Thứ Ba, 4 tháng 11, 2025

CON CÁ MẮC CẠN - Doãn Quốc Sỹ

 
Ngày xưa có một người lính thú:
 
Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hỏa mai,
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền.
Thùng thùng trống đánh ngũ liên,
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.

Đi ngược dòng sông vài ngày rồi lên bộ lẽo đẽo vượt suối, rồi lại xuống thuyền ngược dòng sông, rồi lại lên bộ, cứ như thế ròng rã một tháng trường mới tới nơi đồn trú. Đó là miền biên giới có thác chảy ào ào suốt ngày đêm, có núi chập chùng cao ngất chắn mất đường về. Dọc theo ngọn nguồn con sông chảy xiết là những khu rừng già âm u nhiều rắn độc, nhiều thú dữ.

Đau đớn thay cho người lính thú. Anh phải ở đây ba năm, ba năm dài những lo âu, thương nhớ. Bất trắc có thể xảy đến hàng ngày khiến anh bỏ thây nơi rừng núi hùng vĩ nhưng hiểm độc này. Anh mà ngã xuống chỉ một chiếc lá nhỏ cũng đủ phủ thây anh vì thân anh sẽ rữa nát trước chiếc lá để rồi mất tích vào đám bùn đen ẩm thấp dưới rừng. Đêm đến anh ngủ, những hình ảnh khủng khiếp đó ùa đến cùng tiếng thác nước để uy hiếp linh hồn anh. Ba năm... ba năm dài...

Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thì canh điếm, tôi dồn việc quan.
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn.
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc măng mai,
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng?
Nước trong xanh con cá vẫy vùng...

Phải, một hôm kia anh vào rừng chém tre đẵn gỗ, anh lạc đến khoảng tròn rộng và sâu những đá là đá, lớn có từng tảng, nhỏ thành từng hòn, nhỏ nữa là cát sỏi. Nước ở đây thật là trong và có một con cá. Thoáng thấy anh, con cá vùng quẫy như muốn tìm nơi ẩn trốn. Người lính thú nào có biết điều đó, anh ao ước được tự do như con cá kia và buột lời ngâm:

"Nước trong xanh con cá vẫy vùng..."

Kỳ lạ thay, con cá đó biết nói. Nó hỏi anh:

- Anh cho là tôi sung sướng lắm sao?

Người lính thú đáp:

- Sung sướng lắm chứ! Cảnh thì tĩnh, nước thì trong, một mình anh thảnh thơi, vùng vẫy.

Con cá làm như cất tiếng cười mai mỉa rồi giải thích:

- Đây trước là con suối. Một hôm mưa nguồn lớn, đá trên núi xô lăn xuống ngổn ngang, con suối đổi dòng, để lại một khúc chết ở đây. Thoạt tiên nước đục, tôi còn khuây khỏa đôi chút vì mình có thể bơi lội tung tăng mà vẫn no mồi, chẳng phải để ý đến ai, và cũng chẳng ai biết có mình mà để ý. Tai hại thay nước lắng dần... Qua đi một tuần trăng, nước trong suốt như gương, tôi thấy mình trơ trẽn quá. Anh ơi, rủi bị tù trong một vũng nước đã là một điều đáng buồn, lại bị tù lộ liễu trong một vũng nước trong suốt như gương này thật là vừa buồn vừa nhục.

- Nước trong vắt không có mồi, anh có đói không?

- Tôi có thể ăn rêu bám ở những hòn đá quanh đây.

Người lính thú lấy cơm nắm giơ lên và nói:

- Tôi bửa cơm ra rồi ném xuống một ít cho anh nhé.

Giọng cá bình thản một cách buồn rầu:

- Cám ơn anh. Giá nước đục anh làm như vậy thì hay, nhưng nước trong như thế này anh ném xuống để thấy tôi bơi lên đớp lấy, chao ôi còn cảnh nào tủi hổ cho bằng!

Người lính thú ngẫm nghĩ, sực nhớ điều gì, anh nói:

- Thế tôi mang anh sang dòng sông gần đây vậy nhé!

Cá đáp:

- Cám ơn anh, nhưng cảnh tôi phải lên nằm trên lòng bàn tay anh để rồi anh mang ra sông thả xuống còn đáng sỉ nhục gấp ngàn gấp vạn lần cảnh bị tù thế này. Tôi tuy bị tù ở đây nhưng vẫn nghe thao thức tiếng sông qua mạch đất. Sẽ có ngày mưa nguồn làm tràn bờ giếng này, làm rềnh khúc sông kia, lúc đó tôi sẽ nương theo triền nước mà tìm ra sông. Như thế mới đẹp! Như thế mới đẹp!

Có tiếng mõ thu quân. Người lính thú chào cá, bịn rịn ra về. Từ đấy mỗi khi chém tre, đẵn gỗ, hoặc đi kiếm măng trúc, măng mai qua đấy anh cũng giữ ý chẳng muốn đến bên bờ suối chết để khỏi gây xao động cho con cá bị tù. Thảng hoặc gặp cơn mưa nguồn khá lớn, anh chạy vội tới đó ném vội xuống khối nước đục ngầu một ít cơm rời, rồi ra về trong lòng không vui, vì anh vẫn thắc mắc chẳng hiểu cá có còn ở dưới đó để nhận những hột cơm của người tri kỷ, hay đã trườn mình tìm ra sông rồi.
 
 
 DOÃN QUỐC SỸ  
  

Thứ Bảy, 1 tháng 11, 2025

MỘT THỜI KHÔNG QUÊN - Huỳnh Bá Hữu Minh


Năm đó tôi được 8 tuổi. Số tuổi quá nhỏ để hiểu biết mọi chuyện. Gia đình tôi sống ở miền Trung. Bố tôi, một quân nhân hồi hưu. Những hình ảnh nơi quê hương, chỉ còn trong ký ức tôi thật mờ nhạt.
 
Gia đình tôi thuở đó nghèo lắm, điều này chỉ lớn lên tôi mới biết. Trong thời gian còn tại ngũ, bố tôi để dành được một số tiền kha khá. Nên sau khi ra khỏi lính, số tiền đó bố tôi hùn với một người bạn, mua lại một chiếc xe đò cũ để chở khách. Lộ trình ĐN - HA - TK. Đời sống gia đình tôi nhờ đó cũng chưa đến nỗi nào. Mẹ tôi buôn bán phụ thêm ngoài chợ. Còn bảy anh em chúng tôi (ông anh cả mới 11 tuổi) dĩ nhiên, không giúp đỡ được gì cả.
 
Đời sống tưởng sẽ êm đềm như thế mãi. Nào ngờ, trong một chuyến đi như thường lệ, chiếc xe gặp tai nạn, bị lật. Hầu hết hành khách trên xe đều bị thương. Bố tôi, tưởng rằng đã chết. May sao, chỉ bị thương nặng.
 
Cả gia đình chỉ sống nhờ vào việc chạy xe của bố. Sau tai nạn, gia đình chúng tôi kiệt quệ luôn. Thuở đó, anh em tôi chỉ biết rằng bố gặp nạn. Chứ làm sao biết được vấn đề tài chánh trong nhà, với những đầu óc quá bé như thế. Gia đình chín người, thêm bà nội nữa là mười. Mười miệng ăn, chỉ trông cậy vào số tiền nhỏ nhoi của bố tôi. Và ít tiền kiếm được ở chợ của mẹ. Dẫu cố gắng hết sức, cũng không thể nào tránh được lo âu.
 
Nhưng bố mẹ vẫn không bao giờ cho chúng tôi biết tình trạng gia đình. Ông bà không muốn tuổi thơ chúng tôi bị ám ảnh vì những hình ảnh không đẹp. Cho nên, chúng tôi vẫn cứ thản nhiên vui sống. 
 
Sau khi đã lành hẳn các vết thương, bố tôi mới chạy tiền tậu được một chiếc xe đạp ngang, cũ. Sáng sớm, bố tôi chở mẹ cùng với hai gánh đồ ra chợ, bán. Nội tôi, đã già, cũng chạnh lòng cho tình cảnh dâu con. Nên mỗi sáng, bà cũng phụ giúp bằng một hàng trầu cau, bán nơi chợ. Chắt chiu từng đồng, dè xẻn từng cắc, vẫn không đủ chi tiêu cho gia đình. Trời không đoái hoài, mẹ tôi buôn bán lỗ lã, cạn vốn. Bố tôi lúc đó thất nghiệp. Ông cậu tôi, giúp bố mẹ tôi một ít để làm ăn, nhưng vẫn không lấp được vào chỗ thiếu hụt. Tình trạng kiệt quệ.
 
Bố mẹ tôi cố che giấu nỗi khổ. Anh em tôi, nhất là anh tôi vẫn cảm nhận được có một cái gì là lạ trong nhà. Những buổi tối, sau khi chở mẹ tôi về, bố tôi nhìn đàn con nheo nhóc mà âm thầm đau khổ. Tình thương của người bố không bộc trực như người mẹ. Âm thầm, kín đáo và tế nhị.
 
Để những đứa trẻ khỏi buồn, sau bữa cơm tối, bố tôi chở mẹ ở phía sau, và một đứa ngồi lên thanh ngang ở phía trước. Chở đi vài vòng - Bảy đứa cứ thay phiên nhau mỗi lần đi. Lần đầu tiên được nhìn thấy phố ban đêm, với ánh sáng, với xe cộ dập dìu, thằng bé tám tuổi tôi sung sướng lắm. Nhưng sợ hãi những chiếc xe chạy ngược chiều vô cùng. Những đêm đi dạo đó, thằng bé về ôm mộng đẹp vào giấc ngủ ngây thơ, vô tội. Đâu biết bố mẹ mình đang trằn trọc, đau khổ.
 
Tôi có một ông chú ở Sàigòn. Tôi chẳng biết Sàigòn ở đâu và ông chú tôi giàu sang cỡ nào. Nhưng mỗi khi (tôi nhớ lắm điều này) được tin chú tôi ở Saigon về, tôi thấy bố mẹ tôi và vài người bà con lo cuống lên. Lăng xăng, xếp đặt, lo lắng để "đón rước" chú tôi. Điều này làm tôi cũng sợ lây. Sợ nhưng mừng. Vì dẫu sao có một ông chú giàu như vậy, thế nào cũng cho tiền mình. Tôi nghĩ thế.
 
Sau này lớn lên, bố tôi mới kể cho chúng tôi nghe chi tiết, để ngậm ngùi thương cho bố mẹ.
 
Lần đó, chú Tư về - tôi nhớ rõ - đó là một người đàn ông đẹp trai. Bộ com-lê chú mặc làm cho hàng xóm phải khúm núm chào ông. Và ông đi máy bay nữa. Đó là điều xa vời đối với đám dân nghèo xung quanh. Chú tôi đi về cùng với bà vợ, mà tôi phải gọi bằng thím. 
 
Bố mẹ tôi lo lắm, chú về, dầu muốn dầu không, bố tôi cũng phải có một bữa ăn nho nhỏ gọi là. Khốn nạn cho bố, nhà bữa đó hết gạo. Tiền cũng chẳng còn. Làm sao bây giờ.
 
Trước khi đến nhà tôi, vợ chồng chú mua theo nửa bao gạo. Thấy mang vô nhà mình, bố tôi hồi hộp, nghĩ rằng dầu sao cũng anh em. Chắc chú thấy tình cảnh gia đình như vậy, nên chú mua cho. Bố tôi mới bàn với mẹ, qua bên hàng xóm mượn ít gạo, đãi chú bữa ăn.
 
Bố tôi định khi chú cho nửa bao gạo đó, mình sẽ trả lại gạo mượn, lo chi. Mẹ tôi thật thà tin thế và lùi cửa sau đi mượn gạo. 
 
Khi trách nhiệm đè nặng hai vai mà mình không gánh nổi, bố tôi có quyền nghĩ đến những điều, mà bình thường bố không bao giờ quan tâm đến.
 
Hai vợ chồng chú tôi ở chơi đến chiều thì phải đi thăm bà con ở bên vợ. Lúc chú tôi đi, bố tôi hồi hộp chờ chú tôi "bàn giao" cho nửa bao gạo, nhưng vẫn không thấy chú nói gì cả. Cuối cùng chú tôi đem gạo đi luôn. Bố mẹ tôi đứng nhìn nhau chết lặng, xấu hổ. Nửa bao gạo đó, thật ra của bà thím mua. Không phải để cho bố tôi, mà là cho người bà con bên họ của thím.
 
Bố tôi kết luận : bố không giận chú tụi bây. Vì bố biết, chú sẽ không giúp đỡ gì được bố khi có thím kề bên.
 
Những ngày chú ở Đà Nẵng, tôi thấy thỉnh thoảng chú có ghé nhà bàn bạc với bố tôi điều gì - mà tôi chẳng biết... Chỉ thấy bố mẹ tôi thầm thì, bàn tán ghê lắm. Và lo buồn ra mặt.
 
Đến ngày chú tôi trở vô Sàigòn, anh em tôi mới rõ chuyện. Số là, chú thím tôi tuy đã lấy nhau lâu rồi nhưng không có được mụn con nào. Chú tôi thấy bố khó nhọc mới nuôi nổi 10 miệng ăn. Nên chú đề nghị để chú đem theo một đứa vô Sàigòn nuôi dùm và cho ăn học. Chú chọn đứa em gái tôi - con Hoa - lúc đó mới bốn tuổi. Đẻ con ra, đau xót từng đoạn ruột. Xa con, thử hỏi bố mẹ nào không đau lòng. Bố mẹ tôi khổ sở, đau đớn lắm.
 
Sau khi bàn tính với nhau, bố mẹ tôi đành để chú tôi mang Hoa theo. Dẫu sao thì Hoa cũng được ăn uống đầy đủ, và khỏi phải thất học sau này. Đó là điều bố tôi sợ nhất.
 
Về sau, bố biết mình đã lầm. Thì quá muộn.
 
Sàigòn xa xôi vạn dặm, làm sao bố mẹ tôi đủ tiền đi thăm con khi nhớ thương quay quắt. Bố mẹ tôi đành nhìn chú thím mang Hoa đi, mà đau đớn tủi hổ chảy nước mắt.
 
Nhưng tôi thì khác. Tôi còn quá bé để có tâm trạng như bố mình. Nghe nói em mình được vô Sàigòn, sống với bố mẹ nuôi giàu có, được đi xe hơi, tôi sung sướng lắm. Và tiếc rằng chú thím đã không chọn mình.
 
Mọi đau thương rồi cũng cố quên đi. Bố mẹ tôi còn có trách nhiệm với đám con còn lại. Việc buôn bán càng ngày càng thất bại thêm mãi, ngóc đầu lên không nổi. Đau khổ và thương nhớ đứa con gái bé bỏng, nhiều khi làm bố tôi quẫn trí.
 
Điều mỉa mai cho bố mẹ tôi là bà thím nghĩ rằng "nuôi dùm" bố tôi một đứa là đã giúp đỡ bố tôi. Nên bà "không trả" một cắc. Bố tôi dẫu chết đói tới nơi nhưng chút tự trọng còn trong người, nên cũng chẳng xin giúp đỡ một đồng nào. Chú tôi có thương bố, cũng không thể nào giúp đỡ được. Chỉ an ủi ít câu rồi thôi.
 
Ít lâu sau, chú gởi thơ về cho bố tôi, kèm theo bức hình con Hoa. Nhìn hình đứa bé mặc áo đầm, mang giầy, tóc cột hai bím thật dễ thương, mẹ tôi khóc ròng. Dầu đứa bé có xa lạ cái bề ngoài, nhưng gương mặt đó làm sao mẹ tôi quên được. Bà đưa tay sờ má nó "trong hình" mà tưởng như đang âu yếm, vuốt ve một hình hài thật sự. Bố tôi đứng lặng nhìn thương nhớ.
 
Còn tôi, nhìn đứa em mình đẹp đẽ như thế, tôi ao ước được nhìn thấy Sàigòn hơn bao giờ hết. 
 
Bố tôi viết thơ trả lời chú. Ít lâu sau chú tôi lại gởi thơ về. Lần này, bức thơ mang một ý nghĩa mới cho bố tôi. Chú tôi đề nghị bố nên dọn vô Sàigòn làm ăn. Dẫu sao cũng còn hơn là ngồi nhìn nhau chết đói. Nhìn sự thành công của chú, bố tôi cũng tin Sàigòn lắm. Bố bàn với mẹ. Vấn đề được đặt ra là làm sao có tiền để trang trải cho một chuyến dọn nhà xa.
 
Chú tôi cứ gởi thơ hối thúc. Chú hứa rằng, nếu vô chú sẽ giúp đỡ cho bước đầu làm ăn. Nhưng điều cần thiết nhất đối với bố mẹ tôi, là có tiền. Phải có tiền mới được. Mà chú thì chẳng gởi về giúp đỡ đồng nào. Vấn đề cứ dằng dai như thế cả năm chưa giải quyết được. Bố mẹ tôi thì lại mắc nợ tùm lum. Viễn ảnh thật đen tối.
 
Trong giờ phút nguy ngập nhất, Trời Phật đã giúp bố mẹ. Bố tôi thường nói thế.
 
Một hôm bố tôi nhận được giấy lãnh tiền hồi hưu. Bố mẹ tôi mừng lắm. Số tiền nhỏ nhoi, nhưng đối với gia đình tôi là cả một gia tài. Vấn đề đã được giải quyết. Một phần cũng vì thương nhớ bé gái. Bố mẹ tôi thu xếp ra đi lập nghiệp.
 
Trước khi đi, bố tôi sòng phẳng thanh toán nợ nần hết. Đồng thời báo tin cho chú tôi hay. Ông anh cả tôi vì học trường công, nên ở lại với nội, để học cho hết bậc tiểu học. Như vậy cuộc ra đi chỉ có bảy người: bố mẹ, chị tôi, tôi và ba đứa em nhỏ. Riêng tôi, tôi sung sướng vô cùng khi biết mình sắp sửa đi Sàigòn. Điều mong ước đã trở thành sự thật. Tôi chạy đi tìm hai thằng bạn nhỏ của tôi để báo tin. Thằng Giới nghe tôi nói, đâm ra mơ ước. Như nỗi mơ ước của tôi cả năm nay. Còn thằng Ngự, xum xoe nhìn tôi thèm muốn. Nó nói tôi "viết thơ" về cho nó. Tôi sung sướng, vui vẻ hứa hẹn đủ điều.
 
Và cái tuổi bé nhỏ đó làm sao tôi cảm nhận được chia xa là một điều buồn. Và tôi ra đi, ra đi để rồi chẳng bao giờ còn gặp lại 2 người bạn nhỏ nữa. Dẫu có gặp, chắc gì còn nhớ được mặt nhau.
 
Chúng tôi đi chuyến xe lửa sớm nhất trong ngày. Nội, anh Thanh và một vài người đưa chúng tôi ra tới ga. Anh Thanh tôi khóc ròng. Bởi vì anh học giỏi, lại học trường công, nên bố tôi không muốn anh phải dở dang sự học.
 
Chúng tôi lên toa hạng ba. Lúc tàu chuyển bánh tôi thấy mẹ tôi đưa khăn lên lau nước mắt. Bố tôi buồn rười rượi. Nhìn xuống dưới đường, thấy nội và anh Thanh khóc, dù đang nôn nao Sàigòn tôi cũng thấy buồn theo với sự chia tay này. Và tôi khóc. Tàu chuyển bánh. Bóng nội và anh Thanh nhỏ dần, nhỏ dần rồi khuất hẳn.
 
Trời hãy còn tối. Ánh đèn vàng trong toa thật ấm và cũng thật buồn. Vì là toa hạng ba, nên hành khách cũng là những người nghèo khó. Một vài người đã dỗ lại giấc ngủ. Anh em tôi, sau khi khóc lóc mệt mỏi cũng đã ngủ lại. Trời sáng, chúng tôi thức dậy, vẫn tưởng mình đang ở nhà. Nhưng khi thấy nhiều người lạ chung quanh, tiếng máy kêu xình xịch và cảnh vật hai bên đang lùi dần. Tôi mới chợt nhớ đến chuyến đi của mình.
 
Mẹ tôi trao cho tôi một gói xôi nhỏ ăn lót bụng. Tôi vừa ăn vừa say mê ngắm cảnh vật, quên buồn. 
 
Mắt tôi mở lớn. Óc tôi vạch to ra, như cố thu hết những hình ảnh đẹp đẽ ngày nào. Những hàng cây xanh (mà tôi chả biết cây gì), những cột điện chạy lùi dần. Lâu lâu có một hai ngôi nhà mọc buồn bã giữa khoảng đất trống. Thằng bé tám tuổi say mê ngắm nhìn,
 
Một chuyến đi lập nghiệp xa xôi với số tiền nhỏ nhoi như vậy, bố mẹ tôi phải tiết kiệm tối đa để đề phòng mọi chuyện. Bảy người nhưng bố tôi chỉ mua có hai vé rưỡi. Hai cho bố mẹ, nửa vé kia cho chị tôi. Hai đứa em bé quá, được bố mẹ tôi ẵm vào lòng. Chỉ còn tôi và thằng em kế, thằng Hữu. Nếu bố tôi cũng mua vé, hai đứa tôi phải mất hết một vé. Số tiền không lớn, nhưng đủ nuôi sống anh em tôi được một bữa.
 
Cho nên mỗi khi người soát vé đến, bố tôi nhét tôi và thằng Hữu xuống gầm ghế, lấy hành lý che ngoài để người soát vé không thấy.
 
Cứ thế cho đến hết lộ trình. Người soát vé đến, hai anh em tôi chui xuống. Khi ông ta đi, anh em tôi chui ra. Thấy hoàn cảnh gia đình tôi như thế, hành khách cùng toa thương hại. Thỉnh thoảng có người cho anh em tôi nắm xôi hay cái bánh.
 
Tàu chạy được hai ngày thì đến Saigon. Sau khi qua bao nhiêu làng mạc, rừng núi và chui vào mấy cái hầm tối đen như mực.
 
Điều mà tôi mong mỏi cả năm, bây giờ đã thành sự thật. Tàu vào thành phố. Tôi ngồi chồm hẳn ra ngoài khung cửa để ngắm nhìn. Ngang qua bùng binh Saigon tôi trố mắt nhìn mọi vật. Chao ơi, xe đâu mà nhiều quá. Thành phố đẹp vô cùng. Lại còn những chiếc xe ba bánh, hình thù kỳ quái, đủ màu. Lại còn tiếng máy kêu xình xịch của nó nữa mới lạ làm sao. Tôi hỏi bố, mới biết đó là những chiếc xích lô máy. Những chiếc tắc-xi, những chiếc xe buýt vàng, xanh. Tất cả chói lòa trước mắt tôi. Lần đầu tiên trông thấy, thằng bé say mê ngắm nhìn cho đến khi tàu chạy vào ga.
 
Đã được báo trước, nên chú tôi đem xe đến đón. Chỉ có mình chú, không có bà thím. Trên đường về nhà chú, chúng tôi lại được dịp ngắm nhìn thành phố "vĩ đại" này. Thành phố mà thằng bé tôi đã mong mỏi được đến ngay từ khi vừa nghe nhắc tới.
 
Nhà chú tôi là một xưởng làm ống cống lớn ở đường T.M.G. Điều mong mỏi nhất của chúng tôi là được gặp lại con Hoa. Bố mẹ tôi nôn nóng vô cùng. Tôi nghĩ, chắc bây giờ con nhỏ "ngộ" lắm.
 
Thật ngỡ ngàng và buồn tủi cho bố mẹ tôi. Chẳng biết chú thím tôi đào tạo, dạy dỗ con bé như thế nào mà khi gặp lại bố mẹ ruột của nó, nó chỉ khoanh tay đứng chào, mà không dám chạy lại sà vào lòng mẹ tôi như lúc còn sống chung trong gia đình. Mắt nó lấm lét nhìn bà thím (mẹ nuôi nó) một cách sợ hãi. Bố mẹ tôi cũng nể vợ chồng chú thím, nên không dám vồn vã với con.
 
Còn tôi, tâm hồn còn bé bỏng ngây thơ, nhìn con bé em mình có vẻ Saigon quá tôi xum xoe, hỏi han đa điều. Và tôi khám phá được một điều hết sức lý thú. Giọng nói của con bé rất Saigon, không còn "nhà quê", răng rứa mô tê như tôi nữa. Tôi ngắm nhìn quần áo, giày dép em mình một cách thèm muốn.
 
Gia đình tôi được chú thím cho ở trên một căn gác dành cho thợ. Bố tôi cám ơn và dọn hết đồ đạc lên căn gác ẩm thấp đó. Những ngày đầu trôi qua thật lặng yên. Không biết chú thím nói chuyện, bàn tán gì. Tôi thấy thím không được vui. Rồi những ngày sau đó, mỗi sáng tôi thấy mẹ tôi phải đi mua cho anh em tôi mỗi đứa một nắm xôi nhỏ, không còn ăn sáng chung với chú thím như ngày đầu. Bố tôi bắt đầu sử dụng chiếc xe đạp ngang đem theo của mình, để kiếm nhà, mướn ở.
 
Hình như thím tôi sợ tốn kém khi phải chứa chấp gia đình tôi.
 
Còn còn bé Hoa, tình mẫu tử có một mãnh lực thu hút con bé, làm nó quên hết sợ, nó bám riết theo mẹ tôi. Dĩ nhiên có mặt bố mẹ tôi đó, thím tôi không thể nào "dạy" con bé theo ý mình được.
 
Gần một tháng tạm trú ở nhà chú thím. Có hai việc mà tôi nhớ suốt đời. Một do chính bản thân tôi nhận lãnh. Và một do bố tôi kể lại sau này.
 
Hôm đó thím tôi bận việc gì, tôi không biết, giao chùm chìa khóa cho tôi giữ. Trong thời gian giữ chìa khóa, tôi đau bụng và phải đi vào nhà cầu và tôi đã sơ ý để chùm chìa khóa rớt xuống lỗ cầu, đầy nghẹt phân. Tôi quýnh quá, chẳng biết làm sao, chạy tìm mẹ tôi để nói cho bà biết. Chỉ là chùm chìa khóa, nhưng gương mặt hốt hoảng, sợ hãi của mẹ tôi - Suốt đời tôi còn nhớ - làm tôi biết chuyện sẽ không dễ dàng như mình nghĩ. Tôi chạy vụt ra nhà cầu kiếm cái cây thọc xuống để khèo xâu chìa khóa lên. Nhưng nó ở sâu dưới, tôi khèo mãi không được. Nghĩ đến gương mặt của mẹ tôi, nghĩ đến bà thím, tôi cố quên hết dơ dáy, nhờm gớm, thọc tay xuống lỗ cầu, moi móc dưới đám phân để tìm cho ra xâu chìa khóa.
 
Tôi chạy đi gặp mẹ tôi, đưa xâu chìa khóa cho người. Bà dặn tôi đừng để chuyện này lọt đến tai thím tôi.
 
Chuyện đó làm cho đầu óc tôi lớn hẳn ra. Thằng bé chín, mười tuổi, lúc bấy giờ mới nhớ đến phận ở nhờ của gia đình mình. Tâm hồn ngây thơ của nó bắt đầu nhen nhúm một chút thù hận, ác cảm với bà thím. Điều này làm thằng bé biết bố mẹ mình đã phải chịu nhiều cay đắng vô cùng.
 
Khi anh em chúng tôi lớn lên, trong những buổi nói chuyện gia đình. Tôi hỏi bố, hồi đó làm sao bố có được một ngôi nhà và làm nên sự nghiệp (dầu sự nghiệp chẳng là bao). Sau khi suy nghĩ để nhớ lại, bố tôi mới nói:
 
- Chú Tư tụi bây tuy chết rồi, nhưng bố vẫn nhớ ơn chú. Nhờ có chú bố mới được như ngày nay.
 
Tôi ngạc nhiên:
 
- Nếu con không lầm thì chú Tư nào có giúp bố được đồng nào để lập nghiệp đâu? 
 
Bố tôi gật gù:
 
- Đúng, chú Tư tuy chẳng giúp được đồng nào không phải chú xấu, nhưng còn thím Tư đó, chú chẳng làm gì được hơn. Bù lại, chính nhờ câu nói của chú, đã làm cho bố dựng được chút sự nghiệp này.
 
Bố ngừng nói, uống hớp nước trà, rồi chậm rãi kể tiếp:
 
- Hồi đó ở tạm nhà chú thím, bố thấy thím có vẻ không bằng lòng nên bố mới chạy kiếm cái nhà nào mướn ở đỡ. Nhưng với số tiền nhỏ nhoi, bố không thể nào làm được việc gì. Còn làm việc, bố mới chân ướt chân ráo đặt chân đến Saigon, đường xá còn chưa thuộc, bố làm được việc gì bây giờ. Chú con thì không muốn bố làm cho chú. Chú nói, dầu sao bố cũng vai anh. Vì trước khi đi, chú con có hứa giúp đỡ, nên bố tin và ỷ lại. Có lần bố mở miệng nhờ chú giúp đỡ, chú con mới nói với bố rằng: Anh đừng trông cậy nơi tôi, anh phải tự gầy dựng lấy sự nghiệp cho anh và cho mấy đứa nhỏ. Chính vì câu nói đó mà bố tự ái, bố vật lộn với đời sống. Dầu chẳng rành đường xá, dầu khổ cực nhưng cuối cùng bố đã thành công. 
 
Nghe bố kể, tôi thương bố vô ngần. Tôi biết bố đã phải gian nan ghê gớm để nuôi sống gia đình.
 
Sau lần chú tôi nói thế, bố tôi suy nghĩ, điều cần thiết là phải có được căn nhà riêng để ở. Bố tôi xông xáo đi tìm nhà. Có một người đồng hương bằng lòng để lại cho bố tôi ngôi nhà ở ngã ba Ông Tạ, với giá rẻ. Hồi đó ngã ba Ông Tạ là một bãi đất gần như hoang vu, với nhiều nghĩa địa, chỉ một số nhà ít ỏi. và trộm cướp, du đãng đầy đường.
 
Bố tôi kiểm điểm lại tiền. Chỉ có được bằng phân nửa giá tiền ngôi nhà. Mượn chú thì bố tự ái. Nên bố tôi mới gặp một người bà con vai chú của bố (mà tôi gọi bằng ông) để mượn. Sau khi để bố tôi năn nỉ hết nước miếng, người bà con này mới cho bố tôi mượn ít tiền. Nhưng với điều kiện: Bắt bố tôi phải làm giấy nợ, có lời. Và sau một năm, nếu bố tôi không trả được, ông ta sẽ siết nhà.
 
Bố tôi cay đắng nhìn người bà con, đành chấp thuận, cám ơn rồi mang tiền ra về. Bố tôi nghĩ, dầu sao ở nhà mình, cho dù ăn uống thiếu thốn, vẫn thấy thoải mái và sung sướng hơn là ở nhà người ta để chịu nhiều nhục nhã. Điều mà bố tôi sợ nhất là tâm hồn của các đứa bé con bố phải hoen ố, mặc cảm.
 
Dẫu bố cố tránh, cũng muộn mất rồi. Tuổi thơ của thằng con bố đã sớm biết hận người. Nó không còn nhìn Saigon bằng hình ảnh đẹp đẽ nữa, sự nghèo khổ của bố mẹ làm nó lớn hẳn ra. Nó mong cho chóng lớn, để kiếm được thật nhiều tiền, và ném vào mặt những người bà con quá tốt của nó. (Sau này lớn lên và mãi mãi, thằng bé thuở đó đã không thực hiện được giấc mộng con nít đó).
 
Sau khi đã định cư, bố sạch tiền. Chú tôi biết chuyện, nên lén bà vợ giúp bố một ít vật liệu để buôn bán. Một mình, một xe đạp, bố tôi rong chạy suốt từ Saigon, Gia Định vào Chợ lớn rồi ngược lên Gò vấp để kiếm hàng, tìm mối buôn bán.
 
Trời Phật không phụ lòng trông cậy của bố mẹ tôi. Do sự chịu khó của bố mẹ và của chúng tôi, cuối năm bố mẹ tôi gom góp được đủ số tiền để trả nợ cho ông tôi, cộng thêm tiền lời. Gia đình lại trở nên thiếu hụt. Ngược lại bố mẹ tôi không còn lo sợ mất chỗ ở nữa. Cuộc sống lại bắt đầu bằng con số không.
 
Riêng tôi, tuổi nhỏ nào mà chẳng ham có bạn. Tôi làm quen được vài đứa bé cùng trang lứa. Nhưng chúng nó hay đem giọng nói miền Trung đặc sệt của tôi ra làm để tài chế riễu, tôi xấu hổ và mặc cảm nên "chẳng dám" giao thiệp với chúng, không có gì buồn hơn cho một đứa bé không có bạn.
 
Đừng ai ngạc nhiên khi thấy một đứa bé V.N "lỏi đời" hơn bất cứ một đứa bé thuộc dân tộc khác. Chúng nó sớm biết đau buồn, dĩ nhiên nó phải sớm khôn lớn. Chúng không tìm thấy trong tuổi nhỏ của chúng những thiên đường thật sự, chúng phải tạo ra một thiên đường khác, một thiên đường trong tưởng tượng. Rồi ngụp lặn, đắm chìm, say mê với thiên đường do mình tạo ra đó.
 
Mỗi người, ai cũng có một thời để nhớ. Tùy theo hoàn cảnh. Với tôi, tuổi nhỏ của tôi là cả một thời, mà có lẽ suốt đời tôi không bao giờ quên được.
 
 
HUỲNH BÁ HỮU MINH      
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 146, phát hành ngày 20-10-1974)
 

Thứ Tư, 29 tháng 10, 2025

MỘT TUẦN VẮNG MẸ - Trần Thu Hương Cúc


Mẹ tôi đi Nha Trang tới một tuần mới về, chị em tôi ở nhà với bà O. Bà O ăn trầu tèm hem, mắt hấp háy lem nhem... thằng cu Thông vè như vậy đó mờ sự thật thì O ăn trầu ghê quá. O ăn đến nỗi khi nấu cơm làm thức ăn cho chị em tôi, tôi cứ tưởng O lấy đường cục, đường phèn, đường chảo ra quậy lên rồi thêm xì dầu, mắm muối, bột ngọt, tiêu, hành, ớt vào cho vừa! Ôi cha là ngọt. Sườn rang toàn mỡ không bị cháy đen thui, ngọt ngây. Trứng chiên có thêm tí đường vào cho nó ngon, xời ơi. O nói vậy đó. Canh cải nấu với tôm giã nhỏ ngọt như chè, cũng bỏ đường! Tôi ngồi chống đũa nhìn mâm cơm ngao ngán. Tụi nhỏ khoái quá cứ gắp, lùa, húp xì xụp, khen luôn miệng. Có bao giờ mẹ tôi nấu ăn như vậy đâu, lâu lâu lạ miệng mờ, tụi hắn ăn như ăn cướp. Tôi bưng chén cơm lò dò ra sau bếp lục tủ lạnh kiếm thịt nguội ăn đỡ vậy. May quá, còn vài khoanh xúc xích, vài miếng ba tê, tôi mang cả ra phòng khách vừa ăn vừa xem ti vi.
 
- Con Hương đấy hở? Mày ăn thịt xem có mặn không đưa đây tao bỏ vào cho miếng đường!
 
- Ý a - tôi bật dậy như chạm phải điện hai tay che kín bát cơm - thôi thôi vừa rồi ạ, con mới vừa bỏ xong đây. (xạo).
 
Thứ ba
 
Nhỏ Xuân tới chơi bảo mẹ mày đi rồi ở nhà được tự do hỉ! Cũng hổng tự do gì, tao còn bà O nữa chi. Ừ nhỉ. Khiếp, O cứ giương mắt lừ lừ nhìn con Xuân khiến nhỏ teo quá phải về gấp. O nói: Mày phải chọn bạn mà chơi nghe con, tao thấy mặt con đó gian xảo lắm à. Coi chừng nó dọn hết nhà đi mà không ai hay. Trời, trời. O nói gì lạ lùng quá vậy O, bạn thân con mờ, mẹ con với mẹ nó có quen biết nhau nữa mờ. O nói vậy mẹ nó nghe được buồn mẹ con à. Ối, mẹ con mày bày đặt, bày điều...
 
Thứ tư
 
Được điện thoại của mẹ, cả bọn xúm quanh chờ được nói chuyện với mẹ.
 
- Allo, Hương đấy hả con, đang làm gì đấy?
 
- Ư, con sửa soạn đi học đây. O hổng cho tiền con đi học đâu...
 
Cu Thức chen vô:
 
- Xê ra, em nói chuyện mí mẹ. Allo, mẹ ơi. Thức đây, con nhớ mẹ quá. O hổng có tắm cho con như mẹ vậy đâu, O đứng xỉa cục thuốc chạy qua, chạy lại...
 
Tức thì một lần nữa ống điện thoại được cướp xuống trên tay cu Thức.
 
- Mẹ ơi con đây, Thông nè. Allo... mẹ... vâng, con ở nhà vẫn ngoan đấy chứ mẹ. Tối con coi ti vi tới 9 giờ thôi. Allo... mẹ không thương con, mẹ chỉ hỏi Hồng Hoàng thôi. Mẹ nè, tháng này con đứng thứ 3 đó, con giỏi hông mẹ... Mẹ thưởng con gì đi, mẹ nói con giỏi đó... Nhớ có quà riêng cho con nhe. À Hồng Hoàng còn ngủ mẹ, để con đi gọi nó... Khỏi hả mẹ... Chị Hương, mẹ muốn nói chuyện mí chị nè.
 
Tôi cầm ống lên nghe.
 
- Allo, Hương ở nhà có giúp gì O không con?
 
- O hông cho con làm gì hết mẹ ạ. O nói tay chân con khều khào như tiểu thư vậy làm được gì. Con chỉ trải bàn với lại ăn với O thôi. Con dọn ăn cho ba.
 
- O nấu ăn thế nào, các em có kêu ca gì không con?
 
Tôi nhăn mặt:
 
- Ơ... con không biết, con thấy tụi nhỏ ăn ngon lành lắm.
 
- Tuần sau mẹ về, sẽ có quà cho các con.
 
- Vâng con đi học đây, con "cúp" nha mẹ.
 
Tôi đặt ống nghe xuống rồi xách cặp đi học.
 
Thứ năm
 
Ba bảo - Con Hương hôm nay nghỉ hai giờ sau nhớ về sớm lau nhà giúp O nghe. Vâng ạ. À, mấy hôm nay có gì lạ không con. Thưa ba, không. Xem em có đau yếu gì thì nói cho ba hay liền nghe, thật không có mẹ bây ba lo quá, hổm rày ai đi chợ con? O đi chợ ba, O không cho con làm gì hết. Ba nè... Hử, gì? Gì mà nhe răng cười, kẹt "địa" phải không, tụi mày chuyên môn móc túi ba. Bao nhiêu? Năm trăm được không. Dạ dư rồi ba, con đi học nha ba. Cám ơn ba nhiều lắm lắm.
 
Thứ sáu
 
Người bạn biếu ba giỏ nhãn. Tụi nhóc xúm nhau vào chia la nhau chí chóe. Ba đi tắm. Tôi dọn cơm cho ba.
 
Thứ bảy
 
Có hai giờ Quốc văn, sướng ghê. Luận được 15 điểm, điểm cao nhất, thày đọc bài luận lên cho cả lớp nghe. Tôi đỏ rừ mặt, xấu hổ thí mồ. Nhỏ bạn ở bên cạnh cứ cấu mãi - ê Hương, lát đi uống chanh tươi nghe. O kay.
 
Chủ nhật.
 
Ba cho tiền đi phố chơi, muốn xem xi nê, ăn uống gì thì tùy, ba đưa bà nội đi khám răng. Tụi nhóc khoái quá, diện bộ đồ le nhất đi, ba chở bỏ xuống chợ Bến Thành hẹn 11 rưỡi tới rước chỗ này. Tụi tôi dắt nhau đi ngẩn ngơ giữa phố phường. Thật là một lũ điên. Lũ điên này ăn mặc không giống ai, đứa váy ngắn, đứa quần tè, đứa quần soọc, đi nghênh ngang. Tụi nhóc cứ bâu vào chỗ bán đồ chơi, đòi mua loạn xị cả lên. Tôi hả! Tôi thực tế hơn, người lớn hơn, tôi kéo cả bọn lên lầu một thương xá ngắm quần áo thiên hạ bày bán. Ôi cha, đủ màu sắc, tôi tự xét lại túi tiền của mình đoạn tiếc rẻ bỏ đi. Theo chân tôi loanh quanh một lát, tụi nhỏ đòi xuống - Ừ thì xuống. Thế nào khi mẹ về cũng kéo mẹ đi cho bằng được. Tôi nhủ thầm.
 
Thứ hai
 
Cả bọn nhớ mẹ quá, mặt mày buồn thiu. Tôi cũng vậy, bỏ đi nằm.
 
Thứ ba
 
Đang ăn cơm chiều nghe tiếng lao xao ngoài ngõ. A, mẹ về. Mẹ về! Cả bọn bỏ cả bát đũa, reo hò ùa chạy ra, mặc cho bà O lừ mắt bảo im. Tụi nhóc loạn cả lên. Vui quá. 
 
 
TRẦN THU HƯƠNG CÚC     
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 146, phát hành ngày 20-10-1974)
 

Chủ Nhật, 26 tháng 10, 2025

KHÚC MƯA QUEN - Hoài Diễm Từ


 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
 
  
 
 
 
 
gửi em những giọt mưa dài
đi trong hồn tối đầy tay tình hồng
tiễn người tay gõ trong không
tháng năm lếch thếch đau lòng phố quen
 
gửi em những giọt mưa xiên
giọt qua lũng thấp giọt nghiêng mái nhà 
anh còn một chút tình xa
với đời chầm chậm thịt da buồn buồn
 
gửi em những giọt tủi hờn
gửi môi thiếu nữ che vườn ấu thơ 
tóc dài thả ngọn bơ vơ
ngày rơi lác đác em chờ đợi em 
 
gửi em một cánh mưa mềm
lau khô dấu tích cuộc tình quạnh hiu
mắt to lệ đẫm vai chiều
mưa to hồn cũng tiêu điều những tên
 
anh còn dăm lá mưa quen
ngó quanh nghĩ quẩn dài thêm tuổi trời
gửi em con phố không lời
tường im khói nhạt mòn hơi đoạn trường
 
nửa đường sách vở rêu phong
mở thư tình cũ nhớ dòng nước xuôi
gửi em những giọt bồi hồi
tan trong chiều thẳm tiếng cười xót xa!
 
                                                         (6-73)
                                              HOÀI DIỄM TỪ
 
(Trích từ tạp chí Tuổi Ngọc số 120, từ 1-11 đến 15-11-1973) 

Thứ Năm, 23 tháng 10, 2025

CHIÊU HỒN NƯỚC - Bình Nguyên Lộc

Hai tay nhét vào túi quần. Hà nện mạnh gót giày trên vỉa hè đại lộ Hàm Nghi, miệng ngâm nho nhỏ bài thơ của chính chàng, vừa đăng trên một số báo Xuân năm nay:

Gầy gõ  (1)
Đường đêm
Tiếng giày dạ khách.
Chập chờn
Chiếc bóng phong sương.
Tâm tư lê nặng phố phường,
Lầu hoa cửa khép
Trầm hương mơ hồ !


Bài thơ dài lắm, nhưng chàng chỉ ngâm tới đó rồi nín thinh để lắng nghe dư âm giọng ngâm của chàng, giọng ngâm mà mấy năm trước đây, đêm nào cũng vang lên trên làn sóng phát thanh của đài Sài gòn, thử xem nó còn được cái phong độ cũ hay không.

Trăng gầy loáng áo
Nàng thơ...
Gặp nhau
Thêm mấy dại khờ hồn si.
Cầm bằng như gió bay đi
Giang hồ, mình lại xa gì với ta!
Em ngùi son phấn phôi pha,
Đời tôi nghệ sĩ tài hoa phong trần!


Thi sỉ đa cảm, đa tình thật! Tất cả những gì chàng ghi trong bài thơ nầy, đều là chuyện tưởng tượng cả: chàng không có gặp cô gái giang hồ đồng tâm nào đang ngậm ngùi cho cảnh phấn lợt hương phai của nàng hết. Thế mà ngâm đến đây, chàng nghẹn ngào mắt rưng rưng lệ.

Thoáng nhìn đã vội bâng khuâng.
Ngược xuôi, đôi kẻ rời chân ngậm ngùi!
Vắng đêm
Lọt nửa tiếng cười
Nhẹ tan trong gió,
Ai người chợt nghe?


Hà không còn ngâm tiếp được nữa. Chàng đã khóc mùi, thương không biết bao nhiêu kẻ "cùng một lứa bên trời lận đận" mà chàng đã bịa ra trong bài thơ.

Chàng dừng chân lại trong lúc khóc để chậm khô nước mắt rồi tiếp tục rảo bước. Một nỗi buồn mênh mông, xa vắng thấm vào đáy hồn chàng.

Thế mà chàng lại thích được buồn thật buồn như vậy. Đằng xa kia, chợ hăm chín Tết vào lúc mười một giờ đêm vẫn cứ ồn ào, có lẽ còn ồn ào hơn lúc đầu hôm nhiều; để rồi tan vào buổi cuối năm vài tiếng đồng hồ sau đó. Đêm mai, tối lại là không còn gì nữa, vì ai cũng bận việc nhà cửa, sau khi rước ông bà về.

Chàng không về nhà mà chịu được, nhưng phải trốn cảnh náo nhiệt, thả bách bộ trên con phố vắng vẻ nầy như chàng đã thường đi trong đêm khuya như vậy ở nhiều phố khác.

Năm nay thi sĩ đã ba mươi tuổi rồi, nhưng chưa yêu thật sự bao giờ cả. Những mối tình hời hợt qua đường, không gọi là yêu được. Chàng cứ mơ gặp một mối tình lớn, một mối tình đáng kể như trong tình sử bất hủ của nhân loại, và kéo lê nỗi buồn về đêm của chàng trên các đường phố vắng để nhìn khói hương trầm qua những cánh cửa nửa khép của các lầu hoa mà chàng biết trong đó đang ẩn trú nhiều bậc giai nhân cũng thèm yêu như chàng.

Tâm tư lặng lẽ phố phường
Lầu hoa cửa khép
Trầm hương mơ hồ.


Hà lắng nghe tiếng giày của chàng trong đêm vắng, nhìn bóng chàng đang chuồi trên vỉa hè, bóng đen mà đèn đường đang kéo dài ra, trông ốm nhom và rất yếu đuối...

Gầy gõ
Đường đêm
Tiếng giày dạ khách.
Chập chờn
Chiếc bóng phong sương,


Đi thơ thẩn, chàng lạc bước tới góc bến Bạch đằng, bị gió sông lạnh thổi hắt vào mặt, chàng mới hay.

Hà ngước lên nhìn. Bờ sông không còn một bóng người. Bờ sông Thủ thiêm đen thui và bên phải của chàng, bến thương khẩu leo lét vài bóng đèn ngủ gục.

Bỗng tiếng giày của ai vang lên, và người ấy đi trên vỉa hè bờ sông, đã từ hướng cầu quây cũ tiến đến đây. Tiếng giày ấy thưa nhưng lại dòn, nện mạnh lên gạch lề đường nhưng nghe không nặng, người bộ hành ấy chắc còn trẻ, khỏe mạnh, nhứt là đã quen đi giày từ lâu rồi.

A kia, đó là tiếng bước của phụ nữ nó có biệt sắc riêng của nó, biệt sắc ấy có lẽ do cái phần diện tích đế giày đụng chạm với gạch nhỏ quá, nghe rõ là truy nguyên được căn cước ngay.

Hà day lại thì thấy đó là một người đầm... mà không, đó là một người đàn bà Việt mặc duýp se-rê màu ngà với chiếc bơ-lu-dông đỏ ở thân trên.

- Bò lạc giả! Hà nói thầm trong bụng như vậy vì thấy người ấy chỉ đi thong thả, lang thang, không có ý đinh về đâu cả nên chàng nghĩ ngay rằng ả ta là một cô gái ăn sương. Bò lạc giả là tiếng lóng của bọn ăn chơi chỉ hạng gái nầy, đã phân biệt với bò lạc thật là những thiếu nữ ở tỉnh mới lên, còn bơ vơ chưa tìm được nơi nương dựa.

Người đàn bà ấy dong dải cao, dáng điệu rất yêu kiều thanh lịch. Mặc dầu không có ý gì, Hà cũng nhìn thử gương mặt xem ả ta sắc diện đẹp hay xấu.

Bấy giờ ả ta đã đi gần tới bên thi sĩ và Hà thấy đó là một thiếu phụ đã quá xuân, trạc ba mươi, mặt hoa đã héo, mặc dầu giỏi hóa trang. Tuy nhiên dấu vết đẹp xưa vẫn còn thấy bóng dáng lờ mờ trên đó.

Ả ta xăm xăm đi lại trước mặt Hà, chàng vừa toan lắc đầu để xua ả thì giật nẩy mình mà nghe một câu tiếng Pháp rất đúng giọng đầm:

- Xin lỗi ông, ông có lửa hay không ?

Ả vừa hỏi vừa mở xắc lấy thuốc điếu, lấy cả hai điếu mời chàng. Thì ra đó là một me Tây. Buồn cười, Hà móc hộp diêm ra và hỏi đùa cũng bằng tiếng Pháp:

- Có lẽ nhớ các ổng, nhìn bến tàu cho đỡ nhớ à? Thơ mộng lắm!

Chàng vừa đánh diêm trao lửa,vừa ngâm mấy câu thơ của Sa Giang Trần Tuấn Kiệt.

Rải rác mưa tro mờ bến Chương Dương
Ánh đèn đêm yên lặng chơi vơi buồn.
Tôi khép áo mưa, ngồi trên băng lạnh
Trông ngóng những con tàu tha hương.


- Không - người đàn bà miệng ngậm thuốc, chìa đầu điếu ra để đón lửa và đính chính - không, tôi tìm cái khác.

- Khách à?

- Không có gì sai hơn. Nhục nhã thay cho kẻ nào nghĩ quấy.

Hà kinh ngạc đến cực độ. Một me tây, không thể nào biết nổi câu châm ngôn của võ sĩ phái Jarretière hồi thời Trung cổ Pháp ấy, và nói ra rất đúng giọng "Honni soit qui mal y pense".

Ngượng quá, chàng không biết làm sao chữa được sự lỡ lời nên ấp úng nói:

- Tôi xin lỗi bà...

- Không hề gì, nhiều người đã lầm rồi, chớ không riêng gì ông. Xin cám ơn chút lửa nầy.

- Thưa bà, bỏ qua đi cho...

- Đồng ý.

- Và cho tôi hân hạnh được biết quí danh... của ông ở nhà.

- Tên tôi và tên của nhà tôi chắc không nói lên được điều gì bên tai ông. Tôi đang buồn đi lang thang, mà xem ra ông cũng thế, thì ta cùng đi bách bộ một vòng, có lẽ thú hơn.

- Có hân hạnh nào bằng.

- Và xin nói chuyện với nhau bằng tiếng Việt vậy.

- Càng thích hơn.

Họ băng qua đường để thả trên vỉa hè đá đỏ bên ấy. Người đàn bà hỏi:

- Anh không đi chợ Tết sao?

- Khi nãy có đi mấy vòng với lũ bạn, nhưng tôi lại trốn mà tách riêng ra.

- Tìm hứng hay tìm ai ?

- Không tìm gì cả? Đi bậy cho buồn vậy thôi !

- Quái lạ! Ai lại tìm buồn?

- Chớ chính bà không tìm buồn hay sao mà lại ở chốn nầy. À, khi nãy bà đã bảo rằng bà đang "tìm cái khác". Nếu không phải là chuyện riêng tư, thì cái khác ấy là cái gì?

- Em không biết nói ra có ích gì hay không. Đã trễ lắm rồi!

- Trễ lắm rồi? Tàu chạy rồi à?

- Không, không thế nào anh hiểu được đâu mà hỏi mất công.

Hà thích ghê, nghe câu chuyện có vẻ mơ hờ như là truyện trinh thám trong các phim phóng đãng bí mật, toát mồ hôi lạnh. Nhưng không muốn quá tò mò, phần lại nghi kỵ, cứ còn ngờ vực người đàn bà nầy là một gái ăn đêm, khôn khéo toan lừa chàng vào tròng bằng một thủ đoạn siêu đẳng nào, Hà hướng câu chuyện sang nẻo khác.

- Bà có lạnh không ?

- Bên ngoài thì không.

Chà, ả ta trường trải lắm đây và có học nữa. Nói như thế tức là ngầm bảo rằng ả ta đang lạnh lòng lắm và cần người an ủi. Thằng nào lơ mơ thì chết với ca-líp nầy.

Đang buồn, cần bạn, nhưng bỗng đâm sợ, Hà toan từ giã con hồ ly nguy hiểm để rút đi trước khi tai họa xảy tới. Chàng chợt thấy rằng cả hai đều đến trước vũ trường Mỹ Phụng và cô ả đang quẹo lên Hai Bà Trưng.

- Sao lại quẹo, thưa bà?

- Em ở đường nầy, đằng kia.

- Vậy à, thì ra vô tình, tôi đã đưa bà về nhà, đã trót như vậy, tôi xin đưa bà luôn tới cửa, có bất tiện cho bà không ?

- Không có gì, nếu việc đó chẳng làm nhọc ông.

Hà đoán người nầy có lẽ là nhơn tình dài hạn của một Pháp kiều vì phố Hai Bà Trưng đầu dưới sông thuộc khu người Pháp ngày trước. Như vậy, không còn gì hay ho nữa, và sở dĩ chàng đưa ả ta về nhà chỉ vì lịch sự thôi.

Chàng lặng lẽ đi bên cạnh người ấy, không nói, không rằng, nhưng ả ta lại nói :

- Anh có gia đình chớ?

- Vâng !

- Anh ở trong ngành hoạt động nào?

- Ơ hơ... tôi là tài tử.

- Với nghĩa nào? Cái tiếng Việt ấy có nhiều nghĩa lắm...

- Xin Bà hiểu theo nghĩa artiste.

- Vậy à? Thế thì em đã lầm...

- Bà ngỡ tôi là gì?

- Em không ngỡ là gì hết. Nhưng em đã lầm mà cả quyết rằng anh không thể hiểu cái điều anh hỏi em. Chính chỉ có những người tài tử mới hiểu em được.

- Nhưng rất tiếc là đã trễ ?

Hà hỏi xong, cười to lên, có vẻ nhạo báng ả ta.

- Phải, rất tiếc là đã quá trễ.

Người đàn bà ấy lặp lại lời Hà một cách nghiêm trang như đã ngầm đính chánh ngộ nhận của chàng rằng bà ta chỉ làm bộ bí mật vậy thôi, chớ thật ra thì không có gì cả.

Bấy giờ Hà đã nghe mỏi chơn vì đã đi quá xa và quá mau, đường lại cứ dốc lên mãi. Chàng chợt nhớ ra là người đàn bà nầy đi mau quá sức, chàng chưa thấy gã đàn ông Việt nam nào mà đi mau đến thế. Chàng lại chợt nhận thấy họ đã đến đại lộ Thống nhất rồi mà xem ra ả ta cứ còn muốn đi nữa.

- Hình như là bà ở xa lắm?

- Đằng kia.

- Xa như vậy lại chỉ đi bộ?

- Bên ấy, em chỉ đi bộ nên quen rồi.

- Bên nào, thưa bà?

- Bên Bọt-đô.

- Bà ở Pháp mới về?

- Em ở Pháp mới về.

- Nghĩa là...?

- Nghĩa là em có Pháp tịch, sống bên Pháp và về đây để... tìm cái đó.

Thế là đã rõ. Tác phong của người nầy là tác phong của một cô đầm: dám xin lửa đàn ông ban đêm, đi lang thang một mình trên đường vắng, đi mau quá (theo nhịp sống của Âu châu) và đi bộ giỏi quá (bên Âu châu, những người bậc trung đi bộ trong thành phố hằng năm bảy cây số là thường).

Không còn gì lạ về con người của thiếu phụ nầy, chỉ còn một chút xíu là... cái đó thôi.

Cái đó là cái gì mà ta tìm trong đêm tối, sợ rằng không ai hiểu cả, và đồ rằng chàng hiểu, nhưng tiếc rằng là đã trễ ?

Hà rất hối hận đã chế giễu cái vụ "đã trễ ấy". Chàng lại lặng lẽ mà đi, và giây lát, tò mò quá, chàng hỏi:

- Nhưng sao lại trễ thưa bà?

- Vì mai, em đã lên đường về Pháp, và có thể không bao giờ trở lại đây nữa.

Thiếu phụ đã dừng chân, đưa tay ra cho chàng bắt và nói bằng tiếng Pháp:

- Cảm ơn và vĩnh biệt !

Hà đã thừ người ra lúc nghe câu trước. Rất đa cảm, chàng hay ngậm ngùi trước mọi cảnh chia ly, cho dẫu là với người mới quen sơ. Chàng cầm tay thiếu phụ nghẹn ngào nói:

- Bà đi thật à? Tôi cứ ngỡ...

Thiếu phụ cười dòn dã:

- Anh cứ ngỡ gặp phải kỹ nữ me Tây?

- Xin lỗi bà, ai lại...

- Nầy, hay mời anh vào chơi giây lát. Đêm nay chắc tôi cũng không ngủ.

Hà xem lại thì đó là ngôi nhà chung cư Cửu long. Khi họ lên tới lầu, bà ấy đẩy cửa một căn buồng hẹp té thì Hà ngạc nhiên hết sức mà thấy buồng trang hoàng như một căn nhà bình dân với nào tranh gà, tranh lợn, tranh Tàu trên vách, đặc biệt nhất là một bàn thờ tạm dọn trên chiếc bàn con với gần đủ đồ thờ, bình hương, độc bình, đèn, nhang.

Thiếu phụ cười nói như để xin lỗi:

- Cục cựa không được. Nhưng không làm sao khác hơn. Đến ở mười hôm, không thể mướn nhà.

- Té ra bà chỉ mới về đây thôi?

- Vâng, rồi mai lại đi.

- Sao bà vội thế ?

- Rồi anh sẽ hiểu.

Thiếu phụ trót nước trà từ bình thủy ra hai cái ly bằng lát-tích, thứ rẻ tiền, mua trên vỉa hè hai bên chợ Bến thành. Nàng ngồi trên giường nhường chiếc ghế độc nhất trong buồng cho khách và nói:

- Đáng lý vì ngày mồng một em mới đi, để được nghe tiếng pháo giao thừa, như hồi năm 1958 mà em đã về một lần như vậy, nhưng nghe rằng năm nay cấm đốt pháo nên em lấy vé có lại ngày ba mươi Tết.

- Té ra bà đã về đây một lần rồi?

- Vâng!

- Nhưng bà đã ra đi năm nào?

- Năm 1954.

Hà ngắm kỹ thì quả thiếu phụ nầy đã có một thời đẹp lắm. Hớp từ hớp trà nóng, thiếu phụ cũng nhìn chàng ra nói:

- Anh là người khách đầu tiên và cuối cùng của em. Em mừng lắm.

- Hân hạnh cho tôi.

- Thành thật mà nói thì không có gì hân hạnh cho anh. Em chỉ mừng vì được trò chuyện thân mật với một người Việt nam, chớ không vì cá nhân của anh đâu. Anh đã mua sắm Tết chưa?

- Đã xong cả.

- Có bánh tét, dưa hấu chớ?

- Có. Các thứ hoa cũng đã mua xong. Tôi mua được một cành mai đẹp lắm.

- Mai thui...

- Không, một cành mai mà họ cắt ngang để bán.

Nhưng thiếu phụ không nghe nữa. Nàng nhìn vào khoảng không, rồi say sưa nói to lên một mình: "Mai thui... ba chặt cành mai vào giữa tháng chạp, ba thui cành ấy nơi bị chặt, ba chặt lá, rồi ba cặm trong độc bình có chứa nước...".

"Thế rồi hăm lăm hoa ra nụ và tối ba mươi nó âm thầm nở. Sáng mồng một là bàn thờ vàng óng. Nó bền và đẹp hơn hoa nở sẵn trên cành bị cắt ngang, rồi... rồi ba..."

Bà ta còn nói gì nữa, nhiều lắm, lầm thầm trong miệng rồi nghẹn ngào không tiếp được. Lâu lắm bà ta chấm dứt trễ muộn câu nói nửa chừng ấy bằng một tiếng nấc.

Như là kẻ đóng trò, hay một con mẹ điên, thiếu phụ thình lình ngước lên nhìn khách rồi cười dòn mà rằng:

- Em chưa già mà đã lú lẩn. Em có làm buồn lòng anh lắm không ?

- Không, thưa bà.

- Em đã ba mươi rồi. Không, em chỉ mới ba mươi thôi, nhưng già quá, lòng em héo hắt, bằng cớ là em chỉ sống quay về dĩ vãng thôi. À, anh chắc còn trẻ lắm?

- Tôi cũng ba mươi.

- Tuổi sung sướng! Của anh và của người khác. Trời ơi, sao tôi lại già thế nầy! Tôi chỉ tiếc thương dĩ vãng, không hưởng được những gì đang có trong lứa tuổi tôi. A... ha... ha... em lại lẩn thẩn nữa, xin lỗi anh. Em cám ơn anh, đã đến, đã vào đây. Có lẽ em sẽ nhớ anh trọn đời.

- Tôi tên là...

- Đừng, anh đừng nói tên. Anh là người Việt nam, bao nhiêu ấy là đủ lắm rồi. Em đã gặp một thanh niên Việt nam, không, em đã gặp quê hương Việt nam vào một đêm cuối năm, trong đời em.

- Nhưng, bà đi bên ấy làm gì, và về để tìm bà con hay...

- Ông có gan nghe câu chuyện không hay mà khá dài hay không ?

- Tôi đoán là hay.

- Đoạn đầu rất xoàng. Đoạn sau, chỉ hay đối với em thôi. Đoạn đầu rất cổ điển mà báo chí sách vở ở đây nói đến khá nhiều rồi, về người khác mà trường hợp giống trường hợp em. Năm đó em học ban Trung học Pháp Việt ở Sài gòn. Nhơn kỳ nghỉ hè, em về quê, một làng hẻo lánh kia, rồi bị một nhóm quân nhân Pháp hiếp.

Sợ gia đình em thưa kiện, chúng nó phao vu em rồi bắt em đi. Ra tỉnh bị giam một thời gian thì em được thả, nhưng có còn gì nữa đâu để mà quay về. Vừa lúc ấy thì một sĩ quan Pháp phải lòng em và bao em.

Em bằng lòng theo nó, vì cũng chẳng thiết làm lại cuộc đời, và một năm sau, đạo quân viễn chinh rút lui, em theo y về bên ấy và được y cưới luôn, rồi em xin vào Pháp tịch.

Hai năm đầu em vui được với cảnh lạ, nhưng khi hay tin cha mẹ em qua đời, em bỗng chạnh nhớ quê nhà.

Ban đầu chỉ là một nỗi nhớ nhung nhè nhẹ thôi. Nhưng càng ngày lòng sầu xứ càng sâu đậm, em không chịu nổi nữa nên vào cuối năm 1958 ấy, em có dư chút ít, xin thông hành với tư cách du khách về đây, cũng lúc cuối tháng chạp như năm nay.

Không thế nào mà anh tưởng tượng nổi sự thèm khát quê hương của một kẻ lìa xứ vĩnh viễn không hy vọng trở về như em. Thèm như là thèm một món cá nướng chấm mắm nêm, thèm hương bưởi, thèm tiếng chuông chùa ngân nga vào buổi hoàng hôn, thèm cảnh cấy mạ vào đầu mùa lúa. Thèm chết đi được là vào lúc gần Tết, tức là khoảng đầu năm dương lịch. Nhớ Tết như nhớ nhà, nhớ nước, bởi vì Tết là sum hợp gia đình.

Em chỉ về cho đỡ ghiền vậy thôi, chớ bà con xa gần gì cũng chẳng còn ai, không có lấy một mái tranh để mà vào. Mười hôm lưu lại đất nước nhà năm ấy đã làm cho em thất vọng vô cùng, định không về nữa. Nhưng, rồi lại nhớ và năm nay lại về.

Hà chợt hiểu vì sao mà tranh Tàu bình dân lại treo vách buồng buyn-đin và người thuê buồng lại dọn bàn thờ phiền phức như thế nầy: nàng muốn tạo lại không khí gia đình đầm ấm mà về tới đây, nàng vẫn nghe thiếu.

Hà nghe nao nao buồn khi nhìn khói nhang mà chủ phòng đã đốt lên lúc nãy. Đêm mai, nhà nhà sẽ ngát hương trầm, nhà nhà sẽ đoàn tụ, trong khi đó thì một người sẽ bay trên vạn dặm trùng dương vì không còn lấy một mái tranh để mà vào, thèm mái tranh quyện khói lam chiều ấy mà không bao giờ được hưởng.

- Thì ra cái đó là...

- ... là gì chính em cũng không nói ra cho đích xác được. Một vũng ao tù trong thôn xóm chăng? Một chân trời quen thuộc? Một mùi cá nướng ? Một vài tiếng sáo mục đồng? Hay là tất cả những thứ ấy nó họp lại để làm một linh hồn của quê cha đất tổ mà em ngỡ từ bỏ được, nhưng không thể được.

Mỗi đêm, em đi lang thang như vậy qua hết phố nầy đến phố khác, lắng nghe những tiếng thì thầm bí mật trong không, rình rập mãi một cái gì không biết, nó có thể cho em thoáng thấy cái vô hình mà em tìm, nhưng không gặp.

Bơ vơ quá, đang sống trong thủ đô Việt nam mà em nghe rằng mình chỉ đi bên lề nước Việt thôi, không làm sao mà len vào linh hồn của đất nước được.

- Cây cỏ, núi sông vẫn có linh hồn. Nhưng ta chỉ nắm tay được với linh hồn cảnh vật qua trung gian của một linh hồn khác thôi, linh hồn người. Có lẽ bà tìm một hồn bầu bạn mà không dè.

Thiếu phụ đặt vội ly trà lên nệm, nhìn sững Hà giây lâu rồi nói:

- Ừ, có lẽ đúng, anh nói có lẽ đúng.

- Linh hồn bầu bạn ấy là vật xúc tác của hai linh hồn khác, linh hồn đất nước và linh hồn của chính ta.

- Anh nói có lẽ đúng. Thuở còn con gái, em mơ yêu. Ông Hoàng tử đẹp trai của em là một thanh niên Việt nam, cố nhiên. Rồi rủi ro của số phận đã xô em vào tình cảnh không hay. Giấc mơ thiếu nữ không bao giờ thỏa cả, em chưa được yêu lần nào.

Trong giờ khắc năm tàn tháng lụn, chàng thi sĩ đa tình và trơ trọi nhìn lại người đàn bà mà tấm lòng đi lang thang khắp bốn phương trời, đau xót khôn nguôi cái đau mất gốc! Dấu vết hường nhan ngày xưa của nàng đang lặn hụp chìm nổi trong niềm u uẩn triền miên, trong bóng ngày rơi rớt của buổi chiều tà, bóng nầy bỗng đẹp rực rỡ lên, trong cái bừng dậy cuối cùng của tất cả những gì đang hấp hối.

- Thưa bà, tôi có thể là tâm hồn bầu bạn mà bà đang tìm hay không?

Thiếu phụ mắt sáng lên, môi mấp máy, nhưng rồi nàng lại châu mày mà rằng:

- Cám ơn anh đã có lòng. Nhưng xúc động hời hợt trong một phút của anh rồi không đi đến đâu cả. Không thế nào em đủ thì giờ để đợi anh hỏi lại cặn kẽ lòng anh. Đã trễ quá rồi như em đã nói, và anh đã chế giễu vì không tin.

Nhưng cám ơn, cám ơn không biết bao nhiêu. Trong đời em, đã có một lần em suýt vớ được linh hồn đất nước. Có bị dòng đời lôi cuốn đi, một chút xíu may mắn ấy cũng đủ sưởi ấm lòng em trên đường trôi giạt.

- Ngày mai bà đi?

- Vâng, cám ơn và vĩnh biệt!

- Nhưng bà có thể trở lại...

- Không, chồng em kiếm không được bao nhiêu tiền. Về nước là một xa xí phẩm.

Hồn nước Việt nam đã xuống lầu, ra phố, ngảnh lại nhìn qua cánh cửa sổ khép nửa chừng, những sợi khói nhang trắng đục từ từ bay lên trần.

Hồn mất gốc mở toát cửa ra, lặng nhìn theo quê hương dần xa, trong khi nó sắp bị cuốn vào dòng đời cuồn cuộn chảy.

Trong đêm lặng, bốn cánh tay giơ lên, vẫy tiễn đưa nhau.

Từ đó, đêm đêm Hà nện mạnh gót giày trên vỉa hè đại lộ Hàm nghi, dáo dác đón trong gió lạnh, hồn người bạn một giờ nó như còn lẩn quất đâu đây:

Gầy gõ
Đường đêm
Tiếng giày dạ khách.
Chập chờn
Chiếc bóng phong sương.
Tâm tư lê nặng phố phường,
Lầu hoa cửa khép
Trầm hương mơ hồ !


Chàng hay ngước lên những cửa sổ khép sơ mà trong đó biết đâu lại không có một kẻ đang tìm một linh hồn.

Giang hồ mình lại xa gì với ta
Em ngùi son phấn phôi pha,
Thoáng nhìn đã vội bâng khuâng
Ngược, xuôi đôi kẻ rời chân, ngậm ngùi!


Nhưng từ đó cảm xúc của chàng đã có duyên cớ thật. Nghẹn ngào và lệ thảm của chàng không còn là cái nghẹn, là nước mắt tầm phào của một thi sĩ đa tình và giàu tưởng tượng nữa.

 
(Trích từ tập truyện ngắn Cuống Rún Chưa Lìa) 
--------------------------------
1.Mượn thơ của Hà Liên Tư    

Thứ Hai, 20 tháng 10, 2025

MÁI CHÙA XƯA - Võ Hồng


Làng tôi có ba ấp, mỗi ấp có một ngôi chùa. Tôi ở ấp Quảng Đức, lên năm tuổi đã biết tên chùa là Châu Lâm, đã thấy ông thầy chùa đầu tiên trong đời, thỉnh thoảng đi về trên con đường xuyên qua xóm. Ba tôi dặn:

- Không được kêu là: “Ông thầy chùa” nghe chưa ? Hỗn.

Nhưng lại không bày tôi một cách kêu khác. Trong câu chuyện, khi nhắc tới ông thầy... đó thì mẹ tôi dùng ba chữ “Thầy Châu Lâm”. Giọng kính cẩn có pha chút thân tình. Những người trong xóm khi nhắc đến tên thầy đều có chung một giọng như thế.

Đi trên đường, thầy cứ nhìn thẳng, nét mặt dịu dàng không vui không buồn. Tôi chịu không đoán được tuổi. Tóc và râu là hai bộ phận để căn cứ mà định tuổi thì thầy đều không có. Mặt lại không nếp nhăn. Miệng lại không cười. Đi giữa chúng tôi mà không gây nên tiếng động.

Chùa Châu Lâm ở cách biệt nơi chân núi, xa xóm cỡ cây số rưỡi nhưng đối với tuổi ấu thơ của tôi như vậy đã là xa hun hút. Bởi vì muốn đi tới chùa, chúng tôi phải đi bọc vòng chân núi, đi theo một con đường quanh co có nhiều bụi gai bàn chải mọc đầy. Cảnh vật khác hẳn với cảnh vật trên xóm, tưởng như là hai thế giới riêng biệt. Bụi cây âm u rất nhiều. Chim hót tứ phía. Rắn mối và kỳ nhông bò rèn rẹt mỗi lần có bước chân tới gần. Ở trên miếng gai bàn chải chơm chởm, ở trên cành cây mọc chìa ra đường, thỉnh thoảng có con kỳ đà nằm yên lặng nghếch cái đầu màu đỏ lên nhìn. Những đoạn đường quanh co vội vã. Không dám chạy thẳng một mạch, không muốn làm phiền lòng những bờ duối bờ sậy, không muốn động chạm đến cả sự quây quần yên lặng và khiêm tốn của lũ cỏ gấu, con đường nhường nhịn, len lỏi né tránh.

Ngôi chùa trông thấy trước mắt nhưng phải đi vòng qua những thửa ruộng thấp, đi lượn qua mấy ngôi tháp cao, đi bọc theo khu vườn nhỏ rồi mới tới cửa tam quan. Đá lởm chởm dưới chân, đá chất gồ ghề làm bờ tường bờ dậu. Tất cả là công trình của bàn tay cần cù, là chứng tích của sự nghèo khó. Chắc thầy trụ trì và chú Điệu phải tự tay vần đá, kê chồng lên nhau, chèn ghép vào nhau trong những buổi mai còn đầy sương, trong những buổi chiều có tiếng sơn ca lanh lảnh hay trong đêm trăng thơm mùi hoa dại. Không có dấu vết của chiếc bay thợ nề trên những kẻ đá, nơi dung thân của lũ rắn mối, cắc kè.

Ấp tôi dân ít lại nghèo nên chùa không thể nào giàu được. Hình như tài sản của chùa chỉ có hai miếng đất thôi, và để có lúa ăn, nhà chùa phải làm rẽ bảy giạ giống ruộng. Bởi hoa lợi ít ỏi nên thầy trụ trì chỉ nuôi nổi một đồ đệ.

Người đồ đệ này là bạn chơi cùng lứa với chú Ba tôi nên chú tôi cứ tha hồ xưng hô bằng “thằng”, bằng “mày”, trong khi những đạo hữu cao tuổi gọi bằng “chú Điệu”. Tôi thì bắt chước theo lũ nhỏ, kêu bằng “ông Điệu” dù Ông chỉ mới khoảng 16-17 tuổi. Ông Điệu lo sạ lúa, làm cỏ, tát nước ruộng. Một hôm bị bạn bè rủ rê, trong đó có chú Ba tôi, hái trộm luôn một trái dưa hấu của đám rẫy cạnh vườn chùa rồi bạch ra ăn với nhau. Thầy trụ trì bắt gặp. Thầy lùa cả bọn vô chùa để tra hỏi, sau đó thầy sai ông Điệu ra liêu lấy cái roi mây. Ông bước đi rất chậm, tưởng như bàn chân đang bận suy nghĩ. Thầy bình tĩnh đợi. Khi cầm roi trên tay, thầy bắt ông nằm xuống.

Trót! Trót! Trót! Ông Điệu lăn qua lăn lại, khóc ồ lên, vừa “Lạy thầy con lỡ dại! Lạy thầy con xin chừa”. Sau năm roi, thầy ra lịnh cho ngồi dậy. Ông Điệu vâng lệnh ngồi dậy nhưng không bước ra hiên lấy gáo múc nước rửa mặt như tôi tưởng. Mà ông lại đứng ngay ngắn trước mặt thầy rồi bỗng ông quì xuống lạy luôn ba lạy.

Tôi ngạc nhiên hết đỗi. Ở nhà, mỗi lần bị cha tôi bắt nằm xuống đánh xong cho ngồi dậy là tôi vừa khóc hu hu vừa ra hiên múc nước rửa mặt. Lần nào cũng vậy, y như một nghi thức không thay đổi. Lần đầu tiên thấy một người bị đánh lạy tạ người vừa đánh mình, lòng tôi chợt nảy sinh một cảm giác lạ. Một sự kính trọng bồi hồi. Nhưng chưa hết. Thầy trụ trì ung dung nói:

- Đi vô làm lễ sám hối.

Ông Điệu “dạ”, lại kẹt cửa lấy cái áo tràng màu xám choàng lên người. Ông châm một nén hương rồi tẻ ra cắm ở mấy bàn thờ Phật. Ông lại cầm dùi đánh nhiều hồi vào cái trống sấm. Rồi sau đó ông quì tụng niệm ê a một lúc lâu. Lúc nhỏ khi chưa đi học, tôi hay theo chú Ba tôi đi chơi lang thang nên cái cảnh ông Điệu bị đòn, tôi chứng kiến từ đầu đến cuối. Tôi giữ một ấn tượng tốt về nhà chùa là bởi sự kiện đó. Có lần chú tôi lén chỉ cho tôi coi một cái chum đất nung lên men đặt ở sân chùa.

Chú nói :

- Cái chum tương đó.

Tôi hỏi:

- Sao đem để ngoài nắng vậy?

- Đem dang cho tương nó ngon. Mày tưởng chùa gọt vỏ bí vỏ bầu rồi bưng đổ đó hả? Không có. Đem bỏ vô chum tương, để lâu nó thành tương.

Chú tôi không có óc khoa học, hay tin lời người khác mà không chịu phối kiểm với thực tế, thỉnh thoảng lại hay nói ẩu nên tôi không biết sự thực có phải đó là một cách làm tương đơn giản hay không. Nhưng cho dầu không biết chắc, tôi cũng có thể quả quyết rằng cách làm tương ở chùa này phải là cách đơn giản thô sơ hơn hết. Cứ nhìn lối sống của thầy trụ trì và của ông Điệu là biết ngay. Ngoại trừ cái áo nâu dài mặc đi ra đường là tươm tất, còn khi ở chùa thì thầy mặc áo vải thô vạt hò màu xám có nhiều mụn vá nơi vai hoặc nơi cùi chỏ. Cái vạt áo nhọn làm cho dáng thầy từ mảnh mai trở nên gầy gò. Thuốc lá thầy hút là thứ thuốc tự tay thầy trồng. Vài chục cây thuốc mọc ở một vạt đất nhỏ đầy sỏi đá nơi cửa sổ nhà Đông, có những lá già ở gần gốc đã được tướt đi. Đi ra đường thì thầy mang guốc sơn, còn ở chùa thì mang guốc bằng gỗ cây sầu đông tự thầy đẽo lấy. Quai guốc là một mảnh da trâu cứng.

Một cảnh chùa nghèo nàn như vậy không thể ban phát lợi lộc vật chất cho ai hết, nhưng nhờ đó mà nó trở nên thân mật với mọi người. Ai muốn ghé chơi chùa cũng được, ghé vào giờ nào cũng được, cửa tam quan gần như không bao giờ đóng. Nhà chùa không phải coi chừng kẻ trộm cắp vì chẳng có chi đáng để trộm cắp. Có mấy bụi chuối mốc đứng ở mái chùa là hay có trái hườm trên những buồng chuối nặng. Lũ chim chào mào tọc mạch bao giờ cũng thấy trước và lén mổ trộm. Người từ xóm lại phải đi băng qua một quãng đồng trống, ai công đâu xách một buồng chuối trên tay. Quả rằng chỉ có lũ chim là chuyên môn ăn trộm quả chùa. Mấy trái mãng cầu chín quên hái ngoài vườn, chùm ớt đỏ nơi bụi ớt ở vại nước rủ rê lũ chim đội mũ, chim chìa vôi tụ hội lại vừa ăn vừa nói chuyện rinh rã. Bụi thơm, cây mít ở sau lưng chùa thì có lũ sóc ranh mãnh dòm chừng.

Người tìm đến chùa thường để xin nghỉ mát hay để tìm nước uống. Đó là trường hợp những người cấy lúa, cuốc cỏ mía ở những đám ruộng đám thổ gần đó. Buổi trưa nghỉ tay, về trong xóm thì xa, ngồi dưới gốc cây thì hanh nắng, sẵn có chùa gần xin vào nghỉ ở chái sau. Nước uống thì sẵn ở chum, dùng bao nhiêu cũng có, tha hồ. Tuy nhiên, dùng chỉ hết mươi gáo nhưng họ bảo nhau ra giềng xách châm vào cho đầy hủ đầy lu, đỡ tay chú Điệu một bữa. Hôm nào mo cơm gói theo mà thiếu đồ ăn thì chú Điệu múc cho chén nước tương.

Mấy đứa chăn bò, lũ nhỏ hái củi hay ghé xuống chùa xin muối. Bò lùa thả ăn ở chân núi còn chúng thì tụ hội lại đánh đáo đánh trống hoặc sục sạo vào các bụi cây để hái ổi, hái sim, múi dẻ, nhãn chày... Khi không nhằm mùa trái cây thì bứt đỡ lá dang lá me rồi xuống chùa xin muối lên chấm ăn. Bước qua vại nước thấy có ớt chín thì lén hái một hai trái để lên giã chung với muối. Nếu thầy trụ trì hay chú điệu bắt gặp thì cũng chỉ “Ê! Ê!” vài tiếng và người phạm lỗi rút tay ra bẽn lẽn cười rồi đi luôn. Không ai nỡ nghĩ rằng đó là một sự ăn cắp. Cái không khí tịch mịch bao dung nuôi dưỡng hỉ xả.

Lên bảy tuổi tôi đi học ở trường Thiên Đức, cách nhà một con đò và hai cây số đường bộ. Trường nằm ở trên chỏm núi. Do mấy người bạn lớn dẫn dắt, một hôm đang giữa giờ học tôi cũng “xin phép thầy cho ra ngoài”. Thật tình tôi không hiểu “đi ra ngoài” là đi đâu mà cứ thấy mấy chị lớn hay giơ ngón tay lên xin. Gạn hỏi mãi một chị tên là Khoan, - sau này lên lớp Tư tôi cứ kêu là chị Lưu Khoan bởi ngẫu nhiên tôi đọc được trong một cuốn sách tập đọc cũ của cha tôi kể sự tích ông Lưu Khoan có người thị nữ bưng bát cháo lên hầu, lỡ tay đánh đổ cháo ra áo chầu vân vân, - giảng cho tôi nghe:

- Đi ra bụi duối ngồi mát.

Tôi nói:

- Ngồi trong lớp đâu có nực? Mát buồn ngủ luôn.

- Nhưng đâu bằng ở ngoài núi? Sẵn trái duối chín hái ăn luôn.

Nhằm trúng cây duối ngọt thì trái duối chín ăn như đường phèn, - tôi đang nghĩ tiếp - Nhằm cây duối trái đắng thì bỏ đi, lựa cho được cây duối ngọt. Kiến vàng đít bự ưa trái duối lắm, bò từng đàn...

- Đôi hồi chạy tuột dốc xuống luôn chùa Cảnh Phước, - chị Khoan tiếp - Xin vài trái chanh chấm ăn với muối.

Thế là tôi lập tâm muốn đi hoang một bữa. Tôi đợi giờ chữ Nho của thầy Lê Ngu Tân. Thầy hiền, không đứa nào sợ. Chị Khoan đợi tôi ở ngoài cửa lớp. Thấy tôi ra, chị khen liền:

- Được đó. Mày phải dạn lên một chút. Thôi bữa nay khỏi ăn duối đi. Tao cho mày xuống chùa Cảnh Phước.

Không cần hỏi tôi có đồng ý không, chị cứ xổ dốc luôn. Trời ơi! Triền dốc thì đứng mà chị cứ chạy băng ào, chạy quá đà phải ôm luôn một nhánh cây mới hãm bớt tốc lực. Nhiều lần như vậy. Cuối cùng chúng tôi lọt vào sân chùa.

Kèm với sự bỡ ngỡ, cái cảm tưởng đầu tiên của tôi là chùa Cảnh Phước giàu hơn chùa Châu Lâm. Có nhiều màu trắng của vôi mới nơi trụ hiên, nơi vách. Có sự bằng phẳng rộng rãi nơi sân, các lối đi được viền bằng cỏ tóc tiên. Hoa được trồng thành bồn. Có một dãy những cái hồ lớn đắp bằng xi-măng trong thả bèo hay trồng sen. Vườn chùa kế tiếp theo sân. Một cây sàn vọt nước cất tiếng kẽo kẹt. Nhiều cây chanh lá xanh um đứng kề thềm giếng. Khế, ổi, bụi môn bạc hà, cây bưởi, vạt bắp, vạt củ mì, và xa hơn, những cây cao có hoa màu đỏ đứng cạnh những ngôi tháp. Nhiều lần sau tôi lại có dịp xổ dốc để xuống thăm chùa Cảnh Phước và mỗi lần như vậy giúp tôi khám phá thêm một nét phong lưu của chùa. Thầy trụ trì vui vẻ nhìn chúng tôi, ngắt cho những trái chanh vừa vò đầu âu yếm. Những lúc ấy tôi bỗng nhớ đến khuôn mặt trầm ngâm của thầy Châu Lâm và không hiểu tại sao tôi chợt thấy thương thầy. Tôi thương ngôi chùa nghèo, có nhiều màu xám nơi cửa nơi vách, có một cái sân không đủ sức để bằng phẳng và vuông vức, có nhiều sỏi đá đến nỗi cây khế cũng không trổ được màu xanh.

Chùa Châu Lâm có một cái tên nôm là “Chùa Đồng Mạ”. Tên đó dành cho những người bình dân trong xóm gọi. Chùa Cảnh Phước không có tên nôm. Trong tuổi ấu thơ, tôi đã nghĩ rằng đó là một sự thiệt thòi của kẻ giàu. Lớn lên, tôi biết rằng có nhiều ngôi chùa vừa giàu có vừa có đủ hai tên. Như Chùa Đá Trắng với tên “Sắc Tứ Từ Quang Tự”, Chùa Tổ với tên là “Sắc Tứ Bát Nhã Tự”. Sắc tứ tức là được nhà vua công nhận và ban cho cái tên. Như là những con người ở ngoài đời vừa giàu vừa sang. Ở Phong Thăng có một ngôi chùa giàu mà không được “sắc tứ”. Nhưng có tên là chùa Bảo Sơn. Bảo Sơn, Linh Sơn, Phước Sơn... những cái tên khi đọc lên có âm vang của sự sang giàu. "Châu Lâm" của xóm tôi khiêm tốn đến nỗi không muốn lạm dụng đến cả âm ba, món trang sức không đòi hỏi phải có nhiều tiền mới sắm được. Có một món quà chùa sẵn lòng tặng cho ai cần: đó là những cành bông điệp.

Không biết tục lệ xuất phát từ đâu mà cả làng tôi mỗi lần có việc cúng là chỉ chăm chăm đi hái bông điệp để cắm lên bàn thờ. Nếu nhằm ngày Tết tháng Giêng thì có thể cắm thêm bông vạn thọ, bông trang đỏ. Những loại khác như cúc, thược dược, huệ, hồng... dầu đẹp nhưng là món cắm chơi giữa người trần với nhau. Tục lệ đó chắc đã nhắm một mục đích kinh tế rõ rệt: cây bông điệp trồng một lần mà ra bông cả vài chục năm bởi nó là thân mộc lớn cỡ bằng cây táo nhơn. Hoa có hai loại, màu đỏ và màu vàng mọc thành chùm nên chỉ cần bẻ ba nhánh nhỏ là đủ ghép thành một bình. Chùa trồng ba, bốn cây ở trên lối đi và như vậy là đủ cho nhu cầu của một xóm.

Sự liên hệ giữa dân xóm và nhà chùa là một liên hệ tinh thần, dầu không sâu đậm thiết tha nhưng mà lúc nào cũng sẵn sàng, hiện diện. Khi có niềm đau nỗi buồn quá sức giải quyết của người thì về chùa để tìm sự an ủi và hy vọng. Nhà có tang mời thầy tụng kinh siêu độ, nhà có người đau ốm trầm kha mới thầy tụng kinh cầu an. Mười năm một lần, ban trị sự ấp tổ chức đàn tràng mời thầy hành lễ, làm chay múa lục cúng suốt ba ngày đêm để cầu an cho dân chúng cả ấp. Người lớn trẻ con, thanh niên thiếu nữ dập dìu tới dự, áo quần tươm tất mặt mày tươi vui khiến tôi nghĩ rằng đây vừa là lễ Tạ Ơn cho mười năm đã qua vừa là Lễ Cầu An cho mười năm sẽ tới. Cỗ bàn dọn ra, ai có mặt cũng được mời ngồi và cầm đũa thọ trai, không phân biệt kẻ lớn người nhỏ kẻ sang người hèn. Y như trong những ngày lễ lớn làm chay ở chùa vậy.

Trong những ngày đó, người có cầm tới bao đèn bao nhang hay buồng cau nải chuối, người có góp phần công đức năm cắc một đồng hay gói trà phong bánh đều được mời dự bữa cơm chay ngang hàng với kẻ chỉ tới tò mò đứng coi. Có người quá nghèo thì tới lãnh phần gọt vỏ bí vỏ khoai hay vo gạo đãi đậu. Có người tối mặt tối mày trong bếp.

Một lần tôi theo ông tôi tới dự lễ Rằm tháng Bảy ở chùa. Thầy trụ trì ngồi nói chuyện bình thản với khách trong khi các người nấu cỗ dọn bàn cứ tự động lo liệu lấy. Họ tự sai phái, phân công làm như chuyện chùa là chuyện của nhà họ. Những tiếng kêu gọi, hỏi han, dặn dò đan chéo vào nhau:

- Đưa đây chai dầu phộng!

- Ra vác thêm bó củi, em em. Lãy bó gộc ở chỗ gốc táo đó.

- Lu gạo để ở đâu? Chớ tỉn này vét hết rồi.

- Hỏi chú Điệu. Chú Điệu ơi! Ủa, mà cứ xúc thúng gạo lúa Gòn của cô Năm mới đội tới đó cũng được mà.

- Bí sáp này chắc lấy giống ở Đờ-răng (Đơn Dương). Trái to mà dài như con heo. Ở trong chùa Tổ, nấu chay có la-ghim Đờ-răng và Trà Lạch (Đà Lạt) chở xuống.

Phải, chùa Tổ là chùa nổi tiếng nhất của cả tỉnh, có nhiều đạo hữu giàu ở các tỉnh khác cũng xin quy y làm đệ tử. Một số các đệ tử gốc ở Dran, Đà Lạt. Mỗi kỳ lễ lớn, họ gởi theo xe hàng xuống từng giỏ cần xé to những bắp su, cà-rốt, khoai tây, đậu Hòa Lan, củ cải... Người ra tả rằng, - có lẽ phần lớn theo tưởng tượng - các bà đệ tử đều mập mạp, áo dài kim tuyến lóng lánh và vàng đeo đầy cổ tay, ngón đeo đầy cà-rá, hột xoàn. Khi ngồi nghĩ đến một cỗ chay thịnh soạn ở Chùa Tổ, các bà Lý bà Hương chắc có ước ao được thưởng thức coi nó ngon ra làm sao nhưng tôi tin rằng đồng thời họ lại cũng đang thêm yêu thương ngôi chùa nghèo của họ và cuộc đời tầm thường của chính họ. Nghèo nàn là một sợi dây thân ái ràng buộc mọi người. Khi có đồng tiền dính dự vào thì đồng tiền gây mầm chia rẽ.

Không khí của một bữa cỗ chay khác xa với một bữa cỗ mặn. Không có sự náo nức của người dự cỗ. Không ai tham ăn, háu ăn, mọi người đều hưỡn đãi mời mọc nhau. Chỉ vì món chay của nhà quê hồi đó không có những mỹ vị đam mê. Xào thì đậu đũa xào dầu, mướp xào dầu, khoai lang xào dầu. Đại khái là một món rau trái được lăn qua trong dầu phộng rồi nằm trong chảo đậy vung hầm hơi cho chín. Món canh thì nhờ đậu phộng mà ngọt, khác nhau chỉ có bát này là bí đỏ, bát kia là bầu, bát nọ là rau cải.

Trong bữa ăn có bày luôn cả các món tráng miệng. Và mười lần như một, thế nào cũng có một người đưa ra ý kiến:

- Ăn chay thì gắp bỏ nhiều món vô chung một bát rồi ăn mới ngon.

Lần nào dự bữa ăn chay tôi cũng có ý đợi chờ xem ai sẽ đầu tiên nói lên câu đó. Ở nhà tôi thì y như cô Bảy tôi lãnh phần nói trước. Và chú Ba tôi thực hành liền. Chú lấy một bát canh, bẻ bánh tráng nướng bỏ vô, gắp xào đậu xào khoai, nộm đu đủ bỏ vô và chú chuẩn bị biểu diễn. Cô tôi đẩy đĩa cốm và bánh in lại gần (ở miền Trung, cốm là thứ bánh làm bằng bột nếp rang trộn đường đóng khuôn):

- Bỏ luôn miếng cốm vô.

Chú Ba cười liền:

- Phải đó, như vậy mới đúng điệu ăn chay.

Khi tôi lớn lên đi đây đi đó, tôi được dẹp ghé thăm nhiều ngôi chùa sang trọng, được dự nhiều bữa tiệc chay thịnh soạn ngon lành. Mỗi lần như vậy là lòng tôi lại bùi ngùi nhớ đến ngôi chùa quê của tôi, đến những bữa cỗ chay thanh đạm nghèo nàn, thanh đạm đến mức “có thể trộn nhiều món vào nhau” mà không sợ mất hương vị. Bởi lẽ, than ôi, có hương vị gì đâu mà gọi rằng mất?

Những kỷ niệm ngày thơ ấu dầu có thời gian cách trở nhưng bây giờ đây mỗi lần nhớ lại là tôi thấy hiện lên rõ ràng trước mặt. Tôi có thể nghe cả giọng nói với âm thanh riêng biệt của từng người. Bà Bộ, buôn trầu cau ở Chợ Chiều, mỗi lần lễ xong tới mục thiêu vàng là khệ nệ lãnh bưng cái nia lớn trên xếp đầy những tờ giấy tiền, thanh y, giấy vàng bạc ra trước sân chùa. Bà châm lửa đốt từng xấp rồi chắp tay nhìn ngọn lửa một cách cung kính. Những tàn tro giấy vỡ ra, bị hơi nóng cuốn hút bay lên, lượn lững lờ. Bà xuýt xoa vái bốn phía rồi nói với những bà con đứng nhìn chung quanh:

- Các Đẳng tới nhận áo và vàng bạc đó. Các Ngài đứng ở trên cao.

Không ai bày tỏ ý kiến. Bà đành nói tiếp, như để thuyết phục một kẻ hoài nghi tưởng tượng nào đó, cái lý luận bà đã chuẩn bị sẵn ở nhà, có lẽ đã nói nhiều lần ở nhiều nơi rồi:

- Chớ trời đâu có gió mà tàn tro cứ nhắm trên cao mà bay?

Mọi người vội vã nghiêm chỉnh và kính cẩn. Cả cái không gian âm u của buổi chiều nơi sân chùa như đầy những vong linh, những cô hồn tụ hội. Bà Bộ thật xứng đáng được các Đẳng ban thưởng. Tôi chưa thấy một khuôn mặt nào rạng rỡ như khuôn mặt bà lúc ấy.

Trải qua cuộc chiến giằng co, ấp Quảng Đức của tôi đã thành bãi chiến trường. Đồng bào bỏ nhà cửa ruộng vườn lũ lượt gồng gánh ra đi. Ngôi chùa xưa chắc còn tịch liêu tàn phế hơn xưa, những con chim chào mào chìa vôi chắc cứ ngang nhiên làm tổ ngay ở chái sau, hiên trước.
 
 
VÕ HỒNG    
 

Thứ Sáu, 17 tháng 10, 2025

KHÔNG TRỐN NỮA - Bình Nguyên Lộc


Hai tay chắp sau mông, bác sĩ Hai đếm bước trên gạch, giữa hai hàng sập trong một "phòng chung" của dưỡng đường Chợ Rẫy.

Bác sĩ lớn người, mập và trắng. Hai cánh tay to, nặng những thịt bệu, thò ra khỏi chiếc "bờ lu" ngắn tay, chừng như mỏi vì đặt mãi sau lưng, được đem ra phía trước, khoanh lại trên ngực.

Người bịnh ở phòng thì cứ ăn cơm, coi như là không có bác sĩ nơi đó, vì họ đã quen với sự đi dạo của bác sĩ giờ nầy trong phòng, y như là ngày hôm qua, hôm kia, những hôm trước nữa. Có một người bịnh mới vô, ái ngại, lén nhìn bác sĩ, rồi không thấy ông ta rầy la gì ai, lại an lòng cúi xuống ăn tiếp.

Bác sĩ không có phận sự xem xét bữa ăn của bịnh nhơn, cũng không có tánh tò mò muốn quan sát cảnh thân mật của người nghèo. Trong dưỡng đường Chợ Rẫy có tục lệ thăm bịnh sớm lắm - sớm đến nỗi muốn cho "đâu đó xong xuôi đàng hoàng" những người quét dọn, mới năm giờ sáng đã lôi tốc người bịnh dậy để vén mùng, lau gạch, đổ ống phóng và những "thầy khán hộ học trò" mới năm giờ rưỡi sáng đã lo đi lấy nhiệt độ, gây nên sự chộn rộn, phá giấc ngủ đang ngon của người bịnh mới lành hay của người bịnh nặng trằn trọc suốt đêm, mới chợp mắt được một đôi giờ - Vì vậy bác sĩ được rảnh rất lâu trước giờ tan buổi làm, và không biết làm gì trong  phòng giấy, nên vào phòng bịnh giữa những bữa ăn - cũng lại rất sớm, dầu người bịnh chưa nghe đói - để cho người giúp việc "xong mọi việc" trước khi hết giờ làm.

Bác sĩ không thích đọc sách, cũng không có một đời sống bên trong phong phú. Ông tìm đến chỗ đông người đặng trốn sự trống rỗng và, không cần nói chuyện với họ, hay nhìn họ, nghe tiếng chén đũa khua, nghe họ râm ri là đủ cho bác sĩ thấy đỡ chán hơn là ở nơi văn phòng tịch mịch của ông.

Người bịnh thì ăn cơm ngay trên sập của mình. Phần đông ăn riêng. Có vài người chung đậu đồ ăn lại. Đó là những người thảo ăn cứ mời mọc nhau mãi như là đãi khách. Có người đem phần ăn lại ngồi chung một sập với người khác, mà vẫn ăn riêng. Đó là những người "thống nhất mà phân trị" vậy.

Không hiểu sao hôm đó bác sĩ lại dừng bước trước sạp của hai người "phân trị". Có phải chăng vì hai chiếc áo màu dà của hai anh "cu li cao su" nầy đã buông một tiếng đàn lạc điệu vào bản nhạc y phục đen tối của phòng thi nầy?

Không biết. Nhưng một cảnh tượng khiến bác sĩ không tiến bước được nữa.

Một anh "cu li" thừa lúc bạn đồng sàn ngó lơ, gắp bớt giá xào tóp mỡ của bạn bỏ vào dĩa mình. Nửa phút sau đó, nạn nhơn thấy bạn nhìn bác sĩ, cũng lại gắp giá xào tóp mỡ của bạn, rồi chôn dưới cơm. Người sau nầy có lẽ cũng tham ăn, chớ không phải trả miếng - nói cho đúng là lấy lại miếng - vì anh ta thật không hay hành vi của bạn hồi nãy.

Bác sĩ bật cười. Bịnh nhơn ngơ ngác buông đũa nhìn. Bác sĩ nhớ lại một chuyện đời xưa nói anh em nhà kia đêm đến lén lén ra đồng vác lúa cho nhau.

Bác sĩ ngạc nhiên không hiểu sao người mình tham ăn đến thế và tham ăn cả những món không ngon đến thế. Ông nhớ lại ở làng, hễ nhà ai có động dao, động thớt là tức thì có người bu đến, cà rà, tìm công việc để làm, nói là giúp, nhưng thâm tâm họ quyết chờ những miếng thịt của con heo người ta đang thọc huyết bên hè.

Bác sĩ trề môi, khinh bỉ hai người bịnh, hay bọn nhà quê mà bác sĩ nhớ đến? Rồi không suy nghĩ thêm nữa cho mệt trí, bác sĩ lại đếm bước trên gạch.

Câu chuyện trên đây đã xảy ra mười lăm năm nay rồi. Nhưng cũng cần nhắc lại.

*

Bác sĩ đương ở nơi đâu, tại nhà ai, nhà ra sao, ông không rõ. Ông chỉ biết mình đang đứng trước chảo cơn chiên. Ông vừa với tay lấy chén để xúc cơm thì một thằng nào đâu không biết, xờn xợt chạy đến đá đổ chảo cơm. Sự tức giậu toan bùng ra bằng ít lắm là một cái bạt tai thì bác sĩ giựt mình thức dậy.

Bác sĩ còn đang tiếc bữa ăn hụt, mặc dầu biết rằng đó chỉ là bữa ăn trong mơ, thì bỗng nghe vang dậy tiếng chào cờ đằng trụ sở bên cạnh nhà ông ở đậu:

... Non sông ơi, cờ theo gió bay càng cao...

Cùng với nắng sớm, tiếng hát reo tươi trên lá xanh, khiến bác sĩ nghe thèn thẹn, nhận thấy tật ngủ trễ của mình có cái gì chọi với đám người trẻ không yên kia, đã dậy cùng với mặt trời.

Nhưng đó chỉ là một ý nghĩ lẩn lút thôi. Vụ hụt ăn lại trở về ám ảnh bác sĩ. Ông nhớ thuở nhỏ thường chiêm bao thấy ăn kẹo, bánh trái. Nhưng không lần nào được ăn thiệt. Luôn luôn có một thằng, một con gì, hay một tiếng động đến rất đúng cái giây phút sắp đưa đồ ăn vào miệng như là có ai quyết tâm cản trở ông ăn trong mơ.

Mấy bà cụ quả quyết rằng "ai" đó là ông thần hộ mạng của mỗi người. Quỷ sứ nó dụ mình ăn. Ăn là chịu theo nó. Bác sĩ bực tức cằn nhằn thầm:

- Mà ai cần hộ mạng chớ. Chết bỏ, miễn là được ăn thôi. Ăn giả, phải. Nhưng cần gì giả hay thiệt. Mình có đói đâu mà cần no. Mình chỉ thèm và cần thỏa cái thèm.

Phải bác sĩ thèm, thèm thịt, hay ít ra cũng món gì chiên xào bằng mỡ, hay tệ lắm là mỡ nước chan cơm ăn, chắc cũng ngon trong lúc thèm nầy.

Một tháng nay, bác sĩ nghe lời "mấy đứa nhỏ" con ông, tản cư vào vùng quê. Trong buổi hỗn độn ban đầu, việc tiếp tế lương thực cho dân chúng thật là bết lết. Ai có cái gì cũng muốn giấu để ăn, vì không biết thời cuộc kéo dài đến bao giờ. Và không ai dám đi đâu để mua cái gì về bán hết.

Sau một bữa ăn kia, trong tuần lễ đầu đi tản cư, bác sĩ nghe thiêu thiếu cái gì. À, một món tráng miệng. Ban đầu ông tính dẹp cái thói quen phiền phức ở thành ấy lại (vì ông cũng biết tự thích nghi với tình thế chớ không quá câu nệ lắm). Nhưng nỗi nhớ mọi người "la sét" lần lần biến thành sự thèm cái gì ngọt, cục đường thẻ cũng được, thứ đường đỏ sẫm lộn rác và bụi mà trước kia không bao giờ ông mó đến. Cái thèm gào hăng quá, bác sĩ thấy nó là sự đòi hỏi về sanh lý hơn là sự nhắc nhở của thói quen. Bác sĩ lẩn thẩn tưởng tượng những biến thể, những trao đổi, những điều hòa bí mật của sanh lý trong các bộ máy của thân ông; ông cử động, máy phải quay; ông muốn quay, nó cần phải có chất đốt; chất đốt đó là đường. Rồi ông đâm hoảng. Sau những suy tính của một nhà khoa học, sự thèm ngọt đã biến thành nỗi lo âu về thiếu chất cần cho cơ thể. Và con người rất thương thân thể của mình nầy bươn bả đi kiếm đường.

Lạ, sao cái món ăn rất thường ấy ở nhà, giờ nào cũng có, tiệm nào cũng bán. Thường quá rồi, có khi người ta quên rằng có nó trong đời nầy. Và không ai gọi nó là món ăn bao giờ. Còn bây giờ ở đây sao lục lạo mãi không ra. Giá nào ông cũng dám mua kia mà. Bác sĩ Hai tính lầm thầm:

- Nếu mua được thứ bánh ít (ích) bột khoai báng, lền xơ khoai, mình cũng sướng chán.

Rồi ông đâm tiếc những trái chuối nẫu (thúi, nát) ruột mà trước kia ông chê. "Chuối? Ờ, cái gì cũng được. Miễn ngọt thì thôi chớ. Người ta đồn bên xóm Bà Miệng, mía nhiều, mình qua đó thử coi".

Bác sĩ Hai đạp rạp rạ khô, đi dưới nắng tháng chạp. Gió đồng dán vào lưng ông vạt sau của chiếc áo bà ba vải đen mà ông phải mặc như những người khác. Vải gặp mồ hôi dính sát vào da. Trong ánh nắng rung rinh, hơi trên lớp vải bốc lên nghi ngút. Bác sĩ bây giờ tóc đã hoa râm, bụng lớn lên và phệ ra. Ông rất phiền phải lặn lội cực khổ vì một món không ra gì. Rồi ông oán "sấp nhỏ" đã xui dại ông. Nào ông có tính tản cư làm chi cho khổ thân. Nhưng "sấp nhỏ" nó cứ nhát: "Tụi con, ba đứa đều làm việc hết. Ba không đi nó sẽ bắn Ba, bỏ tù Ba". Thế là ông hoảng, gởi bà và đứa con nhỏ về Sàigòn, còn mình thì chạy đến làng nầy, và bây giờ phải khổ đủ thứ !

Khi bác sĩ đi ngang qua nhà kia, ông nghe tiếng một người trai trẻ hỏi lớn:

- Mầy làm gì mà hè hụi trong buồng vậy a Lịch?

- Tao làm "công tác đào đường".

- Thằng nói lạ, đào đường gì mà đào trong buồng?

Lạ thật, bác sĩ đứng lại chờ nghe tiếp. Một phút sau nghe tiếng người trai trẻ hồi nãy rùm lên:

- Tụi bây ơi, vô mà coi. Nó đào đường thiệt chớ. Mà điều thứ đường khạp làm ở Biên Hòa.

Bác sĩ quên lễ độ, cười lớn lên với những người trai trẻ trong nhà. Nhờ trận cười ấy mà bác sĩ làm quen được với họ và khỏi phải đi xa. Và từ đó biết chỗ mua đường.

"Ai mà cần ai hộ mạng chớ", bác sĩ tức tối cằn nhằn với mình; bác sĩ đã bị thịt, bị mỡ ám ảnh. Từ ngày bị cướp ở làng bên cạnh, bác sĩ hết tiền, trôi dạt qua đây, nhờ một người bà con cho mượn chút ít, bác sĩ phải ăn hà tiện cho đỡ tốn. Không đến đỗi chết đói, nhưng cũng không no lắm. Nhứt là mấy ngày sau đây số tiền đã cạn mà người bà con lại bị Tây bắt mất. Không biết ai đó ở đâu, và hồi nào vì sự tình cờ hay nhờ tìm tòi, mà đã phát minh ra rằng ăn cơm với mắm ruốc cùng đường ngon tuyệt. Rồi như một dây thuốc pháo bị cháy lan, nghệ thuật ăn của phái "mắm ruốc đường" được phổ cập khắp các làng. Vả không hoan nghinh mắm ruốc cũng không có gì khác mà ăn, vì người nào cũng hết tiền, còn thịt heo thì mắc như vàng.

Một và cơm, một quệt mắm, một miếng đường tán nhỏ, cái thành phần kỳ dị của những miếng ăn ấy đối với bác sĩ chỉ "ngon tuyệt" bữa đầu thôi. Mấy bữa sau ông nghe xót ruột như đã uống át-pi-rin không ngâm tan trong nước. Ông thề nguyền khi trở về, không bao giờ dám chê ngán những đĩa ra-gu, những miếng sườn ram nữa.

Bác sĩ triết lý:

- Thèm ngọt không nằm chiêm bao. Thèm thịt thì nằm. Vậy cơ thể đòi thịt hơn là đòi đường.

Ông nhớ lại cái chết tội nghiệp trong nhà thương của những người bịnh thương hàn mới khỏi. Nhiều người rất biết nỗi nguy nếu ăn khi mới vừa khỏi, nhưng vẫn ăn bừa chỉ vì thèm, đói quá. Ăn rồi lăn đùng ra khóc không phải vì đau đớn, mà vì hối hận, hoảng sợ cái chết đến nơi trong vài giờ.

"Thịt kho tàu, khổ qua hầm, cũng ngon chớ - không hiểu vì một ý bắc cầu nào mà bác sĩ nhảy từ người bịnh thương hàn chết oan đến vụ thịt kho - mà sao cho bằng "cay xôi cấy", "hà khàu", "phù dùn hại". Cá hấp tương với đồ Tàu cũng ngon. Nữa mình về, mình sẽ đi ăn hai ngày đồ Tây, hai ngày đồ Tàu, ba bốn ngày mì chả giò, hủ tiếu xào, xíu mại, bánh bao".

Bác sĩ thở dài, rầu lòng nhớ lại ý muốn trốn về thành mà không được của ông. Chung quanh ông toàn là thanh niên vác tầm vông canh gác. Một con chó cũng không lọt qua. Còn cái làng gì ở biên giới thành ấy, nghe họ nói gác dày mịch như màn sắt mà ghê. "Nghĩ mà tiếc của cải mấy mươi năm gây dựng, không biết nữa còn chút ít gì không. Còn ba đứa lớn, thằng Minh, thằng Công, con Hà, chúng nó sẽ học dở dang, thua sút đám con ông huyện Cần".

Bỗng bác sĩ Hai ngồi tốc dậy sần sượng với ai:

- Mà ai cầu ai hộ mạng chớ?

*

Bác sĩ lững thững lại tiệm cà phê. Tiệm cà phê đây là một chòi tranh mà chủ nhà, một dân quê có óc con buôn nhìn thấy bao nhiêu người lạ mặt tựu về, người nào cũng ghiền cà phê, bèn chụp ngay cơ hội tốt, mở tiệm. Mặc dầu vợt làm bằng vải áo cũ, và cà phê có mùi cơm cháy, khách vẫn đông, nhứt là những ông đằng đình, cái đình làng dùng làm trụ sở.

- Bà chiên gì mà thơm dữ vậy? Bác sĩ hỏi chủ quán.

- Tôi ram thịt để bán.

- Thịt ram ăn với gì?

- Cuốn bánh tráng.

- Trời! sớm mai, ai mà ăn bánh tráng cuốn thịt ram.

Nói vậy nhưng bác sĩ vẫn hỉnh mũi hít mùi thịt chiên. Ông cố hít nhẹ cho bà chủ quán không nghe thấy và hít dài để tận hưởng.

Bác sĩ mò tay vào túi, rồi nét mặt ông xịu xuống, không phải vì thất vọng, mà vì rầu. Ông men lại chảo thịt chiên. Đây là một mớ thịt phay, mỡ chiếm tám phần mười trong mỗi lát thịt. Thịt đã ram vàng, mỡ thịt thắng ra lênh láng.

- Tôi nghe như là thịt hôi, phải không bà?

- Hôi gì mà hôi. Thịt chiều hôm qua đó.

- Tức quá! Tôi thử coi.

Nói đoạn bác sĩ lấy đũa gắp một miếng, đưa lên mũi. Ông làm bộ như chưa đánh hơi ra mùi thật của nó, thổi sơ vào miếng thịt rồi cắn một miếng.

- Phải thịt tươi. Tôi chịu thua bà - Miệng nói răng nhăn miếng mỡ nhỏ xíu vừa mưu mẹo cắn được.

- Cho một tách cà phê bà.

Mùi thịt ram mơn trớn mũi ông Hai, chọc những hạch nước miếng hai bên hàm dưới ông. Và ông lắng nghe nơi bao tử, một thứ nước gì tiết ra.

- Hay là mình ăn chịu? Không được. Họ không tín đám người lạ mặt cứ lưu động mãi nầy. Không lẽ ăn bừa rồi tới đâu sẽ hay. Chậc! Cũng không còn cái đồng hồ để cầm đỡ. Bây giờ làm thế nào ăn được món thịt ram cuốn bánh tráng? Thật là cả một bài toán đố khó giải lý.

Chợt có người bước vào, bác sĩ Hai rất mừng khi nhận thấy người còn trẻ ấy là người quen cũ ở thành.

- Anh giúp ban tuyên truyền?

- Thưa phải. Hổm nay hai anh Minh, Công và chị Hà có về thăm bác không?

- Sấp nhỏ nó đi đâu mất, tôi lo quá.

Dạ thưa còn bác có giúp đâu chưa?

- Ôi tôi già rồi...

Người con trai tên là Tương nầy kêu bánh tráng cuốn thịt ram.

- Dạ thưa bác, món nầy, hồi ở nhà có mấy thuở mình ăn, nhứt là sớm mai. Mà sao giờ ăn ngon lạ.

Bác sĩ Hai mỉm cười một cách cố thản nhiên. Ông theo dõi từng cử chỉ của Tương. Hai hàm răng bén của người trẻ cắn đứt ngon cuốn thịt, đôi môi khép lại, che giấu cái bã đồ ăn đang nhai.

- Cháu vô phép quá. Xin lỗi, bác đã điểm tâm rồi?

Bác sĩ còn một chỗ nước miếng trong họng, vội nuốt để trả lời. Nhưng bác sĩ giựt mình e thẹn nghe tiếng nuốt nước miếng của mình lớn quá. Lại mớ nước miếng nữa dồn đến. Nuốt đánh ực nữa thì sợ Tương nó nghe biết, nó cười thầm. Còn để vậy thì nghẹt họng, đừng nói chi trả lời, nội cái việc thở mà còn không thông, bác sĩ bưng tách cà phê lên, làm bộ uống nốt những giọt đã cạn tử hồi nào, nuốt trôi được mớ nước miếng và rất bằng lòng thấy sao mình lanh trí được như vậy.

Thấy rằng nếu làm bộ chê món thịt cuốn thì thất sách, bác sĩ ấp úng:

- Tôi vừa ăn xong cũng món độc nhứt đó.

Nhưng bác sĩ hối bận ngay. Ờ, mình đã ăn rồi thì còn ma nào nó mời nữa.

Tương không mắc cỡ miệng, mặc dầu bác sĩ nhìn anh trừng trừng. Sau những cái nuốt, anh thè lưỡi liếm môi mỡ và đánh lưỡi một cái "chách" lên đốc giọng. Bỗng một miếng mỡ rơi xuống đất. Bác sĩ nhìn theo vừa tiếc hùi hụi thì một con chó vện chực sẵn đâu dưới ấy hồi nào không biết, táp phập ngay lấy.

Nhìn sự chụp giựt của con chó đói nhà quê, nhìn lại mình, một niềm tủi nhục mênh mông bỗng dâng trào lên, vặn thắt trái tim không bao giờ biết thổn thức của bác sĩ lại.

Bác sĩ cúi gầm mặt xuống chiếc bàn cũ. Trong giây phút những hình ảnh xưa ở đâu hiện về, chớp nhoáng; hai người bịnh nghèo ăn cắp giá xào lẫn nhau, mười lăm năm về trước, những người nhà quê bu quanh một cái hòm, ăn nhậu; những miếng thịt heo đút lò cả chồng mỡ, trong đình làng...

Bị kích thích mạnh, óc bác sĩ Hai làm việc chóng và nhiều hơn bao giờ hết.

- Tại sao họ tham ăn, tại sao mình thèm ăn quá như vậy?

Câu trả lời đến ngay trong trí bác sĩ.

Sự thật nảy ra như tia lửa trong một buổi sáng thèm thịt làm ông ta lảo đảo. Ông nghe cả một sự sụp đổ trong người ông. Sự sụp đổ của nhơn sinh quan sẵn có của ông.

Sự thật đầu tiên, đến tóc bạc hoa râm ông mới tìm thấy.

Rồi ba chơn, bốn cẳng, ông chạy ù về nhà, miệng lẩm bẩm:

- Thôi không thèm trốn về nữa. Mình phải đi xin một việc làm mới được. Phải mà, người mình không tham ăn sao được!
 
(Trích từ tập truyện ngắn Nhốt Gió)