Thứ Năm, 27 tháng 3, 2025

NGƯỜI QUAY TƠ - Nhất Linh

Từ Nương là một người con gái thôn quê làm nghề chăn tằm, ươm tơ, ở làng Xuân Nghi huyện Hồng Lạc. Nhà nghèo, cha mẹ đã già, làm lụng để nuôi hai thân. Cô trông xinh xắn, người thanh thanh vừa tầm, hai con mắt êm đẹp, mỗi khi trời nắng, gió lạnh, cô ra sân hai tay ngọc xe sợi tơ vàng dệt lụa là cho người trong làng mặc. Một hôm, đương ngồi quay tơ ngoài sân thời có một người học trò đi qua, thấy nàng đẹp quá mê đứt đi, ngày nào cũng hai lần trèo qua cái đồi cao, sang để gặp mặt nàng như thế, được gần một năm. Về sau nàng biết mà cảm thương, đem lòng mến. Mùa đông gió trên đồi thổi mạnh, lắm hôm rét quá mà nàng cũng chịu khó ra ngồi quay tơ ngoài sân cho người học trò được trông thấy mặt.

Tin đi mối lại rồi hai người lấy nhau, lúc ấy nàng mới có mười sáu tuổi. Nhà chồng nghèo nàng vẫn giữ nghề cũ nuôi chồng đi học, năm sau đỗ tú tài. Hai vợ chồng hòa hợp yêu thương nhau lắm, lấy nhau được trên hai năm cũng chưa có con cái gì. Một hôm ông tú gọi nàng đến, khóc và dặn rằng:

- Tôi đi phen này chưa biết bao giờ về, mà tôi cũng không mong đâu trở về nữa, không biết có còn thấy được mặt nhau nữa không?

Nàng nói:

- Thôi tôi hiểu cả rồi, việc cửa nhà tôi xin thay, chàng cứ yên tâm mà đi. Việc gì phải khóc lóc thế. Làm tài trai trong nước mà không được như người con gái quê mùa này ư?

Nhưng nàng nói thế rồi nàng cũng khóc theo. Ông tú lên Hà Nội, rồi đi đâu mất, họ đồn là theo bọn văn thân. Mấy tháng sau có mật thám về bắt bà cụ chánh là bà mẹ ông tú và từ đường lên tra hỏi. Lúc mới đến, nàng biết ngay, mặt tái ngắt, song gượng lại ngay mà nói:

- Các bác cứ để yên tự khắc bà tôi và tôi sẽ lên, chúng tôi không việc gì mà phải trốn, không cần phải xích tay, xích chân gì cả.

Các bác kia thấy người con gái nhà quê mà ăn nói cứng cáp, khẳng khái, bằng lòng để cho hai mẹ con được tự do.

Ông tú phải đi đày Côn Lôn chung thân: Nàng lại đem bà Huấn về quê giữ cái guồng tơ khung cửi để lấy tiền phụng dưỡng thay chồng. Như thế được bốn năm trời: Từ mẹ chồng cho đến người trong họ ai cũng cho phép nàng cải giá, nàng nhất định không lấy ai cả, quyết giữ lời thề với người cũ. Ông tú ở Côn Lôn cũng mấy bận viết thư về khuyên nàng, bắt nàng lấy người khác, lời lẽ thảm thiết thương. Nàng xem thư chỉ khóc rồi có khi nào nhớ chồng, lên tít trên đỉnh đồi cao mà đứng trông, có khi về nhà bố mẹ đẻ ra ngồi quay tơ ngoài sân, tưởng tượng đến lúc gặp gỡ, người thư sinh từ mấy năm về trước; những lúc ấy thời nàng lại đẹp lên bội phần, ai cũng thương mà ai cũng yêu, trong làng nhiều người rắp ranh bắn sẻ: Một ông giáo có quen ông tú, góa vợ đã lâu cũng đem bụng yêu nàng, cho mối sang hỏi. Lúc mối sang, nàng biết ngay, than rằng:

- Ai ngờ bác giáo mà cũng đến như thế ư!

Nói xong mắng mối đuổi ra. Ai cũng giận mà ai cũng mến nàng hơn trước.

Bà cụ Huấn mất, nàng làm ma chay cho chu đáo, rồi lên tỉnh xin phép đi theo chồng. Xin mãi mới được phép, nhà nước lại cho cả tiền tàu nữa.

Nàng về quê thu xếp, rồi một thân một mình ra đi, đất lạ quê người. Nàng ở bên ấy với chồng khổ sở trong ba năm, sinh được một đứa con trai thời ông tú bảo nàng về:

- Như tôi chiếc thân đày đọa đã đành chứ vợ con tôi thời có tội tình gì, nay đã được đứa con trai để nối dõi thời mợ đem con về nước, cố mà nuôi cho nên người khí khái, chứ ở đây với tôi mãi, thời chỉ thêm phí hai đời người nữa mà thôi. Còn tôi... tôi cũng không định sống lâu đâu, xin đừng tơ tưởng đến tôi nữa!

Nói xong, nắm tay vợ khóc mà từ biệt.

Hôm nghe tin nàng đem con về, cả làng Xuân Nghi ai ai cũng rủ nhau ra quán đón mừng. Lúc nàng bế con ở trên xe xuống hai con mắt ngơ ngẩn đưa nhìn khắp hết người làng, trông nàng có vẻ thần tiên: Nàng có vẻ cảm động quá ứa nước mắt mà khóc, người làng cũng nhiều người khóc theo.

Nàng thấy ai cũng có bụng kính mến, nên vui lòng mà làm ăn, tậu được cái nhà con ở chân đồi ngày ngày đi buôn hàng tấm. Một hôm nàng đang ngồi chơi với con thời có giấy về báo tin rằng ông tú tự tử mất đã được hơn một tháng rồi. Nàng ôm con vào lòng rồi ngã xuống ngất người đi. Mấy ngày hôm sau mới nhận được bức thư ông tú gửi về từ biệt.

Nàng cũng khuây dần: Có lẽ nàng nghĩ mình đã có con cũng đủ, và một đằng sống một đằng chết, sống mà cũng như chết, thời thà chết còn hơn, linh hồn mới có thể về cùng vợ cùng con được.

Năm sau những người phải tội đi đày chung với ông tú đã được tha cả. Nàng cũng biết tin ấy, thế có ai oán không? Đứa con nàng tự nhiên phải bệnh chết, nàng hóa điên từ đấy; bây giờ cứ đi lang thang, hát nghêu ngao, nhưng thường thường nàng hay về nhà bố mẹ đẻ, lấy cái guồng năm xưa ra quay tơ, quay cả ngày mà không biết mỏi, thỉnh thoảng có hát lên mấy câu.

Mới đầu cũng thương hại, song nghĩ cho kỹ thời thế lại hay cho nàng đấy, có lẽ thế mà lại xong, thật đấy nàng là người sung sướng nhất đời còn chúng mình đây không được như nàng phải đày đọa chung thân.

Ừ, thử nghĩ xem sống mà đeo cái đau khổ suốt đời, cái đau khổ không bao giờ khuây được chỉ có một cách là tự diệt mình mới thoát ly, thời cái điên là chẳng nên ước lắm sao? Nàng không biết mình là khổ thời nàng là người tiên rồi. Ôi! Nhưng bây giờ Từ Nương còn biết gì nữa, nàng có nhớ đến chồng con nàng nữa đâu, ai đã yêu nàng, nàng có nhớ đâu mà nàng còn yêu ai nữa, nàng chỉ ngày ngày thơ thẩn một mình lên tít đỉnh đồi cao mà đứng trông... Nhưng nàng trông ai bây giờ?

Đường trần mới đến nửa chừng,
Mà guồng tơ cũ đã ngừng bánh xưa.
 
(Trích trong tập truyện ngắn cùng tên)
 

Thứ Hai, 24 tháng 3, 2025

VUÔNG VẢI TRẮNG - Nhất Linh


Minh Tử là một người học trò nhà nghèo rất hay chữ, cha mẹ qua đời cả, lấy được người vợ tên là Trần Thị con nhà giàu có. Chàng ở gửi rể ở đấy, giang sơn chỉ có hai cặp sách, ngày ngày nấu sử sôi kinh. Trần Thị vốn tính xấc láo mà ác nghiệt, lại cậy mình giàu có, hay chê chồng dài lưng tốn vải. Minh Tử thế bách thường vẫn phải nhịn, đọc sách mà lơ đi.

Một hôm có hai người bạn thân ở Thái Nguyên đến chơi; liền bảo vợ làm cơm thết đãi, rồi ra tiếp chuyện bạn, nói những việc Tam hoàng ngũ đế bình những thơ Lý Bạch, Đỗ Công, nào luận về thuyết Dương Minh, nào bàn về văn Trang Tử; đã khám phá được nhiều điều trong rừng văn kim cổ, xong xem ra nói chuyện cũng đã lâu. Liếc mắt trông xuống dưới bếp thời thấy khói lạnh tro tàn, lắng tai nghe không thấy tiếng mâm, tiếng bát, có ý chột dạ. Lén dò xuống thời thấy trên bếp có một cái nồi đồng to đánh sáng choang, trong để một chồng sách, bên cạnh có để một cái thớt với con dao. Tinh thần Minh Tử lúc bấy giờ bảng lảng, đành phải gọi hai bạn thân xuống bếp chỉ vào mà nói.

- Tôi lấy phải vợ không ra gì, các bác đến chơi bảo nó dọn cơm thết đãi, thời nó làm ra thế này là có ý bảo chỉ có sách, thời đem luộc sách đi thái ra mà thết bạn, thế có cực không. Để tôi xem có cái gì hai anh đem ra cầm rồi vào hàng cơm ăn vậy.

Các bạn vội nói:

- Ấy chết, chúng tôi cũng có tiền cả đây chứ không đâu, tưởng là bạn thân thời vào nói chuyện ăn cơm, không có thời thôi, chứ có ngại gì.

Tối hôm ấy Minh Tử lấy sách cho vào cặp, bao nhiêu quần áo nhà vợ may cho trả lại cả, chỉ mặc có cái áo rách và một cái quần cũ của mình ngày trước, định chí trốn đi. Trần Thị sang nhà bố mẹ ngủ không về. Sáng sớm tỉnh mơ, Minh Tử gánh sách đi thẳng, không còn quay cổ lại nữa. Đi mãi, ai ngờ cái quần cũ quá, càng đi càng rách tứ tung, mà chỉ có cái áo cánh, không sao che đậy được, song cứ nhắm mắt đi liều. Đến gần một cái giếng thời gặp mấy cô con gái đi gánh nước, xấu hổ quá, phải ẩn xuống giếng. Họ kêu rầm lên:

- Ô hay! Giếng nước cả làng người ta ăn, cái bác này hư quá.

Minh Tử luống cuống nói rằng:

- Thưa các cô, quả tôi không dám thế, tôi vốn là học trò nghèo, quần áo rách tứ tung cả, không có cái khố mà mặc, thấy các cô thẹn quá phải xuống ẩn ở đây, các cô không tin thời đã có hai cặp sách mà tôi để bờ kia.

Họ nhìn thấy cặp sách, không nói gì nữa gánh nước về, một lát lại ra. Có một cô xinh nhất đám ấy lần khân ở lại sau, đợi chị em xa rồi đi ghé qua chỗ Minh Tử ngồi ném cho mấy vuông vải trắng cô vừa dệt xong, rồi cứ lặng yên gánh nước đi thẳng.

Minh Tử đóng khố rồi gánh sách chạy theo hỏi:

- Thưa cô tôi hỏi không phải, cô làm ơn cho biết tên cô là gì để sau này đền ơn.

Cô kia không trả lời, Minh Tử cứ lạch cạch vác sách theo mà kêu, đến cổng làng hỏi đám trẻ thời mới biết tên cô ấy là Thảo, con ông Lý cựu trong làng.

Hỏi xong lại gánh sách đi, đi mãi mỏi chân và đói bụng quá, sẵn có bóng cây đa ở giữa đồng liền ngả lưng nằm ngẫm sự đời.

Ông chánh tổng ở làng gần đấy trưa nằm ngủ thấy có thần báo mộng rằng cánh đồng làng nhà người có ông Trạng bây giờ đang đói nằm ở gốc đa. Ông Chánh giật mình thức dậy lấy tay dụi mắt mà lẩm bẩm nói khôi hài một mình rằng:

- Quái, ta tỉnh hay mơ. Trạng nào lại nằm ở ngoài cánh đồng mà Trạng nào lại đói bao giờ. Song thần nhân báo mộng, thử ra xem sao.

Liền lấy nón ra chỗ cây đa thời chẳng thấy Trạng nào cả, chỉ thấy một anh đóng cái khố trắng đương nằm bắt chân chữ ngũ ở đấy, hỏi thời nói học trò nghèo, lỡ đường đói bụng nằm đợi chết. Ông Chánh liền mời ngay về nhà dạy học con mình, may quần áo, cấp lương cho tử tế.

Năm năm sau quả nhiên Minh Tử đỗ Trạng Nguyên làm quan tại triều. Một hôm nhớ người con gái gánh nước năm xưa, liền xin nghỉ đi tìm nàng, ăn mặc như người học trò kiết; tìm đến cái làng ấy thời họ nói nàng đã lấy chồng, bây giờ chồng chết, ở vậy nuôi con. Một hôm đón nàng ở ngoài đường mà chào:

- Cô còn nhớ người học trò ngồi ẩn dưới giếng không?

Nàng nhìn một lúc rồi nói:

- Phải tôi nhớ ra rồi, nhưng bây giờ ông muốn đến xin tôi gì nữa.

Minh Tử nói rõ ngay rằng:

- Tôi muốn cùng cô kết nghĩa trăm năm.

Nàng đỏ mặt lên mắng là sỗ sàng, rồi bỏ đi.

Minh Tử lên huyện xưng danh hiệu rồi bắt cho giấy về đòi nàng lên, nàng chỉ khóc mà nói:

- Tôi đã thề giữ trinh tiết với chồng, thời tôi xin giữ cho đến suốt đời. Quan Trạng ngài biết tới, thời cũng xin tạ lỗi mà thôi, sự đã quá rồi, không sao được nữa.

Minh Tử cố khuyên thế nào cũng không nghe, cho nàng tiền bạc bao nhiêu nàng cũng từ chối cả.

Minh Tử than rằng: Cái danh phận, cái phú quý của ta không đủ cảm được nàng, mà mấy vuông vải trắng của nàng cảm ta sâu xa đến thế!
 
(Trích từ tập truyện ngắn Người Quay Tơ)
 

Thứ Sáu, 21 tháng 3, 2025

TRẢ THÙ

Phong liếc mắt vội qua trang nhất của tờ báo. Những chữ lớn in đậm nói về thời cuộc. Hôm nay tình hình thế giới cũng chỉ lục đục bình thường như hôm qua hôm kia. Ba ông hoàng thân nước Lào đánh một ván cờ quá kéo dài khiến những kẻ tò mò đã chán, bỏ cuộc dần dần. Đến nay thì những địa danh Nam Tha, Vạn Tượng, Sanh van na khet, Mương Phin... Lẫn lộn tất cả, người bàng quan không còn nhớ rõ địa điểm nào thuộc về phe nào nữa. Những cảnh giết chóc đốt phá, những tiếng khóc đau thương trong khói lửa chỉ còn hiện ra mờ nhạt dưới hình dáng lãnh đạm của những chữ in quá quen thuộc. Ở những địa điểm khác nơi mà tình hình chưa ngã ngũ rõ ràng thì nhà báo có một số dụng ngữ lập lại: Tổng trưởng X tỏ ý tin tưởng rằng... Theo giới thạo tin thì... Người ta ước đoán... Có lẽ... Nhìn về phía tình hình trong nước thì chỉ một đôi vụ lường gạt nhỏ, một vài cái chết quá mức tầm thường (chẳng hạn bị tình phụ mà chỉ nhảy xuống sông tự tử rồi chết luôn). Những sự việc nhỏ xảy ra trong xã hội như được xếp đặt theo từng mùa. Một vụ tạt át xít lớn bao giờ cũng được nối tiếp nhau bằng một số những vụ tạt át xít nhỏ. Rồi như nhàm với trò chơi này, một loạt những thanh niên mê tốc độ rủ nhau lần lượt gây tai nạn trên xa lộ mới, cung cấp cho báo chí một số những tĩnh tự ghép: khủng khiếp, rùng rợn, chưa từng thấy, quá sức tưởng tượng... Rồi sau đó mọi người nghỉ ngơi và báo chí cũng dường như nghỉ ngơi theo.

Vừa đưa mắt tìm những cái đề, Phong vừa kết luận một cách thất vọng: "Chẳng có gì quan trọng".

Thật vô lý hết sức nhưng cũng như mọi độc giả khác cả bình dân lẫn trí thức, chàng thấy rằng tờ báo không xứng với giá tiền mua nó khi nó không nói đến những tin tức kinh khủng. Chẳng hạn: Cuộc đảo chính xảy ra ở nước A, xác nhà vua bị phơi giữa chợ... Động đất ở thành phố B nhà sập vùi nửa triệu người... Trong bữa tiệc linh đình của nhà triệu phú C, tất cả quan khách điều bị ngộ độc chết cả... Hoa hậu thế giới D bị tên tướng cướp... vân vân. Không biết có phải bản chất con người thường thấy mình sung sướng hơn lên khi những người xung quanh họ gặp tai ương thất bại không? Có lẽ như thế thật chăng?

Phong vừa lặng lẽ lý luận vừa lật sang trang sau. Đó là trang quảng cáo những cuộc vui, những tuồng hát, tuồng chiếu bóng. Chàng tò mò đọc qua một lượt tên các rạp, tên các tuồng, và tên những tài tử chính. Sự tò mò của chàng giống y như sự tò mò của kẻ đi xem đám cưới, xem người ta ăn tiệc, xem người ta nhảy đầm. Lý do là chàng không ở Sài Gòn mà ở tỉnh nhỏ.

Chàng lật sang trang ruột. Những truyện ngắn, truyện dài, truyện ly kỳ, truyện tò mò, sân khấu kịch trường, vườn thơ, mách luật... không phải là món ăn của kẻ vội vàng. Chàng nhìn xuống mục "Tử Vi". Bỏ đi những hình con chuột, con trâu, con cọp, con mèo... in lòe nhòe, mắt chàng đậu lại ở ô con chó. Nhà khoa học huyền bí dạy rằng:

"Có tin hay ở xa đến. Tuổi 31 gặp bạn tâm tình. Buổi chiều có hoạnh tài"

Cái điệp khúc "Có tin hay ở xa... Gặp bạn tâm tình... Có hoạnh tài..." chàng đã nghe nhiều lần, hôm nay tự nhiên làm chàng nhíu mày khó chịu. Thường mấy ngày trước những lời tiên tri đều đến làm cho chàng vui, cái vui giễu cợt. Đạo nhân bảo đừng nên ra vốn, bất lợi. Thì chàng có vốn bao giờ đâu mà ra? Đạo nhân bảo "Gặp hoạnh tài". Hoạnh tài đâu mà gặp? Đã mấy tháng nay chàng không mua vé xổ số nữa. Trước đây, kỳ nào cũng mua ít nhất hai vé. Không phải vì mong ở hoạnh tài nhưng mà vì cô bán vé số có đôi mắt đẹp. Cái thú của người độc thân là mua bán không tính toán. Ngày còn ở Huế, chỉ vì cô bán hàng tạp hóa đẹp mà hộc bàn nhà chàng đầy những viên xà bông thơm. Đứng nói chuyện vẩn vơ gì một lát rồi khi bước ra phải mua một vật gì cầm tay. Chỉ có xà bông thơm là tiện mua nhất. Ngày đổi về Phan Rang thì vì cô thu ngân ở hiệu thuốc tây mà nhà chàng đầy những hộp Kalmine, vì cô hàng sách Thanh Đạm mà phong bì thư gửi hoài không hết. Thật cũng dễ tìm biết tâm hồn của một anh chàng độc thân. Cứ nhìn trong phòng thấy món gì dư một cách khả nghi thì cứ truy nguyên ra là tìm được manh mối. Nhưng từ khi cô hàng bán vé số lấy chồng thì chàng thôi không còn mua vé số nữa. Chàng không có số được hoạnh tài. Mua bao nhiêu vé mà chưa lần nào trúng được một trăm bạc. Thậm chí có vé chàng thử đem dò đến 10 lần xổ mà tuyệt nhiên không lần nào trúng nổi 2 con số sau cùng. Vậy thì chỉ còn có mục "Tâm tình" là hơi có thú vị. Ba mươi mốt tuổi rồi mà chưa có vợ thì lẽ tất nhiên là mục tâm tình phải rất có thú vị. Nhưng đã rất nhiều lần rồi những tâm tình đạo nhân bảo gặp mà vẫn không gặp, tin hay bảo đến mà nào thấy đến.

Phong vất tờ báo xuống giường, hơi bực bội như mình vừa bị ai đùa dai.

Suốt cả buổi ngồi làm việc, chàng tưởng đã quên đi những điều nghĩ ban sáng. Nhưng không. Cứ mỗi lần ngơi công việc một chút, mỗi lần ngồi lắng lại lòng mình một chút là chàng cảm thấy có cái gì khang khác, có cái gì vương vấn trong tâm hồn. Suy nghĩ một tí, chàng nhớ ra ngay mấy điều tiên tri ở mục Tử vi. Và chàng lại nhẩn nha nghĩ đến nó. "Tuổi 31 gặp bạn tâm tình..." chàng thấy lòng gợn một niềm vui nhẹ. Bạn tâm tình? Đó là cô Khánh ở nhà đối diện vẫn mỉm cười kín đáo mỗi lần chàng bất chợt nhìn sang gặp cô đang cầm thau nước tưới hoa? Đó là cô Duyên mà chàng nhất định phải gặp đi xe đạp ngược chiều với chàng vào lúc 7 giờ 15 ở ngang ngã tư Lê Thánh Tôn - Phước Hải? Không, chắc không phải đâu. Đó là những người đã quen quá, quen đến cái độ mình không nghĩ rằng có mặt. Không, có lẽ phải là... là... là... là ai? Tìm mãi không thấy ai có thể là bạn tâm tình, Phong chợt buồn cho cuộc đời cô đơn của mình. Gặp phải trở ngại, óc chàng dừng lại một chút rồi nhẹ lướt qua mục "buổi chiều gặp hoạnh tài" như sẵn theo một cái trớn nhỏ. Nhưng hoạnh tài ở đâu mà gặp? Mình không mua vé số nữa. Mình không hi vọng gặp được của rơi vì mình không bao giờ đi bộ. Thấy mình sắp trở lại những ý nghĩ, những lý luận hồi sáng, chàng dẹp bỏ không nghĩ đến nữa, cúi nhìn xuống bàn. Đặt lên trang giấy trắng, tay chàng vẫn còn cầm bút và đầu ngòi bút cách xa nét chữ vừa viết đúng khoảng cách của một chữ. Chàng viết tiếp dòng chữ viết dở dang.

Chín giờ rưỡi tối, trái với thường lệ Phong lên xe đi phố. Đã hơn ba ngày nay, chàng không đi phố nên có nhiều món cần dùng mà không tiện đi mua chàng đã phải tạm nhịn: cà phê, xà phòng cạo râu, đôi bít tất mới, tờ Paris Mach tuần này.

Tiếng máy xe nổ nhè nhẹ, dòn dòn. Ánh đèn xe lóa xuống đường. Đi cùng chiều và ngược chiều với chàng, những chiếc xe đạp cũng rè rè tiếng nút bình điện xe quay. Tiếng rè rè vui vẻ, ánh sáng lóe ra và chạy vút tới, xuyên sâu vào bóng đêm khiến chàng nghĩ đến một đám côn trùng lượn đùa nhau trên một mặt ao đêm mùa hạ. Ban ngày xe cộ để lộ tính chất lạnh lùng của sắt thép, của máy móc, của khoa học cạnh tranh và tàn bạo. Ban đêm, nhất là ở những quãng đường vắng như đường Yersin này mà ánh điện đường bị bóng cây che khuất, những chiếc xe lướt qua không thấy hình dáng mà chỉ thấy ánh đèn vui vẻ và dịu dàng.

Chàng bỏ con đường vắng, rẽ sang đường Độc Lập. Ánh đèn nê-ông sáng trắng làm nổi những tà áo tươi và tăng vẻ tàn tạ cho những màu áo bẩn, sắc da và khuôn mặt cũ kỹ. Chàng nhìn sang hai bên đường. Những hiệu sách, hiệu máy hát, đồng hồ sáng hơn và tươi hơn cả bên cạnh những hiệu bán đồ sắt, bán gạo sầm uất, những hiệu chạp phô tù mù. Từng chặng có những hiệu cửa sắt kéo kín, khung cửa sẫm lại. Chàng dừng xe ở một hiệu sách. Không phải là vì hiệu sách quen mà chỉ vì tiện đường lề xe đậu. Những bản nhạc trình bày đủ màu treo giăng khắp chiếc phòng hẹp. Sách xếp ở ba dãy tủ kính kê sát mặt tường. Những tạp chí khổ lớn nằm trên dãy bàn giữa nhà. Chàng nhìn một lượt mấy tủ sách, đọc lướt qua tên các sách giáo khoa để cảm thấy thấm thía nỗi sung sướng của người lớn đã thoát khỏi cái nợ phải bận bịu trên trang sách học. Chàng bước lại dãy bàn. Những tạp chí ngoại quốc ấn loát mỹ thuật xếp cạnh những quyển tiểu thuyết bìa mang nhiều hình vẽ quái đản. Sau một hồi xem xét, chàng nhón lấy hai tạp chí thường kỳ chàng vẫn đọc, bước lại quầy hàng. Một người đàn ông ngồi thu ngân.

Phong ngạc nhiên, hơi khó chịu một chút khi nhìn đôi vai vạm vỡ, một cái sơ mi để hở cổ và một khuôn mặt dèn dẹt. Thường ngồi nơi đây là một người đàn bà trẻ tóc uốn cao vẻ mặt hao hao như một cô đào chiếu bóng nào đó mà chàng không nhớ tên. Mỗi lần lại trả tiền chàng thấy vui vui. Quả tình một cô thu ngân đẹp an ủi được đôi phần nỗi xót xa của người sắp mất tiền. Nhất là những khi vào hiệu thuốc Tây giá tiền thuốc có lúc cao gấp ba, gấp bốn giá tiền dự đoán. Vừa lo lắng cho sức khỏe vừa đau xót cho túi tiền không biết sẽ còn hao bao nhiêu nữa, vậy mà gặp một cô thu ngân xấu xí hay thô lỗ thì thật dễ bực mình. Người đàn ông này chắc là chủ hiệu, là chồng của người đàn bà đẹp vắng mặt. Anh ta chậm chạp cầm lấy hai tạp chí của chàng đưa, lật sau lưng nhìn giá tiền, rút tờ giấy bọc màu xanh lặng lẽ bọc lại, lấy một vòng cao su vòng quanh. Tiếp theo đó anh lấy bút chì "nguyên tử" làm con tính cộng. Sự chậm chạp làm tia mắt Phong nhìn anh ta nghiêm khắc lại. Tuy không nhìn xuống bài tính của anh ta làm nhưng chàng không quên làm con tính cộng trong óc: 38 đồng. Chàng đưa tờ giấy trăm. Anh hàng sách cầm lấy, bỏ cẩn thận vào một hộp đựng toàn giấy trăm rồi anh lấy tiền trả lại. Anh lấy một tờ giấy 50 đồng ở hộp đựng toàn giấy 50, lấy 2 đồng lẻ ở hộp tiền lẻ. Sang hộp giấy 10 đồng, Phong thấy anh lục lọi mãi một hồi. Không biết ý anh định tìm gì trong khi hộp đầy ắp những tờ giấy 10 đồng màu nhạt. Lục lọi một lát, anh chàng lấy ra hai tờ giấy 10 đồng đen đỉu nhầu nát chập với tờ 50 và hai tờ một, đưa cho Phong. Chàng giơ tay cầm lấy, đứng tần ngần. Chàng vò tiền nắm trong tay không đếm nhưng biết chắc là 72 đồng. Sao lại đến 72 đồng? 62 đồng mới phải chớ? Trong óc chàng vụt chạy nhanh như một luồng điện, ý nghĩ "Hoạnh tài". Chàng đưa mắt nhìn sang anh hàng sách. Khuôn mặt vuông và cái hàm hơi bạnh ra. Miệng rộng, môi dưới mỏng, dài hơn môi trên nên uốn cong lại. Cái môi này chàng đã gặp ở đâu một lần rồi, cái môi này đã làm chàng khó chịu ở một nơi nào rồi. Chàng cầm tiền đứng dịch lại dãy bàn bày báo hàng ngày vờ nhìn xuống đọc nhưng trí óc đuổi bắt hình bóng của cái môi cong. Cái môi... Khuôn mặt mai mái... Cái hàm bạnh... Cái môi... Chàng đẩy lui khuôn mặt ấy lần về dĩ vãng. Hôm qua? Tuần trước? Tháng trước? Chàng soát lại ký ức, tìm xem cái môi ấy của ai, chàng gặp nơi nào. Tháng trước? Tháng trước?

Chàng vụt nhớ ra rồi. Một khuôn mặt hiện ra, rõ ràng. Đúng là môi cong đó. Cũng cái hàm bạnh. Hai con mắt giảo hoạt. Một mái tóc mềm nằm an phận, vâng lời. Khuôn mặt này làm chàng khó chịu. Chàng đẩy lui ký ức vào xa hơn trong dĩ vãng để thay khuôn mặt kia bằng một khuôn mặt khác. Một mái tóc uốn cong. Đôi má trắng hồng bầu bĩnh. Đôi môi nhỏ thoa son nhạt. Tà áo phất phơ và gót chân uyển chuyển. Mùi nước hoa Tabou. Tâm hồn chàng dừng lại mơn trớn cái hình ảnh đẹp kia, đồng thời cái khung cảnh gặp gỡ cũng như trải rộng ra trước mắt chàng. Đó là khung cảnh của thành phố Quảng Ngãi.

Chừng một tháng trước đây chàng nhận được giấy đi chấm thi ở Quảng Ngãi. Địa điểm này làm chàng thất vọng. Sao không đi Huế hay Đà Lạt mà lại về cái tỉnh nhỏ này? Đi bằng xe lửa thì đoạn đường có nhiều trở ngại mà đi bằng máy bay thì Quảng Ngãi không có phi trường. Hội đồng giám thị ở Trung tâm Quảng Ngãi do đó mà nhận được không biết bao nhiêu những đơn xin vắng mặt kèm theo giấy chứng của Bác sĩ. Thành phố Quảng Ngãi bé quá chỉ có hai con đường buôn bán. Cứ cách chừng năm mươi thước là có một nhà sản xuất kẹo gương mạch nha, đường phổi. Đó là ba món hàng thổ sản. Đặc điểm những thành phố nhỏ là có những sản phẩm đặc biệt của địa phương. Đô thị lớn thường không có bản sắc đặc biệt về mặt sản xuất, ở đây cũng là nhà máy sợi, nhà máy cửa, nhà máy sản xuất dụng cụ. Quảng Ngãi chỉ có một rạp hát nhỏ mà cũng không đủ người xem. Người đi phố mua sắm, mặc cả, chọn lựa một cách cần mẫn chí thú. Thiếu hẳn những người thừa lương đi tản bộ.

Sáng hôm thi Phong nhìn lên hai tấm bảng đen ghi tên các vị giám thị. Có từng mươi tên cô giáo mang nhiều tên hoa, tên chim mỹ miều. Khi người thư ký Hội đồng cầm phấn lại bảng ghi tên phòng trước mặt mỗi tên giám thị, chàng đọc được sự hồi hộp lý thú ở những người ngồi cạnh mình. Sự tò mò của các cô giáo biểu lộ dễ thấy hơn vì họ đứng cạnh nhau nên vừa chỉ chỏ vừa thảo luận nho nhỏ. Các giám thị đàn ông tỏ vẻ lãnh đạm hơn, nhưng đó là một vẻ lãnh đạm cố tạo ra. Vì có một trò rủi may đang diễn ra trên bảng đen kia. Mình sẽ giám thị với ai sáng nay? Chiều nay? Mình sẽ giám thị phòng nào sáng nay? Chiều nay? Từ phòng 1 đến phòng 7 là phòng nữ sinh. Giám thị giờ thi Toán, thi Lý hóa mà được nhằm vào phòng nữ sinh thì đỡ nhọc vì nữ sinh không bạo dạn như nam sinh. Giám thị với một cô giáo bao giờ cũng vẫn thú hơn. Chàng không có ẩn ý gì hết. Người đàn bà đẹp như một bông hoa, ở gần họ như được ngồi trước một bông hoa đẹp, thế thôi. Nhưng sáng hôm đó, cùng nhận phòng 15 với mình là một cái tên đàn ông. Phong lại ôm xấp giấy thi đi thẳng đến phòng mình. Chàng không lưu tâm xem người đàn ông cùng đến với mình là ai. Người đàn ông nào cũng giống nhau. Để bù lại buổi sáng, buổi chiều chàng giám thị với một cô. Cái tên đẹp và vẻ người thua cái tên một chút. Cô làm đầy đủ, nghiêm trang những công việc mà chàng giao cho: phát giấy thi, phát giấy nháp, so phiếu thí sinh và thẻ căn cước để nhận diện. Cô rầy những thí sinh nói chuyện, thu gọn những tờ giấy nháp thí sinh cố ý bày bừa bãi để người bên cạnh liếc xem, kéo về vị trí cũ những thí sinh ngồi sát vào nhau để hỏi bài. Đúng là một cô giáo quen nghề và đã có chồng con. Sáng hôm chàng lại giám thị với một cô. Lần này là một cô giáo quá trẻ, đôi má trắng hồng bầu bĩnh. Chừng như nàng mới ra trường một hay hai năm. Đôi môi nhỏ thoa son nhạt. Mái tóc uốn cao, cắt ngắn hợp thời trang. Tự nhiên chàng nghĩ rằng cô giáo không sung sướng ở cái tỉnh nhỏ này. Nhìn sang tên cô viết và ký ở tờ bìa đựng bài thi chàng đọc: "Lê Thị Hoàng Yến". Chàng hỏi:

- Cô Hoàng Yến dạy ở trường gần đây?

- Vâng ạ. Em dạy ở trường Nữ tiểu học.

Không phải là giọng Huế như chàng thường gặp ở các cô giáo miền Trung mà là giọng Bắc.

- Cô ra trường đã lâu chưa?

- Dạ, em dạy được ba năm.

Vài thí sinh lợi dụng tình thế bắt đầu rì rào trao đổi ý kiến khiến chàng phải đi xuống góc phòng. Viên giám thị hành lang đi đi lại lại.

- Thành phố Quảng Ngãi nhỏ quá và tẻ quá chắc không phù hợp với tuổi trẻ của cô.

Chàng nói nhưng vẫn đưa mắt nhìn xuống lớp.

- Vâng ạ. Quảng Ngãi buồn lắm nên ba em đã xin đổi về Sài Gòn. Nhưng còn phải đợi bán nhà đã.

- Nhà to lắm?

- Dạ, không to lắm. Trước đây có người trả mười hai vạn. Nhưng nay vì tình hình mà họ trả sụt đi.

Vài ngón tay giơ lên xin thêm giấy thi, nàng cầm giấy đem xuống phát cho họ. Phong nhìn đôi vai tròn, hàng orlon mỏng màu hoa bèo uốn theo thân hình. Gót chân đi thoăn thoắt nhanh nhẹn. Khi nàng trở lại bàn, chàng giao cho việc lập bản danh sách những thí sinh nộp bài. Chàng nói:

- Khi thí sinh nộp bài, cô nhớ xem bài thi có ghi số ký danh không. Nhận bài xong cô bắt họ ký và cô mới giao trả thẻ thí sinh cho họ. Coi chừng kẻo họ chưa nộp bài mà đã ra khỏi phòng. Mất bài là nguy lắm. Cô sẽ được đổi đi, không phải về Sài Gòn như ba cô xin mà về Kontum hay Pleiku đó.

Nàng mỉm cười:

- Ông cũng vậy.

- Đâu có được "cũng vậy"? Khổ nhất là tôi sẽ phải đi Côn Sơn hay Quảng Đức.

Một vài thí sinh lác đác nộp bài. Khi tiếng trống báo hiệu mãn giờ thi cả hai túi bụi vừa thu bài vừa bắt ký vừa tìm thẻ thí sinh để trả lại vừa trông chừng ra cửa kẻo có thí sinh bỏ phòng ra đi. Khi công việc đã yên ổn, khi tất cả thí sinh đã ra khỏi phòng rồi, khi kiểm lại số bài thi thấy đủ, chàng bảo:

- Thế là trót lọt buổi sáng nay. Cô có thể thở ra được rồi.

Trong khi xếp lại bài thi theo thứ tự chàng hỏi:

- Cô dạy lớp Nhất phải không?

- Thưa ông không. Em dạy lớp Ba.

- Sao ít vậy?

- Em có con nhỏ, bà hiệu trưởng cho dạy lớp nhỏ để đỡ nhọc.

Phong quay lại nhìn nàng. Có con nhỏ? Đã có chồng rồi sao? Có chồng? Loáng trong một giây, từ một hình ảnh thiếu nữ mỹ miều, chàng thấy nàng chợt biến thành một thiếu phụ cam chịu.

- Chồng cô làm gì?

- Chồng em buôn bán

- Người Bắc?

- Thưa không. Anh ấy người Huế.

- Sao cô không lấy chồng người Bắc cho gần gũi?

- Thưa ông, khi đã yêu nhau thì...

Phong không muốn nghe tiếng "yêu nhau" thoát từ đôi môi kia. Giá nàng nói "bị bắt buộc phải..." thì chàng sẽ thấy dễ chịu trong lòng hơn. Để giữ vẻ thản nhiên, chàng thấy cần phải nói đùa một câu:

- Ở thành phố nhỏ người ta mau lấy chồng. Vì không có một món tiêu khiển nào có thể bận rộn tâm trí họ được. Ở thành phố nhỏ gia đình nào cũng đông con. Người ta không dùng thì giờ để la cà ở rạp hát, ở phòng trà mà họ chỉ biết tìm thú vui trong gia đình. Có lẽ đây là một định lý: "Khi đóng cửa một giải trí trường thì người ta sẽ mở thêm được một nhà hộ sinh".

Hoàng Yến mỉm cười:

- Đó là khẩu hiệu hiện nay. Nhưng ở đây cũng còn bao nhiêu cô giáo chưa chồng.

- Chắc vì họ không đẹp bằng cô.

- Không chắc.

- Nhưng có điều này chắc: là những cô giáo chưa chồng bị hai sự thiệt thòi. Chưa chồng là sự thiệt thứ nhất và là thiệt thòi quan trọng. Thứ hai là phải dạy những lớp Nhất nhọc nhằn... Xin lỗi, chồng cô buôn bán gì?

- Nhà em mở tiệm dự trữ thuốc Âu Mỹ.

- Ở đường Phan Bội Châu?

- Thưa ông không. Ở đường Lê Trung Định

Chiều hôm sau khi các môn thi nhiệm ý: vẽ, nữ công, âm nhạc đã thi xong, có cuộc họp kiểm thảo của Hội đồng giám thị. Trên đường đi đến hội nghị chàng gặp Hoàng Yến cùng đi với một người đàn ông. Gặp nhau quá bất ngờ, chạm sát mặt nhau ở một lề đường hẹp, cả hai bên phải đứng dừng lại để chực tránh nhau. Hoàng Yến lúng túng chào chàng và phải giới thiệu người đàn ông đi với mình:

- Xin giới thiệu với ông: nhà tôi

Rồi quay sang chồng:

- Ông Phong giám thị cùng trung tâm với em.

Chàng giơ tay bắt và nhìn kỹ vào mặt người chồng khó chịu vừa thích thú vì anh không xứng với vẻ đẹp của người vợ. Một mái tóc mềm nằm rẽ hai, tuân theo một đường rẽ quá thẳng. Đôi con mắt ranh mãnh đi với cái hàm bạnh, nhiều mưu cơ và có thể tàn bạo. Cái miệng rộng. Môi dưới mỏng và dài hơn môi trên khiến có đoạn phải cong lại mới đủ chỗ. Chàng đưa mắt nhìn sang Hoàng Yến. Vẫn đôi má hồng phúng phính ngây thơ. Chàng có cảm tưởng hơi đau xót như khi nhìn một con cừu non bị vuốt sắt của một con ó hung tợn đe dọa. "Khi yêu nhau thì...", chàng nhớ lại lời nàng. Sao con cừu kia lại yêu con ó kia được nhỉ? Họ có một đứa con. Lát nữa hai người sẽ cùng nhau châu đầu trên cái nôi hay cùng chuyền tay cho nhau đứa bé mũm mĩm.

Phong thấy bực mình vẩn vơ. Suốt buổi hội nghị chàng chỉ im lặng không nói. Lúc ở nhà ra đi chàng đã chuẩn bị những ý kiến để phê bình cách tổ chức phòng thi, công việc giám thị, công việc chủ khảo... nhưng bây giờ tự nhiên chàng thấy chán không thích nói nữa. Sáng hôm sau, khi xách vali lên tàu vào Qui Nhơn, chàng giã từ không luyến tiếc cái ám ảnh không vui kia.

Hôm nay bất ngờ chàng gặp lại cái môi mỏng dài và cong vêu. Đôi mắt ranh mãnh. Mái tóc dẹt. Sự bực mình kéo nhanh đến làm chàng cơ hồ nghẹt thở. Chàng thấy khó chịu một lần thứ hai về cái khuôn mặt sung sướng không xứng đáng đó. Anh chàng này lại cũng có một người vợ đẹp và thùy mị. Vô lý. Anh chàng này lại bủn xỉn và thất lễ với mình. Chàng nhớ lại lúc nãy anh ta đã lục lọi mãi tìm cho ra 2 tờ giấy bạc bẩn để đưa cho mình. Trên mặt hộp tiền, kìa những tờ giấy mười đồng sạch sẽ, màu trắng và màu hồng minh bạch, bạc mới giấy láng dày cộm nằm xếp chồng chất thế kia. Sao anh ta thô bỉ một cách trắng trợn vậy? Sao anh ta dám coi thường mình, dám ngang nhiên chọn giấy bạc bẩn dành cho mình, chọn trước mũi mình? Anh ta đáng bị mắng. Mất 10 đồng còn quá nhẹ đối với tội vô lễ. Nhân quả cũng rõ ràng ra đó. Đầu óc bủn xỉn suy tính về những tờ giấy bạc mới cũ mà hóa ra tính lẫn tính lộn, cái lợi không thấy đâu mà cái lỗ đã rõ ràng. Nhưng dù nghĩ vậy, chàng cũng mong rằng anh ta chợt tỉnh lại để thấy rằng mình tính lầm 10 đồng và anh ta đến xin lại. Chàng sẽ rất tự nhiên mở nắm tay ra bỏ đống bạc lên bàn cho anh ta tự đếm lấy. Không đếm tiền thối lại là một cử chỉ lịch sự, vậy tiền thối dư hay thiếu không thuộc trách nhiệm của chàng. Nhưng đưa mắt tìm anh hàng sách thì thấy anh đã rời bỏ quầy hàng đi sang đứng cạnh hai thiếu nữ vừa đến. Hai màu áo hồng và hai khuôn mặt xinh xắn. Cạnh đó, cái môi dưới của anh ta cong lại một cách kệch cỡm. Hai con mắt láu lỉnh rình rập. Tất cả khuôn mặt như bị căng ra, đẩy vươn tới, chuẩn bị để vồ vào câu chuyện của hai cô kia.

Tất cả đều bất lợi cho anh ta. Phong chầm chậm bước ra cửa. Mười đồng cầm dư trong tay như gào lên "Trả lại cho anh ta đi. Của phi nghĩa. Danh dự...". Chàng phải đứng dừng lại trước một tấm quảng cáo lớn rao tên một tờ nguyệt san sắp ra đời. Vừa lơ đãng đọc những chủ trương nghệ thuật, mục đích xã hội của tờ báo, chàng vừa tự nhủ:

- Hay đem tiền vào trả cho anh ta! Nhưng mà... Trễ quá. Chẳng lẽ bây giờ.. Đáng lẽ lúc nãy...

Trong khi suy nghĩ, óc chàng nhớ cẩn thận đến câu tiên tri đọc hồi sáng "buổi chiều có hoạnh tài". Chàng suýt kêu lên: "Lần đầu tiên Tử vi nói đúng". Hoạnh tài là đây chứ gì? Vì lần nào cũng vậy, dù người ta đưa dư tiền nhiều hay ít chàng cũng đều trả lại. Có lần về đến nhà đếm lại mới thấy mình cầm dư tiền, phải lục đục đi trở lại để trả cho người ta. Nay sao tự nhiên chàng lại vò nắm trong tay? Cái gì xui vậy? Ưở, sao ngồi ở quầy hàng lại không phải là người vợ dịu dàng của anh hàng sách? Sao vẻ mặt anh ta lại gợi chi đến một kỷ niệm khó chịu mà mình chưa hoàn toàn quên? Sao anh ta bủn xỉn thô bỉ đến mức là chọn những tờ giấy bạc mới cũ? Đó là lòng ham mê chỉ xứng đáng với những đứa trẻ, với những bà cụ nhà quê lẩn thẩn. Sao anh ta lại vô lễ với chàng? Cho 10 đồng thì có giá trị gì đâu? 10 đồng có nghĩa lý gì cạnh vài trăm bạc chàng trả cho hàng rượu khi vui chân vào ngồi với một hai người bạn. 10 đồng có nghĩa gì cạnh một vé hát chàng đôi lúc mua mà thực tình không muốn đi xem. 10 đồng, đó chỉ là giá của một quả cam nhiều khi chua quá chàng bỏ không ăn. Phải, không ai dám tin rằng chàng tham 10 đồng của anh hàng sách, và sự thật quả là chàng không thèm tham lam thật. Có lẽ đó là "hoạnh tài" nó tự nhiên đến, bắt buộc đến theo cái luật huyền bí của nó mà mình không được biết chăng? Chớ một anh hàng sách bỏ vốn ra hàng bốn, năm chục vạn đồng sao điên rồ gì mà suy tính ham mê chi những tờ giấy bạc mới cũ để đến nỗi hóa ra lẩn thẩn tính cộng có hai con số mà đã tính sai?

Phong thấy lòng mình bớt băn khoăn một chút. Tiếng nói của Luân lý đã bớt phần gay gắt. Tuy vậy chàng vẫn còn áy náy. Trong khi đó thì chân chàng đã bước dần đến chiếc xe ghếch ở lề đường. Để dẹp hẳn sự áy náy, chàng nghĩ tiếp:

- Ta đem mười đồng này về cho thằng con nhỏ của anh coi vườn. Nó sẽ mừng lắm. Mấy hôm nay nó những ước ao đi xem phim Ấn Độ. Nó nghèo lại tàn tật. Nó cần mười đồng đó hơn là anh hàng sách vô duyên kia. Vả lại anh ta đáng bị phạt về tội vô lễ, tội bủn xỉn.

Phong thấy tâm hồn mình đã gần thanh thản. Trước khi nổ máy xe, chàng nhìn xuống đồng hồ tay.

- Mười giờ rưỡi đêm.

Cái ngày hôm nay có thể được coi như đã kết thúc vào giờ này. Những băn khoăn của lương tâm qua đi, chàng thấy lòng lâng lâng một niềm thích thú nhỏ: chàng đã muốn và đã giúp được cho Tử vi nói đúng một lần.

(Trích từ tập truyện ngắn Con Suối Mùa Xuân)

 

Thứ Ba, 18 tháng 3, 2025

MÂY TRẮNG - Phạm Miên Trường


 
 
 
 
 
 
 
phiêu phiêu mây trắng xóa
bạc trong lòng anh đây 
một hồn thu rưng rức
một tình sầu ngây ngây
 
dìu bước về phương ấy
áo còn bay bao chiều
hương thời gian tím sẫm
nở một đóa buồn hiu
 
dàng anh buồn câm nín
tiếng hát em võ vàng
tóc em dài mấy nhánh
nước sông còn mang mang
 
anh một thân nhạn lẻ
bay giữa trời hoang vu
gặp em chiều phố nhỏ
mây trắng xóa ngang đầu 

rồi nhìn nhau nhìn nhau
chia tay, từ chia tay
sao khỏi lòng buốt đau
anh nghe buồn khổ quá
 
nghìn năm, nghìn năm nữa
ai hỏi chuyện năm xưa
biết làm sao mà hỏi
trăng đã khuất bao mùa 
gió trong chiều cô lẻ
trút linh hồn anh đưa
 
                PHẠM MIÊN TRƯỜNG
 
(Trích từ bán nguyệt san Tuổi Ngọc số 155, phát hành ngày 5-3-1975) 

Thứ Bảy, 15 tháng 3, 2025

TRẦM MẶC CÂY RỪNG - Võ Hồng

 
 
Trong suốt mười năm tham gia kháng chiến, tôi đã lang thang đi khắp mọi miền của tỉnh Phú Yên, in dấu chân ở gần khắp mọi xã mọi thôn, từ vùng rừng núi An Lĩnh Xuân Quang đến bãi cát vàng Đa Ngư Phú Hiệp. Những người tôi quen thuộc rất nhiều, từ anh cán bộ dân quân lưng gài lựu đạn đến nhà địa chủ hào phú vườn rộng nhà cao, từ người nông dân chất phác cần cù đến những công chức mũ ka-ki rộng vành vai đeo muy-zét. Nhưng vượt lên trên hết mọi khuôn mặt và mọi dáng người là khuôn mặt dịu dàng thùy mị của Thịnh, người con gái của thôn Diêu Viên quê mùa mà giờ đây mỗi lần âm thầm nghĩ đến là tâm hồn tôi chợt thấy man mác nhớ và buồn, như một bầu trời đang nắng rỡ ràng bỗng có một áng mây trôi qua tạo thành một bóng râm âm u.

Năm đó tôi đang làm việc ở Phân ban Cực nam thì có chủ trương biên chế tổ chức mới. Tôi bị để ra ngoài biên chế. Trong khi đợi chờ học một nghề lao động mới để làm kế sinh nhai, tôi được một gia đình học sinh cũ của tôi mời về tá túc. Trước khi làm việc ở Phân ban Cực nam, tôi có đi dạy vài năm ở một trường Trung học.

Thân phụ của người học sinh là một nhà hào phú trước kia làm Chánh tổng nên người thầy vẫn quen miệng gọi là ông Chánh. Phùng, người học trò cũ của tôi thì đã gia nhập bộ đội và hiện đang chiến đấu ở Đông Mèn, Hạ Lào gì đó. Quê hương của Phùng là một miền quê xa xôi hẻo lánh, cách con đường ô-tô độ mươi cây số theo đường chim bay nhưng muốn đi tới nơi thì phải lượn vòng theo những triền núi, vừa đi vừa chạy tụt xuống những khe suối rồi nhẫn nại vừa leo vừa thở hổn hển lên những bờ khe suối khác. Tôi chọn miền đó để ẩn cư vì một nơi sằn dã hẻo lánh như vậy ít có hi vọng bị máy bay oanh tạc chiếu cố hay bị một trận đổ bộ càn quét tràn qua. Lại nữa, tôi còn chọn ở những miền đồng bằng thị tứ làm chi, tôi, một kẻ thất nghiệp mà mỗi ngày trôi qua mỗi gặm mẻ lần số tiền ít ỏi dành dụm được bấy lâu.

Xem cốt cách sinh hoạt và dinh cơ đồ sộ của ông Chánh, tôi đoán biết ông đã từng là lãnh chúa của vùng này, một thứ lãnh chúa cha truyền con nối. Nhà lớn, nhà ngang, nhà cầu, nhà việc, lẫm lúa, nhà sau… bao nhiêu ngôi nhà nằm chi chít bao vây nhiều vuông sân. Những cây cột tròn to, bóng loáng đứng vững chãi có treo những câu liễn cẩn xà cừ. Những bộ ván gõ đều dày hàng tấc, nhiều bộ dài có đến bốn thước. Bàn ghế, tràng kỷ chạm trổ tinh vi.

Ông Chánh tiếp đãi tôi tử tế vì tình sư đệ đối với con ông mà cũng vì ông coi tôi như người bạn đồng cảnh ngộ với ông. Tôi bị Chính quyền gạt bỏ ra ngoài thì cũng như ông biện bị cô lập, bị cán bộ Thôn bao vây để triệt hạ ưu thế chính trị.

Ông để cho tôi ở trọn một căn nhà Đông, căn nhà xưa kia dùng làm nơi tiếp các hương lý, nơi xử kiện và tính toán thuế khóa. Nhờ tính chất “công sở” đó mà căn nhà sáng sủa, bày biện ít đồ đạc. Cửa sổ mở dưới một cây nhàu cành sum sê và màu lá xanh mướt óng ánh như thoa mỡ gây cho tôi một niềm yêu đời can đảm.

Ông Chánh bảo tôi:

- Thầy ở đây chơi, bao lâu cũng được. Chỗ này quê mùa, ăn tiêu ít tốn kém. Chỉ cần có gạo. Và mắm.

- Tôi còn đủ sức để mua được gạo.

- Thầy ăn mỗi tháng cho mạnh nhất là bốn giạ lúa. Nhiều lắm thì sợ tôi không kham nổi chớ bốn giạ thì tôi có thể giúp thầy.

- Cám ơn ông, nhưng xin để tôi tự lo liệu phần gạo mắm.

- Trước ngày Cách mạng thì tha hồ, nhà tôi có thể cung phụng cho vài mươi người một lúc cũng không nao núng. Nhưng bây giờ thì phần lúa giảm tô, phần ruộng bỏ hoang vì nông dân ly khai gia nhập bộ đội thiếu người canh tác. Mắm thì không tốn bao nhiêu. Chúng tôi ở đây cứ mỗi năm vào mùa tháng Ba thì mua mắm của dân biển gánh lên bán. Cho đầy vào mọi tỉn mọi vò rồi để dành đó ăn lần, ăn quanh năm. Rau cỏ thì dễ. Miền này nhiều mít nhiều thơm, nhiều nhà xắt trái mít non trộn với gạo để nấu cơm cho đỡ tốn gạo.

- Đó cũng là một cách ăn trở bữa.

- Nhưng ăn mau đói. Người thầy thường dùng củ mì hay khoai lang nấu ghé với cơm. Có ăn ghé như vậy một thời gian rồi được ăn bữa cơm mùa - nghĩa là cơm nấu toàn gạo, - mới thấy ngon.

- Tôi đã ở Quảng Ngãi một thời gian và tôi đã từng ăn cơm ghé liên miên suốt tháng này sang tháng nọ.

Thật vậy, gian khổ tôi đã từng nên tôi không còn sợ nữa. Không có thứ gian khổ nào đóng vai giọt nước chót làm tràn cái ly. Tôi gởi tiền nhờ ông Chánh mua giùm hai mươi giạ lúa và mặc dù ông nằng nặc từ chối không nhận tiền, tôi cũng nài cho ông phải cầm. Ông đành nói:

- Thôi, cũng như tôi cất giùm tiền cho thầy. Khi nào thầy cần thì tôi sẽ hoàn lại.

Lợi dụng những ngày nghỉ ngơi tôi lôi những quyển sách ra đọc. Buổi trưa được ngủ một giấc ngon lành và chiều lại tôi đi thơ thẩn vào trong xóm.

Những ngôi nhà nằm rải rác trong cái thung lũng hẹp này. Xung quanh núi cao chớn chở đứng bao vây, những ngọn núi màu xanh chàm sừng sững bất động. Những thân cây bồ-lời cao vút đứng rải rác trên con đường vắng vẻ một cách man rợ nhất là thỉnh thoảng trên những tàng cây cao chót vót đó có những tổ quạ tổ ác là lót sơ sài bằng những chà cây lòi xòi. Những buổi chiều đi cô đơn như vậy thật buồn. Nhớ quê hương xa cách, nhớ những kỷ niệm của tuổi thơ và lo âu vì tương lai không biết mình sẽ như thế nào. Nhiều hôm tôi cảm thấy đôi chân mỏi rã cơ hồ như không còn mang nổi nỗi buồn quá nặng của tôi, tôi chọn ngồi lên một tảng đá ở vệ đường rồi chăm chăm nhìn về một lùm cây, một bụi cỏ, một con đường mòn vắt vẻo lưng đèo hay chỉ nhìn vu vơ một nền trời óng ánh tựa xà cừ.

Một hôm tôi đang ngồi im lìm bất động như vậy trên một tảng đá mặt phẳng và rộng dưới gốc một cây bồ-lời cao, tâm tư phiêu diêu bay bổng thì chợt một tiếng gọi “thầy” làm tôi giật nẩy mình. Tôi qua lại.

- Thầy ngồi làm gì một mình ở đây?

Thấy tôi ngơ ngác không nhận ra, người con gái nói tiếp:

- Em là con của bà Chức Bảy.

Tôi “à” lên một tiếng mừng rỡ:

- Thịnh đấy hả? Bây giờ em lớn trông khác. Má em vẫn mạnh?

- Dạ, cám ơn thầy. Sao lâu thầy không lại chơi?

Đáng lẽ Thịnh gọi tôi bằng “anh” như những người bạn gái của nàng hay gọi, nhưng bởi năm trước tôi có dạy kèm giùm cho một người em trai kề của nàng học hè nên nàng xưng hô với tôi lễ độ như vậy.

Thịnh có khuôn mặt thùy mị. Lông mày dài và mọc đều như được vẽ bằng nét bút. Màu da trắng ngà. Tôi không hiểu tại sao nàng lại có một vẻ đẹp đài các như vậy, khác xa với vẻ cục mịch của mẹ nàng và những nét thô trên khuôn mặt của người em trai. Những sợ tóc mai, những sợ tóc mọc sau ót được vuốt lên, chân tóc làm cho màu ngà của da êm mát như mơn trớn. Tôi nhớ đến những bức họa mỹ nhân Nhật Bản, Trung Hoa. Chân tóc mai và cái ót khêu gợi dịu dàng. Tôi trả lời:

- Định lại mà chưa có dịp.

- Chắc thầy chê nhà em nghèo không muốn tới.

- Đâu có. Nếu xét tài sản thì tôi nghèo hơn cô nhiều, nghèo hơn bất cứ một người nào trong thôn xóm này. Bởi vì ở đây người nào cũng có ít nhất một ngôi nhà dù bằng tranh rạ, một khu vườn nhỏ trong có mọc bụi ớt bụi hành, những cây bồ-lời đứng dọc theo con đường đi rẽ vào sân.

- Vậy thì sao thầy lại không tới?

- Để hôm nào tôi tới.

Hôm tới thăm Thịnh thì nhằm lúc mẹ nàng ra đồng vắng. Ngôi nhà nằm giữa một khu vườn trồng đầy những cây xoài, cây mít, cây bưởi. Có cây xoài quì ở trước sân, trái thòng xuống ngang tầm tay hái. Tôi nói:

- Cô ở giữa một khung cảnh êm ái hiền hòa như thế này nên tâm hồn của cô lúc nào cũng dịu dàng.

Thịnh cười:

- Thầy tưởng vậy. Em phải đi cuốc cỏ và khi lưỡi cuốc cắt đứt rễ cỏ, bụi cỏ được vun thành từng đống chết khô ở bờ ruộng thì lúc ấy chắc chắn là bàn tay em không còn dịu dàng nữa và tâm hồn em cũng không còn hiền hòa nữa.

Tôi hơi lúng túng vì bị lý luận của Thịnh bao vây một cách bất ngờ như vậy. Nhưng quả tình là tôi cảm thấy dễ chịu khi được đối diện với sự thông minh của nàng. Tôi nói:

- Cây cỏ làm hại lúa thì nó xứng đáng phải chịu sự đối xử tàn bạo của lưỡi cuốc.

- Thầy lý luận như người Hoa kỳ khi họ đem súng ống tiêu diệt dân Da đỏ.

- Tôi không hung bạo như vậy.

- Em xin lỗi, em cũng không định nói thầy như vậy.

Tôi ngồi ở cái bàn nước và Thịnh xin phép chạy ra vườn. Căn nhà ngăn nắp và sạch sẽ. Hơn tám năm tôi xa cách nếp sống thị thành, đôi mắt quen nhìn những bức tường vàng màu được trét nên tôi thấy nó có vẻ đẹp của nó. Nền nhà cũng một màu vàng xám của đất nện. Không có tranh ảnh treo trên tường.

Thịnh đi vào với ba cam chín trên tay. Tôi đón nàng bằng nụ cười:

- Vì tôi mà cô thành người tàn bạo.

Nàng cắt cam mời tôi:

- Cả vườn nhà em có cây cam này ngọt nhất.

- Xin cảm tạ lòng ân cần của cô… Hòa năm nay học lớp mấy?

- Dạ, lên lớp tám. Mẹ em nói thôi học bấy nhiêu đó cũng đủ, nhưng em muốn cho nó học thêm. Ra Bình Định học, tốn kém lắm mà nhà mẹ em không giàu.

Tôi được biết là cả tỉnh Phú Yên có được ba trường Trung học và chỉ dạy đến lớp Bảy. Muốn học lên lớp Tám, lớp Chín thì phải ra Bình Định và sau khi học hết lớp Chín rồi thì đành ngồi đó nghỉ đợi đã. Ít ai có đủ tham vọng và tinh thần mạo hiểm và sức khỏe để trèo đèo lội suối ra mãi Liên khu Tư để học tiếp thêm.

- Phần em học dở dang cũng được bởi em là phụ nữ. Chớ nó là con trai thì không thể bằng lòng với trình độ lớp Bảy.

- Cô học tới đâu rồi nghỉ?

- Em học hết lớp Bảy.

- Ngang với bằng Trung học rồi. Cô có thể xin bổ làm cô giáo Tiểu học.

- Em thấy mình còn dốt lắm. Muốn học thêm mà không đủ phương tiện, muốn tự học mà không có sách. Làm cô giáo không được đâu. Cuốc cỏ và gặt lúa thì được hơn, bởi điều đó không đòi hỏi kiến thức.

- Tôi không tin là cô có thể gặt lúa như một người thôn nữ chính hiệu khác. Cuốc cỏ thì được. Người thầy cầm cái cuốc nhỏ, cán dài, đứng thẳng lưng gãi nhe nhẹ lưỡi cuốc lên mặt đất là những bụi cỏ đã đủ đứt rễ rồi.

Thịnh cười:

- Rõ ràng thầy là một người thị thành nên mới có những ý nghĩ thần tiên như vậy. Gặp bụi cỏ gấu, thầy cứ thử “gãi nhè nhẹ” coi nó có “đủ đứt rễ” không. Vả lại, dù có “gãi nhe nhẹ” mà phải gãi hoài từ sáng sớm tới trưa rồi từ trưa tới chiều, gãi dưới ánh nắng mặt trời gay gắt, thì liệu thầy có còn thấy việc ấy nhẹ nhàng nữa không? Có còn “đứng thẳng lưng” nổi nữa không?

Tôi vừa cắn vào miếng cam vừa nói:

- Tôi chưa thí nghiệm nên chưa trả lời được. Ít nhất cũng cho tôi thí nghiệm một lần.

- Hôm nào thầy thí nghiệm xem thử.

Sau đó chừng nửa tháng, một hôm tôi có việc phải xuống trụ sở Xã kê khai giấy tờ lý lịch. Trên đường về trời nắng chang chang, tôi bất ngờ gặp Thịnh ở từ xa đang gánh một gánh đọt mía nặng. Thoáng thấy tôi, nàng lúng túng cúi nhìn xuống đất, thoăn thoắt bước đi. Nhưng tôi gọi giật lại: “Cô Thịnh”. Nàng đặt gánh đọt mía xuống đợi tôi.

- Mùa này sắp trồng mía rồi sao? - tôi hỏi.

- Dạ không. Em đi này ngọn để dặm vào vạt mía bị rầy áp.

Da mặt nàng ướt đẫm mồ hôi, những giọt mồ hôi đậu chi chít trên mũi và trên môi. Quần đen xăn lên để lộ nửa ống chân. Cái áo cánh cụt tay có một đường rách nơi vai để lộ một mảnh da trắng. Thịnh bắt gặp tôi đang nhìn vào chỗ vai áo rách của nàng và nàng ngượng đỏ đôi má. Tôi nói:

- Tôi không ngờ cô giỏi giang tháo vát như vậy. Thật khó mà tưởng tượng một cô giáo có thể gánh nặng dường đó.

- Em đâu phải là cô giáo?

- Ý tôi muốn nói đến cái kiến thức của cô.

- Làm việc lâu rồi quen đi.

Tôi không muốn giữ nàng nói chuyện lâu hơn bởi chỗ chúng tôi đứng không có một bóng cây. Vả lại rõ ràng là nàng không được thoải mái khi tôi thấy những ngón tay cứ mân mê tìm cách che giấu chỗ rách nơi vai áo. Tôi chào giã từ và hẹn sẽ đến nhà thăm.

Một hôm mẹ nàng hỏi tôi:

- Lâu nay thầy có tin tức gì trong gia đình không?

Tôi đáp:

- Dạ thỉnh thoảng năm, bảy tháng thì có liên lạc được một lần. Kỳ này lâu được tin, cả năm rồi mà không nhận được thư từ và đồ tiếp tế.

- Vậy thầy ở không lấy gì mà tiêu?

- Cháu mới bán cái đồng hồ đeo tay hiệu Pritania. Cái đồng hồ đó vợ cháu gởi ra cho kỳ trước.

- Ở đây ai có tiền mà mua nổi?

- Dạ phải gởi nhờ bạn quen đem xuống Tuy Hòa bán.

- Được bao nhiêu?

- Dạ hai trăm năm mươi ngàn đồng.

- Như vậy cũng còn sướng. Nhà nông bán hết hoa lợi một năm chưa có được số tiền đó.

- Nhưng miệng ăn núi lở, ngồi ăn không thì chẳng mấy chốc mà hết veo. Để cháu phải kiếm một nghề lao động.

- Thầy không quen kham khổ, chịu đựng lao động cực nhọc không nổi đâu.

Im lặng giây lâu chợt bà nói:

- Mà sao thầy không làm đơn xin phép hồi cư?

- Cháu cũng đang vận động xin.

Hôm sau gặp tôi, Thịnh không tươi cười chào như thường lệ. Tôi hỏi gì nàng cũng chỉ trả lời vừa đủ. Tôi nói:

- Hôm nay cô có điều gì buồn?

- Dạ không.

- Không buồn sao cô ít nói hơn thường ngày?

- Dạ không.

Tiếng bước chân của chúng tôi sào sạo trên mặt đường sỏi đá gồ ghề. Khi đến ngã rẽ vào nhà nàng, Thịnh chợt đứng lại quay nhìn tôi:

- Chừng nào thầy hồi cư?

Tôi ngạc nhiên hỏi lại:

- Ai bảo với cô?

- Hôm qua thầy nói với mẹ em.

- Đó là mới dự định.

- Thầy nói thầy đã vận động xin hồi cư rồi mà.

- Tôi chỉ mới vận động. Còn được phép hay không thì chưa chắc.

Thịnh dùng mũi dép mân mê một hòn sỏi dưới chân. Nàng không nhìn lên tôi.

- Chắc thầy trông đợi cho mau đến ngày hồi cư…

- Ơ… vâng… không… nhưng mà…

Quả tình là tôi đã rất lúng túng. Tôi không biết nói dối và thái độ của Thịnh bất ngờ đối với tôi lúc đó, tôi không kịp chuẩn bị. Tôi như một tên đại đội trưởng bị lọt vào ổ phục kích và thụ địch hai đầu.

Tết năm đó Pháp mở chiến dịch lớn tấn công tỉnh Phú Yên cả hai mặt, mặt Đèo Cả và mặt Tây Nguyên. Quê hương của Thịnh náo loạn chạy giặc bởi tiếng đại bác của địch ở miệt Suối Cối nổ ì ầm cả ngày đêm. Tôi gùi ba lô lên vai chạy theo đoàn cán bộ xã tìm đường lọt ra ngã Phước Lãnh để tránh con đường liên tỉnh số Sáu. Ai cũng lo xa rằng địch có thể chọt một mũi dùi thứ ba từ cửa bể Tiên Châu tiến lên chiếm Liên tỉnh lộ số Sáu, bao vây bộ đội và cơ quan hành chánh của ta. Nhiều ức đoán còn cho rằng cánh đồng Phú Long rộng và phẳng có thể là nơi bộ đội Pháp sẽ chọn để nhảy dù. Tất cả mọi dự phỏng đều a tòng với nhau để thúc đẩy chúng tôi chạy, càng mau càng tốt. Tôi không kịp giã từ Thịnh và mẹ nàng. Tôi còn lý luận rằng cho dẫu có mạo hiểm phí thì giờ đi tới tìm thì cũng không chắc đã gặp. Những người dân trong xóm đều lật đật tản cư tài sản vào những khe núi hốc núi, những xóm rải rác năm ba nóc gia nằm kẹt trong những thung lũng hẹp.

Từ lần ra đi vội vã đó, tôi cứ từng bước từng bước lầm lũi đi tới, bỏ xa lần sau lưng cái xóm nhỏ hiền hòa của Thịnh. Tôi hồi cư về thành khi chiến dịch Atlante vừa chấm dứt. Tôi gặp lại vợ con. Đứa con ngày mới ra đi còn nằm trong nôi, bây giờ đã học tới lớp Nhì và nó bỡ ngỡ không muốn gọi tôi bằng ba bởi nó không tưởng tượng nổi rằng bằng cách nào mà một người áo quần xốc xếch, dáng dấp thiểu não hơn anh tài xế ở nhà lại có thể là ba nó được. Sau vài tháng nghỉ ngơi và chữa dứt bệnh sốt rét kinh niên, tôi gia nhập vào cuộc sống ào ạt của miền Quốc Gia. Những hưởng thụ vật chất và những bận rộn tinh thần đã choán hết thì giờ của tôi khiến tôi ít có dịp để ngoái nhìn lại quá khứ, để tưởng tượng xem cái xóm nhỏ của Thịnh hiện sinh hoạt như thế nào. Chỉ thỉnh thoảng những lúc đi ra ngoại ô, đôi mắt chợt gặp một chòm cây cao có tàng um tùm trên đầu là tôi bồi hồi nhớ đến cảnh cũ. Nhất là khi đôi tai chợt nghe một tiếng chim vang lanh lảnh từ trên tàn lá cây đó. Những ngày quá khứ của tôi ở xóm Diêu Viên như đầy những tiếng chim và đầy sự im lặng cao cả, man rợ.

Có một lần ông Chánh đi vào Sài Gòn đưa một người bà con bên vợ vào chữa bệnh ở nhà thương Grall. Ông tìm ghé lại thăm tôi. Tôi mừng quá bắt ông ở lại nhà tôi. Qua đi những câu chuyện hàn huyên, tôi vội vàng hỏi thăm tin tức về gia đình Thịnh.

- Thằng Hòa đi tập kết.

- Nó không phải là cán bộ mà.

- Tôi không được rõ. Không thấy nó về và trong xóm xầm xì là nó theo ra Bắc luôn.

- Còn bà già?

- Cũng còn sức khỏe. Làm ruộng làm nương như hồi xưa, cũng một nắng hai sương, có điều khỏi chạy tàu bay như hồi kháng chiến.

Tôi không dám hỏi về Thịnh. Tôi đang hồi hộp đợi chờ. Tôi sợ rằng nếu tôi cất tiếng hỏi thì giọng nói của tôi sẽ không còn bình thường nữa. Tim tôi đang đập rộn ràng và nhất định là nó ảnh hưởng đến nhịp thở và giọng nói. Sự hồi hộp của tôi xuất phát từ những nghi vấn: Không biết Thịnh có còn ở chỗ cũ không? Một tháng cách xa đủ để mang lại cho ta một tin bất ngờ. Một tin buồn. Thế mà Thịnh thì đang ở cái tuổi có nhiều biến cố.

Ông Chánh nhấp chén trà rồi nhìn ra ngoài đường. Nói nhanh đi! Đừng bắt tôi đợi nữa! Cả tâm hồn tôi đang xoay quanh một người, một khuôn mặt, ông không biết sao? Hay là ông đã đoán biết hết rồi? Ừ nhỉ, ông đã sống một thời thanh niên như tôi, ông cũng đã đam mê, đã yêu, đã mơ mộng. Ông định đùa nghịch tôi chăng? Tôi van xin ông đó.

- À, còn con Thịnh…

Tôi giật mình. Cầu cho những tin tức đều tốt lành. Tôi không đủ sức chong mắt nhìn lên mặt ông Chánh nữa. Đôi mắt mỏi mệt.

- Năm ngoái thằng con Xã Lựu đi hỏi nó…

Tôi nín thở.

- … nhưng nó không chịu.

Cảm tạ Thượng đế. Thằng con Xã Lựu thì tôi biết. Nó xấu xí như một con dơi.

- Nhà Xã Lựu giàu mà nó là con độc đinh. Má con Thịnh thì đã khứng rồi nhưng con nhỏ nhất định không chịu.

- Ép quá rồi cũng phải chịu.

Ông Chánh lắc đầu:

- Dứt khoát rồi. Thằng con Xã Lựu đã xuống Háo Danh cưới con gái Hương kiểm Xân rồi.

Cảm tạ Thượng đế! Tôi không chịu đựng nổi ý nghĩ Thịnh phải sống cạnh một con dơi xấu xí như vậy. Tôi ghê rợn như khi nhìn một con sâu rọm bò trên những cánh hoa hồng.

Sau hai ngày ở chơi, ông Chánh cáo biệt chúng tôi. Tôi mua quà biếu ông, biếu bà Chánh và nhờ ông mang dùm một gói quà tôi gởi biếu mẹ Thịnh và Thịnh. Tôi không viết thư mà chỉ nhắn miệng mời có dịp nào tiện xin vào ghé chơi với chúng tôi. Vợ tôi hỏi số tuổi của Thịnh rồi gởi thêm một hộp lớn trong đựng những xấp hàng may áo dài, gương lược đắt tiền và nhiều lọ nước hoa.

- Ông trao dùm cho cô Thịnh. Nói đây là phần của riêng tôi biếu cô.

Tôi thầm trách sự thật thà của ông Chánh. Đáng lẽ ông thông minh nói sụt bớt năm ba tuổi để vợ tôi nhẩm tính thấy rằng khi tôi gặp Thịnh thì nàng mới chỉ là một cô bé. Đằng này rõ ràng là vợ tôi có điều để có thể suy nghĩ. Một cô gái quê có học và bắt tôi phải nhớ, có đủ bản lĩnh để chê thẳng con một ông Xã nhà giàu, thì dù chưa gặp lần nào vợ tôi cũng không thể nghĩ rằng nàng xấu xí và đần độn.

Mùa hè năm sau, vợ tôi bị chứng hoại huyết phải vào nằm ở dưỡng đường Saint Paul. Nàng từ trần sau ba tháng chống chọi với bệnh. Khoa học chịu bất lực và sự cầu nguyện chỉ là liều thuốc dành cho người sống. Tôi trở lại cuộc đời cô đơn, lần này còn cực nhọc gấp mấy lần những ngày kháng chiến bởi tôi không còn mơ mộng vô tư như xưa nữa. Cố nhiên là sau ngày đoạn tang vợ tôi, các bạn bè và họ hàng giới thiệu cho tôi những người thiếu nữ, những người đàn bà. Riêng phần tôi, những cuộc gặp gỡ ngẫu nhiên cũng nhiều nhưng quả tình là tôi không gặp được người nào tôi có thể thương yêu một cách an ổn. Người phụ nữ thời nay sống vội vàng như những chiếc đồng hồ. Tình cảm xoay chiều, cử chỉ hối hả, tâm trạng bực dọc. Xoay chiều theo màu áo dài của họ thay đổi hằng ngày. Có những người mà sắc đẹp và tính tình làm tôi tin cậy, nhưng hầu như họ đều đã có chồng rồi. Tôi bao giờ cũng là kẻ đến quá chậm hoặc quá sớm. Sớm đối với những cô còn trẻ.

Chiến tranh Nam Bắc bùng nổ trở lại mỗi ngày mỗi ác liệt trong những năm hoang mang dao động đó của tôi. Ấp chiến lược, dồn dân, dồn làng, phục kích, biểu tình tranh đấu, đàn áp, xử tử, treo bản án, trại tập trung, trại cải huấn, trại học tập… liên miên, dồn dập, thường xuyên. Dân quê chạy tán loạn vào thành phố. Không thẻ căn cước, không thẻ gia đình, hành quân Cảnh sát hốt chất đầy xe. Bao nhiêu những biến cố dồn dập đó có kết quả là xóa mờ đi trong óc tôi những hình ảnh của vật của người mà tôi đã gặp, đã quen nơi những miền thôn dã xa xôi của tỉnh Phú Yên. Khi óc tôi dựng lên một cảnh thì y như liền đó nó bị bẻ gãy làm đôi làm ba. Con đường cái không thể chạy dài được đúng theo phận sự của nó. Nó phải bị chặt bị đào, bị khoét thành hố thành vũng bởi mìn bởi bom. Vườn tược không còn xanh màu lá, trắng màu hoa và hồng màu trái chín mà chỉ có màu vàng thê lương của cành cây chết khô, màu đen của thân cây bị cháy sém. Những ngôi nhà ngã sập xuống hay cháy tan hoang chỉ còn trơ lại những nền cao. Xóm nhỏ của Thịnh chắc cũng cùng chung một số phận. Không biết hai mẹ con hiện xiêu lạc về phương nào.

Trong những hồi cô đơn, tôi hay nghĩ đến Thịnh. Tôi còn nhớ tâm hồn tươi mát của nàng, yêu lao động và không đòi hỏi quá nhiều ở cuộc đời. Nàng sống hiền hòa thanh thản và tôi muốn đem những tiện nghi hiện tôi có được để chia sớt cùng nàng. Tôi cảm thấy cuộc đời của tôi sẽ được bình ổn hơn. Tâm hồn trong sáng yêu đời mang lại cho nàng một năng lực tự tại khó lay chuyển. Tôi chưa hề thấy nàng nuôi thành kiến, chạy bừa theo một phong trào hay vội vã đối phó một dư luận. Nàng phản ứng chậm chạp, cử động khoan thai như lúc nào cũng phải nghĩ chín chắn đã rồi mới làm. Sống giữa một vùng rừng núi xa xôi, tôi có cảm tưởng nàng chịu ảnh hưởng cái vóc dáng uy nghi của thiên nhiên hoang dã và nét uy nghi đó in dấu trên mọi cử chỉ nhỏ của nàng. Tôi yêu quí sự nghiêm cẩn trì trọng đó của loài đá tảng, của thân cây rừng hơn là sự bén nhạy linh hoạt của giống lau sậy. Thịnh có cốt cách của một người chị, của một người mẹ, của một người em. Tôi muốn được hưởng thụ một tình yêu loại đó hơn thứ tình nóng bỏng của một người yêu đơn thuần.

Giữa lúc tâm hồn tôi hướng về Thịnh như con tàu trong cơn bão táp hướng về ánh sáng của ngọn hải đăng xa xôi thì chợt tôi gặp một người đàn bà ở cùng xóm với nàng, bà Mừng. Tôi hỏi:

- Ông Chánh hiện tản cư về đâu?

- Dạ, dọn vô Tuy Hòa.

- Mẹ con cô Thịnh?

- Dạ, tập trung về Quận.

- Bà có chắc không.

- Dạ chắc chớ.

Tôi tặng bà một số tiền và nhờ bà đem về trao cho Thịnh một gói quà và một bức thư. Tôi căn dặn phải đưa thư đó tận tay Thịnh, bằng mọi cách. Trong thư tôi buồn rầu báo tin cho nàng biết là vợ tôi đã từ trần hơn bốn năm rồi và cuối thư là lời mời mẹ nàng và nàng tìm dịp đi vào thăm tôi. Thư viết với lời lẽ nghiêm trang bởi tôi biết nó sẽ được nhiều người khác đọc trước nàng.

Nhưng một tháng rồi hai tháng lặng lẽ trôi qua. Tôi viết tiếp hai cái thư nữa. Vẫn không có hồi âm. Trong khi đó thì tôi không còn gặp ai quen để hỏi xem hiện nàng ở đâu, hiện nàng như thế nào. Cho đến một sáng chủ nhật.

Tôi đang ngồi một mình trong phòng thì nghe tiếng chuông reo ở cổng. Nhìn qua cửa sổ thấy một người mặc quân phục đứng thập thò sau cánh cửa. Tôi đi ra mở cổng. Người quân nhân chào tôi:

- Thưa thầy.

Tôi bỡ ngỡ.

- Thầy không còn nhớ em? Em là Nhẫn, học trò cũ của thầy.

Ký ức của tôi lờ mờ trước cái tên và khuôn mặt đó nhưng tôi tươi cười:

- Xin mời anh vào chơi. Lâu ngày quá.

Người quân nhân đứng nhích sang một bước rồi quay lại giới thiệu người đi với anh ta.

- Dạ, còn đây là vợ em.

Tôi nhìn sang người đàn bà mà lúc nãy ngồi trong phòng nhìn ra tôi không thấy. Có lẽ lúc đó nàng đứng lấp sau trụ cổng.

Chợt cơ thể tôi phút chốc như rã rời từng mảnh vụn. Thịnh. Nàng đăm đăm nhìn tôi. Đôi con mắt màu đen.

- Mời anh chị vào.

Chân tôi run run và giọng nói cũng run theo. Tôi hướng dẫn hai người vào xa lông. Mời ngồi. Người ở mang nước. Tiếng xe chạy trên con đường trước nhà, những Suzuki, Yamaha, Jeep, GMC… ào ạt, rầm rộ, nhét đầy vào óc tôi, tràn nghẹt đến mang tai. Tôi như người mất cảm giác. Mất thăng bằng.

Áo của Thịnh phơn phớt màu hoa tím. Đôi bàn tay no tròn đặt lên vạt áo. Ngày xưa đôi bàn tay này cắt những quả cam. Không phải cho người quân nhân ngồi bên cạnh.

- Em đang dạy ở trường tiểu học Mỹ Phú thì có lệnh động viên từng phần. Em học lớp Hạ sĩ quan bên Đồng Đế.

- Vâng.

- Còn một tháng nữa thì mãn khóa. Khóa sinh sẽ được phân phối về các đơn vị. Em muốn được về Tiểu khu Phú Yên nhưng sợ bộ chỉ huy đưa đến đơn vị khác.

- Chắc họ cố gắng phân phối hợp lý, ai đến từ tỉnh nào thì cho về tỉnh nấy.

- Dạ, nguyên tắc là vậy nhưng mà còn phải tùy nhu cầu. Em nghe thầy quen lớn nhiều nên em nhờ thầy xin giùm. Miễn họ cho em được về Tiểu khu Phú Yên, ở đó em có người quen.

- Tôi sẽ gắng xin giùm anh nhưng kết quả thì tôi không dám bảo đảm.

- Dạ, miễn thầy nói giùm cho em một tiếng.

Mục đích chính của cuộc hội kiến đã đạt rồi, Nhẫn quay sang giới thiệu vợ:

- Thịnh, chắc thầy còn nhớ?

- Vâng.

- Hồi trước Thịnh cũng có học thầy.

- Hình như không.

Nhẫn uống cạn tách nước.

- Em hỏi mãi mới tìm được địa chỉ của thầy. Xa thầy hàng mười mấy năm mà trông thầy không thay đổi bao nhiêu.

- Tôi chắc phải già đi…

- Dạ không bao nhiêu. Gặp thầy em nhận ra được ngay.

Những câu trao đổi đều vô vị. Tâm hồn tôi mục ruỗng, hoang vắng, tiêu điều. Tôi đang sống hai thế giới: thế giới xã giao nhạt nhẽo với Nhẫn và thế giới tâm tình u uất nghẹn ngào với Thịnh. Nàng vẫn ngồi đó bất động. Tôi cắt đứt sự im lặng.

- Má cô vẫn sức khỏe?

- Cám ơn thầy. Bây giờ có tuổi cũng siêng đau vặt.

- Vào ở chung với cô hay ở ngoài quê?

- Dạ vào ở với chúng em.

- Cô ở nhà lo việc gia đình hay có đi làm?

Nhẫn đỡ lời:

- Dạ nhà em được bổ dụng giáo viên Ấp, niên khóa này. Dạ, dạy lớp Tư. Chúng em mới cưới nhau năm ngoái.

Tôi thẫn thờ nhắc lại trong óc: “Mới cưới nhau năm ngoái”.

- Chị cũng dạy ở trường Mỹ Phú?

- Dạ.

Im lặng một giây. Bỗng Thịnh rụt rè hỏi tôi:

- Cô đi đâu vắng?

Có phải là tôi nghe lầm? “Cô” là ai? Tôi đợi Thịnh hỏi tiếp hoặc nhắc lại câu hỏi.

- Thầy cho phép em vào chào cô.

Tôi bàng hoàng. Câu hỏi đi thẳng vào trái tim tôi như một mũi tên. Té ra Thịnh vẫn chưa biết. Cái thư gởi nhờ bà Mừng trao lại? Những bức thư tôi gởi tiếp theo? Thịnh vẫn tưởng rằng…

Nhẫn cầm tách nước trên tay không uống vội, đợi tôi trả lời. Tôi cúi nhìn xuống tấm thảm vải chân.

- Nhà tôi mất cách đây sáu năm.

Thịnh đang lơ đãng đưa mắt trên những gáy bìa sách óng ánh màu chữ vàng, chợt quay phắt lại nhìn tôi. Đôi con mắt ngạc nhiên mở rộng.

- Rồi thầy vẫn ở vậy? - Nhẫn hỏi.

- Vâng. Hãy cứ ở vậy đã.

- Chắc thầy không muốn chớ ở vào hoàn cảnh thầy thì thiếu gì người.

- Anh có lòng tốt nói vậy chớ thực tế không dễ có nhiều người như anh nghĩ đâu.

- Thầy ở một mình như thế này tự do hơn.

- Có nhiều thứ tự do. Ở với một người mình yêu thì tuy có thiệt thòi đôi chút về mặt tự do nhưng ngược lại mình có được những tiện nghi khác bù đắp. Cố nhiên là phải được ở với một người yêu mình và mình yêu.

- Thầy chưa gặp được một người như vậy sao?

Tôi nghẹn ngào:

- Hình như tôi có gặp được một người.

- Sao thầy không cưới?

Tôi lắc đầu:

- Nhưng… rốt cuộc không thành.

Nhẫn đứng dậy xin phép đi lại đầu phố mua một xấp giấy quyến để vấn thuốc.

- Thuốc lá thơm, lạt quá em hút không được. Đi đâu cũng mang theo thuốc lá ở nhà trồng. Mỗi lần đi hội nghị ở lâu là phải xắt đem theo cả kí-lô.

- Tiêu thụ nhiều vậy?

Nhẫn cười:

- Em hút thuốc lá như đồng bào Thượng. Vô trong này có hồi hết thuốc, bí quá em phải mua thuốc Cẩm lệ hút đỡ. Đắng, nặng chớ không ngọt giọng như thuốc ngoài em. Vợ em vô thăm kỳ này mới đem cho một kí thuốc xắt nữa đó. À mà quên, xin lỗi thầy, sáng nay thầy có bận phải đi đâu không? Bọn em tới quấy rầy làm tốn thì giờ thầy.

Tôi vừa đứng dậy đưa Nhẫn ra cổng vừa nói:

- Tôi rảnh cả buổi sáng.

Sau khi chỉ đường cho Nhẫn đi tới tiệm thuốc lá gần nhất, tôi trở vào phòng khách. Thịnh không còn ngồi ở ghế mà đang đứng ở bàn viết của tôi. Tôi bước nhẹ lại gần nàng.

- Thịnh, - tôi gọi nhỏ.

Nàng quay lại nhìn tôi. Hai hàng nước mắt chảy dài trên má.

- Cô có nhận một bức thư của tôi gởi nhờ bà Mừng chuyển?

Nàng lắc đầu.

- Sau đó tôi có viết cho cô hai bức thư nữa. Cô cũng không nhận được?

Nàng lắc đầu.

- Lâu lắm, hồi xưa, ông Chánh có trao cho cô hộp quà do nhà tôi gửi biếu cô? Tôi nhớ dường như đó là hàng áo dài, lọ nước hoa…

Nàng gật đầu.

Sự im lặng bao vây lấy chúng tôi. Những giọt nước mắt kế tiếp nhau chảy, rơi trên mặt bàn. Thịnh mím môi như cô giữ chẹn những tiếng khóc.

- Tôi đã nghĩ đến cô trong những hồi cô chiếc. Tôi không quên được nét dịu dàng trên gương mặt, trong cử chỉ và nơi tâm hồn của cô. Tôi mong thư cô từng ngày từng giờ, tôi mong sự hiện diện của cô, nơi đây. Một năm. Rồi hai năm. Cuối cùng, tôi đã tuyệt vọng trong sự mong chờ. Cô không hề biết tin rằng nhà tôi đã mất?

Nàng lắc đầu.

- Nếu biết tin nhà tôi đã mất thì dù không nhận được thư tôi, cô cũng tìm vào thăm tôi, phải không? Bởi cô hiểu rằng tôi có nhiều cảm tình với cô. Có phải là cô sẽ vào thăm tôi không?

Nàng lặng lẽ nhìn tôi.

- Có phải vậy không?

Nàng lắc đầu.

- Sao vậy? Cô có điều gì giận tôi chăng? Cô ghét tôi sao? Trong khi tôi vẫn yêu cô âm thầm, yêu cô âm thầm. Tôi nghĩ đến cô như một người đi đường trường giữa trưa nắng nghĩ đến một dòng suối mát. Cô là dòng suối của tôi. Thế mà cô quên tôi, cô… Tại sao cô ghét tôi? Tại sao?

Thịnh ngẩng mặt lên đăm đăm nhìn tôi. Nước mắt đầy cả hai khóe mắt.

- Cô có ghét tôi không?

Nàng im lặng nhìn tôi không nói.

- Thế sao cô không vào?

Nàng lắc đầu và giọng nói nghẹn ngào, đứt quãng.

- Bởi em không có hy vọng… Em nghèo.

Nàng bật lên tiếng khóc.

Vừa lúc ấy tiếng giày của Nhẫn gõ vang ở hè đường trước nhà. Tôi đưa Thịnh vào phòng rửa mặt.

*

Tôi thù hằn sự giàu kể từ ngày đó. Tôi sai tháo hết những rèm cửa, cuốn dẹp tấm thảm ở phòng khách, khiêng cất cái tủ gương trong chưng những cổ ngoạn quí giá đắt tiền. Tôi thù ghét bộ xa lông đồ sộ bọc nỉ đỏ, thù ghét cái giường gọng vàng, thù ghét mọi tiện nghi mà khoa học Tây phương đang ra sức cung phụng tôi. Trong nỗi niềm cô đơn vắng lặng của tâm hồn tôi, chúng không mang lại cho tôi chút an ủi nào mà hiển nhiên chính chúng là nguyên nhân gây ra nỗi cô đơn hiện tại. Tôi muốn đổi hết tất cả để lấy một căn nhà tranh sơ sài có bức tường bằng đất trét màu vàng, có vuông sân nơi đó mọc một cây xoài quí, có người yêu dịu dàng là Thịnh, dòng suối mát của tôi, niềm an ủi của tôi, bàn tay Thiên thần nơi tôi gục vầng trán nhầu nát ưu tư.

Tôi đưa ngón tay vặn chiếc máy thu thanh. Nhạc rơi thánh thót và tiếp theo là giọng hát Giao Linh:

Em biết thân em phận gái nghèo hèn
Mà lỡ yêu thương ai rồi
…”

Điệu nhạc và lời ca tầm thường nhưng phù hợp với hoàn cảnh của chúng tôi. Giọng hát u trầm hay là tiếng nức nở của Thịnh?

Em không có hy vọng… Em nghèo.
Em biết thân em phận gái nghèo hèn
”.

Giọng hát nức nở hay tiếng kêu tuyệt vọng của Thịnh bên cạnh nấm mộ của tình yêu lỡ làng? Tiếng ca khắc khoải trỗi lên, mỗi đêm ở từ phòng trà, từ rạp chiếu bóng, từ chiếc pick-up gia đình, tôi nghe đã nhiều nhưng xúc cảm u hoài theo thì chỉ từ ngày Thịnh cùng chồng tìm đến thăm tôi. Và cũng từ ngày đó, cuộn băng nhựa có giọng hát Giao Linh lúc nào cũng thường trực ở đầu giường. Những buổi chiều cô đơn, những giấc khuya vắng lặng, tôi ngồi hồi tưởng đến những ngày kháng chiến xa xôi, đến một khuôn mặt, đến một dáng người, đến miếng rách nơi vai áo, đến dòng nước mắt lã chã rơi trên mặt bàn, trong khi ngón tay tôi vặn nhẹ để từ từ âm thanh của nhạc rơi nhẹ vào không khí, để tiếng hát lại nỉ non thổn thức:

Cho kẻ yêu anh không tủi phận mình
Còn lóe trên môi nụ cười… dù rằng trong giấc mơ thôi
.”

 (Trích trong tập truyện ngắn cùng tên)
 

Thứ Tư, 12 tháng 3, 2025

MỘT CHÚT MƯA BỤI - Ngọc Minh


Hắn gọi tôi bằng chị. "Chị Ngọc! Chị Ngọc! Quay lại đây cho nói cái này một chút". Tôi quay phắt lại. Mắt trợn to. Chú nhỏ muốn chi đây. Ai quen mà gọi tên thân thiết dữ vậy. Tiếng hát cất cao: "Màu nắng hay là màu mắt nâu nâu". Tôi phá lên cười. Cái trò quái quỉ gì mà "dzui dzậy"? Hắn chống đàn xuống đất tựa cằm lên buồn hiu: "Vậy là thua cuộc với tụi bạn rồi. Chẳng biết làm cách nào cho chị chưởi."
 
Sau này thì đã biết rồi, đó là một lối làm quen của hắn. "Chị nghĩ thế nào về việc con trai theo tán con gái?" - "Đừng bày đặt phỏng vấn tôi. Tôi sẽ nói những lời người ta vẫn nói và chẳng bao giờ nói ra được đâu những ý nghĩ kỳ khôi quái đản của mình. Như vậy, tốt hơn hết vẫn là im lặng chứ gì?" - "Chị lách hầu hết những câu hỏi khôn khéo ghê. Nhưng chị cứ lẩn quẩn loanh quanh trốn tránh hoài vậy chắc tờ báo của tụi này phải dẹp quá. Thế chị có đồng ý với Tú không - Hắn xưng tên gọn ơ cũng như đã tỉnh bơ gọi tên tôi bằng cách nhìn bảng tên gắn trên áo - là con trai Phan Thiết rất..." - "Biết rồi, tối qua có mấy anh Trần Hưng Đạo qua đây với vài người không phải học sinh mà có mang võ khí. Họ có vẻ hận ghê lắm khi thấy mấy ông tướng nước mắm nhà này cứ nhởn nhơ theo tán mấy chị Bùi thị Xuân. Nhất là vở hài kịch khi hôm của Bình Thuận đã cho con gái sương mù đi hỏi chồng con trai cá nục. May nhờ thày Kèn, ông già râu của tụi này, ra tiếu ngạo vài câu nên mới im, không thì lộn xộn lắm".
 
"Theo Tú đó là một lối trả thù hạ sách. Thượng sách là phải quen lại mấy chị Bình Thuận. Tự nhiên thấy trong tất cả các tỉnh của Quân Khu Hai dự trại hè này, mấy chị xứ Phan có một cái gì hay hay nhất..." Tôi cười thầm nhưng cố làm nghiêm. Kéo mũ bê rê xuống giả vờ chùi kính nâu để ngắm nghía hắn một xí. "Tôi đoán không ra lớp của Tú" - "Hè năm tới Tú phải thi Bac un". Tôi lè lưỡi. Hắn học bằng tôi. "Nhưng chắc Tú nhỏ hơn tôi. Tôi 17 rồi đó" - "Bằng chứ! Nhưng cơ mà Tú đứng cao hơn chị cái đầu". Một cách tự nhiên hắn so vai với tôi rồi vui thú reo lên: "Thấy không?" Mấy thầy trại trưởng cứ đi ngang nhìn cảnh tượng này mà tủm tỉm cười hoài làm tôi ngượng quá. Bèn xí gạt hắn: "Tôi phải về phòng. Bỏ quên bàn ủi cắm rồi trong đó". Hắn cười trêu nói vói theo những bước chân phóng qua từng hai bậc cầu thang của tôi : "Phải ghi vào phóng sự của tụi này một điều mới khám phá. Là mấy chị Phan Thiết sang ghê đi. Dự trại mà mang theo cả bàn ủi!"
 
Nụ cười làm khuôn mặt trắng trẻo càng sáng sủa hơn, nhưng tiếng hát thì đổ sụp bóng tối hắt hiu lên mặt hắn. Tiếng hát trong sương khuya nhột nhạt tóc dài phủ êm sau lưng dù rằng đằng sau tôi, hắn đứng xa cả thước. Tôi kêu lên: "Đừng nhìn tóc tôi nữa Tú". Hắn phì cười: "Chị hay thế. Như là có đôi mắt sau đầu." Chúng tôi tiếp tục đứng nói chuyện trong tư thế đó. Hắn hướng về gáy tôi. Tôi nghiêng mình tựa trên balcon của dãy lớp học lầu phóng tầm nhìn về thành phố mập mờ ánh đèn trong biển mù sương. Cho đến khi có tiếng loa gọi tất cả trại sinh trở về phòng ngủ trước giờ ấn định. Nghe bặt tiếng hát ru êm trong bóng tối phía sau. Quay lại chỉ thấy phấp phới phiến giấy trắng với một vài nét phác họa dáng tôi tựa nghiêng lả tóc cạnh một khung cửa tròn như một bức tranh Tầu. Hắn vẽ tròng đen của tôi và đánh vào đó thật ngậm ngùi một dấu hỏi.
 
"Có lẽ anh ta thích màu nâu lắm hay sao mà thấy chị cứ bận quần Cigarette với áo gilet màu nâu hoài vậy" - "Anh ta nào"? "Thì cái anh chàng nào nằm trong tròng đen không tưởng của chị mà Tú chưa biết nên thay vào đó các dấu hỏi ấy mà". Tôi cười buồn: "Không có đâu Tú. Trong đó chỉ là cái dấu than." - "Chị có đôi mắt lạ lùng lắm chị Ngọc. Một người có đôi mắt như vậy phải hát hay ghê lắm". Bỗng nhớ đến L.M.H của Phú Yên đã ghi vào sổ nhỏ kêu đã "cảm thương hàn" rồi vì cái giọng ngọt ngào ru ngủ của dân Bình. Phải chăng nước mắm và gió bể thấm đậm thêm chất mặn mà phủ dụ người nghe cho từng âm hưởng của người biển Phan. Trừ tôi! "Tú nghe tiếng vịt đực kêu chưa. Tôi hát còn khàn hơn thế nữa." - "Chị khôi hài quá!" Hắn cười. Hàm răng trắng. Đôi môi đỏ. Cánh mũi mong manh. Lông mi cong dài. Tóc dài phủ gáy và trán. Dễ thương như mấy chú thỏ của tôi ở nhà. Đi đâu hắn cũng lôi theo cây đàn gỗ. Nhưng không ra vẻ một kẻ du ca đâu. Vì hắn còn thiếu rất nhiều những bụi bặm xốc xếch lôi thôi như một du tử...
 
"Tôi có một đứa em gái. Nhỏ hơn một tí xíu thôi. Nhưng đẹp hơn nhiều. Nó chẳng "quê một núi" như tôi đâu". Hắn xịu mặt: "Lẽ ra chị không nên nói như vậy. Chị làm như Tú kêu chị là chị vì cô em của chị đó hở. Tú cũng có một ông anh beau lắm. Nhưng mà Tú có muốn khoe với chị đâu" - "Ơ hay! Không thích thì thôi. Chuyện chi mà Tú hằn học dữ vậy". Tôi vò nát cọng cỏ đứng dậy. Hắn luống cuống: "Chị giận Tú thật sao?". Tôi thản nhiên đi. Đôi chân dài ngoằng phóng tới trước mặt tay dang ra cản đường "Chị phải cười chứng tỏ hết giận rồi mới được đi." Tôi mím môi, dậm chân "Dang chỗ không tôi hét lên bây giờ". - "Tiếc quá không có gương ở đây để chị ngắm mình. Soi tạm trong mắt Tú đi. Chị càng sùng mắt càng to ra lóng lánh sóng giận và dĩ nhiên càng đẹp. Má lại đỏ au, hơn cả dân Đà lạt nữa..." Tôi phì cười. Khó mà giận được hắn. Tiếng Bắc đó lại êm đềm xào xạo vút lời! "Ngẩn ngơ nỗi nhớ ngập tràn mắt đêm" - "Bài hát nào đâu mà dễ thương và lạ thế?" - "Thơ của ông anh Tú. Mới phổ thành nhạc đêm qua sau khi về phòng. Tụi bạn la chói lói vì Tú đàn suốt đêm chẳng đứa nào ngủ được..."
 
"Chị có chơi cái trò lẩm cẩm nầy không. Khắc tên mình và bạn vào gốc thông". Tôi rùng mình. Thung lũng mang tên tình yêu. Gốc cây mang hình tim với mũi tên xuyên qua. Rỉ máu! Thôi chú nhỏ đừng đi xa quá chớ. Để chị Ngọc còn hơi sức mà về Phan. Lúc haut parleur của thầy G. ầm ĩ gọi tập họp để lên xe về trại, tôi còn thấy Tú đứng giữa sườn thung lũng, ra dấu gọi đến. Giữa đám đông tôi cố gắng nhướng cổ lắc đầu khoát tay tỏ vẻ không đến được. Làm thầy G. phạt tôi chạy quanh 100 tên trại sinh Bình 5 vòng. Người giận đáng lẽ là tôi, thế mà đến lúc đi rửa chén với con An tôi bắt được mảnh giấy viết bằng mực nâu của hắn cột trên cành Mimosa vàng cạnh bể nước "Giận chị rồi. Khi sáng kêu đến coi một tác phẩm của Tú mà chị không đến. Tú khắc trên thông đôi mắt chị. Trong hai tròng mắt một là dấu than, một là dấu hỏi. Ghét chị quá đi."
 
Kêu giận kêu ghét nhưng hắn đã cười toe từ xa khi gặp tôi. "Đây là anh Tuấn của Tú. Còn đây là Lộng Ngọc, bạn của Tú". Ỷ có ông anh, hắn hạ tôi từ chị xuống bạn. Ông anh có vẻ sành sỏi khôn lỏi hơn Tú nhiều. Dân CTCT mà. Theo chương trình tối nay là văn nghệ giao hữu giữa các tỉnh và dân Võ Bị. Chiến Tranh Chính Trị lẫn Chính Trị Kinh Doanh (mấy chị Bùi thị Xuân bày tụi tôi đọc trệch VB thành Vỏ Bí hay Vợ Bỏ - CTCT là Cục Tác Cục Tác hay Con Trai Của Tôi - CTKD là Cu Tí Khóc Dai). Anh Tuấn hỏi tôi đủ chuyện đến trả lời không kịp. Nhưng càng nói chuyện tôi lại càng thấy thích cái lối nói chuyện bộc trực hiền hậu còn hơi hướm trẻ con của Tú hơn. Tôi vẫn còn được những người thân xem như còn bé mà. "Quay" con nhỏ vui thú lắm sao, ông anh của Tú. Nói chuyện với người lớn phải suy nghĩ, phải giữ gìn ý tứ mệt ghê cho con nhỏ lười lĩnh như tôi. Chợt nhận ra nãy giờ Tú đứng im lìm không nói lời nào. "Tú sao thế? Tê liệt xương hàm à? Mọi hôm nói chuyện nhiều lắm mà". Hắn đáp cộc lốc: "Mọi hôm khác". Chú nhỏ lại lẫy rồi. Tôi nói nhỏ vào tai hắn: "Sao Tú giống Mi Na của tôi ghê. Nó hay giận lẫy lắm". - "Mi Na là bạn thân của chị phải không?" - "Ừ! Nhưng nó là một con chó". Hắn ôm bụng ngặt nghẽo cười: "Chu choa (hắn bắt chước tiếng của dân miền Trung) bây giờ chị kêu Tú giống chó. Chị còn chơi thân với những con thú nào nữa không?" Hắn chẳng biết nhà tôi là Ty Mục Súc ở cuối đường xuống biển và cha tôi là thầy thuốc của súc vật. Người hay lẫy ơi! Bạn thân đâu thể có nhiều mà đến "những" lận. Và dù cho có lẫy, có hờn, có đàn, có hát, có cười đùa, có lặng thinh... chi thì tôi cũng phóc lên xe GMC vào ngày đó. Trước đó hắn đã cúi xuống cài huy hiệu trường Trần Hưng Đạo lên bê-rê của tôi: "Tú chẳng biết ép hoa như con gái. Chỉ có mỗi cái nầy biếu cho chị". Sân trường đã vắng hoe. Hương phấn huỳnh đàn phả xuống, tôi quay mặt lúng túng: "Trời ơi! Tôi chẳng có cái gì để lại cho Tú hết" - "Tụi nó bầu chị làm người sắt đá nhất vì không ai xin địa chỉ chị được" - "Tôi giải thích nhiều lần rồi. Tại nhà gần bể. Đường gẫy nên không có số. Tôi sống trên cát mà" - "Thế muốn viết thư cho chị phải làm sao?" - "Tú bắt chước câu chuyện trinh thám mười tên mọi da đen đêm rồi tôi kể đi. Bỏ thư vào lọ. Thả xuống suối. Suối chảy ra sông. Sông trôi xuống biển. Sóng sẽ cong tay vớt lấy chuyển đến tôi" - "Lúc nào chị cũng đùa được. Có lẽ mắt chị màu nâu nên không bao giờ chị biết khóc. Nghe có mấy anh hỏi thăm về một cô bé giấu tên trong đám lửa trại đêm rồi, được gọi là Không Tên Số Một trong trò chơi kết thân, Tú biết ngay là chị. Phải chăng tên chị là Hồ Phi Lộng Ngọc nên mọi chuyện với chị đều là bỡn cợt và mãi mãi bay xa." Chắc Tú chưa đọc những câu thơ này của Thanh Tâm Tuyền:
 
tôi biết những người khóc lẻ loi
không nguôi muộn phiền
ôi những người khóc lệ không rơi ngoài tim mình
em biết không lệ là những viên đá xanh 
những người khóc lẻ loi một mình
Đau đớn lệ là những viên đá xanh...
 
Xe rồi chuyển bánh. "Cho Tú gởi lời thăm cái dấu than trong mắt chị. Có còn chỗ trống nào cho Tú không? Tú làm một cái chấm thôi cũng được". Cám ơn xe đã chạy thật đúng lúc để vớt tôi khỏi trôi ngã bềnh bồng lúng túng ngột ngạt trong cái hố tạo ra bởi những lời vừa thốt của Tú. Xe lướt qua những biệt thự lạnh lẽo như hơi giá bốc lên từ mặt hồ. Đong đưa xa tít xa, trong vườn nhà ai những đóa Hạnh-Phúc Thủy-Tinh xanh mờ như cái ánh trăng xanh ướt của những đêm trại vừa qua đang lùi dần vào quên lãng hệt những cây thông đứng ngủ yên ngậm kín sương mai hai bên đường đèo. Hạnh Phúc ừ thì ngắn ngủi vì chóng vỡ như Thủy Tinh. Những hạt mưa sương lâm châm trên tóc. Nhớ đến một câu thơ của tôi mà Tú đã phổ nhạc: "Chút mưa bụi mùa xuân trong nắng hạ". Vâng! Nắng hạ đã bắt đầu úa. Nhưng mưa đó vẫn là mưa xuân. Nhẹ  nhàng như bụi phấn. Như khói hương thôi. Chưa đủ làm ướt má ai đâu mà hình như chỉ để dịu đi chút gắt gay của nắng mùa hè.
 
Rất đỗi tình cờ, tôi gọi khẽ tên hắn : Vũ Phiêu Tú. Là gì nhỉ? Mưa bay. Gió thoảng và một vì sao nhỏ nhắn như xui nhớ đến Le petit prince. Mãi một đời tôi, quấn quít những địa danh, những bạn thương bạn thiết, những dấu chấm than, chấm hỏi tận đáy mắt tôi hình như tên họ bao giờ cũng bắt đầu bằng những chữ P.T.
 
Tiếng chuông bỗng ngân nga từ tháp chuông của nhà thờ Con Gà thì phải nhưng lại như vẳng vọng từ đâu, một kiếp xa xôi. Nghe mênh mang trong mưa sương những câu thơ của Đ.M.T mà Tú đã hơn một lần ngâm nga cho tôi nghe:
 
Hãy rung lại một tiếng chuông của mọi ngày vàng trong quá khứ
Có thể em sẽ nghe hồn mình run rẩy trong từng mỗi âm thanh...
 
Mưa vẫn bay trên lưng đèo. Hạt bụi nước long lanh không làm ướt đất mà nhuộm mịt mờ cảnh vật, đọng thắm hoa rừng đẹp não nùng hơn. Có ai thấy không nhỉ? Đã có một hạt bụi của mùa xuân trong mùa hạ gõ âm thầm vào mắt tôi tạo thành một điểm và đọng hoài ở đó không tan.
 
 
NGỌC MINH       
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 41, tuần lễ từ 9-3 đến 16-3-1972)
 

Chủ Nhật, 9 tháng 3, 2025

ĐÀNH CAM VÀO KHÁM VỚI TÌNH... BÒ - Bình Nguyên Lộc

 

Nằm trên một cành đào lộn hột đâm ngang, thằng Nóp vừa nhìn mây trắng trôi qua tán lá đào thưa vừa thổi ống tiêu.
 
Nó không biết bài bản gì hết, nhưng sao nhiều người trong xóm thường khen rằng nó thổi hay. Chính nó, nó cũng nghe những tiếng tiêu của nó là hay.
 
Nó đang say nhạc thì bỗng thằng Ngọ ở đâu chạy tới dưới gốc đào, kêu với lên:
 
- Anh Nóp ơi, ông Cả biểu anh để tui đuổi cặp bò về.
 
Tiếng tiêu im bặt ngay và Nóp nhìn xuống hỏi:
 
- Thiệt hay giỡn?
 
- Ai nói chơi cà.
 
- Vậy để tao đuổi về coi ra sao. Mày nói láo thì chết à.
 
- Tui nhỏ, ở lại coi trâu gì được.
 
- Sầm sầm cái đầu rồi nhỏ gì mà nhỏ.
 
Vừa nói câu sau này Nóp vừa tuột xuống. Nhưng trâu và bò đã biến đâu mất hết rồi. Mới hồi nãy đây, chúng còn đang núp nắng dưới bụi tre, nhơi lại mớ cỏ hiếm hoi mùa nắng mà chúng đã cạp được từ sáng đến trưa ở bãi cỏ, cạnh vườn đào vô chủ và hoang phế này.
 
Nóp hú vài tiếng rồi lắng nghe thì xa xa, trong chồi cây có tiếng lục lạc gỗ kêu lọc cọc đáp lại lời kêu gọi của nó.
 
Thì ra trâu bò vào rừng ăn lá cây vì không tìm được cỏ nữa, với lại trốn nắng luôn thể. Nó chưởi thề inh ỏi rồi lủi vô rừng.
 
Khi nó trở ra với cặp bò thì Ngọ đã leo lên nằm thay thế cho nó nơi cành đào ngang ấy. Cây đào lộn hột cổ thụ này không còn sức để sanh trái nữa, nhưng cái nhánh ngang ấy giống một cánh tay bà lão mà thằng chăn bò, chăn trâu nào cũng thích nằm như để chờ nghe bà ta kể chuyện ngày xưa. chuyện bà Xang, người chủ điên của cái vườn bỏ hoang này.
 
Vỏ nhánh đào sù sì, bị lưng lũ chăn trâu cọ nhiều năm thành láng bóng, nằm khá êm lưng, và gió trưa hiu hiu thổi, khiến đứa nào nằm trên đó cũng lim dim đi vào một giấc ngủ tuy nặng, nhưng dễ chịu, sung sướng vô cùng.
 
- Bộ ở nhà, ông Cả tính đi kéo cái gì hả mậy? - Nóp hỏi Ngọ.
 
- Hổng biết. Thấy nhà có khách.
 
Nếu không có công việc thì trâu bò được núp nắng trong rừng chồi này tới tối, Nóp mới lùa về. Bữa nay chắc ông Cả cho đi kéo rơm phơi ngoài ruộng, bên kia suối. Rơm phơi ngoài ấy dạo này bị ăn cắp dữ lắm.
 
- Khứu cà. Dịch nà.
 
Thằng Nóp chưởi con bò Khứu y như là chưởi người ta. Con Khứu đang ăn hiếp con Mốc, cụng đầu vào con Mốc vốn không sừng.
 
Nóp lại vỗ vào hông bò mà nói:
 
- Tụi bây ăn từ sáng sớm tới giờ mà chưa liền lưng. Rồi ổng mắng tao rằng để tụi bây no kiểu "trong mo, ngoài đất sét", oan cho tao lắm nghe?
 
Nóp ám chỉ đến một truyện cổ tích cắt nghĩa do đâu mà trâu bò ngày xưa biết nói tiếng người, còn bây giờ thì không.
 
Rời gò và nửa tiếng đồng hồ sau, Nóp lùa bò tới xóm ở dải đất phì nhiêu gần khu ruộng thấp minh mông hằng trăm mẫu của nhiều địa chủ nho nhỏ trong làng.
 
*
 
Bò vào cổng sau và ông Cả với một người khách lạ nghe chó sủa đón mừng bò, chạy ra sân sau, đứng nhìn hai con vật bạn của Nóp. 

Bò thấy cỏ vườn tươi mát thì ham lắm, đứng lại rứt từng cọng, món ăn mà ngày thường chúng không được phép rớ tới bởi cỏ mọc xen với rau cải trồng trong vườn.
 
Riêng hôm nay ông Cả cứ để vậy. Người khách lạ ngắm nghía một hồi rồi bước lại, vỗ đầu bò và lắc đầu chê.
 
- Chưn cheo, cái ngữ này thì giựt gì nổi.
 
- Nó nằm cát đó ông à.
 
Câu sau đó là của thằng Nóp. Nó nói một cách ngây ngô để có chuyện mà nói, cho đỡ trơ trước người khách lạ, chú ý tới nó ít hơn là tới hai con bò, chứ nó không có mục đích gì hết.
 
Nhưng mắt nó bỗng gặp cái nhìn lườm lườm của ông Cả nên nó hoảng vía, ngó xuống đất. "Nằm cát" là một khuyết điểm lớn, chỉ cái tật của những con bò lười, liệu xe chở nặng quá là nằm vạ xuống cát, không chịu kéo. Nó đã vô tình khai tệ bò của ông Cả.
 
- Một con thì không sừng, sẽ lộn nài, tháo ống, còn một con thì nằm cát. Ông tính sao, ông chủ?
 
Ông Cả nổi xung thiên, xẵng giọng mà rằng:
 
- Ông biết coi bò thì cứ coi, bằng không thì thôi, cần gì nghe một đứa con nít nói bậy nói bạ. Bò đó, giá đó, ông mua thì mua, không mua thì thôi, ai ép ông đâu!
 
Thì ra ông Cả bán đôi bò và ông khách là một chú lái bò. Thằng Nóp rụng rời, điếng hồn trong giây lát, nhưng hy vọng trở lại vì thấy chú lái cứ lắc đầu mãi.
 
Nó cố ra hiệu với ông lái bằng mắt để cho ông biết rằng cặp bò này không làm trò trống gì được đâu, nhưng ông ta vẫn không thèm để ý đến nó.
 
Sống riêng biệt ngoài vườn, ngoài hè với trâu bò, từ hồi sáu tuổi đến nay là mười lăm. Nóp chỉ được tình thương của trâu bò, nhứt là bò. Trâu thì dơ không tưởng tượng được và ngu lắm, gần như không có tình cảm. Bò hiểu được tiếng người, biết thưởng thức lời lẽ và cử chỉ mơn trớn của nó.
 
Trong một cử chỉ bảo vệ, nó bước tới trước đầu bò, rồi nắm chặt dây mũi bò, dang hai chân ra để cố thủ như quyết không cho ai bắt bò, bạn của nó. Ông Cả đã ham rẻ mua đôi bò này từ lâu rồi, tuy con nào cũng có khuyết điểm, nhưng mà rốt cuộc công việc cũng xong, nhờ người và bò biết ý tứ nhau, Nóp rất thạo cách bắt chúng nó làm việc, mà chúng nó cũng thạo cách phá Nóp cho vui.
 
- Thôi thì ông bớt cho tui hai trăm đồng, tiền tổn phí giấy tờ này nọ - ông lái kèo nài.
 
- Một đồng xu tôi bớt cũng không được, nói thiệt với ông.
 
Ông Cả cương quyết giữ giá vì ông bán giá phải chăng và thấy lái có ý muốn mua lắm.
 
Nóp thầm van vái cho vụ mặc cả này không xong. Nhưng nó cứ xong, khiến thằng bé chăn bò nghe chư mất hồn.
 
Giây lát sau, chủ không bảo gì, mà Nóp vội đi khuấy nước muối với cám cho bò uống. Thùng nước mặn ấy có pha mấy mươi giọt lệ nóng của nó.
 
Nó đưa đôi bò đi khỏi hàng tre mở ở đầu xóm mới chịu trở gót. Trước khi chia tay với hai người bạn thân mến nhứt đời nó, nó hỏi chú lái đi về đâu?
 
- Tao về Bà Ký, xa lắm. Mà xế rồi, đi đâu có kịp. Tối nay tao ngủ đậu nhà ông Muôn ở xóm trên.
 
Nóp đứng nhìn cặp bò đạp bụi của con đường làng trải đá đỏ lâu đời, mãi cho đến khi người và vật khuất sau một bụi cây ở một khúc đường quanh nó mới lững thững xuống làng.
 
Đêm đó, lần đầu tiên trong đời nó, nó không sao nhắm mắt được. Ngày thường nó hay bị ông Cả mắng là ngủ như chết. mà thật quả có như vậy, hễ ngả lưng xuống là nó ngáy kho kho. Có lần nó ngủ giữ cổng chuồng trâu: ăn trộm khiêng nó đi nơi khác, để mở cổng mà nó không hay.
 
Lần đó bị mất trộm trâu, ông Cả đánh nó một trận đòn nhứt sanh nhứt tử, rồi cho nó ngủ chuồng bò: trâu mắc tiền hơn lại nhiều con hơn nên ông phải giao cho thằng bạn cày canh giữ ban đêm.
 
Đêm nay chuồng bò trống trơn. Mùi phân chuồng vẫn còn, nhưng mùi bò quen thuộc mà nó đã ghiền, không còn nữa.
 
Nóp tưởng tượng Mốc và Khứu sẽ cực lắm vì chủ mới không biết ý chúng. Chủ mới lại là tay lái bò, thì chưa quen tánh ý của bò, ông ta đã bán sang tay khác rồi.
 
Bò sẽ đi xa nó hơn nữa và càng khổ hơn vì chủ mới lại lạ, còn tình nghĩa gì với bò?
 
Nóp nhớ bò và tin chắc rằng bò cũng nhớ nó, nhớ chuồng, nhớ xóm, nhớ vườn đào hoang phế, nhớ rừng chồi với con suối nhỏ nước trong veo, mà trưa trưa, ăn no rồi, chúng xuống mé nước làm một bụng no nóc nước trong và mát.
 
Nóp rưng rưng nước mắt khi nghĩ rằng nó không bao giờ thấy mặt lại hai bạn thân mến của nó là Mốc và Khứu nữa.
 
Mốc và Khứu coi thì cứng đầu vậy mà dễ dạy lắm, vì nó đã săn sóc Mốc và Khứu hồi hai "đứa" còn là bê. Chủ cũ bán bê cho ông Cả và sang luôn Nóp vì ông ấy dư người chăn trâu, chăn bò.
 
Đằng chuồng trâu bên kia, mấy mõm trâu cứ thong thả nhơi lại mớ cỏ ban ngày kêu phầm phập trong đêm lặng như tiếng chân của chúng chìm dưới bùn được chúng rút lên. Có lẽ chúng đang nhìn sang chuồng bò và ngạc nhiên trước sự vắng bóng của hai con vật mà chúng thấy là kỳ cục và xấu xí hơn chúng.
 
Nóp tốc chiếc chiếu rách đắp trên người nó ra, ngồi dậy rồi lắng tai nghe ngóng. Nó rón rén bước xuống chõng tre đặt trước cổng chuồng, rồi lại rón rén ra đi. 

Mấy con chó nhà sủa lên một tiếng rồi đánh hơi được người nhà quen thuộc, lặng lẽ chạy theo Nóp nhưng nó đá vào một con, cho chúng biết rằng nó không cần chúng theo hộ tống.
 
Nóp lần theo nẻo mà chú dắt bò đi hồi chiều. Chó trong xóm sủa theo nó, nhưng cũng không sủa dai vì con nào, từ đầu làng đến cuối ấp, đều quen với nó hết thảy.
 
Khi tới xóm ông Muôn, Nóp bị chó sủa một vài tiếng nữa rồi cũng thôi. Nó leo rào vào sân nhà, không quên quăng cho chó một mớ khoai nướng nó mang theo.
 
Nó mò lại chuồng bò, chun vô giữa hai cây song ngang. Bò ông Muôn và bò chú lái gởi, nhốt chung bốn con một chuồng. Nóp quờ quạng thì vớ được cái đầu trọc của con Mốc không sừng.
 
Nó mừng đến run lên, ôm lấy cái đầu ấy vào ngực nó. Tay nó vuốt miếng da lòng thòng dưới cổ Mốc và thầm thì nói với Mốc rất nhiều. Mốc cũng nhận ra nó nên lắc lư nhè nhẹ cái đầu, ra vẻ sướng lắm.
 
Khứu cũng vừa đánh hơi được Nóp nên cà nanh, đưa mõm tới nhồi những bắp thịt lưng của Nóp, khiến nó phải buông đầu Mốc ra để mơn trớn con Khứu, và cả ba thầm lặng thương nhau trong bóng tối.
 
- Gà gáy rồi cà - có tiếng người dàn bà nói trong nhà.
 
- Mới gáy chập đầu, còn khuya lắm - tiếng đàn ông nhừa nhựa đáp lại. 

- Lạ! Tôi nghe gì ngoài chuồng bò?
 
- Có cái gì đâu, khéo nhiều chuyện. Chó hổng có sủa mà.
 
- Tôi nghi quá, đâu ông ra coi thử coi!
 
Câu nói sau rốt của bà Muôn khiến Nóp chột dạ. Nhưng không nỡ rời bò, nó đợi thật nguy rồi sẽ hay.
 
Hàng rào lào táo lâu đời của nhà này, bị đứt chưn, nhổ lên chôn xuống đã mấy mươi lần nên thấp lắm, nó thót một cái là lên tới nẹp tre kẹp giữa những trụ lào táo chôn đứng, và bước qua đầu rào để nhảy ra ngoài, không có gì dễ dàng hơn.
 
Nóp quên rằng khi người nông dân nghe động, nhứt là ngoài chuồng bò, họ lặng lẽ mở cửa để đi rình, chớ không thắp đèn đi rọi mà nó biết lúc thật nguy để mà dông.
 
 Vì thế mà khi ông Muôn hô lên một tiếng thì cả nhà đã vây quanh chuồng bò đâu từ hồi nào, và nó mà có cánh cũng không tháo bay thoát được.
 
Bấy giờ người ta mới đốt đuốc lên, và chó mới ráp nhau mà sủa. Hàng xóm cũng đốt đuốc chạy tới vì nghe ồn, biết có biến: họ hành động đúng như tình đoàn kết ở thôn quê.
 
Cả xóm vang dậy tiếng người, tiếng chó, và đèn đuốc sáng rỡ cả mấy mươi vườn cau của xóm này. 
 
Khi ông Muôn lôi tên trộm ra khỏi chuồng bò, thì thiên hạ kinh ngạc hết sức: đó là gã thiếu niên hiền hậu nhứt làng, thằng chăn trâu của ông cựu Hương Cả Ngọt. Nóp chỉ mười lăm, nhưng nó cao lớn gần bằng người trưởng thành. Nó lầm lầm lì lì, ai hỏi gì cũng không nói, và không sao mà đoán được những ý nghĩ gì đang diễn ra trong đầu óc nó.
 
Người ta đưa nó đi, nó trì lại. Hai ba người lớn phải áp lại dùng võ lực lôi xểnh nó, nó mới chịu bước.
 
Nhưng chốc chốc nó day lại nhìn chuồng bò, như tiếc mẻ trộm hụt này lắm.
 
Ông lái bò cười ha hả mà rằng:
 
- Tôi biết mà! Hồi xế, nó cứ theo hỏi ron hỏi ren tôi đi về đâu? Ai dè cái thằng hỉ mũi chưa sạch mà đã trổ mòi rồi!
 
Tuần báo Lẽ sống, 1950
 
(Trích từ tập truyện ngắn Thầm Lặng)