Thứ Sáu, 12 tháng 12, 2025

TRONG MÙA ĐÔNG BUỐT GIÁ - Vũ thị Hải Dương


Khi tôi khoác chiếc áo manteau và đóng cánh cửa lại thì ở ngoài trời, tuyết vẫn rơi đều, nhẹ và trắng như bông. Tôi nhảy như chim xuống những bậc thềm. Đôi giầy lông cừu của tôi vẫn bao bọc những làn hơi ấm áp. Một cái gì vui vui len vào lòng tôi rất nhẹ. Tôi thấy mình hôm nay có vẻ yêu đời và nhí nhảnh quá. Chả bù với mọi hôm, trái tim tôi cứ thở đều bình lặng. Tôi mỉm cười thật nhỏ với chính tôi. Hai bàn tay vẫn nằm co ro trong túi áo, tôi thong thả như đi dạo chơi nhàn nhã. Sáng hôm nay, không dưng tôi vui quá. Con bé Majrorie "tốc" thiệt. Mặc dù trời vào đông, tôi vẫn thấy nắng vàng và những đọt lá xanh non trong ký ức. Tôi thấy ngày hôm nay, những miếng tuyết trắng lạnh băng có vẻ ngọt ngào chi lạ. Cả những hàng cây trụi lá đứng ngẩn ở bên lề cũng ra chiều vui vẻ, đối với tôi. Chả bù cho ngày hôm qua, tôi tức đến nỗi khóc khi con nhỏ Dorothy nắm từng miếng tuyết ném nghịch tôi trên con đường Linsay sương mù trắng xóa. Tôi đã bảo với mẹ tôi là tôi đến nhà con Dorothy chơi đàn. Mẹ tôi có dặn tôi chơi về sớm một tí, và mẹ tôi còn kéo cái cổ áo polo màu trắng sữa của tôi lên cao thêm chút nữa.
 
Ở đàng xa, tôi trông thấy dãy núi của tỉnh lỵ Fairfield, sương mù vây trên đỉnh núi trắng xóa. Những cụm thông ở trên đồi xanh rì và ấm áp. Hình như chúng lóng lánh trong hơi sương, trong từng miếng tuyết rơi như bụi. Những lạnh lùng kéo dài trong hơi gió. Gió rít nhẹ cắt da. Hàng cây mimosa tê cứng đi vì lạnh. Và tôi cứ ngỡ là xác chết của loài mộc thảo khẳng khiu.
 
Mấy ngày hôm nay tôi chả nhận được thư của anh chàng Sarino gì cả. Tôi buồn tưởng chừng vỡ người ra được. Những đợi chờ đằng đẳng của tôi được ông Facteur trả lời bằng đôi mắt nhìn thẳng xa xăm với chiếc lưng cong xuống khi đạp xe ngang nhà tôi. Thật là chán nản. Tôi nghĩ, chắc anh chàng Sarino lại quên tôi, con bé Majrorie hay nhè và hay buồn này rồi. Hoặc có thể, anh chàng lười viết thư cho tôi cũng nên. Thằng nhỏ Zebedee, em của Sarino nói với tôi, anh ta lười viết thư một cây. Dăm ba hàng của anh ta là quý. tôi nghe mà thấy buồn ghê. Đối với tôi, như thế cũng là cái tội. Không biết từ đây đến ngày Giáng Sinh, Sarino có về chơi với tôi và gia đình không nữa. Nhưng nếu anh chàng về, tôi sẽ tảng lờ anh chàng đi vì giận. Tôi sẽ đi lễ nửa đêm với bố tôi và mấy đứa em. Tôi sẽ đi chơi với mấy đứa bạn, với Dorothy, để mặc anh chàng vui với tuyết, với cái lười đáng ghét. Và tôi sẽ chơi với những cành thông treo đầy những quả thủy tinh muôn sắc. Tôi sẽ như mấy năm trước, để chiếc giày bốt của tôi gần lò sưởi. Đêm nằm ngủ đợi quà Giáng Sinh của ông già Noel ; đợi những con búp bê biết nhè biết dỗi, tóc hoe vàng từng sợi, mắt chớp như soi ; đợi những con sóc nhỏ nhồi bông, những người hề bằng vải. Tôi chả thèm đợi quà Sarino nữa đâu cơ. Tôi chả cần con búp bê Michael tóc dài óng ả, mắt long lanh, mi cong từng sợi. Tôi chả cần. Tôi chả cần. Anh chàng Sarino làm tôi muốn khóc. Lúc tôi đi qua con đường Main thì hàng cây mimosées vương đầy tuyết trắng. Những chiếc lá xanh thay bằng muôn ngàn mảnh tuyết, rải rác khắp cành cây. Những chú sóc nhỏ và những con chim khuyên bây giờ đâu mất. Tôi cũng chả biết chúng đi đâu. Nhưng khi mùa đông đi qua, mùa xuân và mùa thu lần lượt trở về thay từng lớp lá, thì những chú sóc nhỏ màu nâu và những con chim khuyên màu xanh nhạt lại tới lui trên những cây xanh mát, thật dễ thương. Khi tới gần nhà Dorothy, tôi thấy con bé ngồi gọn trên chiếc ghế mây, sau cửa kính. Có lẽ Dorothy đang mơ mộng. Lại mơ mộng! Vậy chứ mà tôi và con nhỏ Dorothy nổi tiếng mộng mơ trong lớp học đó. Hai đứa được bạn bè đặt ngồi lên ngai vàng của "nữ hoàng mộng mơ" đó. Có thể là oai lắm nếu tụi bạn tôi có ghế nữ hoàng. Thỉnh thoảng có đứa vẫn còn gọi tôi, danh xưng "nữ hoàng mơ mộng", tôi chỉ mỉm cười không nói. Còn con bé Dorothy thì đấm vào vai tôi mấy cái. Mà cái nào cái nấy, tôi tưởng đã rụng cả xương ra. Con bé Dorothy chong mắt nhìn ra cổng, nhác thấy tôi, nó rời chiếc ghế và chạy băng trên lối nhỏ dẫn vào nhà. Dorothy nhìn tôi cười toe toét. Con bé mi tôi một cái.
 
- Dễ thương vậy đó hả?
 
Tôi cười và nhìn xuống dưới chân. Những viên sỏi nhỏ, xám màu trông buồn tệ, Tôi nắm lấy bàn tay của Dorothy. Hai đứa siết chặt tay nhau rồi cùng nhìn nhau cười ròn rã. Tôi chả hiểu tại sao tôi và Dorothy cười sau cái bắt tay lạ lùng đó. Nhưng tôi biết, trong tiếng cười của tôi và Dorothy có tràn qua một chút hồn nhiên, hạnh phúc và hơi ấm nồng nàn. Hai đứa đi thong dong trên lối sỏi. Tuyết rơi ít hơn lúc tôi ở nhà. Và tôi nghe rõ, dưới chân tôi và Dorothy, những bước chân rơi lại phía sau, cùng với tiếng lao xao của những viên sỏi xám. Nghe thật buồn bã. Nghe thật lẻ loi. Tôi cúi xuống, nhặt vài viên sỏi rồi ném về phía cây ngọc lan, thật bâng quơ và thản nhiên. Con bé Dorothy hát nhỏ một bài ca của Paul Ryan. Tôi thấy rõ hơi thở thoát ra từ lỗ mũi và cái mồm nhỏ nhỏ của nó, còn đông đặc trong màn sương buốt giá.
 
My eloise
Is like the stars
That please the night
The sun that makes the day
That lights the way
And when that stars goes by
I' hold it in my hands and cry...
 
Hơi nóng từ lò sưởi bốc lên và ủ cả căn phòng làm tôi ấm hẳn. Tôi nói với Dorothy:
 
- Mình chơi bài của John Lennon nghe.
 
Con bé gật đầu, và chúng tôi kéo nhau ra chiếc đàn dương cầm để sát góc tường quét vôi màu hồng nhạt. Con bé Dorothy đứng dựa vào chiếc đàn. Chân con bé bắt xiên thật là nghịch ngợm. Hai tay nó chống lên cằm. Mái tóc màu vàng tơ còn buông thõng xuống hai vai trông hay tệ. Tôi ngồi xuống chiếc ghế mây màu nâu nhỏ. Tóc tôi dài hơn Dorothy và tôi hất những làn tóc ra sau lưng. Vai tôi khép lại một cách yếu đuối. Hai mỏm xương vai nhô lên buồn bã. Tôi nhìn xuống những nhịp đàn. Một màu trắng im lìm và lặng lẽ. Khi ngẩng lên, tôi bắt gặp đôi mắt của Dorothy nhìn tôi không nói. Mà không, đôi mắt của Dorothy bạn tôi, khác đôi mắt của anh chàng Sarino đó chứ. Tôi nhớ ra rồi, ánh mắt của Sarino lạ hơn của Dorothy cơ. Ánh mắt lạ lùng và huyền bí lắm, tôi cũng chả phân tích được điều gì muốn nói ở đôi mắt của Sarino, trong những lần dạo chơi trên khu rừng Northen mùa thu lá rụng. Tôi cười với Dorothy:
 
- Martha my dear nghe.
 
Con bé gật đầu và tôi bắt đầu dạo nhạc. Những nốt nhạc trầm trầm và cô đơn, rơi thánh thót vào lòng tôi. Căn phòng ấm hẳn. Tôi mơ hồ thấy những rộn ràng nhảy nhót quanh đây. Con bé Dorothy vẫn lắng nghe, im lặng. Những ngón tay của tôi nhảy tung tăng trên phím nhạc. Như những con sóc màu nâu nhỏ bé ở hàng cây mimosées trên con đường Main thinh vắng. Những phím nhạc lướt lướt trong không gian. Rồi tản mác. Rồi rơi vào nơi nào đó của căn phòng. Có thể những phím nhạc đều rơi xuống chân tôi và nằm im dưới chân Dorothy lắm ạ. Có thể những phím nhạc sẽ rơi vào lò sưởi, lửa sẽ đốt tan từng nốt, biến nhạc thành những điệu khúc vui tai reo dòn tan tí tách.
 
You have always been my inspiration
Please be good to me
Martha my love
Don't forget me
Martha my dear...
 
Tôi nhớ lan man tới anh chàng Sarino. Tôi nhớ bâng khuâng tới anh chàng Sarino. Chả biết bây giờ anh chàng đang làm gì. Ngồi bên chiếc điện thoại màu đen hay lang thang dưới phố. Đi tìm con búp bê Michael mà tôi ưa thích hay viết thư cho con nhỏ Majrorie ưa khóc. Tôi buồn quá thể đi thôi. Những nốt nhạc êm ái, tôi chán chường tất cả, tôi bỏ dở cả một đoạn sau không đàn. Hai tay tôi mệt mỏi buông thõng xuống. Con bé Dorothy nhìn thấy điệu bộ chán nản của tôi với cái lưng còng xuống buồn thảm, con bé phá lên cười làm tôi cũng cười lây...
 
- Tưởng vỡ phòng rồi chứ?
 
Con bé Dorothy trợn mắt:
 
- Bộ dễ lắm sao bồ.
 
- Cười như trái phá.
 
Con bé Dorothy nhún vai, sức mấy. Tôi rời chiếc ghế mây và chiếc dương cầm. Con bé Dorothy đi sau lưng tôi. Điệu bộ con bé hồn nhiên hết sức. Có thể bây giờ tôi kém Dorothy một bậc về điểm này. Tôi ít nói quá. Và tâm hồn luôn có những khép kín âm thầm.
 
- Sắp Noel rồi hả?
 
Tôi trả lời bâng quơ:
 
- Sắp Noel. Sắp Noel...
 
Chúng tôi ngồi ở ghế salon. Con bé Dorothy cuộn tròn người như con mèo Dorothy nhỏ bé.
 
- Marietta mở party đó, đi chăng?
 
Lại con bé Marietta. Con bé sao hay mở part thế chứ. Nó thích ồn ào và vui nhộn còn tôi, tôi ghét quá đi thôi. Ngày lễ nào, con bé cũng hội họp cười đùa, vui như pháo tết. Nó hay gửi thiệp mời tôi đi lắm, mà tôi không đi. Chắc Noel năm nay, nó chơi lớn lắm.
 
- Dorothy có đi không?
 
- Hai đứa mình cùng đi nghe.
 
Tôi thấy chán chường tệ. Tôi nhớ tới những tờ giấy mỏng màu hồng nhạt chi chít những chữ của tôi. Tôi nhớ tới những tờ giấy mỏng màu xanh da trời chứa đựng những nét chữ quen thuộc của Sarino. Tôi nhớ tới tập sách mà Sarino gửi cho tôi ép đầy hoa forget và tulipe. Tôi nhớ tới chiếc ghế mây, khung cửa sổ màu hồng ở phòng tôi. Tôi nhớ tới con mèo nhỏ Timothy. Tôi nhớ tới Sar...
 
Con bé Dorothy nhéo vào tay tôi một cái đau quá, làm tôi chả biết lúc nãy tôi đang nghĩ gì, nhớ ai.
 
- Không trả lời hở?
 
- Cái vụ đi party hở?
 
- Ừ. Trả lời đi.
 
Tôi lắc đầu:
 
- Dorothy đi chơi một mình đi.
 
- Không đi hở?
 
- Ừ!
 
- Sao vậy?
 
- Không thích.
 
- Tại sao không thích? 
 
- Không biết.
 
- Tại sao không biết?
 
- Cũng không hiểu tại sao.
 
Con bé nhéo tôi một cái nữa. Lần này, tôi thấy quá đau. Con bé vẫn còn kể lể bên tai tôi. Nào là vì lười, vì có thằng nhỏ Sarino về chơi. Nào là quên tụi bạn, quên cả Dorothy, con bé năn nỉ tôi đi chơi với nó. Tôi bảo để nghĩ lại xem sao chứ tôi ghét ồn ào lắm.
 
- Tôi chiều  cô đó nhé!
 
- Đa tạ.
 
Nói vậy cho con bé im lặng. Chứ tôi có chắc đã đi đâu. Nếu Sarino về kịp mùa Giáng Sinh, tôi sẽ ở nhà chơi với Sarino, với con búp bê Michael mà Sarino mua cho tôi làm quà Noel. Tôi sẽ vui với Sarino mà quên mình có giận anh chàng ghê gớm.
 
Con bé Dorothy huyên thuyên nói cho tôi nghe về những dự định liên hoan của nó trong mùa Giáng Sinh năm nay. Tôi cứ ậm ừ. và lúc con bé bảo tôi giúp nó một tay để nó mở party trước ngày chơi với Marietta thì tôi dẫy nẩy. Tôi lắc đầu lia lịa và bảo, chắc tôi chết mất. Con bé cười hăng hắc và nhất định giao cho tôi một phần trách nhiệm trong cái party của nó. Tôi nhìn đồng hồ thấy gần mười giờ. Tôi đứng dậy.
 
Con bé Dorothy ngước nhìn tôi:
 
- Về hả?
 
- Ừ.
 
- Mai tới không?
 
- Có lẽ.
 
- Mình dợt bài Silen Night nghe.
 
- Ừ.
 
Ở ngoài, sương mù vẫn dày đặc. Tuyết rơi từng bông nhỏ và buồn. Cây mimosées ở bên đường chết cóng. Chiếc cổng của nhà Dorothy chơ vơ. Tôi chợt nhớ tới Sarino. Tôi nghĩ tới ngày Giáng Sinh sắp tới. Tôi tin chắc thế nào Sarino cũng về chơi Noel với tôi và gia đình. Khi con bé Dorothy đưa tôi ra cổng, tôi bảo rằng, party ở nhà Marietta, tôi không tới dự.
 
Con đường về nhà tôi, tuyết rơi trắng xóa.
 
 
VŨ THỊ HẢI DƯƠNG     
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 82,  tuần lễ từ 22-12 đến 29-12-1972) 
 

Thứ Ba, 9 tháng 12, 2025

ĐÊM THÁNH CỦA HAI NGƯỜI - Phạm Đình Thống


Giọng người ca sĩ ngập ngừng ở một nốt nhạc trầm, đứt quãng, rồi chợt vút cao như tiếng gió nổi lồng lộng trên đồi thông. Tiếng hát dừng lại, lửng lơ ở độ cao làm ngơ ngẩn người, rồi chợt hạ thấp xuống bất ngờ như con chim bói cá cắm vụt xuống mặt hồ yên lặng. Tôi thấy mắt Hạ Quyên long lanh. Hình như có hai giọt lệ ngập ngừng trong khóe. Tôi đặt cả hai bàn tay lên những ngón tay thon nhỏ nhắn của nàng đang hững hờ bất động trên mặt bàn. Hạ Quyên như chợt tỉnh, mỉm cười nhìn tôi.
 
- Bài hát buồn quá, anh.
 
Vừa nói Hạ Quyên vừa rụt tay về định lau hai giọt nước mắt vừa lăn tròn xuống đôi má mịn màng như lụa của nàng. Tôi giữ tay nàng lại:
 
- Đừng lau khô. Anh muốn nhìn đôi mắt đẹp và khuôn mặt dịu dàng của em rạng rỡ vì hai giọt nước mắt. Đẹp tuyệt vời.
 
Bài hát trở lại lần nữa, đã qua khỏi điệp khúc. Tiếng hát nức nở "Một người bèn ra ven sông nước cuồn cuộn mau. Một người chìm sâu trong khi mưa ngâu bỗng ngừng ngang đầu..." Hạ Quyên bấm vào tay tôi: "Đi anh". Tôi cấu lại vào tay nàng:
 
- Em phải cười trước đã. Rồi chúng mình đi. Mà bây giờ mình đi đâu nhỉ.
 
Hạ Quyên cười. Nụ cười như đóa hồng nhung sớm mai ngậm sương lóng lánh. Tôi thầm cám ơn những vì sao, đêm nay, lấp lánh trên hàng  cây nhập nhòa bóng tối bên kia đường.
 
Những con đường vắng nhất trong thành phố đêm nay cũng đông nghẹt người. Những sắc màu rực rỡ ngập tràn khắp ngã. Tôi và Hạ Quyên chen lấn, lặn ngộp trong làn sóng người ấy đến hơn mười giờ mới thoát ra được về phía bờ sông. Thả bộ thật chậm. Gió lồng lộng từ sông thổi ngược lên tung bay tóc Hạ Quyên. Trông nàng rạng rỡ dưới vòm trời sao và trăng chảy lênh láng trên tóc trên vai nàng. Tôi ngất ngây trong vùng ánh sáng tuyệt vời ấy. Chúng tôi đi bên nhau, lặng yên, nghe hơi thở nhấp nhô trên triền sóng tình dàn trải bát ngát với đất trời với trăng sao diễm tuyệt. Những tiếng động và hơi người rớt lại phía sau lưng chúng tôi, khu nhà thờ lớn ở trung tâm thành phố. Khi ngang qua những cây bàng già cỗi ở mạn Bắc bờ sông tôi đi sát Hạ Quyên hơn, chậm lại. Một chiếc lá vàng cuối mùa bay chao lượn đập vào tay tôi. Hạ Quyên bảo tôi bắt lấy đưa cho nàng. Nàng đưa chiếc lá lên mũi hôn âu yếm. Tôi nói:
 
- Hương lá úa tuyệt vời, phải không? 
 
Hạ Quyên im lặng. Tôi tiếp, cùng lúc với những trái sáng bắn lên bên kia sông, ánh sáng soi rõ khuôn mặt nàng trong sáng như trăng khuya vằng vặc.
 
- Em có biết hai câu thơ "Tôi là con gái. Buồn như lá cây" không? 
 
- Biết. Em biết cả bản nhạc phổ bài thơ này nữa.
 
- Thế tôi là con trai buồn như... cái gì nhỉ?
 
- Em đâu biết.
 
- Buồn như trái cây, nhé.
 
- Sao con trai lại buồn như trái cây?
 
- Thế sao con gái buồn như lá cây?
 
- Anh hỏi thi sĩ tác giả câu thơ ấy chứ. Nhưng chắc là đời con gái như đời lá. Tươi tốt một sớm mai và sẽ vàng phai tàn rụng theo cơn gió vô tình nào đó...
 
- Còn con trai... cũng giống như trái cây, sẽ có lúc chín và sẽ bị "người ta" hái về xơi...
 
Chúng tôi cùng cất tiếng cười vang cả một khúc sông vắng. Trời bỗng tối sầm. Mây đen kéo về đầy trời. Và mặt trăng bị lấn áp tội nghiệp chạy trốn sau đám mây đang hung hãn tóe nước xuống trần gian. Tôi kéo Hạ Quyên chạy như bay về phía trước mặt. Mưa bắt đầu lớn hạt. Không có một mái nhà nào cả. Lách qua một con đường nhỏ phía tay trái, suýt chút nữa Hạ Quyên trợt chân té nhào. Những ngôi biệt thự nằm lặng lẽ trong những tường rào cao kín không giúp được gì cho chúng tôi (đúng ra chỉ để ý đến Hạ Quyên. Tôi là con trai mà kể gì những giọt mưa cuối mùa này đâu) chống lại đám nước mưa bắt đầu thấm lạnh trong lần áo. May quá, cuối đường là một chiếc quán nước nhỏ. Quán đông nghẹt người. Đứng ngồi lô nhô. Đa số là bọn con trai rong chơi đêm nay chui vào đụt mưa. Chúng tôi bắt chước những người vào trước đang đứng tựa tường uống cà phê bưng trên tay, kêu hai ly cà phê sữa nóng. Cả hai ướt như chuột lột. Hạ Quyên lạnh run cầm cập. Tôi kéo nàng nép sát vào người tôi chuyền cho nhau hơi ấm tình yêu. Một lát, quen với hơi ấm và khói thuốc lá và hơi người chật ních trong quán Hạ Quyên đỡ lạnh hơn. Tôi chợt khám phá ra là hai đứa tôi đang đứng bên cửa sổ, khép hờ bên ngoài. tôi đẩy cánh cửa nhỏ. Mưa đã thưa hạt. Trời xanh lờ mờ qua làn mưa mỏng ở bên kia sông. Và trăng, trăng đã chui ra khỏi đám mây thả chút ánh sáng yếu ớt lạnh lẽo qua lớp mưa bụi rọi vào khung cửa soi lờ mờ khuôn mặt Hạ Quyên cùng lúc với nhịp đập trái tim tôi tăng lên đột ngột. Chưa bao giờ tôi thấy Hạ Quyên đẹp như đêm nay. Tôi nói như thở vào tai và má nàng: Anh yêu em quá đỗi. Tôi muốn chết trong đôi mắt chớp long lanh của Hạ Quyên. Đừng nghĩ tôi dại dột. Tôi đang yêu.
 
Sáng hôm qua. Mới năm giờ rưỡi, trời còn lạnh căm căm. Thành phố trở lạnh bất ngờ vào những ngày giữa mùa đông. Cái lạnh đến từ lúc nửa đêm. Buốt da. Hai lớp mền dày phủ kín đầu mới chịu nổi. Thế mà Định lội bộ đến gọi tôi cùng lúc với tiếng chuông nhà thờ làm lễ sáng. Định đu lan can leo lên gác cạy cửa đập tôi dậy. Hắn lục tìm áo quần bắt tôi mặc vào. Đi. Hai tấm vé xe Định nhét vào túi tôi. Trời còn mờ mờ sương. Hơi lạnh bám vào da thịt. Chiếc áo len không giữ đủ hơi ấm cho người. Còn sớm, hai đứa đi bộ đến bến xe. Ngang qua nhà Hạ Quyên tôi đứng lại nhìn vào. Căn nhà im vắng tĩnh mịch lắng đọng hơi sương còn ôm ấp gia đình trong giấc nồng. Nàng chắc còn đang lan man trong giấc mộng. Mong là một giấc mộng đẹp, cho nàng. Tuần trước tôi và Hạ Quyên giận nhau đến ba ngày. Cả hai cùng khổ sở hết sức nhưng đều làm mặt lạnh cho bõ ghét, nhưng thực ra trong lòng buồn khổ vô cùng. Nguyên do chỉ vì cái chuyện tập văn nghệ văn gừng của nàng. Tôi thì chả muốn Hạ Quyên tập tành gì cả, chỉ muốn nàng, ngoài những thì giờ học hành, nghĩ đến tôi mà thôi. Nàng nói một năm có một lần nàng giúp ban văn nghệ trường. Dĩ nhiên nhân dịp này mấy thằng con trai trong ban văn nghệ sẽ rà theo bên nàng tán tỉnh này nọ. Tôi dỗi nàng. Tôi nghĩ là nàng quí trọng những cái kia hơn tôi. Tôi nói Giáng sinh tôi đi Đàlạt. Mặt Hạ Quyên xịu xuống và lạnh, nhưng không nói gì cả. Đúng lúc thằng Định đến rủ đi, tôi đồng ý ngay. Chiều qua đến nói sáng nay tôi đi, Hạ Quyên muốn khóc. Tôi cũng buồn  khôn tả, nhưng đã hẹn với Định rồi. Và tôi biết chắc là tôi sẽ chẳng vui vẻ gì ở cái thành phố cao nguyên lạnh lẽo đó. Tôi và Định ra đến bến xe lúc trời vừa rựng sáng. Uống một tách cà phê nóng ở chiếc quán cóc gần bến cho ấm người. Bất ngờ Nguyễn lò mò đến, dáng chậm chạp cố hữu lúc lắc trong chiếc Manteau dày cộm. Thằng này hành trang có vẻ luộm thuộm như đàn bà. Nguyễn định ghé quầy mua vé xe, tôi gọi hắn lại dí cho hắn chiếc vé kèm theo một câu quay qua phía Định: Thôi hai đứa mầy đi với nhau cho tiện sổ sách. Tao không đi. Tôi bỏ về trong sự ngơ ngác của Định. Chắc hắn sẽ chửi dữ. Nhưng tôi bất cần. Tôi không thể thiếu Hạ Quyên trong mùa hẹn hò này. Mùa của những người yêu nhau.
 
Tôi kể cho Hạ Quyên nghe chuyện tôi bỏ Định và Nguyễn lúc sáng ở bến xe khi hai đứa bước ra khỏi quán và đi ngược lại phía bờ sông. Mưa chỉ còn là những hạt bụi mỏng óng ánh trăng khuya. Ánh trăng phản chiếu trên mặt nước sông xao động thành những đợt sóng bạc nhấp nhô dội vào bờ đá. Người bây giờ đông như nước cuộn. Người đi dự lễ nửa đêm tràn xuống con đường nhỏ ở bờ sông. Hạ Quyên đi sát vào tôi, giọng nhỏ và mềm:
 
- Đêm nay vui quá há anh.
 
- Vui vì đông người hay vì đi với anh?
 
- Em không biết. Nhưng chắc cả hai.
 
- Em thích tiếng động?
 
- Tùy. Mà tiếng động gì chứ?
 
- Tiếng động, bất cứ tiếng động gì. Tiếng động ý nghĩa và tiếng động vô nghĩa.
 
- Em yêu bất cứ cái gì, cả tiếng động, lúc em vui.
 
- Anh cũng có một thời như thế.
 
- Bây giờ không còn?
 
- Còn chứ, nhưng khác đi một chút. Một thời vang tiếng động. Đã nở thành niềm vui.
 
- Có phải là thơ?
 
Tôi mồi một điếu thuốc. Khói thuốc bao phủ khuôn mặt nàng, khuôn mặt tôi, ấm êm một chút hồn nhiên. Tôi đưa nàng tách rời xa đám đông. Tiếng chuông thánh lễ nửa đêm cất lên vỡ òa trong không gian thành trăm ngàn tiếng vọng. Tôi nói nhỏ vào tai Hạ Quyên:
 
- Đêm thánh của hai người.
 
Hạ Quyên nói:
 
- Khói thuốc lúc trời lạnh dễ chịu ghê anh há.
 
Tôi nhả thêm nhiều chùm khói thuốc bay nhòa nhập vào mặt vào tóc nàng. Hồi chuông thánh lễ nửa đêm vừa dứt còn vọng trong không gian chìm lắng.
 
- Em có biết trái sầu đông?
 
- Biết. Sao anh?
 
- Biết tại sao gọi là cây sầu đông không?
 
- Vì khi đông về, cây rụng hết lá trơ cành khẳng khiu. Cây mà cũng biết sầu buồn khi đông về anh nhỉ?
 
- Cây cũng có linh hồn của cây chứ.
 
- Em chỉ nghe anh nói lần đầu, là cây có linh hồn.
 
- Nhưng linh hồn cây không chia xẻ. Linh hồn cây trọn vẹn. Không như người. Này, em có nghe gì không?
 
- Không. Sao bỗng dưng im lặng quá.
 
- Sương bạc làm thinh, khuya nín thở. Nghe sầu âm nhạc đến sao Khuê. 
 
Hạ Quyên đưa tay chỉ một vì sao xẹt ngang giữa bầu trời khuya rờn rợn bóng trăng mờ ảo. Hương tóc nàng quyện trong gió nhập vào hồn tôi. Bỗng dưng tôi muốn khóc.
 
 
PHẠM ĐÌNH THỐNG     
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 82,  tuần lễ từ 22-12 đến 29-12-1972)
 

Thứ Bảy, 6 tháng 12, 2025

ĐÔI MẮT NÀO LINH HIỂN - Nguyễn Tất Nhiên


 
 
 
 
 
 
 
 
 
mùa đông đã về rồi đó nhỏ
đồng bằng miền Nam trở trời trái gió 
anh chợt nghe hồn thánh thót tiếng chuông
vừa đủ hồi sinh miền giáo đường buồn
 
mùa đông đã về rồi đó nhỏ
anh mặc áo len quấn khăn quàng cổ
bồng ẵm tim mình đi lễ-tình -yêu
đồng bằng miền Nam dù chẳng lạnh bao nhiêu
nhưng cũng phải ra cái điều rét mướt 
làm chiên ngoan, cả đời tôn vinh hạnh phúc
cả đời tin sự thật, có, thiên đàng
 
đôi mắt nào của Chúa, ở trần gian
hãy soi thấu tâm hồn tôi, u uẩn
đôi mắt nào sáng như trời quang đãng
hãy tò mò thêm chút nữa, tình tôi
 
chẳng bao giờ thần thánh chịu hở môi
tôi cũng thế nên sầu-say-túy-lúy
tôi cũng thế, nên hờn cao ngất núi
chờ em qua, rồi, để qua luôn...
 
đôi mắt nào của Chúa ở trần gian
bóng tôi ngã hướng thâm cùng đời sống khó
 
mùa đông đã về rồi đó nhỏ
anh giật mình nghe thánh thót tiếng chuông
vừa đủ hồi sinh cảm giác rộn ràng
tưởng chết đuối từ lâu giữa dòng cơ khổ...
 
mùa đông đã về rồi đó nhỏ
phúc âm mừng ngân vọng được bao lâu?
tôi cả tin, nên rất dễ nghi ngờ
tôi vụng tính, nên vẫn thường do dự
tình chảy xiết qua đời như, thác lũ
tội thân tôi bầm dập, mủn, như bùn!
 
đôi mắt nào của Chúa ở trần gian
hãy phán đoán tâm hồn tôi thánh thiện
đôi mắt nào tuyệt vời linh hiển
hãy ân cần chuyên chở lụy-phiền-tôi
 
chẳng bao giờ thần thánh chịu lìa ngôi
tôi cũng thế, nên tượng hình rêu phủ 
tôi cũng thế, nên xương tàn cốt rũ
nơi miếu đền hoang rợn cánh dơi bay...
(xin một lần định bụng, đến thăm tôi
thần thánh cô đơn rất sẵn sàng đãi ngộ!)
 
mùa đông đã về rồi đó nhỏ
anh lặng người thấm thía tiếng chuông
như cây thông già, đứng lặng, hưởng mù sương...
rồi, bao nhiêu đèn và bao nhiêu nến 
phải một lần mang ra thắp hết
phải một lần khôi phục lại niềm vui
 
dôi mắt nào của Chúa ở lòng tôi
nhỏ ơi, ơi nhỏ và, nhỏ ơi...
 
                            NGUYỄN TẤT NHIÊN 
                                        (9-11-74)
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 150, phát hành ngày 18-12-1974)
 

Chủ Nhật, 30 tháng 11, 2025

NHỮNG NGỌN CỎ HÉO HẮT - Vũ Linh Thiêng


Có lẽ suốt đời tôi chỉ là một chuỗi chắp nối những luyến tiếc. Luyến tiếc trong ý nghĩ không cùng kỷ niệm của những tháng ngày nồng nàn yêu dấu. Như những ngọn cỏ héo hắt.
 
Hôm đó tôi theo chuyến tàu lửa vào Huế trọ học. Con tàu đen đủi, nghèo nàn này đã quá quen thuộc với tôi sau những chuyến đi về buồn bã và tiếng còi tàu nhiều lúc tôi nghe như một điệu nhạc bất chợt cô đơn, làm dậy lên trong tôi một chút nao nao. Vì sau lưng là quê hương xanh ngát, ở đó có một vườn cây ăn trái buổi sáng luôn luôn nghe thấy chim hót, và những cánh hoa khế mầu tím nhạt chết rũ đầy lối đi. Lavang nghèo nàn nhưng thân thiết đó. Tất cả đầy ắp trong trí nhớ của tôi.
 
Tôi ngồi gọn trong lòng ghế. Toa tầu hơi trống vắng. Tôi nghe thoáng trong hơi gió mùi hàng cá tanh tưởi từ một toa tàu nào tạt lại làm tôi chun mũi khó chịu. Bên kia dãy ghế, thật trầm lặng, nàng ngồi, dáng bé bỏng tội nghiệp như một con chim se sẻ mùa đông ướt cánh. Áo nàng thật trắng, thật tinh khiết cơ hồ như còn ngửi thấy được mùi thơm in trên nếp áo. Suốt buổi nàng ngồi co ro nhìn ra bên ngoài khung của sổ. Tôi chỉ thấy được hai bờ vai nhỏ nhoi yếu đuối và một mái tóc cắt rất ngang. Có lẽ nàng vừa mới lớn và cũng chỉ vừa mới biết làm duyên. Bên ngoài ô vuông cửa sổ những hàng cây xanh thẫm như những thằng điên đang đuổi nhau chạy về đằng sau. Và trời thì rất xanh rất trong và rất im.
 
Bất chợt nàng quay đầu lại nhìn vào trong toa tầu. Bắt gặp đôi mắt tôi đang mở lớn. Nàng bối rối cúi xuống một chút. Tôi thấy rõ đường ngôi rất thẳng của nàng và những sợi tóc lòa xòa che phủ một vầng trán tinh anh. Thoáng một chút hương con gái dìu dịu. Và tôi hít nhè nhẹ sơ e kinh động nàng. Tôi không còn nghe mùi cá sống tanh tưởi nữa. Nàng lại nghiêng đầu nhìn ra bên ngoài cửa sổ. Thật lâu. Làm sao tôi có thể biết được những ý nghĩ lúc bấy giờ trong đầu óc nàng. Nhưng tôi thì biết chắc những ý nghĩ lúc bấy giờ trong đầu óc tôi. Chẳng hạn như cô bé đẹp thật...
 
Nàng lại quay đầu vào. Cũng bắt gặp đôi mắt như cú vọ thôi miên của tôi. Tôi thấy mắt nàng xanh mướt lạ kỳ, mầu xanh của biển cả mênh mang và hàng lông mi cong vút như những rặng phi lao. Lần này nàng có vẻ bạo dạn hơn một chút, chỉ một chút thôi. Nàng sửa lại vạt áo trắng ngay ngắn trên hai đầu gối rồi lại thản nhiên quay ra nhìn bên ngoài cửa sổ. Tôi thì thực sự đã cảm thấy ghen với trời mây cây cỏ rồi đó. Và tôi muốn nói với nàng nhìn gì ngoài kia hoài vậy cô bé, có khỉ khô gì đâu, chỉ tổ thêm chóng mặt thôi đấy nhé, lại mỏi cả cổ nữa đó, tối về ngủ không được đâu. Nhìn anh nè.
 
Và tôi đợi chờ nàng nhìn vào, sửa soạn cho một cuộc chinh phục. Vuốt lại một chút mái tóc rối bù vì bụi gió. Gấp lại một chút nếp pli quần cho sắc. Và môi cố nhếch một nụ cười thật có duyên, thật mê hồn, thật nghệ sĩ. Tôi sẵn sàng cả rồi đấy, quay mặt nhìn vào đi chứ cô bé. 
 
Và rồi đã đến lúc mỏi cổ, có lẽ thế, nên nàng quay đầu vào. Lẽ dĩ nhiên là nàng thấy tôi đang cười. Lần này nàng nguýt tôi một cái ôi cái nguýt làm rụng rời chân tay tôi, làm xiêu lạc hồn phách tôi, nguýt nữa đi em cho chân tay tôi thêm rụng rời, hồn phách tôi thêm xiêu lạc. Nàng mỉm một nụ cười, lắc đầu hất mái tóc về đàng sau. Một chút làm duyên. Ôi chao cô bé dễ thương quá đi thôi. Biết nói câu gì bây giờ hở cô bé.
 
- Cô bé nhìn gì ngoài trời mãi vậy?
 
Nàng cười nhè nhẹ lắc đầu không nói.
 
- Cô bé đi một mình thôi hở?
 
Câu hỏi vô duyên tệ, nên nàng mím miệng cúi đầu, hai bàn tay bối rối đan vào nhau. Và tôi thì đã cảm thấy một chút máu nóng trong người.
 
Một vài câu hỏi bâng quơ nữa, nàng vẫn chỉ trả lời bằng một nụ cười huyền hoặc. Con tàu vẫn chạy, nhịp bánh nghiến vẫn đều đều. Và tôi thì mãi loanh quanh với những ý nghĩ của tôi. Hay là cô bé câm. Hay là cô bé điếc. Hoặc vừa câm vừa điếc. Tôi nghiệp cho cô bé chưa!
 
Con tàu chợt giật mạnh rồi ngừng lại ở một ga nhỏ. Tiếng người lên xuống chen lẫn lao xao. Mùi cá tanh tưởi lặng gió hôi nồng nặc. Tôi khó chịu nhăn mặt chun mũi lại. Có lẽ dáng điệu của tôi lúc ấy trông thật xấu xí kỳ cục, nàng ngó thấy vội phì cười:
 
- Gì mà làm dễ sợ rứa?
 
Ôi chao tôi mừng biết mấy. Sau này lúc ngẫm nghĩ tôi mới thấy câu nói của cổ nhân "mưu sự tại nhân thành sự tại thiên" thật là đúng. Và tôi nhớ hình như đã hét lớn:
 
- Ô may quá!
 
Nàng ngạc nhiên. Chắc thế:
 
- May cái gì hở?
 
- Tôi cứ tưởng...
 
Tôi định nói, cứ tưởng cô bé vừa câm vừa điếc chứ nhưng may quá tôi đã kịp thời bỏ lửng.
 
Nàng cười, nguýt dài. Ôi cái nguýt muôn đời vẫn đẹp của nàng! Nàng liếc nhanh ra ngoài:
 
- Ga nào đây anh nhỉ?
 
Tôi vội vàng:
 
- Ga Phò Thạch đó! Cô bé đi Huế mấy lần rồi?
 
- Em ở Huế mà. Mới đi ra Quảng Trị vài lần thôi à. Nên chưa thuộc hết tên các ga đó...
 
Giọng nói của nàng trong và êm chi lạ, tôi nghe thân thuộc và gần gũi như tiếng hót của con chim nào buổi sớm mai mùa hạ trong vườn cây ăn trái nhà tôi.
 
- Không nhìn ra ngoài cửa sổ nữa à?
 
Nàng cười nhẹ. Tôi thoáng thấy bên ngoài trời vẫn im lìm xanh thẳm, nhưng hình như đã có một sợi khói mây nhạt nhòa nào đó. Có lẽ nàng cũng đã thoáng thấy, như tôi.
 
- Anh vào Huế làm gì?
 
- Đi học.
 
- Trường nào?
 
Tôi trêu nàng:
 
- Hỏi làm gì, còn để thì giờ cho người ta học chứ!
 
Nàng hứ một tiếng thật dễ thương. Tôi vội vàng, sợ nàng giận:
 
- Trường Thiên Hữu, chắc cô bé biết chứ. Còn cô bé, học ở đâu? 
 
- Anh đoán thử coi!
 
Tôi giả vờ nhắm mắt, nói đại một tên quen thuộc:
 
- Đồng Khánh!
 
Nàng mím môi, nhìn vào mắt tôi, có một chút gì bí mật:
 
- Ừ hạ, anh giỏi nhe ha!
 
Tôi hứng chí, ba hoa thêm:
 
- Huế, Đồng Khánh là nhất!
 
Nàng tinh nghịch:
 
- Vậy hở? Khi nào mời anh tới chơi!
 
- Cô bé xúi dại tôi hả? Tới đó chắc tôi chết rét mất!
 
- Anh cứ mặc áo ấm vào rồi tới...
 
Nàng giấu mặt cười sau câu nói đùa của nàng. Tôi làm ra vẻ nghiêm trang:
 
- Tôi tới cô không sợ sao?
 
- Sợ?
 
- Sợ mất tôi. Sa vào tay người khác...
 
Tôi nói nhỏ tiếng sợ nàng giận. Tôi thấy má nàng ửng đỏ:
 
- Hứ, ai thèm! Mời anh tới dựa cột đèn đấy chứ!
 
- Ủa, sao để tôi tội nghiệp vậy?
 
- Đành vậy, chứ biết làm sao. Vì em đâu có học ở đó...
 
- Thế sao lúc nãy cô bảo học ở Đồng Khánh?
 
- Ai bảo?
 
- Cô!
 
- Em hay anh?
 
Nàng cãi như một đứa bé. Tôi thấy nàng thật dễ thương. Vẻ mặt nàng chùng hẳn xuống. Tôi luống cuống sợ nàng bỏ tôi quay ra với ô vuông cửa sổ của nàng thì thật là nguy. Tôi cố làm ra vẻ thật thiểu não, tay đấm đấm vào ngực:
 
- Ừ thì anh. Lúc nãy anh quên. Cho anh xin lỗi nghe cô bé!
 
 Tôi đổi lối xưng hô một cách ngon lành. Và nàng thì hình như chỉ muốn hờn một chút làm duyên mà thôi. Khuôn mặt nàng rạng rỡ tinh anh trở lại. Rồi nàng kể cho tôi nghe tuổi thơ của nàng, trường học, bạn bè của nàng, mùa mưa, mùa nắng và ước vọng của nàng. Hè vừa rồi nàng ra chơi nhà bà ngoại ở ngoài này, bây giờ nàng trở vào để bắt đầu một niên học mới. Và tôi thì kể cho nàng nghe về một vườn cây ăn trái có lá rất xanh và trái rất ngọt buổi sáng hoa khế tím rụng đầy lối đi. Và tôi nói với nàng là mùa hạ năm tới anh sẽ mời em tới thăm. Và em sẽ là con chim nhỏ muôn đời hót mãi trong vườn đời anh.
 
Bây giờ thì không gian xa cách, nên tôi chỉ còn biết ước mơ bé nhỏ là chung thân làm một loài nhai lại, nhai lại rất ngon và rất thơm những ngọn cỏ héo hắt mà nàng đã trao cho tôi ngày đó.
 
 
VŨ LINH THIÊNG     
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 78, tuần lễ từ 23 đến 30-11-1972)
 

Thứ Năm, 27 tháng 11, 2025

CĂN GÁC HỒNG CỦA LÂM - Bình Nguyên Lộc

 
 
Thật ra thì căn gác hồng của Lâm màu xám. Nóc tôn màu xám thì đã đành rồi, mà gỗ và ván màu trắng, màu vàng lợt, cũng muốn màu xám vì nắng táp, mưa tạt chầy ngày.

Nhưng bạn hữu của chàng lại đặt tên gác ấy là "gác hồng" vì một lý do kể ra kể ra rất dài dòng, chớ không phải dịch hai chữ "Hồng lâu" ra đâu.

Lâm là một anh con trai vui tánh. Chắc anh ta cũng có bị những ray rứt hành hạ anh ta chớ chẳng không, ray rứt vì thế sự, vì vận nước, vì tình hoặc vì một chuyện thấp lè tè là chén cơm hằng bữa, nhưng bề ngoài trông cứ như là anh ta yêu đời luôn luôn.

Mà cái gì làm cho một anh con trai yêu đời ? Một người đẹp. Đó là lối suy luận của bạn hữu của Lâm.

Suy luận như vậy, lũ nó tò mò tìm xem người ấy là cô nào. Nhưng anh chàng Lâm cứ lủi thủi một thân trên đường đời.

Đi xi-nê, đi dạo phố, đi ăn uống gì chàng ta cũng chỉ đi một mình, hoặc với bạn trai.

Thế nên rồi mấy thằng bạn "ưu thời, mẫn thế" của Lâm lại suy luận sâu thêm rằng, nếu nó cứ đi ra ngoài cu ky một mình mãi thì hẳn là nó giấu người đẹp trong nhà nó, vì một lẽ gì đó.

Vậy là lũ nó trổ tài thám tử, dò la mãi rồi tìm ra cái tổ uyên ương bí mật của Lâm.

Đó là căn gác xép mà Lâm thuê mỗi tháng một ngàn đồng, chủ nhà ở dưới bao luôn đèn nước.

Căn gác, à không, cà căn nhà nầy, nằm trong một ngõ hẻm ngánh, nghĩa là một ngõ hẻm của một ngõ hẻm, ngõ hẻm chánh, rộng hơn ngõ ngánh một chút, là một con dơi muốn xưng mình là chim hay chuột gì cũng được, vì nó nối liền hai con phố song hành rất gần nhau, phố Phan Đình Phùng và phố Trần Quý Cáp, người trong hẻm có cho địa chỉ, khi thì đề Phan Đình Phùng, khi thì đề Trần Quý Cáp, người tìm phải ráng mà thám hiểm vì số nhà vô trật tự ở khu đó đừng có tin nó mà khổ.

Lũ nó tìm được căn gác hồng của Lâm, nhưng không có người đẹp nào trong đó hết. Ừ, lũ nó cố lì, nằm vạ ở đó mấy hôm, mà ra vào chỉ thấy bộ mặt hề của Lâm thôi, còn bóng hồng thì tuyệt nhiên không thấy dạng.

Nàng về quê ngoại chăng ? Không, nhà không mang lấy một dấu vết cỏn con của một phụ nữ đẹp hay xấu.

Lũ bạn của Lâm đành chịu bí, vì không còn cách nào khác để truy nguyên bí quyết yêu đời của chàng.

Chiều hôm ấy chàng đi chơi, thằng bạn kiên tâm nhứt vẫn còn nằm vạ trên gác xép với hi vọng mong manh khám phá ra cái gì.

Và nó đã khám phá được cái đó.

Bên kia ngõ hẻm ngánh, trước căn gác xám của Lâm là một biệt thự đồ sộ, trổ mặt ra phố Trần Quý Cáp. Vách nhà bếp, day ra đây, sơn đen thui. Ba căn nhà bếp nầy đều có lầu và mỗi căn lầu đều có cửa sổ kiếng mờ, sau trấn song sắt.

Kiếng mờ nầy không phải là loại kiếng trắng đục, mà là kiếng trong, nhuộm màu lục, có gọt bông hoa trên ấy. Trấn song sắt và bông hoa làm cho những gì hiện lên sau đó, hư ảo ghê lắm chớ không phải có đường viền rõ rệt như là sau kiếng trắng đục vậy đâu.

Hồi bảy giờ tối, thằng bạn kiên tâm ấy đứng hóng mát dựa vào bao lơn gỗ nơi hàng hiên gác và thấy đèn sáng lên trong căn lầu giữa của nhà nhà bếp.

Liền sau đó, một bóng người hiện ra. Vì khả năng biến hình của loại kiếng, bóng người ấy giống như một bức chân dung của phái "quy bít" gồm nhiều mảnh người vỡ ra và được ráp lại. Tuy nhiên nó cũng nhận ra được rằng đó là một cô gái.

Cô gái cởi áo ra rồi mặc vào chiếc áo khác.

Thằng kiên tâm chết lặng đi trước một thứ thoát y rất hấp dẫn nầy vì còn chuyện sau sẽ tiếp theo, gợi tò mò ghê lắm chớ không trắng trợn như thoát y vũ trong các hộp đêm, xem vài pha là hết muốn xem nữa.

Tới đây thì The End, mặc dầu đèn bên ấy còn. Cô gái tan nát trong các bông hoa gọt của lớp pha lê dầy màu lục, rồi biến mất.

Thế rồi ngày hôm sau huyền sử về "bí mật của chàng Lâm" được phổ biến sâu rộng ra và bao nhiêu bạn hữu của Lâm đều cũng đổ xô về căn gác của chàng mỗi đầu hôm, để xem Ti-Vi.

Chính Lâm cũng chỉ mới biết có chuyện động trời nầy thôi, nhưng chàng nói sự thật lũ nó không chịu tin, còn trách chàng xấu bụng nữa là khác.

Mỗi đêm, có thêm một trò chơi mới lạ: người đẹp làm gì như là soi gương, luôn luôn có thay áo, còn thay cả y phục thì chỉ thỉnh thoảng mà thôi.

Tất cả những trò công xúc tu sỉ nầy, lũ bạn dịch vật của Lâm chỉ đoán thấy thôi chớ không thấy rõ, vì hình ảnh nát quá và lũ nó rất giận sao chủ nhà không dùng loại kiếng trắng đục, có phải là hình ảnh mê ly hơn không. Qua kiếng trắng đục, họ cũng chẳng thấy gì rõ ràng được, tuy nhiên, đường nét viền quanh một thân thể vẫn nổi bật lên, đen thui.

Từ đây, hễ thằng nào chán đời, tới đây mua vé là được lạc quan.  Ừ, thằng Lâm nó bán vé hẳn hòi, chỉ lấy tượng trưng năm đồng thôi mà nó nói là để trám miệng chủ nhà ở dưới, ông ấy phàn nàn họ làm ồn quá.

Căn gác xám được đặt tên là "Căn gác hồng" kể từ chiều hôm ấy, hồng vì nó giúp những thằng muốn quyên sinh thấy cuộc đời mang màu hồng, cố bám níu vào dương thế để được tiếp tục xem thoát y vũ rẻ tiền.

Nhưng lũ nầy là thi sĩ cả chớ không phải là một bọn thấp lè tè đâu mà chỉ hài lòng mãi với bóng dáng người con gái cởi áo mỗi đầu hôm, bóng dáng ấy nó thô bỉ, không xứng với tâm hồn thơ của lũ nó.

Lũ nó vẽ vời ra : ông chủ nhà là một nhà thầu khoán, cô gái thoát y là con gái thứ tư của ông ấy. Hai người chị của cô ấy được mỗi người hai buồng ở trên kia, còn cô ấy vì còn đi học nên ở riêng sau nhà cho yên tịnh. Tuy là nhà bếp, nhưng thật ra nhà bếp ở dưới là lầu độc lập, mà ba căn lầu nhà bếp là đã quá sang rồi.

Để xem cô ấy tên gì ? Lucie, Hélène, Bích thu. Thúy Liễu ? Cái tên cuối cùng mà cậu nào cũng đồng ý là tên Phù Vân.

Và trời ơi, nàng đẹp không vần thơ nào tả cho đúng mức.

Nàng học ở đâu ? Đệ nhất Trưng Vương, Đệ nhị Gia Long ? Không, như thế thì còn bé lắm vì tâm hồn nàng phải học đại học lận kia.

Bọn thi sĩ cố không xem thoát y vũ nữa mà chỉ đợi đèn tắt để nhìn cái cửa sổ không bao giờ mở ra ấy để mà mơ người đẹp.

Họ cao hơn thường nhơn một bực là chỉ "con người" một vài hôm thôi, rồi đâm ra ghê tởm thú tánh của mình chỉ còn ham ngắm trong tưởng tượng một tâm hồn đẹp mà thôi.

Ừ, hẳn là tâm hồn nàng phải đẹp và để cho xứng với vẻ đẹp tinh thần của nàng, họ tự ý bỏ một trò ngoạn mục vô song.

Lâm không được tiền thu vé nữa, nhưng chàng lại rất hài lòng. Chàng si ghê lắm và đâm ghen, muốn chiếm độc quyền người ngọc.

Giờ, không ai dòm mỹ nhân cởi áo nữa, chàng vẫn chưa hết ghen bởi lũ nó còn mơ giai nữ của chàng, còn tưởng tượng về nàng lúc chúng nó nằm trên sạp ván hàng hiên, mà có lẽ mơ cả những lúc chúng nó đi ăn, đi chơi, về nhà ngủ nữa.

Con người vui tánh nầy đã ít nói cười, mặc dầu thật ra giờ đây chàng mới thật sự yêu đời. Chưa chắc gì là những anh hề lại yêu đời và chưa chắc gì anh chàng có bộ mặt lầm lầm lì lì đang đi ngoài kia, mắt nhìn mặt đường nhựa như để tìm một đồng bạc đánh rơi, chưa chắc gì hắn là kẻ có niềm riêng u uẩn gì đâu. Sự thật thường đi trái ngược lại nữa, mấy thằng hay cười, chỉ cười để che giấu tâm sự não nùng nào, còn mấy thằng có bản mặt buồn buồn lại rất vui bên trong, chúng nó cố mà buồn, sợ người ta biết rồi xin bớt niềm vui của chúng nó chăng ?

"Ôi là nàng đẹp ! Ôi là nàng thanh cao ! Mà hễ nàng thanh cao thì nàng biết trọng sự thanh bần, nàng phục lăn cái thằng ở một căn gác xép, biết làm thơ, cái thằng ấy là nhơn vật thơ mộng của các tiểu thuyết mà nàng thường đọc và chắc chắn ngày kia, nàng sẽ can đảm thủ vai nhơn vật nữ trong loại tiểu thuyết ấy, nghĩa là từ bỏ sự giàu sang của ông cha trọc phú, ông ấy cương quyết gả ép nàng cho một viên kỹ sư chỉ biết những con số, để ra đi xây tổ ấm với người lý tưởng của nàng là chàng.


- "Phù Vân ! Em Phù Vân, em đẹp như một sợi mấy trắng lững lờ trôi trên nền trời xanh ngắt tháng giêng ta của miền Nam. Có phải là em đang ngồi học bài đó chăng ? Và sau vầng trán của em, hình ảnh anh đang nổi lên ?".

Bao nhiêu thằng cô đơn, bao nhiêu thằng chán đời vì bị tình phụ trong đám bạn hữu của Lâm đều lành tâm bệnh cả, bởi cuộc đời đã mang màu hồng rồi dưới con mắt mới của họ; trong Căn Gác Hồng; trước bức tường sơn đen và khung cửa sổ tối thui không bao giờ mở ra cả.

Đời họ đã có ý nghĩa nào, một chỗ nhằm để cho họ khỏi vất vưởng như những cô hồn lạc lòng, một chỗ dựa tinh thần để lấy hứng mà làm việc.

Cả bọn sống trong hạnh phúc tưởng tượng ấy được chín tháng - thời hạn hoài thai và cưu mang của một bà mẹ - thì một hôm, một biến cố xảy đến cho riêng Lâm.

Một người bà con của của chàng, trong tình cờ câu chuyện, cho chàng biết rằng, một người quen của bác ấy có nuôi một con nhồng (yểng), loại chim nhái tiếng người giỏi nhứt, miễn là có một lớp da xù xì bọc bên ngoài lưỡi của nó. Ông ấy tìm mãi một người biết kỹ thuật lột lưỡi nhồng, nhưng chưa tìm ra.

Lâm biết kỹ thuật đó, không giỏi lắm, nhưng người Sài Gòn không ai biết cả thì chàng có thể vô địch trong thành phố nầy và thà là giúp người ta một cách không toàn bích, còn hơn để vậy thì phí con nhồng của người ta lắm.

Thế nên chàng tình nguyện làm nhà chuyên môn, và được người bà con đưa tới nhà chủ của con nhồng, năm hôm sau đó.

Tới nơi Lâm buồn cười hết sức vì cái nhà ấy không đâu lạ, đó là ngôi biệt thự áng ngữ trước căn gác xép của chàng, cái lâu đài bí mật chứa chấp nàng tiểu thơ kiều diễm mà chàng mơ gần một năm rồi.

Thật là không có sung sướng nào to hơn trong đời của Lâm. Chàng không định mơ suông trọn đời, mà rất mong mỏi một cuộc gặp gỡ tình cờ, và cuộc gặp gỡ ít hi vọng ấy lại tới bất thình lình quá, thật là ly kỳ y như trong tiểu thuyết.

Chủ nhà tử tế không chỗ nào chê, ông ấy thành thật chớ không phải chỉ xã giao để lấy lòng trong một buổi kẻ giúp ông ta đâu, vì chàng xong công việc rồi, ông ấy khẩn khoản mời chàng uống rượu, chàng không uống được rượu, ông ta nài nỉ chàng uống một chén trà ngon, rồi tha thiết khẩn cầu chàng trở lại, càng nhiều lần càng tốt, ông ấy buổi xế luôn có mặt ở nhà.

Nếu không có Phù Vân, chắc Lâm không trở lại đây làm gì, mặc dầu chủ nhà có lòng bao nhiêu đi nữa, bởi một nhà thầu khoán với chàng, hai người xa nhau vạn dặm, không nói chuyện tiền của đâu, mà chỉ nói về cái điểm tâm hồn thôi.

Vậy là chàng đã trở lại. Chủ nhà quả nhiên tử tế thật, vì bây giờ ông ấy không còn cần chàng nữa mà vẫn niềm nở tiếp đón chàng.

Ông phải cái tật lẩm cẩm, hay nói chuyện gia đạo và khoe nhà khoe cửa.

Ông ta đưa Lâm đi xem buồng tắm của ông, trong ấy có đặt bồn tắm sen hồng, giá hai trăm ngàn đồng, ông khoe cây cảnh ở sân sau, và khoe luôn cả kho hàng

Vâng, kho hàng, vì ông ta không phải là thầu khoán mà là nhà xuất nhập cảng.

Ông ta có hai người con trai, người trưởng nam làm kỹ sư cho hãng Esso, người thứ nam đi quân dịch và kỳ lạ chưa, ông ta không còn người con nào nữa hết nghĩa là ông ta không có con gái.

Nhưng cũng chẳng sao, người con gái có thể là cháu của ông, hay cháu của bà. Rất có thể là như vậy, vì là cháu nên nàng chỉ ở phía sau nhà thôi.

Kho hàng của ông xuất nhập cảng nầy là... ba căn lầu nhà bếp ! Trời ơi !

Khi Lâm được đưa lên đó, chàng nghe như quả địa cầu nổ tung ra vì một tai nạn nguyên tử nào khi thấy căn lầu giữa đầy nghẹt hàng hóa, chỉ chừa một chỗ đi nhỏ, trên lối đi ấy đặt một chiếc ghế bố (giường vải) tồi tàn và cái ông chủ lẩm cẩm nầy lại cho biết thêm một chi tiết rất là vô ích và rất tai hại, đó là chỗ ngủ của con sen.

Dưới nhà bếp, là bếp nấu ăn, buồng tắm, buồng vệ sinh và chỗ ngủ của bà bếp với lại thằng nhỏ, con sen hết chỗ nằm, nên được cho lên đây.

Lâm vội xin phép ra về ngay để soát lại vị trí của ngôi biệt thự nầy và vị trí của căn gác của chàng. Quả nhà chàng nhìn thấy nhà kia và cạnh ngôi biệt thự của ông xuất nhập cảng không còn ngôi biệt thự nào khác cả mà có thể bảo rằng chàng lầm lẫn. Hơn thế nữa, cái cửa sổ luôn luôn đóng, chàng đã nhìn thấy bên trong. Nó được trấn song sắt, và được đóng thêm bằng một cửa kiếng làm bằng pha lê gọt bông hoa màu lục.

Ảo ảnh vừa tan biến và giấc mơ chín tháng của chàng chỉ là một giấc mơ.

Lâm đứng tựa lan can gỗ nhắm mắt lại để sống giật lùi trong thời gian, sống lại những xúc động buổi đầu của chàng, sống lại những giấc mơ, những sung sướng của chàng sau buổi đầu ấy.

Những thứ ấy đều thật cả, và quả chàng đã có hạnh phúc.

Chàng bùi ngùi nhớ lại một cô Phù Vân không còn nữa, nhưng sau mấy giờ đau tương tư chàng chợt thấy rằng không cần có cô Phù Vân chàng mới sung sướng được. Một ảo ảnh đã đủ lắm rồi.

Hơn thế nữa, càng không nên có cô Phù Vân nào cả, vì nếu có, thì khi nàng lên xe hoa, chàng sẽ ra sao, hoặc nếu may mắn khó mong, chàng được nàng, rồi chán nàng thì vẻ đẹp của mối tình bông lông sẽ còn gì ?

Không, không nên có cô Phù Vân.

Mãi đến giờ phút nầy, chàng mới hiểu được một đoạn văn của một người bạn của chàng "Đi câu, đối với tôi không phải là để được cá. Đi câu là những giờ rình một tăm cá, những phút hồi hộp, nhìn cái phao chìm lần... chìm lần, nghe đầu cần câu nằng nặng".

Hỡi những anh con trai thất vọng ơi, cô Phù Vân không có, là may mắn cho các anh đó. Cô Phù Vân không có thì giấc mơ niên thiếu, giấc mơ thanh niên của các anh mới có được và mới thọ được cho tới khi các anh đầu bạc răng long. Mà hình như là các anh cần giấc mơ ấy hơn là cần một cô Phù Vân bằng xương bằng thịt.

Lâm giấu luôn sự thật với bạn hữu của chàng, không phải là vì chàng ghen với lũ nó như mấy tháng trước nữa mà vì thương lũ nó. Nếu lũ nó không tìm thấy được cái triết lý về sự cần thiết của ảo ảnh, chúng nó sẽ đau đến đâu và sẽ chán đời đến đâu ?

Cứ để cho lũ nó mơ cô Phù Vân không bao giờ có cho đẹp cuộc đời của lũ nó. Riêng chàng, chàng sẽ đi tìm một ảo ảnh khác, để mà mơ...


(Tuần báo Nghệ Thuật, 1965)     
 
(Trích từ tập truyện ngắn Diễm Phượng)
 

Thứ Hai, 24 tháng 11, 2025

HÃY ĐẾN CHẬM HƠN NỮA - Võ Hồng


Mỗi năm có khoảng chừng mười lần tôi nhớ đến Hoạt. Số lần nhớ tăng theo tỷ lệ thuận với số tuổi. Rõ ràng là càng lớn tuổi người ta càng hay nhìn về quá khứ, không phải vì thích nhìn mà dường như vì người ta bắt buộc phải nhìn.

Hoạt học chung lớp vỡ lòng với tôi. Trải qua một niên khóa, anh không có đặc điểm gì khiến tôi lưu ý. Có lẽ chỉ cái tên của anh là có đôi chút đặc biệt. Chúng tôi gọi là Quạt và liền trong óc hiện hình cụ thể ra một cái quạt. Thật tiện lợi và tự nhiên. Hồi đó người ta dùng cái quạt bằng giấy phất lên trên những cái nan tre xòe ra xếp lại gọn gàng. Những kép hát bội đóng vai nịnh thần sử dụng quạt nhiều nhất, hầu như thường xuyên có cái quạt trên tay. Cái quạt biến thành vũ khí tùy thân như thời nay cái súng đánh đai trên vai người lính. Khi cần bắt khán giả lưu ý đến câu nói của mình, tên nịnh thần thường vừa nói vừa duỗi tay mặt xòe cái quạt ra, còn tay trái thì vuốt râu. Mấy cô công chúa cũng hay cầm quạt. Khi đợi người tình lang phùng gân cổ vừa trợn mắt lên hát cho hết đoạn Nam đoạn Bắc của hắn, thì nàng công chúa lợi dụng cây quạt đang cầm tay để quạt cho đỡ nực. Khán giả đâu có lưu ý chê trách một cử chỉ phản nghệ thuật như vậy bởi chính nhiều khi có thấy nàng công chúa quạt mát trên sân khấu, khán giả mới bỗng chợt nhớ đến cây quạt cầm tay của mình và thế là cả rạp hát phấp phới những cánh quạt màu trắng như những cánh bướm hoạt động. Chúng tôi đứa nào cũng có những kinh nghiệm đi coi hát bội như vậy.

Ở nhà vườn người ta dùng mo cau để cắt thành quạt. Đó là thứ quạt bền nhất, khi ngủ quên tha hồ nằm lăn lên trên và khi giận con thì trở cán mà vụt, vụt chết thôi, không sợ rách, không sợ gãy. Những người nghèo không có cây cau mọc trong vườn, không có cái vườn để cây cau mọc thì qua mùa Hè khi gió Nam tạt hơi nóng vào mặt, họ đi lượm những bẹ tre ở các bờ tre làng. Lúc bấy giờ những cây măng đã mọc cao và đốt nào vừa già đủ sức chịu đựng nắng gió thì vội cổi bỏ cái bẹ bấy lâu nay vẫn che chở nó. Các cái bẹ rớt lang thang trên mặt đường đi, được lượm lên, đem về nhà dùng dao vanh cắt thành hình quạt.

Cả một hệ thống quạt như thế dành cho sự liên tưởng của tôi.

Sau này khi lên đến lớp Tư, Hoạt dẫn một đứa em của anh đến xin học. Tên nó là Bác. Chúng tôi sắp sửa liên tưởng đến “cái chén”, - chúng tôi là dân miền Nam nên chuyên môn đọc sai những chữ tận cùng bằng T, C, có G và không G, - thì thầy giáo gật gù bảo Hoạt:

- Ai bày cha mày đặt tên là “Hoạt bác”?

Hoạt lí nhí:

- Dạ thưa thầy con không biết.

Thầy quay lại chúng tôi:

- Đố các trò “Hoạt bác” là gì?

Nhiều đứa rúc rích cười thích thú nhưng không dám giơ tay xin nói. Chắc đứa nào cũng có một lối giảng nghĩa như nhau. Đợi lâu không thấy đứa nào xung phong, thầy chỉ ngay thằng Lăng.

Lăng đứng dậy:

- Dạ thưa thầy là mình quạt cho Bác mình, là trời nóng Bác mình sai mình quạt cho ổng mát…

Cách giải thích thật bất ngờ, và “ông Bác” thì cũng cụ thể dễ tưởng tượng như “cái chén” nên cả lớp cười rộ lên. Thầy cũng cười theo.

- Các trò dốt. “Hoạt bác” là chữ Nho. Nghĩa là ăn nói trôi chảy, ai hỏi đâu trả lời đó.

Hoạt không ăn nói trôi chảy, thông thạo như y nghĩa của cái tên anh. Thầy kêu lên đọc bài thì anh cà kê chỉ một câu đầu, lặp lại mỗi chữ đến năm, bảy lần rồi đứng khựng. Lúc bấy giờ ngón tay cái của anh làm việc tay cái lưỡi. Anh thọc ngón tay vào lỗ bàn chỗ dành gài gô-đê mực và cứ thọc vô rút ra. Thầy hỏi:

- Ai biểu mày nạo lỗ gô-đê?

Anh ngước mặt lên ngớ ngẩn hỏi:

- Dạ? Dạ thầy sai con nạo cái gì?

Trời ơi! Ngu ơi là ngu! Đến giờ chơi chúng tôi bao vây anh để hành hạ tiếp.

- Hồi nãy thầy sai anh nạo cái gì vậy?

- Tao đâu có biết? Ổng nói tao không nghe, tao hỏi lại ổng không nói.

- Chiều nay mà anh không nạo xong thì chết anh.

- Tao biết nạo cái gì?

- Sao không hỏi lại cho rõ?

- Hỏi rồi mà không nói.

- Kệ anh. Chiều nay bị đòn kệ xác anh.

Chiều đó Hoạt trốn học. Thầy sai bốn anh sức vóc lực lưỡng đến nhà bắt. Tìm khắp nhà trên tìm xuống nhà bếp. Mẹ anh nói:

- Uở lạ. Nó có ôm sách vở đội mũ xách ve mực đi học rõ ràng mà. Chớ đi đâu mà không tới trường?

Cha anh chậm rãi nói từng tiếng:

- Thằng nhỏ giấu vở đi chơi ở đâu rồi be. Chắc theo lũ thằng Bạch thằng Trinh đi đánh trổng hay đi bắt chim.

- Ông mới đánh nứt đít hôm kia, chắc bữa nay không dám, - lời mẹ anh.

- Nó sợ ai mà không dám?

Xem chừng cuộc đối thoại dài nhằm không giúp ích gì cho cuộc sưu sách phạm nhân, bốn vệ sĩ đi lần ra sân sau, lục lọi từng bụi chuối, từng đống củi. Vẫn không tung tích. Bốn người thả bộ về chuồng bò. Con Xe con Pháo nghểnh cái mặt dài đuỗng lên ngó, miệng ngồm ngoàm nhai, đuôi quất lia lịa lên sườn lên lưng.

- Thằng này coi vậy mà biến hóa như thần, - một đứa nói.

- Nó dám biến làm con ruồi lắm. Hồi hôm dượng Năm tao đọc truyện Tây Du cho bà Nội tao nghe có đoạn ông Tề Thiên biến làm con muỗi, - một đứa trả lời.

- Biến làm con bò chắc ăn hơn. Biến làm con ruồi con muỗi, lỡ con bò nó quất đuôi trúng một cái chết nhăn răng.

Miệng nói mắt dòm, tay cầm cây củi đập vu vơ lên cây róng chuồng bò, lên đống rơm để dành bỏ cho bò ăn.

Chợt đống rơm vùng dậy. Một bóng đen vụt trồi lên. Anh Hoạt. Rơm dính đầy đầu, rơm ghim đầy áo, anh phóng một sải rồi chạy u một mạch vượt vuông sân, vượt luôn đám đất xanh um những vồng khoai lang, nhảy thoát qua bờ rào, biến mất. Những cọng rơm bị phủi bay còn lượn lững lờ trước khi rơi xuống đất. Anh Khóa, một vệ sĩ giật mình đứng khựng.

- May thằng này không có võ. Nếu không thì nó đã cho tao một đá, bể bong bóng để chạy thoát thân.

- Mày dở quá. Chớ cây củi cầm trên tay làm chi? Phang cho nó một đòn.

Đại để đó là những kỷ niệm Hoạt đã gởi lại trong trí nhớ của tôi.

Sau khi học xong hết lớp Tư thì chúng tôi xa cách nhau. Tôi lên trên trường Phủ, trường Tỉnh học tiếp còn Hoạt thì trở về nhà thừa kế công việc của cha anh để sau này tiến lên thay thế.

Sau đó chừng bốn, năm năm, một hôm không nhớ đang nói chuyện gì bỗng một người bạn nhắc đến Hoạt. Giọng nói đang to chợt nhỏ đi, thì thầm như một tâm sự.

- … nó bị phung.

Không ai được chuẩn bị để nghe tin đó nên ai nấy đều có cảm tưởng mình vừa rùng mình. Chừng như người ta có quyền mắc một trăm thứ bệnh khác, điều đó không khiến ai ngạc nhiên, chứ bệnh phung thì không thể tưởng tượng được.

- Cha nó phải dựng một cái chòi ở giữa đám dưa hấu ngoài soi để giấu nó ngoài đó, - lời người bạn kể. Nhưng lâu ngày rồi cũng bị lộ. Có người đâm đơn xuống Huyện. Nhà nước tới bắt chở đi…

Không ai tìm hỏi xem “Nhà nước” là cơ quan nào và anh bị chở đi đâu. Cái tai họa lớn quá, quá tầm lo lắng của sức người nên ai cũng chỉ nghe rồi chép miệng rồi thôi. Y như khi nghe tin một người đã từ trần. Chắc chắn không ai hỏi xem linh hồn người đó đang đi về hướng nào, Thiên đường hay Địa ngục. Sức người dừng lại ở hơi thở hắt ra, bất lực đầu hàng và tiếp sau đó là phần việc của Phật, của Chúa, của Allah. Coi như là chúng tôi đã trao việc vào tay của Thượng đế rồi vậy.

Năm tháng dần trôi, những người bạn của tôi và tôi đều lớn lên, đứa nào cũng được quây quần bởi một gia đình, như cây keo, cây me, cây sầu đông khi đứng tuổi sức vóc vững vàng thì bao giờ cũng có nhiều cây con đứng xúm xít xung quanh. Có những cây con mơn mởn vượt cao ngang tầm ngực của cây mẹ, - mười tám, hai mươi tuổi rồi đó, - có những cây mảnh mai yếu đuối rụt rè chìa được đôi cành, - chín, mười tuổi, - và có những cây mới nhú từ mặt đất, nhỏ nhoi ngơ ngác. Tôi thấy đứa bạn nào cũng trở nên nghiêm trang và nhiều đứa nghiêm trang một cách thái quá đến độ buồn cười. Đứa nào cũng đột nhiên tăng giá trị, thứ giá trị được dán thêm do những đứa con mang lại. Thằng Phong có đứa con đầu lòng làm tới Đại úy công binh. Nó không cần phải tham nhũng mà nhà đầy xi măng, đầy sắt. Đứa con út của nó khi mặc quần đùi thì để lộ cặp chân to và đen, vạm vỡ như cặp chân voi. Thằng Lào có hai người rể, một tên làm Quận trưởng, một tên làm Thiếu úy Trợ y. Vân vân. Được “Dạ” bởi những sĩ quan và cán bộ Hành chánh như thế, được nể nang bởi những bắp thịt hùng hậu như vậy, được đặt lên trên đầu của lũ cháu nội cháu ngoại, các người bạn may mắn của tôi thật có dư lý lẽ để hãnh diện. Những lúc đó tôi nhớ đến Hoạt. Sao bao nhiêu khổ đau lại chỉ dành cho anh? Bao nhiêu nhức nhối vật chất, giá lạnh tâm hồn lại dành tặng cho riêng một anh? Bây giờ anh ở nơi nào? Còn sống hay đã chết? Tôi có ý nghĩ là anh đã chết rồi, quằn quại nhiều ngày trên giường bệnh, cô đơn hơn bất cứ một người hấp hối nào. Sự xót thương và những ý nghĩ đó in sâu vào óc tôi đến nỗi có lần gặp cha mẹ anh mà tôi không hề dám hỏi tin tức anh. Thậm chí gặp bạn bè mà tôi cũng không dám hỏi nữa. Tôi sợ phải nghe một câu trẻ lời, chẳng hạn: “Nó chết hơn hai mươi năm nay rồi mà mày chưa biết!” Lúc đó tôi sẽ thấy mình là tên vô nghĩa bạc tình và tôi đành tìm một lẽ để bào chữa: Có biết được sự thực hay không cũng vô ích. Nó không giúp đỡ cho anh được chút nào. Còn đối với cha mẹ anh thì chỉ khơi một mối buồn. Tốt hơn hết là để cho quên đi.

Vì quả thật vậy, mỗi lần gặp mẹ anh, tôi có cảm tưởng như bà đang âm thầm nghĩ đến đứa con bất hạnh của bà. Trên vai bà thường có một gánh nặng, lúc thì một gánh bông, lúc thì một gánh đường và bà lầm lũi bước, mắt nhìn xuống đất. Tôi không lần nào gặp bà đứng nói chuyện với ai để được nhìn một nụ cười làm tươi ánh mắt. Mà dường như thường trực đó là một khuôn mặt đăm chiêu, cằn cỗi, đối thoại âm thầm với mặt đường sỏi đá, xơ xác cỏ khô.

Anh có một người em gái nước da ngâm đen nhưng có sắc đẹp mặn mà. Hai đường chân mày dài và cong che một đôi mắt đen mở rộng. Cái mũi thẳng và đôi mắt sắc sảo. Vài đứa bạn của tôi mê người em gái anh và tôi không hiểu khi ngồi kề cái khuôn mặt xinh xắn đó, cầm hai bàn tay mảnh mai đó, họ có liên tưởng đến khuôn mặt và bàn tay của anh chăng? Riêng tôi thì sau khi xa cách anh chừng năm, bảy năm tôi quên dần những nét trên khuôn mặt anh để dần dần thay vào đó bằng những nét của cô em. Dường như có một sự tranh giành nào đó, một sự thỏa nhượng nào đó, một sự xê dịch lặng lẽ của hai khuôn mặt nhằm thay thế và phản ứng lại sự thay thế. Có khi hai khuôn mặt hiện ra chập chờn và cuối cùng bao giờ tôi cũng nghiêng về cô em của anh hơn, đôi con mắt đen và hai đường chân mày dài thu hút dần tâm hồn của tôi.

Gần đây do một ngẫu nhiên mà tôi được tiếp xúc với một sư huynh quản đốc một viện bài cùi.

- Bệnh cùi, - lời vị sư huynh, - chúng tôi chữa lành được. Có nhiều bằng chứng cụ thể, có những tấm ảnh chúng tôi còn giữ lại để làm tài liệu, tấm ảnh chụp người bệnh khi nhập viện và khi xuất viện.

Tôi dè dặt trong cuộc đối thoại:

- Người ta nói rằng thuốc Sulfon chỉ giữ cho bệnh không tăng thêm chứ chưa thể…

- Không phải vậy. Tôi lấy mấy trường hợp này coi như là cụ thể nhất: có mấy sĩ quan đang chiến đấu thì bị phát giác là mắc bệnh. Thử máu, đúng là có vi trùng. Cho nhập viện để chúng tôi chữa. Sau sáu tháng hay một năm, hay hai năm, tùy bệnh nặng nhẹ, họ lành mạnh trở lại. Thử máu, thấy hết vi trùng, chúng tôi trả họ lại cho đơn vị và hiện họ đang tiếp tục đánh giặc.

- Chắc phải thử máu rất nhiều lần mới có thể kết luận…

- Tôi hiểu sự hoài nghi của ông. Cố nhiên là khoa học có nhiệm vụ và có khả năng đi tới không ngừng và như vậy nghĩa là ở chặng đường nào chúng ta cũng chỉ biết được sự thật tương đối. Thôi, tôi xin đưa những trường hợp khác, những sự thật nó nhảy thẳng vào mắt mình không cần viện dẫn đến kiểm chứng khoa học. Có một nữ bệnh nhân khi nhập viện thì bệnh đã tàn phá cơ thể, lở lói cả lưng và trạng thái suy nhược đến nỗi chị ta đã xin dọn mình để chết. Chúng tôi nhẫn nại chữa. Kết quả là hôm nay chị đã khỏe mạnh và hiện chị gánh đôi thùng nước chạy vù vù. Hôm nào mời ông qua Viện, tôi xin giới thiệu cho ông gặp:

- Nếu được biết sự công hiệu của thuốc chữa như vậy thì chắc những người mới mắc bệnh không đến nỗi vừa trốn tránh vừa tuyệt vọng như chúng ta vẫn nghe nói.

- Vâng, họ trốn tránh vì họ không biết là chúng tôi chữa lành được bệnh. Có người mắc bệnh cứ nằm trốn trên lầu. Tôi tới tìm gặp khuyên nên đến với chúng tôi để chúng tôi lo chạy chữa săn sóc cho thì tôi bị mắng tơi bời. Bệnh nhân nói rằng chúng tôi vu khống để làm hại uy tín của họ, rằng những vết sần sùi trên mặt trên tay chỉ là kết quả của chứng đau gan mà họ đang chữa. Cố nhiên là chúng tôi phải hết sức nhẫn nại trong việc thuyết phục.

- Trong khi đó thì có những bệnh nhân lén bỏ Viện trốn đi…

- Số đó vẫn có. Ngoài những nguyên nhân tâm lý dị biệt còn có nguyên nhân này dễ giải thích: đó là thuốc Sulfon khi mới uống thì nó hành hạ bệnh nhân dữ lắm. Phải trì chí, phải chịu khó… Nhiều người sau khi chữa lành bệnh không muốn dời viện về nhà. Họ ở lại giúp tay chúng tôi, xây dựng gia đình và họ sinh những đứa con khỏe mạnh xinh xắn.

- Những thành công tốt đẹp trong việc chữa bệnh cùi như vậy, đáng lẽ phải được phổ biến rộng rãi cho nhiều người biết, cho những người lỡ mắc bệnh biết mà tin tưởng, cho những người chưa mắc bệnh biết mà an tâm. Cổ nhân ta bảo rằng “Phong, lao, cổ, lại tứ chứng nan y”. Tuy nói là “nan y” nhưng có thể coi như là “tuyệt vọng”.

- Chúng tôi có một nguyệt san để phổ biến những kinh nghiệm và những thành quả chữa bệnh của Viện chúng tôi. Có một buổi phát thanh ở đài Vô tuyến truyền thanh địa phương.

- Tuy vậy nhưng dường như sự phổ biến không được rộng bao nhiêu. Người ta vẫn còn giữ những ngộ nhận về bệnh cùi, nhất là cái số phận bi thảm dành cho những bệnh nhân vào thời Trung cổ mà các cuốn sử Tây phương đã chép lại. Tôi nhớ hình như các bệnh nhân thời đó phải che trại ở trên núi và mỗi lần cần phải di chuyển thì tự họ phải rung chuông đánh kiểng cho những ai vô tình ở gần đó phải chạy lánh đi. Hãy tưởng tượng bao nhiêu nỗi cô đơn, bao nhiêu khổ đau tinh thần họ phải nếm hàng ngày ngoài những khổ đau vật chất.

- Vì vậy cho nên việc tập trung sống vào một nơi, cạnh những người đồng cảnh ngộ và cạnh những người chạy chữa và giúp đỡ họ, việc đó an ủi tinh thần của họ nhiều lắm. Thỉnh thoảng có những cá nhân đồng bào hay đoàn thể tư nhân tới thăm và giúp đỡ bằng tiền bạc hay phẩm vật. Có những đoàn thanh niên du ca tới trình diễn ca nhạc để cho họ giải trí.

- Tôi tưởng người ta có thể làm hơn…

- Có vậy. Ông Raoul Follerau đã nhiều lần kêu gọi lương tâm nhân loại. Chỉ cần tiết giảm chiến tranh là có dư tiền để biến cải cuộc đời những người cùi trên thế giới, những người mắc các chứng bệnh hiểm nghèo khác, những người nghèo nàn. Ông kêu gọi các nước hãy góp số tiền chiến phí một ngày để cứu bệnh, cứu đói và cứu khổ. Một ngày chiến phí tối thiểu là năm trăm triệu đô la. Để tiền mua một hàng không mẫu hạm, người ta có thể nuôi sống 400.000 người trong một năm. Để tiền sắm một chiếc tàu ngầm, người ta có thể mua 50.000 tấn thịt phát cho người đói. Để tiền trang bị cho một sư đoàn thiết giáp, người ta có thể xây 32.000 căn nhà, mỗi căn có 4 phòng.

- Lời kêu gọi đó đã được hưởng ứng?

- Hiện đã có một triệu rưỡi chữ ký của thanh niên 105 nước ủng hộ, mười ba vị quốc trưởng, 29 chính phủ tán thành. Không sớm thì muộn, nhân loại cũng sẽ có ngày chợt tỉnh.

- Công cuộc của Viện ông phải được quảng đại quần chúng biết và góp phần giúp đỡ. Ai cũng có thể mắc bệnh cùi. Tưởng tượng rằng một ngày kia mình lỡ mắc phải bệnh và những người xung quanh mình sẽ đãi ngộ mình với con mắt nào, cho dù là những người thân yêu nhất của mình! Tôi nghĩ rằng ai cũng mềm lòng trước những đồng bào ít may mắn đang gánh chịu những tai họa thay cho mình.

Vị Tu sĩ cười:

- Ông còn ngây thơ. Cũng có người biết trực tiếp lợi dụng chúng tôi. Những phẩm vật, những máy móc do các cơ quan từ thiện quốc tế viện trợ…

Tôi không đủ can đảm nghe hết câu. Cái điệp khúc đó quen thuộc quá như những hành khúc buổi sáng có “Tiến lên nào! Nào vùng lên! Hăng hái xông pha! Anh em ta cùng tiến lên!” Tôi không muốn câu chuyện lại sang mục tham nhũng. Đã có chính phủ, báo chí và đài phát thanh nói tới nhiều rồi. Tôi đang vui vẻ vì loài người có những Raoul Follereau, những Fromm, Wittmann đã khổ công tìm ra DDS… Tôi đang vui vì có những mùa xuân học sinh bỏ lệ ăn liên hoan để lấy tiền giúp đồng bào bệnh nhân ở viện bài cùi. Tôi nghĩ đến vô số những trường Tiểu học, những trường Trung học trong toàn quốc. Nếu các em đều dẹp bỏ những cuộc ăn uống không cần thiết như vậy! Nếu những người lớn cũng dẹp bỏ những món xài phí vô ích, những cành đào cành mai giá đến mười ngàn đồng, những vé thượng hạng một ngàn năm trăm đồng đi xem Đại nhạc hội có vũ khúc sexy, có trình bày Hoa hậu thời trang.

- Nhân loại rồi sẽ có ngày chợt tỉnh, - vị tu sĩ lẩm nhẩm nói.

Tôi nghĩ đến Hoạt liền ngay lúc đó và những ngày sau đó. Sao anh sinh ra đời chi sớm những ba mươi năm? Có gì đâu để mà vội vàng? Anh đã hưởng được gì ở cuộc đời? Nghe một tiếng chim tu hú vào đầu mùa Hè, ngửi một mùi thơm của hoa mù u trong buổi chiều, nhìn những con chuồn chuồn đảo lộn trên nền trời sau cơn mưa… những niềm vui đó quá nhỏ so với nỗi khổ đè nặng của anh. Giá cứ thong thả, giá cứ đến chậm chậm một chút để kịp cho nhân loại dọn dẹp bớt những khổ não. Giá anh sống lùi lại ba mươi năm, năm mươi năm thì anh sẽ cởi bỏ được dễ dàng niềm đau thân xác, chận đứng và xóa đi những vết tàn phá. Dẫu hết sức lạc quan, tôi cũng không mảy may hy vọng anh sống sót đến ngày hôm nay, cho nên mặc dù tôi có thể nhờ tra cứu sổ bộ xem anh đã sống ở viện bài cùi nào, bệnh chứng của anh tăng giảm như thế nào trong những năm xa xôi của dĩ vãng, tôi cũng thấy tôi nên tự ngăn cản mình đừng quấy rầy những cuốn sổ đã nằm im dưới nhiều lớp bụi. Trong cuộc sống trần gian, giữa những đau đớn vật chất và tinh thần, chắc chắn anh không thể nào nghĩ rằng tôi lại có nhiều hồi ngồi nhớ đến anh. Anh tưởng mọi người đã quên anh rồi, trừ cha mẹ và cô em gái, trừ những người bà con và láng giềng trực tiếp của anh. Anh có ngờ đâu rằng anh vẫn hiện diện đó trong tâm hồn tôi, lúc thì nhường chỗ cho những hình bóng khác, lúc thì độc chiếm trọn vẹn, anh, cái dáng ngây thơ âu sầu của những ngày nhỏ dại chừng như không thay đổi, không hề thay đổi bởi bệnh tật và thời gian.

 
(Trích từ tập truyện ngắn Trầm Mặc Cây Rừng)