được thay, huống hồ chi cái hớ hênh to tát nầy của
Thái.
Huệ nói vài câu chuyện không đâu rồi xin phép ra về.
Thái tiễn học trò ra đến đầu ngõ, nàng lên xe rồi anh mới trở vô
nhà. Cuộc tiễn đưa "đến tận thuyền" ấy không phải chỉ vì lịch sự không
mà thôi, mà là để an ủi một đứa bé vừa bị bể vỡ một bong bóng xà bông,
đang buồn cho những màu sắc xanh đỏ bỗng nhiên tan biến mất.
"Tình trẻ con chưa rõ rệt bao nhiêu, rồi nàng sẽ quên mất và về
sau còn thấy đó là buồn cười". Thái lẩm bẩm như vậy, rồi an lòng được,
sau trót một tiếng đồng hồ băn khoăn.
Hôm sau, người học trò vẫn ngoan ngoãn, nhưng ít nói, bảo là
không nói gì hết thì đúng hơn. Nhưng tuyệt nhiên không thấy nàng lộ vẻ
giận hờn, oán trách gì cả.
Năm hôm sau là trở lại bình thường. Huệ vui vẻ y như lúc trước, nói líu lo như chim.
"Đúng như mình đã đoán, Thái nghĩ thầm. Nàng sẽ quên đi chớ gái
thơ thì lòng dại hay đi phiêu lưu, nhưng khi thấy các nẻo đương phiêu
lưu ấy không có gì huyền diệu lắm, thì họ trở bước được ngay.
Hôm ấy đúng vào ngày cuối tháng - tháng dạy học - nghĩa là mười
hai tháng chạp. Huệ trao cho Thái một phong thơ của ông Mìn và yêu cầu
Thái đọc ngay.
Thơ cám ơn công khó của ông thầy, kèm theo một số tiền. Tiền xúp
dạy cô ba, tính phải chăng chớ không lường công. Và mời chiều hôm đó
thầy giáo ở lại ăn cơm.
Đoán chừng ông thầy đọc vừa xong, Huệ nói:
- Sáng kiến của em đó. Ba, má em cũng mến anh lắm, nhưng bận
quá nên quên mất. Em nhắc, ổng bả mới nhớ ra và biểu em nài nỉ cho anh
nhận lời.
Thái hơi ngại, vì hôm đó chàng ăn mặc không được sạch lắm. Về
nhà thay y phục thì không kịp nữa, bởi ông Mìn mời chàng hễ hết dạy là
qua ngay để trò chuyện chơi trước khi dùng bữa.
Nhưng không thể không nhận lời.
Nhà có sân trong mà Thái không dè. Trông từ đằng xa, Thái thấy cả gia đình đều có mặt.
- Người mặc áo vàng nghệ, có phải là cô hai đó hay không cô ba? Thái hỏi Huệ đang dắt nẻo cho chàng.
- Dạ, chị hai em đó a.
Sân trồng hoa kiểng rất xinh, nhứt là rất ấm cúng và kín đáo, mắt người đi đường không dòm vào được.
Thái đã đến nơi. Chàng bận nhìn bà Mìn cao lớn đẫy đà nên chưa
thấy ai cho rõ. Chàng nghiêng mình chào từng người, bắt đầu chào ông Mìn
trước. Khi mắt chàng dừng lại trước người thiếu phụ góa chồng thì chàng
ngây người ra.
Thiếu phụ đẹp, đẹp quá sức tưởng tượng của chàng. Chàng đã hình
dung thử người đờn bà ấy thấy trong trí là cô ta hiện hơi đẹp hơn Huệ
một chút, nhưng rồi sẽ thua Huệ khi Huệ được trổ mã đều.
Nhưng quả thật chàng đoán sai rất xa. Sắc của Huệ mà đi mút con
đường tiến triển, cũng còn kém hơn Lan vào độ Lan vừa trổ mã xong. Huống
chi Lan đã là đờn bà rồi.
Người đờn bà trẻ, đẹp hơn con gái đương thì nhiều lắm, vì cái
chớm nở không sâu sắc bằng cái bừng nở, vì buổi mai tuy tươi mát dễ ưa
mà không say sưa bằng buổi trưa uy vệ hơn.
Trong tình sử của loài người, thật không nghe nói bực vĩ nhơn
nào mà mê con gái đến đổ vỡ cơ nghiệp, mà chỉ thấy toàn đờn bà làm tan
nhà nát cửa người ta thôi.
Thái bối rối như cậu học sanh mười bảy mới giao thiệp với bạn gái lần đầu, mặc dầu chàng đã hăm hai rồi.
Để che lấp sự lúng túng của mình, chàng đưa tay bắt lấy hai tay
đứa bé trai, lồi nắm lấy tay chúng mãi, hỏi lăng xăng như là hồi nãy
chưa gặp nhau.
Ông Mìn mời chàng ngồi, rồi nói bằng tiếng Pháp:
- Mettez- vous à l'aise, jeune homme 1.
Bà Mìn thạo đời lắm, đưa đầu đề ra ngay:
- Tôi biết thầy ăn cơm tháng, bỏ bữa mà không báo trước cũng
chẳng sao, nên mới đám mời thình lình như vầy. Số là vợ chồng tôi bận
việc nên quên mất. Con Huệ nó nhắc mới sực nhớ ra. Để lại ngày hôm sau, e
có điều gì trở ngại chăng, nên mới mời thầy ngay hôm nay.
Bà ta tỏ ra là một bà chủ có bản lĩnh. Chỉ có một mình bà là
nuôi nấng buổi chuyện trò cho nó khỏi tắt ngọn. Nhờ thế mà Thái dễ chịu
được và lần lần tỉnh lại.
- Ông giáo uống gì? Cô Lan vừa hỏi vừa day ra sau lưng lấy hai chai rượu để trên chiếc bàn con có bánh xe.
Thái ấp úng:
- Thưa cô, tôi uống gì... mà... không có chất rượu ấy.
Lan cười giòn lên:
- Như đờn bà ấy à? Như vậy làm sao được? Ít lắm cũng phải uống bia chớ.
- Thôi, cho ông giáo uống nước cam vắt, chị hai à, Huệ can thiệp để cứu ông thầy.
Lan đứng lên, thay cho mẹ mà đãi thức ăn uống cho cả bàn.
Đây là nàng tiên đã gợi hứng cho chàng làm thơ từ bao lâu nay,
một người đờn bà có cái lưng ong như lưng gái nước Sở ấy, có những ngón
tay riêng tự nó có linh hồn như những con vật sống, có đôi mắt mơ buồn
một nỗi buồn khôn nguôi.
Suốt bữa ăn, Thái tế nhận được vẻ ngạc nhiên trên gương mặt cô Huệ.
Ái tình luôn luôn im lặng. Nhưng người ngoài lại nghe ồn ào lên
rõ bông bông. Huệ có nói lòng mình ra bao giờ đâu, thế mà Thái đã biết
rõ tâm tình nàng.
Thì nay cũng vậy, Thái chỉ hầu chuyện ông Mìn bà Mìn, thỉnh
thoảng mới day qua đáp một câu hỏi thường của Lan, mà đáp một cách thờ
ơ, lạnh lạt. Thế mà Huệ như trông thấy suốt tim. chàng đang máy động vì
việc gì.
Huệ nó ngạc nhiên lắm. Mà chính chàng, chàng cũng ngạc nhiên. Lẽ
nào chàng từ chối tình yêu của một cô gái trong trắng để bâng khuâng
trước một người đờn bà đã hăm tám tuổi rồi?
Trước khi kiếu từ ra về, chàng nghe bà Mìn nói:
- Ông giáo sư tự nhiên qua lại nhà chơi. Chúng tôi xem ông giáo như người nhà, nếu ông không cho thế là mích lòng.
- Dạ, tôi đâu dám...
- Con Huệ nó nói đến ông luôn thành ra ông không qua đây mà chúng tôi đã quen nhiều với ông rồi.
Bà cười đến rung rinh cả thân thể.
Vâng, Thái sang nhà thường lắm. Chàng chỉ lo không có lý do để sang. Nhưng mà người ta cho phép, dại gì không nhận.
Nhưng càng qua lại nhiều, càng tủi thêm. Cô Lan chỉ xem chàng là
một ông giáo đến dạy ở tư gia, không hơn, không kém. Hôm nào vui tánh,
nàng bước thêm một bước, đối xử với chàng như một người chị đối với một
người em trai họ.
Thật là trời trả báo cho chàng. Chàng đã xem Huệ như em thì bị
Lan xem lại như em, quả đáng kiếp. Nhưng nghĩ oái oăm thay, ái tình. Nó
giống như là trò chơi bi-da của người Nga: viên đạn này chạy đi tìm viên
đạn kia, nhưng viên đạn kia không đứng lại với bạn, mà chạy tìm viên
nọ.
Thái đau một niềm đau khó chịu. Thà là bị tình phụ rẫy cho cái
đau nó rõ rệt ra, kêu khóc lên được cho hả hơi, và tự an ủi được khi
nghĩ rằng người ngoại cuộc cũng sẽ tội nghiệp cho mình.
Đằng nầy niềm đau âm thầm của mình chính mình cũng không than
trách được, thì cái đau ấy mới lắng xuống tới đâu để mà biết mà rứt để
mà mài cho mòn lần mòn hồi cả tâm hồn chàng.
Lan có khinh rẻ, hất hủi chàng lần nào đâu ? Nàng có yêu chàng
rồi phụ rẫy chàng lần nào đâu? Nàng chỉ thờ ơ thôi, xem như là chàng
không có.
Hỡi vì sao trên trời, lấp lánh về nửa đêm! Có biết chăng một con
dế kia mỗi tối mỗi nằm ở miệng hang mà dòm lên trời, bị thôi miên vì vẻ
rực rỡ của nàng, mà vẻ rực rỡ ấy không bao giờ soi thấu miệng hang cả.
May thay là Thái có nơi lùi về ẩn náu. Đó là thế giới thơ của
chàng. Thế giới ấy lần nầy được thủy triều đưa phù sa tình ái đến, nên
nó bỗng trở nên phì nhiêu kỳ lạ.
Người ta nói chỉ có đau khổ và ái tình mới làm nảy tài thi nhơn
được. Thái đã yêu mà yêu đau đớn, thành ra chàng đủ cả hai điều kiện để
thành công.
Thơ chàng bỗng nhiên già giặn và sâu sắc ra. Người ta đoán được
rằng chàng đã rút bao nhiêu tình cảm ấy nơi trường đau khổ, đã đi sâu
trong thất vọng, trong chua cay mới tìm thấy được những giọng thơ nó làm
bối rối người đọc.
Lần nầy, Thái nổi danh thật sự. Người ta phổ nhạc thơ chàng,
người ta ngâm thơ chàng trên các đài phát thanh, người ta in thơ chàng
dưới đủ hình thức, hình thức phổ thông cho mọi túi tiền, hình thức xa xí
để đưa thơ chàng vào các gia đình vốn không thưởng thức văn nghệ bao
giờ cả.
Tập thơ đầu in xong, Thái ân hận không đề kịp tất cả vào đó.
Tiếng kêu đau thấm thía hơn hết chỉ mới phát ra đây, ngày chàng được tin
Lan sắp đi lấy chồng do Huệ thỏ thẻ kể.
Chàng làm xong bài "Mừng cưới" ngay chiều hôm đó, giữa lúc cô học trò Huệ đang làm bài theo lời chỉ dẫn của chàng.
Bép xép tin ấy, Huệ rình phản ứng trên mặt Thái để đọc tình cảm
của chàng. Nét đau câm lặng mà nàng bắt chợt được trên đó như biến thành
tiếng động rồi vang dội vào lãnh vực sâu thẳm của lòng nàng.
"Trời ơi ! Anh ấy đau đớn như thế à? Nghĩa là anh ấy quả yêu chị
mình quá lắm, và nghĩa là mình vẫn là một kẻ ngoài vòng tình cảm của
anh thôi".
Một tháng sau, Thái được thiệp mời dự tiệc cưới. Nhà giàu thì
đờn bà năm con bảy cháu vẫn còn làm đám cưới rình rang như con gái được.
Cầm tấm thiệp, Thái không nghĩ đến mối tình của chàng nữa mà chỉ lật qua lật lại vấn đề nên đi hay không nên đi.
Không nên đi, không phải vì xấu hổ với ai, hay vì hờn ai. Không,
nếu mà Lan biết, chàng cũng không có gì để mắc cỡ với nàng. Chàng đã
yêu mà không nói ra, không phải vì chàng nhút nhát mà chỉ vì chàng thấy
có nói cũng vô ích. Người mà chàng yêu trộm không bị xúc động lần nào cả
mỗi khi tiếp chàng. Người thờ ơ như vậy thì còn hy vọng gì.
Chàng cũng không hờn mát Lan được, vì Lan đã có dịp khước từ sự tỏ tình của chàng lần nào đâu?
Không nên đi vì công phẫn tình đời. Gia đình nầy chỉ xem chàng là một ông giáo vào dạy tư gia, trừ Huệ thì khác thôi.
Một ông giáo vào hạng đó không thế nào có ghế ngồi trong những cuộc tiếp tân sang trọng của họ được.
Họ mời chàng chỉ vì chàng vừa nổi danh. Giới nào, họ cũng muốn
có vài đại diện lỗi lạc, cả giới văn nghệ sĩ là giới thật ít dính líu
đến xã hội của họ.
Họ mời chàng ngồi đó để làm cây cảnh cho rôm bữa tiệc thôi.
"Các ngài thấy hay không, sự phong phú của các mối giao thiệp
của tôi: bác học có, nhạc sĩ có, thi sĩ có, chớ không phải chỉ mời được
nhà giàu không mà thôi như các ngài đâu".
Thái đã bị người ta dùng làm món đồ trang trí như vậy vài lần
rồi. Lần đầu chàng thích lắm, nhưng sau nhận được ẩn ý của họ, chàng vỡ
mộng ngay.
Đáng buồn hơn nữa là cái thứ cây cảnh lạ là chàng, lại lắm khi không được ai buồn ngó đến.
Văn nghệ sĩ à? Là cái quái gì ấy, nhiều người tự hỏi thế rồi tò
mò dòm một cái. Đoạn thấy những con người không oai vệ chút nào, không
sang trọng tí nào, họ lơ đi ngay.
Tủi thân lắm! Thái có một người bà con nhà giàu. Lâu lắm chàng
mới đến thăm người ấy một lần. Một hôm, thấy trên bàn hắn có một quyển
truyện kiếm hiệp, Thái hỏi:
- Anh thích đọc sách lắm không?
- Buồn ngủ lắm. Tôi mua cuốn truyện này chỉ cốt đọc mỗi bữa độ nửa trang cho dễ ngủ đó thôi.
Tủi ôi là tủi cho sản phẩm của tinh thần khi chúng lạc vào thế giới tiền bạc.
Thái đắn đo rất lâu. Rốt cuộc chàng quyết định phải đi. Gia đình
nầy vẫn lịch sự đối với chàng, chàng không thể vô lễ là nằm nhà được.
Vả lại, biết đâu họ mời chàng không vì lẽ khác hơn là lẽ chàng
nghi ngờ. Biết đâu đây lại không là sáng kiến của Huệ. Nàng luôn luôn
can thiệp để cho Thái được tham dự vào mọi hoạt động xã giao của gia
đình: Dạ yến tại nhà, rong chơi cuối tuần nơi các bờ biển v.v...
*
Chồng của Lan quả xứng đáng một ông chồng mà Lan mong
ước: một người giao thiệp rộng (bằng vào số tân khách đàng trai trong
bữa tiệc), có dáng điệu oai vệ của một chủ nhơn ông, đủ bản lĩnh sống
đời sống mà người Pháp gọi là "Mông đen". Hai vợ chồng đi hết bàn nầy
qua bàn khác. Ở mỗi bàn họ đều bị thưởng mỗi người một ly rượu mạnh. Ông
ấy không hề trốn ân huệ của tân khách, lại còn bao sân giùm cho vợ. Năm
căn phố lầu của tửu lâu "Hà Đình" hôm đó được gỡ tất cả vách gỗ ngăn.
Mỗi căn chứa năm bàn, vị chi là hai mươi lăm bàn tất cả. Tính ra ông ta
uống đến năm mươi ly rượu mạnh mà không hề thấy sắc mặt ông ta thay đổi
màu chút nào.
Hai vợ chồng mới xứng đôi làm sao! Ông chồng hơi đen da nhưng
vẫn đẹp trai một cách kim thời, nghĩa là đẹp như một lực sĩ điền kinh.
Còn bà vợ thì khỏi nói. Bà ta ăn đứt tất cả gái tân đang có mặt,
ăn đứt luôn những thiếu phụ mà nếu không có bà, họ sẽ là những nàng
tiên trong dạ hội nầy.
Nghe đâu như là Lan đã từ chối lời xin cưới của một vị bác sĩ để tái giá với ông Công, nhà xuất nhập cảng nầy.
Xã hội Việt Nam bắt đầu thay đổi để biến lần giông giống như xã
hội Âu Châu về giá của con người. Ngày nay, người ta thấy những ông giáo
sư, những ông bác sĩ đi xe đạp. Giá trị họ vẫn y nguyên như ngày xưa,
nhưng giá của họ sụt đi trước cái bước vươn lên của những nhà tư bản.
Một nhà trí thức, một kỹ thuật gia tốt nghiệp như một kỹ sư chẳng hạn,
thật phải lép vế trước một con nhà thầu.
Lan đã chọn chồng theo lý tưởng của giới nàng. Nàng có tội gì đâu?
Hai suôi gia chiếm một bàn riêng đặt trong một phòng vắng. Cặp
vợ chồng mới bận đưa nhau đi trình diện với từng tân khách, nên chưa ăn
được, chỉ có cha mẹ em út đôi bên là đã ăn một lượt với khách.
Ăn xong, họ ra ngoài, thay thế cho hai vợ chồng vào mà dùng bữa. Trong phòng bấy giờ chỉ có ông Công, Lan và Huệ.
Lan sai Huệ chạy mời Thái vào.
Thái ngạc nhiên, không hiểu Lan mời mình vào làm gì. Khi chàng
đến nơi, Lan tươi cười đon đả mời chàng ngồi để dùng thêm rượu bánh.
- Anh nè - nàng giới thiệu Thái với chồng - Đây là ông Thái, một
thi sĩ hữu danh, bạn của gia đình em. Hình như là thơ của ông ấy hay
lắm.
- Hân hạnh - Công đứng lên bắt tay Thái. Đoạn ông day qua nói với vợ:
- Ừ anh cũng nghe danh ông Thái. Hình như là thơ của ông hay lắm.
- Hân hạnh về phần tôi - Thái đáp mà lòng đau xót cho hai tiếng "hình như" mà hai vợ chồng mới ấy vừa dùng.
Họ cóc cần nghệ thuật, cóc cần thơ, chỉ cho thi nhân lọt vào
vòng giao thiệp của họ để tỏ ra họ cũng thân được với trí thức thôi.
Đôi tân hôn bấy giờ cũng đã dùng xong bữa ăn. Phổ ky bưng đến một thố tàu hủ đặc biệt làm bằng hạnh nhơn.
Lan chính tay múc tàu hủ ra chén rồi mời Thái:
- Trong thực đơn, tráng miệng bằng cam, đu đủ, bánh sữa. Nhưng
anh Công ảnh thích tàu hủ nầy nên chúng tôi kêu riêng. Mời ông dùng thêm
với vợ chồng tôi một chén chơi. Tàu hủ hạnh nhơn của Hà Đình thì ngon
đặc biệt.
Cả ba cùng thưởng thức biệt phẩm của tửu lầu, xong họ uống trà, cũng chính của tửu lầu ướp lấy.
Lan châm trà cho Thái rồi nói:
- Ông Thái nè, tôi có câu chuyện riêng, cần nói với ông hôm nay.
Thái giựt mình, nhưng cố bình tĩnh đáp:
- Thưa bà, tôi sẵn sàng nghe bà chỉ dạy.
Nàng lại cười, lịch sự hơn bao giờ cả rồi tiếp.
- Số là ở ngoài họ nói nhiều về bài thơ Mừng cưới gì đó của
ông. Họ nói đến nó nhiều quá, và dám xuyên tạc nầy kia nữa là khác. Tôi
chỉ mới nghe đây thôi, và tôi lo chồng tôi cũng nghe như vậy rồi ngộ
nhận gì hay chăng? Nên tôi cần cả ba đều gặp mặt hôm nay để phá hết mọi
hiểu lầm.
Nàng lại cười, mời thuốc người khách đang run sợ và tiếp:
- Nếu ông đã thầm yêu tôi, thì đó là quyền của ông, không ai
nói vào đâu được cả. Ông bắt tôi mà làm đề thơ, cũng chẳng can gì, còn
danh dự cho tôi nữa là khác. Nhưng quả tôi không phải là nhơn vật là ông
đã tả trong bài thơ đó. Tôi không phải con người ham giàu rồi lơ là với
một người bạn xưa.
Tôi chỉ là một người đờn bà tầm thường thôi. Tôi mộng lấy một
người chồng thích hoạt động, rồi tôi sẽ an phận mà nuôi con. Văn nghệ sĩ
là một bực mà tôi không hiểu, nên không hề yêu được. Chỉ có thế thôi.
Có phải như vậy hay không, thưa ông?
Rồi nàng lại cười giòn, như là nói một câu chuyện rất tầm thường mà hơi ngộ nghĩnh một chút.
Thái lúng túng đáp:
- Thưa bà, họ chỉ bịa ra đó thôi, chớ...
- Không có gì mà ông phải thắc mắc như vậy: Văn thơ chỉ là
chuyện bịa thôi. Ông đây có quyền bịa bất kỳ thứ gì. Không, ông khỏi
ngại, chúng tôi hiểu biết lắm. Mời ông dùng thêm trà. Trà ngon quá.
Bỗng có người gọi hai vợ chồng ra.
- Anh đi một mình - Lan nói - em ở đây với ông Thái.
Nhưng ngoài ấy người ta đòi hỏi cô dâu ráo riết lên. Thái phải nói:
- Xin bà cứ ra, kẻo người ta đợi. Đã có cô Huệ ở đây với tôi.
- Thôi, như vậy thì xin phép ông.
Nãy giờ Huệ lùi lại, giấu mình trên một chiếc trường kỷ kiểu Tàu, đặt trong góc phòng.
Bấy giờ nàng mới đứng lên để đi lại bàn, nhưng Thái mau chân
hơn, đã tới gần bên nàng rồi. Hai người đứng nhìn ra cửa sổ. Những nóc
nhà bẩn thỉu làm cho khung cảnh bỗng khác hẳn khiến người xem cảnh bỡ
ngỡ vô cùng: trong là một căn phòng lịch sự tuy trang hoàng theo kiểu
Tàu xưa; rồi đột ngột là những mái ngói đen buồn vì nắng mưa của năm
tháng.
- Anh đã nghe rõ - Huệ nói sau một hồi im lặng - chị em sẽ an phận nuôi con, và không bao giờ hiểu văn nghệ sĩ cả. Em nói câu nầy không phải vì ganh mà làm hoen ố mối tình của
anh: là em ngạc nhiên lắm. Làm sao mà nhà thơ cao đẹp nầy lại yêu đến
dại một người đờn bà tự thú là tầm thường, không mơ một mộng đẹp nào cả,
không rung động vì một tình cảm nào cả. Chị của em đẹp thật đó. Nhưng không lẽ ra thi sĩ mà chỉ yêu vì sắc đẹp của thân thể mà không kể đến cái đẹp của tâm hồn?
Thái đã ngà ngà say. Chàng nhìn Huệ giây lâu rồi mỉm cười. Chàng đưa tay xoa đầu cô gái bé rồi nói.
- Không, em không thể hiểu được đâu.
Cử Chỉ và lối xưng hô mới của Thái chỉ do lòng thương mà có
thôi. Chàng thương cô bé như một em nhỏ dại, mà hôm nay, nhờ thân mật,
nhờ rượu nên chàng mới dám bộc lộ tình thương ấy ra.
Nhưng Huệ nghe tê tái cả người, bước đến một bước nữa, đứng gần sát Thái rồi hỏi:
- Sao anh biết em không hiểu được lòng anh?
Lần nầy Thái cười to lên, cười như một anh chàng mới say, men rượu còn kích thích dữ.
- Em không hiểu, vì như thế nầy. Em sẽ lớn lên bằng chị của em.
Em sẽ đẹp lắm, có thể đẹp hơn chị của em nữa. Nhưng ngày ấy, nếu anh
còn sống, anh cũng sẽ không yêu em được, mà chỉ thương em như bây giờ
thôi em à!
Em nên biết rằng một văn nghệ sĩ bao giờ cũng sống trước người
trang lứa đến năm bảy năm là ít. Tâm hồn anh già hơn tuổi anh nhiều. Như
vậy anh chỉ có thể tìm một tâm hồn bầu bạn nơi một người lớn tuổi hơn
anh thôi. Chị em không hiểu thơ anh, đành vậy nhưng bà ấy lại hiểu những
cảm nghĩ thường của anh, vì bà ấy già hơn anh nên mới có được tâm hồn
ngang mức với tâm hồn anh. Còn em, em chỉ hiểu thơ, mà không hiểu anh
được, em nghe chưa. Khổ lắm là em càng già, anh cũng già luôn, tâm hồn
anh không thể đợi tâm hồn em được để cho đôi ta cảm thông nhau.
Giữa đôi trai gái, nếu một bên là văn nghệ sĩ, thì không thể nào
tránh được sự so le để có thể yêu nhau được. Muốn xứng tuổi phải so le
tâm hồn. Muốn xứng tâm hồn, phải một bên già một bên trẻ.
Anh cũng muốn yêu em lắm đó, mà tạo hóa có cho phép tâm hồn anh ngưng lại để đợi tâm hồn em đâu.
Huệ rưng rưng nước mắt:
- Hay là em cố cho già lòng thêm để theo kịp anh.
Thái cười ha hả:
- Cũng không được nốt. Em ơi, thôi vậy nhá! Số kiếp của anh là
phải chịu đau khổ, còn số kiếp của em là phải chịu vạ lây. Thế mà còn
hơn là gượng yêu nhau để rồi thất vọng.
Huệ nức nở mà rằng:
- Em chỉ thương anh thôi, còn cái đau của em, em cần gì.
- Vậy à ? - Thái ngạc nhiên hỏi - Có lẽ em già hơn tuổi em đó.
Thôi em thôi đi, để anh xét lại coi có quả em già hay không mà có được
lòng vị tha ấy.
Mắt Huệ reo cười lên, nhưng vẫn còn long lanh ngấn lệ.
1 | Anh chàng trai trẻ ơi, anh hãy cứ xoay cho hết ngượng ngập đi |