Thứ Hai, 24 tháng 11, 2025

HÃY ĐẾN CHẬM HƠN NỮA - Võ Hồng


Mỗi năm có khoảng chừng mười lần tôi nhớ đến Hoạt. Số lần nhớ tăng theo tỷ lệ thuận với số tuổi. Rõ ràng là càng lớn tuổi người ta càng hay nhìn về quá khứ, không phải vì thích nhìn mà dường như vì người ta bắt buộc phải nhìn.

Hoạt học chung lớp vỡ lòng với tôi. Trải qua một niên khóa, anh không có đặc điểm gì khiến tôi lưu ý. Có lẽ chỉ cái tên của anh là có đôi chút đặc biệt. Chúng tôi gọi là Quạt và liền trong óc hiện hình cụ thể ra một cái quạt. Thật tiện lợi và tự nhiên. Hồi đó người ta dùng cái quạt bằng giấy phất lên trên những cái nan tre xòe ra xếp lại gọn gàng. Những kép hát bội đóng vai nịnh thần sử dụng quạt nhiều nhất, hầu như thường xuyên có cái quạt trên tay. Cái quạt biến thành vũ khí tùy thân như thời nay cái súng đánh đai trên vai người lính. Khi cần bắt khán giả lưu ý đến câu nói của mình, tên nịnh thần thường vừa nói vừa duỗi tay mặt xòe cái quạt ra, còn tay trái thì vuốt râu. Mấy cô công chúa cũng hay cầm quạt. Khi đợi người tình lang phùng gân cổ vừa trợn mắt lên hát cho hết đoạn Nam đoạn Bắc của hắn, thì nàng công chúa lợi dụng cây quạt đang cầm tay để quạt cho đỡ nực. Khán giả đâu có lưu ý chê trách một cử chỉ phản nghệ thuật như vậy bởi chính nhiều khi có thấy nàng công chúa quạt mát trên sân khấu, khán giả mới bỗng chợt nhớ đến cây quạt cầm tay của mình và thế là cả rạp hát phấp phới những cánh quạt màu trắng như những cánh bướm hoạt động. Chúng tôi đứa nào cũng có những kinh nghiệm đi coi hát bội như vậy.

Ở nhà vườn người ta dùng mo cau để cắt thành quạt. Đó là thứ quạt bền nhất, khi ngủ quên tha hồ nằm lăn lên trên và khi giận con thì trở cán mà vụt, vụt chết thôi, không sợ rách, không sợ gãy. Những người nghèo không có cây cau mọc trong vườn, không có cái vườn để cây cau mọc thì qua mùa Hè khi gió Nam tạt hơi nóng vào mặt, họ đi lượm những bẹ tre ở các bờ tre làng. Lúc bấy giờ những cây măng đã mọc cao và đốt nào vừa già đủ sức chịu đựng nắng gió thì vội cổi bỏ cái bẹ bấy lâu nay vẫn che chở nó. Các cái bẹ rớt lang thang trên mặt đường đi, được lượm lên, đem về nhà dùng dao vanh cắt thành hình quạt.

Cả một hệ thống quạt như thế dành cho sự liên tưởng của tôi.

Sau này khi lên đến lớp Tư, Hoạt dẫn một đứa em của anh đến xin học. Tên nó là Bác. Chúng tôi sắp sửa liên tưởng đến “cái chén”, - chúng tôi là dân miền Nam nên chuyên môn đọc sai những chữ tận cùng bằng T, C, có G và không G, - thì thầy giáo gật gù bảo Hoạt:

- Ai bày cha mày đặt tên là “Hoạt bác”?

Hoạt lí nhí:

- Dạ thưa thầy con không biết.

Thầy quay lại chúng tôi:

- Đố các trò “Hoạt bác” là gì?

Nhiều đứa rúc rích cười thích thú nhưng không dám giơ tay xin nói. Chắc đứa nào cũng có một lối giảng nghĩa như nhau. Đợi lâu không thấy đứa nào xung phong, thầy chỉ ngay thằng Lăng.

Lăng đứng dậy:

- Dạ thưa thầy là mình quạt cho Bác mình, là trời nóng Bác mình sai mình quạt cho ổng mát…

Cách giải thích thật bất ngờ, và “ông Bác” thì cũng cụ thể dễ tưởng tượng như “cái chén” nên cả lớp cười rộ lên. Thầy cũng cười theo.

- Các trò dốt. “Hoạt bác” là chữ Nho. Nghĩa là ăn nói trôi chảy, ai hỏi đâu trả lời đó.

Hoạt không ăn nói trôi chảy, thông thạo như y nghĩa của cái tên anh. Thầy kêu lên đọc bài thì anh cà kê chỉ một câu đầu, lặp lại mỗi chữ đến năm, bảy lần rồi đứng khựng. Lúc bấy giờ ngón tay cái của anh làm việc tay cái lưỡi. Anh thọc ngón tay vào lỗ bàn chỗ dành gài gô-đê mực và cứ thọc vô rút ra. Thầy hỏi:

- Ai biểu mày nạo lỗ gô-đê?

Anh ngước mặt lên ngớ ngẩn hỏi:

- Dạ? Dạ thầy sai con nạo cái gì?

Trời ơi! Ngu ơi là ngu! Đến giờ chơi chúng tôi bao vây anh để hành hạ tiếp.

- Hồi nãy thầy sai anh nạo cái gì vậy?

- Tao đâu có biết? Ổng nói tao không nghe, tao hỏi lại ổng không nói.

- Chiều nay mà anh không nạo xong thì chết anh.

- Tao biết nạo cái gì?

- Sao không hỏi lại cho rõ?

- Hỏi rồi mà không nói.

- Kệ anh. Chiều nay bị đòn kệ xác anh.

Chiều đó Hoạt trốn học. Thầy sai bốn anh sức vóc lực lưỡng đến nhà bắt. Tìm khắp nhà trên tìm xuống nhà bếp. Mẹ anh nói:

- Uở lạ. Nó có ôm sách vở đội mũ xách ve mực đi học rõ ràng mà. Chớ đi đâu mà không tới trường?

Cha anh chậm rãi nói từng tiếng:

- Thằng nhỏ giấu vở đi chơi ở đâu rồi be. Chắc theo lũ thằng Bạch thằng Trinh đi đánh trổng hay đi bắt chim.

- Ông mới đánh nứt đít hôm kia, chắc bữa nay không dám, - lời mẹ anh.

- Nó sợ ai mà không dám?

Xem chừng cuộc đối thoại dài nhằm không giúp ích gì cho cuộc sưu sách phạm nhân, bốn vệ sĩ đi lần ra sân sau, lục lọi từng bụi chuối, từng đống củi. Vẫn không tung tích. Bốn người thả bộ về chuồng bò. Con Xe con Pháo nghểnh cái mặt dài đuỗng lên ngó, miệng ngồm ngoàm nhai, đuôi quất lia lịa lên sườn lên lưng.

- Thằng này coi vậy mà biến hóa như thần, - một đứa nói.

- Nó dám biến làm con ruồi lắm. Hồi hôm dượng Năm tao đọc truyện Tây Du cho bà Nội tao nghe có đoạn ông Tề Thiên biến làm con muỗi, - một đứa trả lời.

- Biến làm con bò chắc ăn hơn. Biến làm con ruồi con muỗi, lỡ con bò nó quất đuôi trúng một cái chết nhăn răng.

Miệng nói mắt dòm, tay cầm cây củi đập vu vơ lên cây róng chuồng bò, lên đống rơm để dành bỏ cho bò ăn.

Chợt đống rơm vùng dậy. Một bóng đen vụt trồi lên. Anh Hoạt. Rơm dính đầy đầu, rơm ghim đầy áo, anh phóng một sải rồi chạy u một mạch vượt vuông sân, vượt luôn đám đất xanh um những vồng khoai lang, nhảy thoát qua bờ rào, biến mất. Những cọng rơm bị phủi bay còn lượn lững lờ trước khi rơi xuống đất. Anh Khóa, một vệ sĩ giật mình đứng khựng.

- May thằng này không có võ. Nếu không thì nó đã cho tao một đá, bể bong bóng để chạy thoát thân.

- Mày dở quá. Chớ cây củi cầm trên tay làm chi? Phang cho nó một đòn.

Đại để đó là những kỷ niệm Hoạt đã gởi lại trong trí nhớ của tôi.

Sau khi học xong hết lớp Tư thì chúng tôi xa cách nhau. Tôi lên trên trường Phủ, trường Tỉnh học tiếp còn Hoạt thì trở về nhà thừa kế công việc của cha anh để sau này tiến lên thay thế.

Sau đó chừng bốn, năm năm, một hôm không nhớ đang nói chuyện gì bỗng một người bạn nhắc đến Hoạt. Giọng nói đang to chợt nhỏ đi, thì thầm như một tâm sự.

- … nó bị phung.

Không ai được chuẩn bị để nghe tin đó nên ai nấy đều có cảm tưởng mình vừa rùng mình. Chừng như người ta có quyền mắc một trăm thứ bệnh khác, điều đó không khiến ai ngạc nhiên, chứ bệnh phung thì không thể tưởng tượng được.

- Cha nó phải dựng một cái chòi ở giữa đám dưa hấu ngoài soi để giấu nó ngoài đó, - lời người bạn kể. Nhưng lâu ngày rồi cũng bị lộ. Có người đâm đơn xuống Huyện. Nhà nước tới bắt chở đi…

Không ai tìm hỏi xem “Nhà nước” là cơ quan nào và anh bị chở đi đâu. Cái tai họa lớn quá, quá tầm lo lắng của sức người nên ai cũng chỉ nghe rồi chép miệng rồi thôi. Y như khi nghe tin một người đã từ trần. Chắc chắn không ai hỏi xem linh hồn người đó đang đi về hướng nào, Thiên đường hay Địa ngục. Sức người dừng lại ở hơi thở hắt ra, bất lực đầu hàng và tiếp sau đó là phần việc của Phật, của Chúa, của Allah. Coi như là chúng tôi đã trao việc vào tay của Thượng đế rồi vậy.

Năm tháng dần trôi, những người bạn của tôi và tôi đều lớn lên, đứa nào cũng được quây quần bởi một gia đình, như cây keo, cây me, cây sầu đông khi đứng tuổi sức vóc vững vàng thì bao giờ cũng có nhiều cây con đứng xúm xít xung quanh. Có những cây con mơn mởn vượt cao ngang tầm ngực của cây mẹ, - mười tám, hai mươi tuổi rồi đó, - có những cây mảnh mai yếu đuối rụt rè chìa được đôi cành, - chín, mười tuổi, - và có những cây mới nhú từ mặt đất, nhỏ nhoi ngơ ngác. Tôi thấy đứa bạn nào cũng trở nên nghiêm trang và nhiều đứa nghiêm trang một cách thái quá đến độ buồn cười. Đứa nào cũng đột nhiên tăng giá trị, thứ giá trị được dán thêm do những đứa con mang lại. Thằng Phong có đứa con đầu lòng làm tới Đại úy công binh. Nó không cần phải tham nhũng mà nhà đầy xi măng, đầy sắt. Đứa con út của nó khi mặc quần đùi thì để lộ cặp chân to và đen, vạm vỡ như cặp chân voi. Thằng Lào có hai người rể, một tên làm Quận trưởng, một tên làm Thiếu úy Trợ y. Vân vân. Được “Dạ” bởi những sĩ quan và cán bộ Hành chánh như thế, được nể nang bởi những bắp thịt hùng hậu như vậy, được đặt lên trên đầu của lũ cháu nội cháu ngoại, các người bạn may mắn của tôi thật có dư lý lẽ để hãnh diện. Những lúc đó tôi nhớ đến Hoạt. Sao bao nhiêu khổ đau lại chỉ dành cho anh? Bao nhiêu nhức nhối vật chất, giá lạnh tâm hồn lại dành tặng cho riêng một anh? Bây giờ anh ở nơi nào? Còn sống hay đã chết? Tôi có ý nghĩ là anh đã chết rồi, quằn quại nhiều ngày trên giường bệnh, cô đơn hơn bất cứ một người hấp hối nào. Sự xót thương và những ý nghĩ đó in sâu vào óc tôi đến nỗi có lần gặp cha mẹ anh mà tôi không hề dám hỏi tin tức anh. Thậm chí gặp bạn bè mà tôi cũng không dám hỏi nữa. Tôi sợ phải nghe một câu trẻ lời, chẳng hạn: “Nó chết hơn hai mươi năm nay rồi mà mày chưa biết!” Lúc đó tôi sẽ thấy mình là tên vô nghĩa bạc tình và tôi đành tìm một lẽ để bào chữa: Có biết được sự thực hay không cũng vô ích. Nó không giúp đỡ cho anh được chút nào. Còn đối với cha mẹ anh thì chỉ khơi một mối buồn. Tốt hơn hết là để cho quên đi.

Vì quả thật vậy, mỗi lần gặp mẹ anh, tôi có cảm tưởng như bà đang âm thầm nghĩ đến đứa con bất hạnh của bà. Trên vai bà thường có một gánh nặng, lúc thì một gánh bông, lúc thì một gánh đường và bà lầm lũi bước, mắt nhìn xuống đất. Tôi không lần nào gặp bà đứng nói chuyện với ai để được nhìn một nụ cười làm tươi ánh mắt. Mà dường như thường trực đó là một khuôn mặt đăm chiêu, cằn cỗi, đối thoại âm thầm với mặt đường sỏi đá, xơ xác cỏ khô.

Anh có một người em gái nước da ngâm đen nhưng có sắc đẹp mặn mà. Hai đường chân mày dài và cong che một đôi mắt đen mở rộng. Cái mũi thẳng và đôi mắt sắc sảo. Vài đứa bạn của tôi mê người em gái anh và tôi không hiểu khi ngồi kề cái khuôn mặt xinh xắn đó, cầm hai bàn tay mảnh mai đó, họ có liên tưởng đến khuôn mặt và bàn tay của anh chăng? Riêng tôi thì sau khi xa cách anh chừng năm, bảy năm tôi quên dần những nét trên khuôn mặt anh để dần dần thay vào đó bằng những nét của cô em. Dường như có một sự tranh giành nào đó, một sự thỏa nhượng nào đó, một sự xê dịch lặng lẽ của hai khuôn mặt nhằm thay thế và phản ứng lại sự thay thế. Có khi hai khuôn mặt hiện ra chập chờn và cuối cùng bao giờ tôi cũng nghiêng về cô em của anh hơn, đôi con mắt đen và hai đường chân mày dài thu hút dần tâm hồn của tôi.

Gần đây do một ngẫu nhiên mà tôi được tiếp xúc với một sư huynh quản đốc một viện bài cùi.

- Bệnh cùi, - lời vị sư huynh, - chúng tôi chữa lành được. Có nhiều bằng chứng cụ thể, có những tấm ảnh chúng tôi còn giữ lại để làm tài liệu, tấm ảnh chụp người bệnh khi nhập viện và khi xuất viện.

Tôi dè dặt trong cuộc đối thoại:

- Người ta nói rằng thuốc Sulfon chỉ giữ cho bệnh không tăng thêm chứ chưa thể…

- Không phải vậy. Tôi lấy mấy trường hợp này coi như là cụ thể nhất: có mấy sĩ quan đang chiến đấu thì bị phát giác là mắc bệnh. Thử máu, đúng là có vi trùng. Cho nhập viện để chúng tôi chữa. Sau sáu tháng hay một năm, hay hai năm, tùy bệnh nặng nhẹ, họ lành mạnh trở lại. Thử máu, thấy hết vi trùng, chúng tôi trả họ lại cho đơn vị và hiện họ đang tiếp tục đánh giặc.

- Chắc phải thử máu rất nhiều lần mới có thể kết luận…

- Tôi hiểu sự hoài nghi của ông. Cố nhiên là khoa học có nhiệm vụ và có khả năng đi tới không ngừng và như vậy nghĩa là ở chặng đường nào chúng ta cũng chỉ biết được sự thật tương đối. Thôi, tôi xin đưa những trường hợp khác, những sự thật nó nhảy thẳng vào mắt mình không cần viện dẫn đến kiểm chứng khoa học. Có một nữ bệnh nhân khi nhập viện thì bệnh đã tàn phá cơ thể, lở lói cả lưng và trạng thái suy nhược đến nỗi chị ta đã xin dọn mình để chết. Chúng tôi nhẫn nại chữa. Kết quả là hôm nay chị đã khỏe mạnh và hiện chị gánh đôi thùng nước chạy vù vù. Hôm nào mời ông qua Viện, tôi xin giới thiệu cho ông gặp:

- Nếu được biết sự công hiệu của thuốc chữa như vậy thì chắc những người mới mắc bệnh không đến nỗi vừa trốn tránh vừa tuyệt vọng như chúng ta vẫn nghe nói.

- Vâng, họ trốn tránh vì họ không biết là chúng tôi chữa lành được bệnh. Có người mắc bệnh cứ nằm trốn trên lầu. Tôi tới tìm gặp khuyên nên đến với chúng tôi để chúng tôi lo chạy chữa săn sóc cho thì tôi bị mắng tơi bời. Bệnh nhân nói rằng chúng tôi vu khống để làm hại uy tín của họ, rằng những vết sần sùi trên mặt trên tay chỉ là kết quả của chứng đau gan mà họ đang chữa. Cố nhiên là chúng tôi phải hết sức nhẫn nại trong việc thuyết phục.

- Trong khi đó thì có những bệnh nhân lén bỏ Viện trốn đi…

- Số đó vẫn có. Ngoài những nguyên nhân tâm lý dị biệt còn có nguyên nhân này dễ giải thích: đó là thuốc Sulfon khi mới uống thì nó hành hạ bệnh nhân dữ lắm. Phải trì chí, phải chịu khó… Nhiều người sau khi chữa lành bệnh không muốn dời viện về nhà. Họ ở lại giúp tay chúng tôi, xây dựng gia đình và họ sinh những đứa con khỏe mạnh xinh xắn.

- Những thành công tốt đẹp trong việc chữa bệnh cùi như vậy, đáng lẽ phải được phổ biến rộng rãi cho nhiều người biết, cho những người lỡ mắc bệnh biết mà tin tưởng, cho những người chưa mắc bệnh biết mà an tâm. Cổ nhân ta bảo rằng “Phong, lao, cổ, lại tứ chứng nan y”. Tuy nói là “nan y” nhưng có thể coi như là “tuyệt vọng”.

- Chúng tôi có một nguyệt san để phổ biến những kinh nghiệm và những thành quả chữa bệnh của Viện chúng tôi. Có một buổi phát thanh ở đài Vô tuyến truyền thanh địa phương.

- Tuy vậy nhưng dường như sự phổ biến không được rộng bao nhiêu. Người ta vẫn còn giữ những ngộ nhận về bệnh cùi, nhất là cái số phận bi thảm dành cho những bệnh nhân vào thời Trung cổ mà các cuốn sử Tây phương đã chép lại. Tôi nhớ hình như các bệnh nhân thời đó phải che trại ở trên núi và mỗi lần cần phải di chuyển thì tự họ phải rung chuông đánh kiểng cho những ai vô tình ở gần đó phải chạy lánh đi. Hãy tưởng tượng bao nhiêu nỗi cô đơn, bao nhiêu khổ đau tinh thần họ phải nếm hàng ngày ngoài những khổ đau vật chất.

- Vì vậy cho nên việc tập trung sống vào một nơi, cạnh những người đồng cảnh ngộ và cạnh những người chạy chữa và giúp đỡ họ, việc đó an ủi tinh thần của họ nhiều lắm. Thỉnh thoảng có những cá nhân đồng bào hay đoàn thể tư nhân tới thăm và giúp đỡ bằng tiền bạc hay phẩm vật. Có những đoàn thanh niên du ca tới trình diễn ca nhạc để cho họ giải trí.

- Tôi tưởng người ta có thể làm hơn…

- Có vậy. Ông Raoul Follerau đã nhiều lần kêu gọi lương tâm nhân loại. Chỉ cần tiết giảm chiến tranh là có dư tiền để biến cải cuộc đời những người cùi trên thế giới, những người mắc các chứng bệnh hiểm nghèo khác, những người nghèo nàn. Ông kêu gọi các nước hãy góp số tiền chiến phí một ngày để cứu bệnh, cứu đói và cứu khổ. Một ngày chiến phí tối thiểu là năm trăm triệu đô la. Để tiền mua một hàng không mẫu hạm, người ta có thể nuôi sống 400.000 người trong một năm. Để tiền sắm một chiếc tàu ngầm, người ta có thể mua 50.000 tấn thịt phát cho người đói. Để tiền trang bị cho một sư đoàn thiết giáp, người ta có thể xây 32.000 căn nhà, mỗi căn có 4 phòng.

- Lời kêu gọi đó đã được hưởng ứng?

- Hiện đã có một triệu rưỡi chữ ký của thanh niên 105 nước ủng hộ, mười ba vị quốc trưởng, 29 chính phủ tán thành. Không sớm thì muộn, nhân loại cũng sẽ có ngày chợt tỉnh.

- Công cuộc của Viện ông phải được quảng đại quần chúng biết và góp phần giúp đỡ. Ai cũng có thể mắc bệnh cùi. Tưởng tượng rằng một ngày kia mình lỡ mắc phải bệnh và những người xung quanh mình sẽ đãi ngộ mình với con mắt nào, cho dù là những người thân yêu nhất của mình! Tôi nghĩ rằng ai cũng mềm lòng trước những đồng bào ít may mắn đang gánh chịu những tai họa thay cho mình.

Vị Tu sĩ cười:

- Ông còn ngây thơ. Cũng có người biết trực tiếp lợi dụng chúng tôi. Những phẩm vật, những máy móc do các cơ quan từ thiện quốc tế viện trợ…

Tôi không đủ can đảm nghe hết câu. Cái điệp khúc đó quen thuộc quá như những hành khúc buổi sáng có “Tiến lên nào! Nào vùng lên! Hăng hái xông pha! Anh em ta cùng tiến lên!” Tôi không muốn câu chuyện lại sang mục tham nhũng. Đã có chính phủ, báo chí và đài phát thanh nói tới nhiều rồi. Tôi đang vui vẻ vì loài người có những Raoul Follereau, những Fromm, Wittmann đã khổ công tìm ra DDS… Tôi đang vui vì có những mùa xuân học sinh bỏ lệ ăn liên hoan để lấy tiền giúp đồng bào bệnh nhân ở viện bài cùi. Tôi nghĩ đến vô số những trường Tiểu học, những trường Trung học trong toàn quốc. Nếu các em đều dẹp bỏ những cuộc ăn uống không cần thiết như vậy! Nếu những người lớn cũng dẹp bỏ những món xài phí vô ích, những cành đào cành mai giá đến mười ngàn đồng, những vé thượng hạng một ngàn năm trăm đồng đi xem Đại nhạc hội có vũ khúc sexy, có trình bày Hoa hậu thời trang.

- Nhân loại rồi sẽ có ngày chợt tỉnh, - vị tu sĩ lẩm nhẩm nói.

Tôi nghĩ đến Hoạt liền ngay lúc đó và những ngày sau đó. Sao anh sinh ra đời chi sớm những ba mươi năm? Có gì đâu để mà vội vàng? Anh đã hưởng được gì ở cuộc đời? Nghe một tiếng chim tu hú vào đầu mùa Hè, ngửi một mùi thơm của hoa mù u trong buổi chiều, nhìn những con chuồn chuồn đảo lộn trên nền trời sau cơn mưa… những niềm vui đó quá nhỏ so với nỗi khổ đè nặng của anh. Giá cứ thong thả, giá cứ đến chậm chậm một chút để kịp cho nhân loại dọn dẹp bớt những khổ não. Giá anh sống lùi lại ba mươi năm, năm mươi năm thì anh sẽ cởi bỏ được dễ dàng niềm đau thân xác, chận đứng và xóa đi những vết tàn phá. Dẫu hết sức lạc quan, tôi cũng không mảy may hy vọng anh sống sót đến ngày hôm nay, cho nên mặc dù tôi có thể nhờ tra cứu sổ bộ xem anh đã sống ở viện bài cùi nào, bệnh chứng của anh tăng giảm như thế nào trong những năm xa xôi của dĩ vãng, tôi cũng thấy tôi nên tự ngăn cản mình đừng quấy rầy những cuốn sổ đã nằm im dưới nhiều lớp bụi. Trong cuộc sống trần gian, giữa những đau đớn vật chất và tinh thần, chắc chắn anh không thể nào nghĩ rằng tôi lại có nhiều hồi ngồi nhớ đến anh. Anh tưởng mọi người đã quên anh rồi, trừ cha mẹ và cô em gái, trừ những người bà con và láng giềng trực tiếp của anh. Anh có ngờ đâu rằng anh vẫn hiện diện đó trong tâm hồn tôi, lúc thì nhường chỗ cho những hình bóng khác, lúc thì độc chiếm trọn vẹn, anh, cái dáng ngây thơ âu sầu của những ngày nhỏ dại chừng như không thay đổi, không hề thay đổi bởi bệnh tật và thời gian.

 
(Trích từ tập truyện ngắn Trầm Mặc Cây Rừng)
 

Chủ Nhật, 16 tháng 11, 2025

NHỮNG ĐỨA CON THƯƠNG CỦA ĐẤT MẸ - Bình Nguyên Lộc


Họ gặp nhau trong mùa nghỉ mát năm ngoái, và hôm trước tết, họ bàn tính với nhau là hết mùa nghỉ mát năm nay, họ sẽ làm lễ thành hôn với nhau. Đời bây giờ mà để ra tới những mười hai tháng để tìm hiểu nhau thì quả cặp Tuấn - Lucie Minh dè dặt có một không hai. Chỉ hơi phiền là hôm lễ Phục sinh hai người đi hai ngả: Lucie Minh lên Đà lạt, còn Tuấn thì đi Vũng tàu. Tại mỗi người, ai đều có hứng riêng của nấy, mà không ai có bổn phận phải chiều ý ai trong một việc không đáng kể như vậy. Vả lại, cả hai, không ai trẻ con cả thì không thể vì thế mà họ giận nhau. Nói "chỉ phiền" là vì đó là nguồn gốc của sự đoạn tuyệt của họ về sau nầy.


Hôm ấy Tuấn ra tới Vũng tàu thì đã bốn giờ chiều. Tắm cái đã rồi hẵng hay. Chàng tắm cho đến năm giờ rưỡi, lên giải khát, xong đâu đó mới đi thuê buồng khách sạn. Không còn buồng nào cả. Nhưng anh con trai nầy không lo, cứ ăn cơm tối cái đã "rồi hẵng hay". "Rồi hẵng hay" là câu châm ngôn cửa miệng của Tuấn, mỗi lần có gì giải quyết không được, chàng dẹp nó lại, làm việc khác hoặc đi chơi, sau khi nói mấy tiếng ấy, nói to lên, hay nói thầm với mình.

Chàng không lo, không phải chàng có thể ngủ trên bãi cát như bao nhiêu người khác. Đó là những người ra đây bằng xe nhà, có thể mang theo những tấm bố lớn để trải ra mà nằm lên đó, chớ chàng thì chàng chỉ có một chiếc va-ly con đựng mu-xoa, một chiếc sà-roong, bàn chải đánh răng, hai chiếc áo tắm, và cái khăn bông. Y phục, chàng chỉ có một bộ trên người may bằng vải không nhầu, như vậy cho nhẹ bưng xách dọc đường. Tuấn không lo vì trong thành phố, ngoài mấy mươi khách sạn mang bảng hiệu và có đóng thuế môn bài, còn mấy mươi biệt thự của tư nhơn, của những ông nhà giàu suy sụp, họ biến thành phòng ngủ lậu ngôi biệt thự của họ, và thế nào chàng cũng sẽ tìm được một buồng, một cách dễ dàng, nhờ bọn trung gian chuyên môn là mấy anh phu xích-lô.

Quả thật thế, ăn cơm rồi, Tuấn thuê ghế dài mà nằm hóng mát cho tới lúc việc tiêu hóa gần xong mới thót lên một chiếc xích-lô đạp, nói lên ý muốn của chàng là anh phu xe "ô-kê" ngay. Mấy anh nầy nhận tiền thưởng phòng ngủ lậu ở đây, nên họ rất thạo tin tức, biết số buồng trống từng giờ, từng phút. Tuy nhiên đó là những kẻ nguy hiểm mà mười lăm phút sau Tuấn mới biết. Anh phu xe nầy đưa chàng tới một nơi rất là bê bối. Đã khuya rồi chàng đành nhận vậy, vả tìm anh phu xe khác, sợ anh ta còn lưu manh hơn anh nầy thì hóa ra chạy ô mồ mắc ô mả.

Cái nhà ngủ lậu nầy ắt hẳn cho hoa hồng nhiều lắm và chắc chắn đã có nhiều người đi nghỉ mát rơi vào cạm bẫy rồi. Đó là một ngôi biệt thự xưa, một trụ cổng xi-măng đổ nát, rất có vẻ hoang tàn, trụ còn đứng vững mang một tấm bảng nhỏ đề chữ "Biệt thự Mỹ Phúc". Tuấn chợt nhớ đến cái nhà mát của hội "bảo vệ luân lý" mà năm xưa chàng leo thang lầu thì cái thang rung rinh mà cả ngôi nhà cũng rung rinh tuốt. Được cái là "biệt thự Mỹ Phúc" không có lầu nên chàng an dạ rằng cho tới ngày về Sài gòn, giò và tay, cổ chàng sẽ còn nguyên vẹn vì khỏi lo nhà sập như cái nhà mát say rượu đằng kia. Ở đây, buồng người ta lấy trăm rưởi mỗi ngày, kể ra thì rất mắc đối với buồng khách sạn có đủ mọi tiện nghi mà chỉ phải trả có hai trăm rưởi thôi. Nhưng thôi cũng được. Sự im lặng hoàn toàn ở đây an ủi Tuấn dữ lắm. Sân rộng có trồng nhãn, các buồng thì đóng cửa kín mít và không nghe tiếng động, nhà lại chỉ cách bãi biển có hơn trăm thước thôi. Bồi phòng là một phụ nữ lai căng, cha Phi châu, mẹ Việt nam, ăn nói văn hoa như tiểu thuyết ba xu, nhưng Tuấn lại nghe hay hay. Không có gì buồn cười bằng một người nước da đen huyền, tóc quăn quíu một cách tự nhiên, đôi môi dày như hai chiếc bánh trôi nước, đôi hàm răng lại trắng như bột, mà nói "Trong trường hợp có gì làm thầy không được thỏa mãn, xin thầy cứ khiển trách em để em sửa sai".

Sáng ra, Tuấn dậy rất trưa, sắp sửa đi tắm và ra khỏi buồng chàng thì chàng thấy rất đông quân nhân Huê kỳ từ nhà nầy đi ra. Sự kiện nầy cắt nghĩa ngay vẻ im lìm đêm rồi. Tuấn rất biết phong tục của người da trắng, họ rất lịch sự ở những nhà chung cư, đóng cửa kín mít và nhất là đi đứng, nói năng thật nhẹ, sợ mích lòng láng giềng.

Thình lình Tuấn nghe xây xẩm mặt mày, rồi chàng choáng váng, lảo đảo muốn ngã. Chàng vội vã trở vào phòng mình nằm. Tuấn bị chứng áp huyết thấp từ mấy tháng nay, nên cơn khó nầy không làm chàng hoảng. Chàng sẽ uống thuốc, uống cà phê đen là khỏi ngay. Tuy nhiên, dầu sao cũng phải nằm cái đã, "rồi hẵng hay".

Lạ quá, ngôi biệt thự lặng lẽ như chùa Bà Đanh từ hồi đầu hôm tới giờ, bỗng nhiên hóa thành một cái chợ, và tiếng phụ nữ nói líu lo ngoài hành lang, gọi nhau, đáp nhau từ buồng này qua buồng khác, khiến Tuấn bực mình quá: đến lúc cần yên tĩnh để nghỉ ngơi thì thiên hạ họp chợ. Chị bồi phòng da đen bưng vào cho chàng một bình trà nóng rồi hỏi:

- Thầy uống cà-phê không, em đi mua cho?

- Đáng lý thì không, tôi sắp sửa đi uống ở ngoài, rồi tắm luôn thể, nhưng giờ, vì một lẽ riêng, tôi lại cần cà-phê đen. Vậy chị mua giùm tôi năm đồng. Đây, lấy mười đồng đây rồi cất luôn tiền lẻ mà ăn bánh.

Tuấn uống thuốc với nước trà nóng, và nằm nghỉ nên năm phút sau thì nghe đỡ. Chị bồi phòng cũng vừa về tới nơi, và ly cà phê đậm nầy sẽ làm cho áp huyết của chàng lên tới mực thường. Chàng khoan khoái ngồi dậy rồi hỏi:

- Ai mà làm ồn như vỡ chợ vậy chị?

- À, mấy cô!

- Mấy cô nào?

- Mấy cô vợ Huê kỳ ấy.

- Có tất cả tới bao nhiêu cô lận?

- Nhà nầy ngăn ra làm mười bốn buồng, mà có tới chín ông Huê kỳ có vợ, mướn tháng.

- Hèn chi! Họ mướn tháng có cao giá lắm không?

- Hai ngàn rưởi.

- Thôi, cám ơn chị, tôi không còn cần gì nữa cả.

Uống hết ly cà-phê, Tuấn ngồi một hơi thì nghe trong người trở lại bình thường. Nhưng chàng lại bực mình hơn. Khi nãy, đi qua các phòng đóng cửa, chàng nghe từ phòng nào cũng vẳng ra tiếng dạy bài học Anh ngữ đọc chậm, của máy thu thanh. Nhưng giờ thì cả chín cái máy thu thanh ấy đều thi đua hét to lên bài ca Vọng cổ trào lộng do nghệ sĩ Văn Hường ca. Tuấn vốn không ưa Vọng cổ vì điệu nhạc ấy buồn thảm quá, mà nhạc buồn lại ca bằng lời giễu cợt thì nó chói tai chàng không biết bao nhiêu. Nhứt là vì các chủ máy thu thanh lại mở hết cường độ, và có lẽ đã mở hết cửa buồng ra, nên nó ồn như chợ Cầu ông lãnh.

Để trốn không khí điên loạn nầy, chàng quyết định đi tắm. Khi Tuấn ra tới đầu hành lang thì một cảnh tượng bắt chàng dừng chơn lại: Chín cô me Huê kỳ đang xúm xít ăn chả giò với lại ăn bánh xèo điểm tâm mà hai chị hàng rong gánh vào nhà lúc nào chàng không hay. Các cô ăn chả giò, cô nào cũng ngốn rau xọp và rau chiết, độn no hai má, y như là loài khỉ, còn các cô ăn bánh xèo thì chảy nước mắt sống với lại le lưỡi vì nước mắm chanh làm riêng để ăn bánh xèo rất cay, cay như cà-ry Ấn độ chứ không phải vừa. Tuấn bật cười, đứng nhìn các me ăn rồi hỏi:

- Có ngon không quí cô?

Không có me nào đẹp cả. Nhưng tất cả đều thạo ma-ky-dê, thạo ăn mặc, nên trông cũng dễ coi. Họ cười đáp:

- Ngon ghê đi. Mời thầy ăn thử.

- Cám ơn quí cô. Nhưng sao quí cô không ăn với các ổng?

- Úy mẹ ơi, ai mà ăn với tụi "nó" cho được. Nó ăn sáng tợn lắm, ăn nhiều nhứt trong các bữa ăn trong ngày, mà chỉ ăn toàn đồ hộp thôi, tụi tui nuốt hổng vô.

- Té ra vợ chồng ăn riêng với nhau?

- Chỉ riêng có bữa sáng nầy và bữa trưa thôi.

- Trưa cũng ăn riêng?

- Ừ, trưa tụi "nó" không về, tụi tôi ăn cơm tháng của chị bồi đen.

Từ nãy giờ, nhiều cô thay phiên nhau mà đáp các câu hỏi của Tuấn, nhưng cô nào cũng gọi chồng bằng "nó" cả.

- Còn buổi tối? - Tuấn hỏi.

- Buổi tối thì tụi nầy buộc lòng phải ăn chung với tụi nó, nhưng cũng nuốt không vô, nên tụi nầy nhõng nhẽo đòi đi ăn tiệm ở ngoài. Đồ tây ở các hiệu ăn thì tạm nuốt được.

Tuấn mặc áo tắm. Vì nhà gần bãi nên chàng ăn mặc như vậy để khỏi mất công thay, không đoán trước được rằng phải ghé lại để nói chuyện với phụ nữ. Nếu như ở ngoài bãi thì không có gì đáng nói, nhưng ở đây, ăn mặc như vậy trước những người đàn bà áo quần kín đáo thì vô lễ lắm. Thoạt tiên, chàng rất ngượng, nhưng vì chàng khinh rẻ me Huê kỳ cũng như đã khinh rẻ me Tây trước đây, nên rồi chàng dễ chịu được như thường. Cả chín cô đều vui vẻ và đều thích nói chuyện với chàng, nên chàng lại hỏi:

- Cả ngày quí cô làm gì? Có buồn lắm không?

- Buồn bỏ mẹ! Đánh tứ sắc để giết thì giờ, nhưng đánh hoài cũng phát ngấy lên.

- Như vậy, chắc quí cô mong đợi các ổng từng giây, từng phút?

- Đâu có, bồ! - Cái cô tương đối đẹp hơn hết trong bọn đáp như vậy - Lũ nó về, tụi nầy còn khổ hơn.

- Chàng về thì chàng cưng mà lại khổ, bồ nói khó tin quá! Không yêu chàng à?

- Bồ không biết, chớ khổ bỏ mẹ đi. Có lũ nó thì sáng với lại tối phải học Ăng-lê đọc chậm...

- Thì phải học mới tâm tình với nhau được chớ!

- Đâu có cần. Tụi nầy chỉ biết bốn tiếng là đủ sức làm ăn.

- Bốn tiếng nào?

- Tiếng Yết, tiếng Nô, và hai tiếng Đô-la, Ô-kê.

- Đô-la Ô-kê là gì?

- Là lu bù thứ. Chẳng hạn: anh có tiền không? Và chẳng hạn: anh cho em tiền được chớ? Bồ dư biết rằng muốn theo các bài đọc Anh ngữ đọc chậm, phải có căn bản tới mức nào đó, chớ tụi nầy mít đặc, làm sao theo được.

- Hình như là bồ chưa kể hết mọi nỗi khổ?

Họ xưng hô với nhau bằng "bồ", Tuấn không buồn thay đổi, và ăn nói theo họ để gây tín nhiệm hầu được họ tâm sự nhiều.

- Ừ, chưa hề. Còn cái nạn đóng cửa nữa. Mình quen ở nhà tranh, nhà lá vách vỉ tre đan, trống trơn rất dễ thở, chúng nó giữ mình trong buồng kín mít, mình sẽ chín như trái cây mất. Mà bồ đừng tưởng là lũ chúng nó ghen, sợ bồ thấy dung nhan cá đắm nhạn sa của tụi tui. Không, tại phong tục của lũ nó như vậy. Lũ nó bảo rằng để cho người ta thấy cảnh sống thân mật của mình là vô lễ mà rủi ro thấy cảnh sống thân mật của ai cũng vô lễ nữa. Bồ có nhớ hay không rằng hồi hôm, bồ tới, quên đóng cửa buồng lại, thằng chồng của con Cúc nó phải đi ngang qua buồng của bồ, nhưng không dám đi, phải đánh một vòng thật lớn để tránh cái cửa mở của bồ.

Quả Tuấn nhớ có nghe tiếng giầy đi tới gần cửa buồng chàng rồi dừng lại, do dự vài giây, đoạn thối lui.

- Ừ, tục đó thì tôi biết. Mà đó là nếp tốt của họ, bồ rán mà theo.

- Ai thèm rán mà theo. Cứ mở banh cửa ra có phải dễ chịu hơn không.

- Còn nỗi khổ nào?

- Lu bù, nói sao cho hết. Khổ nhất là nhạc, phải nghe nhạc của lũ đó. Tụi nầy chỉ mê Vọng cổ của đài Sài gòn thôi, còn lũ nó thì vặn bắt nhạc trời đánh của đài nào không rõ, điếc tai, nhức óc quá trời. Lũ nó ngu ngốc lắm. Sắm ra-dô thì sắm thứ lớn, nhưng mở nghe nhạc thì mở thật nhỏ, làm như là sợ láng giềng nghe trộm hết nhạc của lũ nó.

Tuấn bật cười, rồi cười ha hả rất dài. Thì ra bọn nầy trả thù đây: ăn bánh xèo với nước mắm chanh ớt để trả thù thịt đóng hộp, mở bét cửa ra để trả thù tục bế môn, và cho ra-dô hét to bản Vọng cổ để trả thù sự thầm thì của nhạc đài. Một cô, nãy giờ rất ít nói, không đẹp, nhưng có cái gì đặc biệt vô cùng, rất khó tả ra, bây giờ mới mở lời:

- Thầy có xem cái phim gì mà câu chuyện xảy ra ở Ấn độ trong có động đất dữ dội, có nước lụt, có săn cọp hay không?

- Có, đó là phim "Gió Mùa".

- Trong đó, một kép Huê kỳ hỏi một kép Huê kỳ khác, khi họ nghe một giàn nhạc Ấn độ đại tấu:

- Nhạc gì mà kỳ lạ như vậy?

- Ừ, anh phải nghe suốt năm trăm năm mới thưởng thức được nhạc của họ. Ấy, tụi em cũng vậy, chắc phải nghe suốt năm trăm năm mới thưởng thức được nhạc Huê kỳ.

Cơn cười của Tuấn, vốn tiếp tục với một độ thấp hơn, trong câu chuyện của cô nầy, vụt tắt hẳn. Chàng chợt nhớ tới Lucie Minh rồi giật mình, sợ hãi. Những cô me Huê kỳ mà chàng khinh rẻ, nghĩ ra, gần gũi với chàng không biết bao nhiêu. Chàng tìm một tâm hồn bậu bạn, và dĩ nhiên tâm hồn ấy phải là tâm hồn Việt nam. Những cô me Huê kỳ nầy nguyên trước kia là những cô gái cắt cỏ, những cô thợ cấy, thợ gặt, những cô gánh nước thuê, nên trí và lòng họ hoàn toàn bưng bít với những gì ở ngoài vào, và có ăn ở với những ông Huê kỳ hai mươi năm nữa, chắc họ cũng không chịu được nhạc Jazz. Họ là người Việt nam một trăm phần trăm, trước kia, bây giờ, và mười năm nữa. Lucie thì khác hẳn. Lucie đã bị Âu hóa đậm quá đi rồi. Nàng không ngửi được Vọng cổ mà chỉ mê những điệu Blues, điệu Rock mà thôi.

Ngày xưa, ở Hà nội có một nhà trí thức đi tây học từ thuở lên mười. Ông ấy đỗ đạt rất cao, và thấm nhuần văn hóa Tây phương cho đến đỗi khi nghe ai đọc lên tên chàng Ulysse, ông ta rung động sâu xa và cả một quá khứ Hy lạp, La mã, vụt sống dậy trước mắt ông ta, trong khi đó thì ông ta hoàn toàn dửng dưng khi nghe ai ngâm:

"Bến Tầm dương canh khuya đưa khách
Quạnh hơi thu lau lách đìu hiu..."

Văn hóa ảnh hưởng đến con người nhiều quá, nhiều hơn là cuộc sống chung lâu năm chầy tháng nữa. Lucie quả là một con người "Cốt-mô-pô-líc", không ngạc nhiên trước món ăn ngoại quốc nào, trước loại nhạc Âu Tây nào, trước phép lịch sự quốc tế nào cả, chỉ nhờ nàng đã học nhiều quá. Học nhiều quá rất lợi cho người học, mà có thể cho nước nhà của người học nữa, nhưng y khó lòng mà còn nguyên vẹn là y.

Trước đây Tuấn thích Lucie ghê lấm vì Lucie biết thưởng thức bản "Nhạc buồn" của Chopin y như chàng, chàng quên mất rằng chính vì chàng bị Âu hóa nên chàng rất cần một người bạn đời có tâm hồn Việt nam để bù qua, cấn lại, giữ thế quân bình cho con cái chàng đỡ mất gốc phần nào.

Tuấn nhìn lại cô me Huê kỳ vừa nhắc đến phim "Mousson" với điệu nhạc Ấn độ phải nghe năm trăm năm mới hiểu. Chắc chắn nàng là một cô thợ gặt ở Cần thơ hay Sa đéc gì đó; cách đây mười năm, trôi giạt lên Sài gòn, làm sến năm năm rồi thì giờ làm me Huê kỳ. Mười năm chung đụng với văn minh, nàng chỉ thu nhận được có hai món: tóc phi-dê và đôi giày cao gót. Chỉ vì, chỉ nhờ nàng thiếu học chăng? Làm thế nào mà cô me Huê kỳ nầy cảm được văn minh Đia trung hải, cũng như làm thế nào mà Lucie cảm được tứ đức, tam tòng?

"Một cô giáo làng ở một thôn hẻo lánh tỉnh Vĩnh bình có lẽ hợp với mình hơn là Lucie. Cô giáo ấy không dốt như cô thợ gặt me Huê kỳ nầy, nhưng, y như cô nầy, cô ấy là đứa con thương của đất mẹ, giống hệt mẹ cô, mà đó là người bạn mà mình tìm kiếm". Kể từ cái giây phút nầy đây, Tuấn hết khinh rẻ các cô me Tây, các cô me Huê kỳ, họ tuy lăng nhăng thế mà họ vẫn cứ còn là người Việt nam một trăm phần trăm, khác hẳn với các cô nữ sinh thơm phức mà lại thấm nhuần văn minh Địa trung hải, mà lại rung động sâu xa khi đọc Illyade và Odyssée.

Chàng mỉm cười hỏi:

- Nếu có ông Huê kỳ nào cưới cô nào trong quí cô để đưa về bên ấy, các cô làm thế nào mà quen được với...

- À không, tụi em chỉ làm vợ tháng các ổng mà thôi rồi về sau thế nào cũng lấy chồng Việt nam chớ, nếu còn có người Việt nam chịu lấy tụi em làm vợ.

Rồi các cô cười xòa, tỏ vẻ không tin rằng có người Việt nam nào chịu lấy họ, nhưng họ vẫn hy vọng và phát lộ lòng hy vọng của họ ra bằng trận cười yêu đời ấy. Trong giây phút Tuấn nghe mình rất muốn hôn một cô, bất kỳ cô nào trong đám me đó. Cái hôn ấy, nhứt định không do tình yêu, cũng không do nhục dục, mà là cái hôn thương mến của một người mẹ hôn con, những đứa con tuy dốt nát mà không vong gia, vong bổn.

Sau mùa nghỉ hè, Tuấn lại đến với Lucie. Lucie ngỡ Tuấn trẻ con, giận nàng vì cái việc anh đi đường anh, tôi đi đường tôi. Nhưng nàng rất ngạc nhiên mà thấy Tuấn vui vẻ với nàng như trước, mỗi lần hai người gặp nhau. Và nàng càng ngạc nhiên hơn nữa, là thế mà Tuấn lại cứ lờ đi, mỗi lần nàng đá động đến hôn lễ. Thật là mâu thuẫn. Tuấn vẫn nể nàng, nịnh nàng, chiều chuộng nàng không kém trước chút nào. Nàng có biết đâu rằng Tuấn xem nàng là một người bạn tâm đầu ý hiệp, một nhơn tình lý tưởng, nhưng không thể là một người vợ đủ khả năng thực hiện ý chí ký thác truyền thống dân tộc lại cho con cái của chàng.

(Trích từ tập truyện Cuống Rún Chưa Lìa)
  

Thứ Năm, 13 tháng 11, 2025

CHỈ LÀ MƠ THÔI - Lê Đức Ngọc


Mây Chiều. một quán nằm ở bên đường, chẳng lấy gì làm thơ mộng, nhưng có lẽ nhờ không khí bên trong ấm cúng, và âm nhạc hay, nên tôi thường đến đây một mình những lúc có đủ tiền một ly cà phê và mấy điều thuốc lẻ. Hôm nay, nhạc thật hay, toàn những bản buồn. Tôi không hiểu tại sao lại thích thế, có lẽ tại đời tôi buồn nhiều hơn vui và toàn những chuyện tình dở dang, đã gây cho tôi một xúc động nhẹ nhàng làm tôi thích.
 
Tách cà phê đã cạn tôi uống hết hơi cuối rồi gọi thêm. Tôi nhủ thầm, rồi tối nay lại thức, lại đàn và lại buồn hát nhảm cho mà xem. Mồi cho mình thêm một điếu thuốc nữa, bỗng mắt tôi trông thấy một đôi tình nhân trẻ vừa bước vào. Và tim tôi bồi hồi, nói bồi hồi cũng chưa đủ, phải gọi là bàng hoàng mới đúng. Trước mặt tôi, sụp đổ tất cả, tôi không còn bình thường được, và tim tôi vang lên một tiếng gọi nhẹ, Tuyết! Rồi tôi lặp lại một mình, Tuyết, Tuyết! Phải rồi, Tuyết, người con gái mà mấy năm trước đây tôi đã yêu, ngây dại. Và, hết. Tôi vừa xúc động mạnh. Tách cà phê mới được đem ra. Tôi thoáng nhìn lui, hai người trẻ tuổi ngồi sau lưng tôi, họ đều đẹp đôi. Người con gái mặc áo vàng thật tươi. Tóc dài như tóc ngày nào, có khác là bây giờ không còn thắt bím nữa. Tuyết. Mộng Tuyết. Bây giờ, dù ta gần nhau đây, một cách ngăn nhỏ, chỉ là một ô vuông mặt bàn thôi, nhưng trong tình cảm, ta đã "nghìn trùng xa cách". Tuyết vẫn chưa thấy tôi, vì nàng đang nói với người con trai về thức uống khi người bồi bàn đến hỏi. Nhưng rồi, đôi mắt Tuyết và đôi mắt tôi gặp nhau. Bốn con mắt không được tự nhiên, Tuyết bối rối và tôi cũng bối rối. Tôi quay mặt lên, nhắm mắt lại, để nhớ một đôi mắt, đôi mắt to đen, đôi mắt có hàng lông mi kín và dài ra như bờ tường nhà nàng. Phải, đôi mắt ấy đã mấy lần mở lớn ra nhìn vào mắt tôi, một cách ngây dại, một cách thiết tha. Bây giờ chỉ là mơ. Mơ Tuyết ơi. Mộng Tuyết hay là Mơ Tuyết chỉ có tôi hiểu thôi.
 
Âm nhạc vẫn chạy đều. Phạm Duy đã mời nhân tình của ông, và tôi, tôi cũng mời em, Mơ Tuyết, để về một "miền quá khứ, có lũ kỷ niệm trước sau"... 
 
*
 
Năm ấy, học lớp nhất, tôi còn bé lắm trong trường Trần Quốc Toản ngoài Huế. Tuyết cùng học lớp với tôi. Tuyết coi như là đẹp nhất trong lớp. Dù không đứa nào tôn cô bé lên làm hoa khôi, nhưng với những nét đẹp mà cô bé có, và riêng với tôi, Tuyết đã là hoa khôi. Một đóa hoa trắng như tuyết, mang theo vẻ đẹp mơ hồ, và để biết bao nhiêu người sau nầy, khi lớn lên, si mê, tương tư. Và tôi đã si dại, một mối tình nho nhỏ, không dám tỏ, không dám nói chuyện vì tôi vốn rụt rè, cả thẹn, những ngày lớp nhất. Xem ra thì Tuyết ngày xưa với Tuyết bây giờ chẳng mấy khác nhau, có chăng đó là nét đẹp kiều diễm, mê đắm lòng người mà thôi. Cô bé Tuyết học giỏi. Cô bé Tuyết đẹp, dễ thương. Tuyết có một dáng người vừa phải. Một mái tóc dài thắt bím, trông ngây thơ, những lúc Tuyết chơi nhảy dây, hai "đuôi gà" ấy tung tăng làm cho tôi đã nhìn ngây ngất, lén lút. Tuyết có một gương mặt trái soan mà ngày ấy tôi không biết, bây giờ khi hồi tưởng, và ngay lúc này, tôi mới hiểu. Gương mặt trong đôi má hồng. Cặp mắt to đen, thoáng một chút ngơ ngác những khi tôi nhìn bị cô bé bắt gặp. Và lúc ấy, đôi mắt xụ xuống, làm đôi hàng mi che kín. Sóng mũi thanh tú, hơi cao một tí, càng tăng thêm vẻ đẹp. Đôi môi hồng chẻ, cũng như cằm của Tuyết. Thật là trời thiên vị, cho một người con gái quá đẹp, đến nỗi, dù một đứa con trai 15 tuổi như tôi đã biết rung động.
 
Có lẽ, tình yêu của tôi nẩy nở sớm hơn những đứa trẻ bình thường, nên dù sao đi nữa, tôi cũng không dùng chữ yêu để nói lên phần tình cảm của tôi, thuở ấy. Nhưng khi nhìn lại mình, nhìn gia đình Tuyết, tôi thấy một sự quá xa biệt, một cách ngăn buồn, một kẻ trên đỉnh cao ngút ngàn giàu sang, một người ở vực sâu thăm thẳm nghèo nàn. Tôi là một đứa cô nhi ngày ấy và bây giờ, tôi là một người tuổi trẻ lang thang, không gia đình, chẳng bà con ở cái dất Saigon xa hoa này. Tôi rất đỗi thiếu thốn, từ tình thương đến vật chất. Nhìn Tuyết mỗi sáng đi học, mỗi trưa về đều có xe hơi đưa rước, tôi buồn bã thở dài. Tôi muốn làm quen với Tuyết lắm, dù chúng tôi học một lớp, nhưng Tuyết vào sau, hơn nữa, sắc đẹp và sự giàu sang đã là một sự cách ngăn, một bên bóng tối, một bên sáng rỡ, huy hoàng. Làm sao không e ngại, làm sao không cách ngăn? Để rồi, một ngày cuối cùng của niên học khi hay tin Tuyết theo gia đình đi Nha Trang...
 
Đó là một nỗi buồn lớn của đứa con trai 15 tuổi là tôi. Ngày ấy, trên đường Phan Bội Châu, tôi đã đi ra đi vào bồn chồn, tiếc nuối, buồn bã. Tôi biết hút thuốc từ đó. Cuối cùng, Tuyết cũng đi Nha Trang. Những tưởng đó là một lần cuối không bao giờ còn gặp nhau nữa. nhưng bốn năm sau, tình cờ đã đưa hai đứa tôi gặp nhau tại rạp Ciné Hưng Đạo.
 
Hôm ấy, tôi đang đi xem mấy bức hình ngoài chỗ giới thiệu phim mới, thì mắt tôi trông thấy một người con gái quen. Tôi đã ngẩn ngơ đứng lại cố nhớ. Một đôi mắt to đen, ngơ ngác, lông mi dài. Một suối tóc thề. Một đôi môi hồng chẻ, cũng như cằm. Cuối cùng, trí nhớ đã giúp môi miệng tôi thốt lên : Tuyết. Tôi sợ bị nàng cho là mình để ý lố quá, nên đi qua lại chỗ đông người để nhìn nàng. Tuyết bấy giờ đã lớn, vẫn đẹp. Và, tưởng như đã quên, nhưng rồi tình cảm dào dạt thuở 15 tuổi đã khơi động lại, một cách rộn rã, reo vui. Nhưng sự rụt rè bao giờ cũng làm cho tôi dừng lại ở một khoảng, chỉ có đôi mắt ấy, mở lớn, cố nhớ lại tôi. Sau đó Tuyết vào rạp ciné, tôi đút tay túi sau lững thững đi về, với một nỗi lòng có buồn có vui.
 
Tôi, năm gặp lại Tuyết lần đầu ở Huế, khi Tuyết từ Nha Trang về, đã là lớp đệ tứ và Tuyết cũng thế. Tôi đã không còn ở Cô nhi viện Quốc Gia trong thành nội nữa, mà đã xin vào Cô nhi viện Tây Lộc. Đi đâu thì đời bất hạnh bao giờ cũng bất hạnh, nên tôi vẫn là kẻ nhút nhát. Từ đó, tôi hay lững thững ở các rạp ciné để tìm Tuyết. Và cũng đã gặp, chỉ là gặp để nhìn với đôi mắt chứa chan âm thầm, để rồi mong một dịp nào đó tình cờ thật thuận tiện, để nói lên cái nỗi lòng mình. Tuyết đã không tránh đôi mắt tôi và làm sao tôi nói hết ý nghĩa của đôi mắt ấy mở lớn, bỡ ngỡ?
 
Sự thật, dịp may ấy đã đến, đó là một chiều cuối đông, trốn viện về Phù Lương ăn đám giỗ. Trời đã gần tối rồi. Trời có mưa bay bay, nhẹ nhàng. Tôi mặc chiếc áo mưa nhà binh rộng, đầu trần. Lên xe về Đông Ba, qua An Cựu. Tôi lên xe lam để đến Phù Lương. Tôi ngồi ngoài bìa. Xe vẫn chưa chịu chạy, chỉ vì ông tài xế chờ cho đủ hai người khách nữa. Và, người khách ấy, thật tình cờ, lại chính là Tuyết. Tuyết lên xe, đang còn bối rối tìm chỗ, tôi xích ra một bên, nhưng chẳng hy vọng gì Tuyết ngồi gần tôi, vì bên kia còn một chỗ. Thế mà, Tuyết đã không ngồi bên ấy. Làm sao tôi nói được niềm vui quá đong đầy của tôi, khi mà tôi không chuẩn bị? Thật tình cờ phải không em Mơ Tuyết? Và đến bây giờ, tôi vẫn tiếc, vẫn còn nhớ, tại sao tôi mãi rụt rè?
 
Tuyết ngồi gần tôi, một mùi hương trinh nguyên con gái thoang thoảng trên tóc, trên da thịt phả vào tôi, ngất ngây. Một buổi chiều cuối đông có mưa bay bay, gần tối, trên chuyến xe lam cùng về một nơi đường chẳng gần, chúng ta lại sít bên nhau, chỉ cách một lớp áo mưa, làm sao không gọi đó là một tình cờ rất thánh? Khi chuyến xe đủ số hành khách, nó bắt đầu chạy. Càng ra quốc lộ đường càng lắm gió, bởi hai bên là đồng ruộng xanh rì những lúa tốt tươi. Chuyến xe lam cuối cùng trong ngày đã chạy thật hối hả, làm gió càng thổi mạnh vào xe. Tôi vẫn chưa nói gì, tôi còn e ngại. Trước mặt tôi có một thanh niên, tôi sợ có người nghe tôi nói, nhỡ Tuyết không trả lời có "quê" mặt tôi không? Tôi lựa câu để hỏi, và câu đầu tiên được thoát ra miệng tôi một cách rất nhỏ và nhanh, nhưng nhờ gió đã làm cho Tuyết nghe:
 
- Tên Tuyết phải không?
 
Và Tuyết không để tôi "quê":
 
- Ừ!
 
Tôi tiếp tục:
 
- Năm lớp nhất học Trần Quốc Toản phải không?
 
- Phải, răng mà biết?
 
- Rồi đi Nha Trang à?
 
- Đúng!
 
- Tại răng không ở Nha Trang cho sướng mà về Huế làm chi cho mệt?
 
- Không, Nha Trang buồn!
 
- Rứa à?
 
Bao nhiêu câu hỏi đã hỏi hết. Tôi đang lo ngại sẽ "bí đề". May quá:
 
- Biết tên mình không"
 
Tuyết cười:
 
- Chi mà không biết!
 
- Biết học ở đâu không?
 
- Răng không!
 
Nói xong Tuyết vạch áo mưa của tôi:
 
- Lại Phước Định. Hàm Nghi!
 
Tuyết cười thật tươi. Tôi vui quá. Chợt nhớ, tôi hỏi:
 
- Bây giờ Tuyết học ở đâu?
 
- Đồng Khánh!
 
Tôi nhìn bảng tên thêu chỉ màu đỏ viền - nhất tím, nhị hồng, tam xanh, tứ đỏ... - và Mộng Tuyết, Đồng Khánh, màu xanh trên ngực. Tuyết hỏi:
 
- Học lớp Nhất kỳ đó biết anh Tấn không?
 
- Không!
 
- Anh Vũ?
 
- Không! 
 
- Anh Thoại?
 
- Không mà - tôi cười xoa tay - tôi không biết đâu, tôi chỉ biết Tuyết thôi. Đừng nói chuyện đó!
 
Tuyết vẫn "có duyên đáo để":
 
- Tất cả là anh của Tuyết đó!
 
- Bây giờ nhà ở đâu?
 
- Phù Lương!
 
- Tôi cũng ở đó!
 
Lạy trời, Tuyết đã không biết chỗ của tôi hiện ở, nhưng làm sao tôi giấu nổi đây, một cô nhi bất hạnh? Tôi hỏi (vẫn chỉ là những câu hỏi):
 
- Bây chừ... à, đi mô về rứa?
 
- Đi lên phố sang ảnh!
 
- Vẫn ở nhà dưới Phù Lương và lên học ở Đồng Khánh?
 
- Phải, có xe chở! Bây chừ xe mắc đưa ba đi!
 
Ba chữ "có xe chở" đã làm cho tôi buồn, nhưng cố trấn tĩnh để nói:
 
- Cho mượn xấp ảnh coi nghe!
 
Tuyết đưa cho tôi, phàn nàn:
 
- Ảnh xấu quá!
 
Tôi thấy toàn là những ảnh màu. Nghe tiếng nói này, tôi không biết nói sao để mà... nịnh cho lọt lỗ tai. Sự thật anh không xấu lắm như tuyết nghĩ. Tôi cố gắng lắm mới nói được câu "nịnh" đầu tiên trong cuộc đời:
 
- Dễ thương... đấy chớ, cái mô cũng đẹp hết!
 
- Xì, xấu thấy mồ đi!
 
Tôi coi xong, trao lại rồi nói:
 
- Cho xin cái ảnh đi!
 
- Chi rứa?
 
- Để... kỷ niệm!
 
- Thôi, ảnh hơi xấu, để khi khác!
 
Tôi nhìn ra hai bên đường, xe đã gần đến Phù Lương. Tôi hỏi vội:
 
- Nhà ở đoạn mô?
 
- Gần Ấu Trĩ Viện!
 
Tôi nghĩ sẽ cùng đi xuống với Tuyết để biết nhà, thay vì xuống trước, vì tôi đoán nhà mình với nhà nàng không xa gì, tôi sẽ đi bộ ngược về cũng được. Nhưng khi có một người ngừng xe lại, ngang khúc nhà tôi, tự nhiên tôi bỗng quên. Và tôi bước xuống, tôi chào:
 
- Đi nghe!
 
- Ừ!
 
Tuyết cười, vẫy vẫy, đi xa vẫn còn thấy đôi tay vẫy. Tôi vui thật vui, chưa ai cho tôi được niềm vui lớn như thế. Tối đó, về nhà ăn cơm rồi tôi đi xuống Ấu Trĩ Viện ngay. Đi quanh tìm hoài nhưng không gặp. Tôi đứng trước một biệt thự, phân vân tự hỏi không biết Tuyết có phải ở đây? Nhưng ngại sự đứng lâu người ta nghi ngờ mình ăn cắp. Tôi đi cùng hết, cuối cùng tôi về nhà để ngủ, đôi chân rã rời, lòng buồn biết mấy tôi chỉ ngủ được lúc khuya. Sáng ra, chủ nhật, tôi lại đến tìm. Bao giờ cái biệt thự sang trọng cũng là nơi tôi ngờ có Tuyết nhất. Tôi hỏi xung quanh, có ai biết Tuyết học Đồng Khánh không? Họ đều bảo là không. Tôi đi tìm mãi, vô vọng nhưng vẫn tìm. Đến lúc mà đôi chân rã rời, lòng chán chường vì quá tuyệt vọng, và bụng kêu gào tôi trở về nhà. Lần lên Huế, tôi cũng đã từng hàng giờ đứng chờ, hút thuốc, tìm một đôi mắt to đen, một suối tóc thề, một đôi môi chẻ hồng của Tuyết mà không có. Trong trăm ngàn học sinh Đồng Khánh, làm sao tôi tìm được em, hỡi Tuyết? Tình yêu nung nấu thêm lên, dào dạt, reo vui rộn rã mỗi khi nghĩ đến lúc ngồi trên xe lam chiều nào, và háo hức mỗi khi nghĩ đến lúc gặp sắp tới. Mỗi khi có dịp về Phù Lương tôi thường quanh quẩn mãi để tìm cho được Tuyết. Nhưng mãi mãi chỉ là những buồn bã, rã rời.
 
 *
 
Cho đến bây giờ thì vẫn dáng em, vẫn đôi mắt to đen, mở lớn nhìn vào đôi mắt tôi bỡ ngỡ. Nhưng đã xa lắm rồi phải không Mơ Tuyết? Trông tôi bây giờ chẳng còn gì để nói lên nỗi buồn mình. Lời hẹn năm nào em có nhớ, rằng, Tuyết sẽ cho tôi một tấm ảnh để kỷ niệm? Bây giờ thì tất cả đã thành kỷ niệm, kỷ niệm buồn một thời biết yêu. Tôi mơ mộng sẽ gặp em, để chúng tôi viết lên cho đời nhau một chuyện tình đẹp, có lời nói dịu dàng, có môi hôn ngọt mật, có những chiều mưa vào quán cà phê nghe nhạc, bốn mắt nhìn nhau suốt đời nhau...
 
Tuyết ơi, tôi đã tìm được em, nhưng bây giờ em không đi một mình em trên một con phố vắng, trên một chuyến xe lam trời mưa buồn và có tôi... Không gian vẫn thế, nhưng em không đi một mình và lòng em không có tôi. Chỉ là mơ thôi...
 
Tôi uống hết tách cà phê còn lại. Đứng dậy, trả tiền, quay lui, đôi nhân tình trẻ đã ra đi tự lúc nào. Hỏi người bồi, anh ta nói:
 
- Họ đi sau khi tách cà phê anh nhỏ hết! Anh có quen?
 
Có. Một người. Nhưng chỉ là mơ thôi. Không trả lời người bồi bàn, tôi lững thững bước ra khỏi quán. Mưa vẫn rơi...
 
 
LÊ ĐỨC NGỌC       
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 148, phát hành ngày 20-11-1974)
 

Thứ Hai, 10 tháng 11, 2025

TỪ PHEN ĐÁ BIẾT - Trần Huiền Ân


Tặng Người, và Phạm Cao Hoàng - Cẩm Lan
 
 Bây giờ thì lòng chàng hoàn toàn thanh thản. Bỏ xích đu ra sân, nằm ngửa mặt nhìn trời, nghe máy thu thanh giới thiệu và trình bày nhạc Beethoven. Đêm mười sáu, tháng chín mà trăng vẫn sáng. Sáng như trăng mùa thu. Đêm trăng nối tiếp cho buổi chiều thật êm đềm, thật dịu nhẹ. Chàng nhớ, mọi năm dạo này là mùa mưa to. Mưa như tháng chín tháng mười. Bà con vẫn bảo nhau như vậy. Và chàng nghĩ: Có lẽ hôm nay là ngày cuối cùng của mùa nắng nhạt. Ngày mai sẽ mưa. Chàng tin như vậy dù bây giờ trời rất đẹp và rất trong...
 
Nhạc Beethoven ai đem so sánh với tâm hồn Thúy Kiều? Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy. Tiếng nhạc chỉ trôi qua mơ hồ, xa vắng huyền ảo như tan loãng vào mây cao bởi lòng chàng đang có những nỗi vui chập chờn khắp lá cây, ngọn cỏ... Nỗi vui manh nha từ năm hôm trước và thật sự thành hình khi Thục trong chiếc áo in những vân hoa tròn chung thủy sánh vai chàng tiến ra lối đi lát gạch sẫm trong sân. Thục đến ngồi bên chàng và chiếc xe từ từ bò ra đại lộ. Qua kính chiếu hậu, chàng thấy, ở băng sau Vĩnh và Phương chụm đầu lại nhau, hòa một nụ cười. Đường phố đông đảo người đi trong mầu vàng của nắng. Chàng nhớ đến cảm xúc của một nhà thơ khi phải rời bỏ một thành phố bạn, nói lên tiếng hát xa quê:
 
Đường qua mấy phố Qui Nhơn 
Nhà sao trông lại yêu hơn mọi lần
Người đi quần áo chen chân
Ồ! Sao như lại quen thân từ nào...
 
Chàng không phải hát tiếng hát đi đày. Chàng đang đi vào một buổi chiều hạnh phúc nhưng vẫn thấy nhà cửa, phố xá Tuy Hòa đáng yêu hơn mọi lần, vẫn thấy như quen thân tất cả mọi người qua lại...
 
Khỏi ngã Năm, Thục cũng như Phương đều chưa biết đích của chuyến đi. Vĩnh giải thích:
 
- Anh sẽ đưa em đến một chân trời, góc núi.
 
- Sao lại góc núi?
 
- Bởi vì nếu góc biển thì chúng ta đã xuôi về hướng đông, hướng... Cư Xá Đoàn Kết...
 
Có tiếng hai người khúc khích cười. Hình như Phương bẹo Vĩnh. Rồi có tiếng ngâm trong suốt:
 
- Đi đâu cho thiếp theo cùng
Đói no thiếp chịu, mặn nồng thiếp cam.
 
Chàng nhìn sang Thục, bắt gặp Thục cũng đang nhìn sang chàng, cười nhẹ. Nụ cười ngầm nói về sự hồn nhiên của Vĩnh với Phương. Hai người vẫn tự gọi nhau là Ông Tây, Bà Đầm. Ông Tây, Bà Đầm dùng chung một hộp thư Bưu điện nên trên mỗi lá thư địa chỉ người gửi và người nhận y nhau.
 
Bắt đầu vào cầu Đà Rằng, chàng cho xe đi chậm lại. Đó là một thói quen. Không bao giờ qua cầu chàng chạy nhanh, sợ phí phạm cảnh trời mây sông nước. Phương trao một quả cam cho Thục, một quả bóc chia cho Vĩnh. Chàng được Thục chia phần nhưng đặt bên tấm kính để được ngắm Thục ăn. Hai người lại bàn về dự tính mộng mơ. Đó là dự tính bắc một chiếc cầu khác qua sông Đà, từ nhà Thục đến thẳng ngôi trường Thục dạy. Chiếc cầu sẽ dành duy nhất cho đôi bàn chân Thục. Lần này Thục nói sẽ mời thêm một bạn nữa đi cho vui cùng. Chàng hỏi:
 
- Đó là loại bạn gì mà được hân hạnh vậy?
 
Thục trả lời với giọng hóm hỉnh:
 
- Bạn đi cùng đường và đi suốt đời nên gọi là bạn đường đời.
 
Chàng cắt ngay:
 
- Nếu vậy tôi sẽ đặt mìn phá cầu...
 
- Thì anh phải bồi thường chiến tranh...
 
Câu chuyện vẩn vơ đưa bốn người qua khỏi Phú Lâm lúc nào không hay. Chàng cho xe rẽ phải, chạy trên một con lộ đắp cao giữa đồng. Bám sát con lộ, dòng kênh nam nước lặng lờ không chảy. Cánh đồng trải ra toàn một màu xanh. Cánh đồng đi vào tâm trí chàng từ những bài Địa lý lớp ba của giáo sư Trần Sĩ. Xa xa về phương nam, dãy Đèo Cả nhạt mờ trên nền trời. Xe lại rẽ phải lần nữa, chầm chậm lăn vào lối hẻm hai bên là hàng tre tỏa bóng. Đàn bò phía trước cứ mải thong thả trước mặt, chàng nhận còi như hối thúc. Chàng giải thích:
 
- Chúng ta đi chơi ở những vùng này để Thục biết rõ đời sống miền quê hơn.
 
Thục cãi lại:
 
- Anh tưởng Thục không biết sao? Gia đình Thục chính ở một vùng quê.
 
- Nhưng từ lâu, đi học ở Sàigòn, rồi đi làm cô giáo, miền quê với Thục chắc chỉ còn là tuổi nhỏ mơ hồ...
 
Dừng lại cạnh một ngồi trường quê, Vĩnh đã sát vai Phương khuất vào trong xóm. Chàng biết, chắc hai người vào ngôi quán nhỏ, ngôi quán chỉ bán thức ăn cho những người quen đặt trước, có không khí ấm cúng thân mật như một nhà bà con. Thấy Thục, vài đứa học sinh reo lên, sững lại:
 
- Thưa cô. Cô sang đây lúc nào?
 
Thục giới thiệu với chàng đó là những học sinh lớp Thục cố vấn. Học trò trường quận hồn nhiên, chất phác và lễ độ trong ngôn từ cũng như cử chỉ.
 
Hai người ngồi xuống vệ cỏ. Bóng hàng tre đong đưa, quét dài trên ngọn cỏ, rung rung. Vài đứa bé tò mò đứng ngắm. Khi đám học sinh chào đi, Thục nói:
 
- Ngày mai đến trường chắc thế nào bọn nó cũng bảo nhau là thấy Thục đi chơi với một ông...
 
Chàng cười, tiếp:
 
- Một ông thầy...
 
Chàng chợt nhớ là tuần trước đã bất bình Thục một cách phi lý. Hôm ấy, chàng vừa đến lối rẽ vào nhà Thục thì gặp cô em chạy xe ra, vừa cười vừa nói:
 
- Có chị Thục ở nhà.
 
Nét mặt và nụ cười cô bé, chàng đọc được vẻ thân mật, gần gũi. Nhưng khi chàng vào nhà thì đứa cháu báo tin Thục bệnh. Chàng ngơ ngác, phân vân rồi quay gót. Lòng vẫn ấm ức là vì một lẽ nào đó Thục không muốn gặp chàng chăng. Chàng nghĩ là sẽ không bao giờ ghé nhà Thục nữa. Chàng sẽ đoạn tuyệt với một quãng đời chàng cho là thơ mộng. Dứt khoát như vậy rồi, chàng thấy lòng vô cùng buồn bã. Cơ hồ chàng thấy không còn có gì vui vẻ, hào hứng nữa. Gặp lại Thục tại nhà một người bạn, chàng vẫn chẳng tìm được nỗi vui. Chàng có vẻ tránh né. Hai người ngồi cách xa nhau. Chàng từ chối không uống rượu, sợ men rượu làm khuây đi nỗi buồn chàng đang cố nuôi dưỡng. Thục thì sau cơn bệnh, vẫn còn vẻ xanh xao, gầy yếu, thỉnh thoảng quay nhìn chàng như dò hỏi. Khi chàng về đến nhà thì trời đổ mưa to, mưa dai dẳng. Chàng thức ngồi nghe mưa và thương nhớ rạt rào những cơn mưa dĩ vãng. Những đêm mưa nơi quán trọ miền thượng lưu sông Ba. Những đêm mưa trong cánh đồng Phong Niên. Và cái đêm mưa dưới mái nhà ông bác già cạnh Chùa Cát, Nha Trang, sau một ngày chàng cùng Thùy Lam lang thang khắp nẻo từ Hòn Chồng, Tháp Bà đến chùa Hải Đức. Chàng đã gởi vào cuộc tình với Thùy Lam tất cả tha thiết, chân thành của tuổi vào đời. Chính vì vậy mà chàng hết sức vụng về trong vai trò người con trai. Nhưng chính nhờ sự vụng về này chàng đã thành công, đạt được địa vị độc tôn trong tâm hồn Thùy Lam. Cuộc tình với Thùy Lam đã giúp chàng hiểu biết hơn, nhất là hiểu biết tâm lý nữ phái. Ngày xa Thùy Lam, chàng vẫn nghĩ, hình ảnh đó không thể thay thế được. Cho đến bây giờ hình ảnh Thục lại là một hình ảnh lớn nữa trong lòng chàng. Chàng đã hiểu biết hơn để có thể chiều chuộng Thục nhưng hình như chàng sợ... mất lòng Thục hơn Thùy Lam. Chàng luôn luôn lo ngại những điều chàng làm sẽ phật ý Thục. Khác với ngày nào, Thùy Lam có vẻ âm thầm cam chịu, sau mới nói ra chàng chỉ xuề xòa xin lỗi... Có lẽ vì vậy mà suốt đời chàng chỉ là một gã trẻ con. Buổi chiều mưa trên gác chuông chùa Hải Đức, chàng lạnh run, Thùy Lam choàng chiếc áo cho chàng. Chàng đứng im cảm nhận. Sau đó, trong thư, Thùy Lam viết: Lúc đó em thấy anh ngoan ngoãn một cách trẻ con hết sức! Mới đây, Thục cũng có ý tương tự: Tình anh chân thành như thuở tuổi học trò. Chàng cho rằng, khi yêu, không ai có thể tự hào là mình sáng suốt, trưởng thành. Ngày mới vào Trung học, chàng có đọc một quyển truyện, tả cảnh tiên. "Chàng" là một vị tiên ông già râu tóc bạc phơ. "Nàng" là một nàng tiên xuân xanh đôi tám, giật mình vì cái vỗ cánh mạnh của một con chim. Tác giả quyển truyện viết: "Vị tiên ông quên cả mớ tuổi chồng chất trên đầu, bảo "Để rồi anh đánh gãy cánh con chim cho em nhá". Chàng mỉm cười. Người ta là tiên, tuổi đời chồng chất còn như vậy, huống chi mình, không phải là tiên, cũng chưa râu tóc bạc phơ... Chàng thức ngồi nghe mưa và nghĩ đến con đường vào nhà Thục, có vài đoạn bùn lầy. Có vết bùn nào vấy bẩn gót chân Thục chăng? Chút băn khoăn về một vết bùn nơi gót chân Thục khiến chàng đến thăm Thục ngay hôm sau đó. Mỗi lần ghé nhà Thục chàng gọi là đi hòa đàm. Cuộc hòa đàm đã khai thông và hai bên đồng ý có chuyến đi chơi này. Bên cạnh Thục, chàng có được những phút vui vẻ tự nhiên, quên được cái mỏi mệt, chán chường, mà Thục vẫn đùa là: của một người suốt đời lang thang nơi dịch xá, chấp nhận những bát cơm tân khách để đi tìm minh chủ...
 
Chàng đưa Thục vào lối Vĩnh đã đưa Phương đi thì gặp Vĩnh ra đón. Trong ngôi quán, một bữa ăn đã được dọn ra với mấy dĩa bánh xèo, mấy dĩa rau xanh, mấy chén nước mắm với ớt cay hồng thắm. Đối diện với chàng và Thục, Phương vẫn nhí nhảnh cùng Vĩnh. Chàng bảo Thục:
 
- Anh chị có vẻ giỡn mặt chính quyền quá!
 
Thục như bào chữa giúp Phương:
 
- Lớp trẻ mà anh.
 
Phương vẫn không để ý. Vì tuy chỉ có bốn người nhưng có hai chiều câu chuyện khác nhau, mỗi bên theo đuổi riêng rẽ, thỉnh thoảng mới có câu bàn góp chung. Hai chiều câu chuyện cũng là hai sắc thái. Một bên giòn giã vui tươi và một bên trầm trầm thâm đậm...
 
Khi chiếc xe quay đầu để ra khỏi xóm nhỏ thì mặt trời đã gần kề đỉnh núi. Lâu lắm, khó lắm mới có một lần trở lại nơi này, đủ cả bốn người của buổi chiều nay. Vài hôm nữa, Vĩnh trở lại Đàlạt, Thục, Phương miệt mài với sách vở, chăn dắt lũ học trò. Còn chàng, tiếp tục nổi trôi. Có thể chàng sẽ trở lại, trở lại một mình, để nhớ hôm nay đã là dĩ vãng. Chàng khe khẽ đọc:
 
Lối mòn vương dấu cô liêu
Nghe trong hơi thở sáo diều trời xưa...
 
Thục khen:
 
- Hay! Thơ anh đó hả?
 
Chàng lắc đầu:
 
- Không. Của một người bạn.
 
- Ai vậy?
 
- Lương Trinh.
 
- Lương Trinh là nam hay nữ?
 
- Nữ.
 
- Hèn chi thơ hay và tên thật đẹp. Nàng có đẹp không anh?
 
- Đẹp và rất đáng yêu - Chàng đáp chậm.
 
Thục cười ngập ngừng:
 
- Đẹp và rất đáng yêu. Chắc anh đã yêu tác giả hai câu thơ đó?
 
*
 
Chàng thức giấc nghe mưa ào ạt đổ. Đồng hồ trên tay chỉ bảy giờ sáng. Chàng chồm dậy, mở cửa sổ nhìn mưa reo vui. Chàng đã đoán đúng. Hôm nay bắt đầu mùa mưa rồi. Mưa to thật. Nắng vàng của chuyến đi chơi chiều hôm qua đã là một kỷ niệm êm đềm, đã là dĩ vãng thơm ngát tiếng sáo diều trong hơi thở. A, còn nửa quả cam chiều hôm qua Thục chia phần cho, chàng quên ăn, còn để trên xe. Chắc giờ này ông tài xế Ty Tiểu học đang sửa soạn xe để đưa ông Ty trưởng đi làm việc. Có lẽ ông tài xế nhắc đến nên chàng nhớ. Chàng tưởng tượng ông tài xế vốn vui tính đang la oang oang:
 
- Ơ hơ! Kia kìa! Mấy cha ngày hôm qua mượn xe đi chơi đâu, ăn nhậu gì, còn bỏ nửa quả cam đây? Hà hà...
 
 
TRẦN HUIỀN ÂN      
 
(Trích tuần báo Tuổi ngọc số 77, tuần lẽ từ 16 đến 23-11-1972)
 

Thứ Sáu, 7 tháng 11, 2025

ÐÔI CHIM BỒ CÂU - Võ Hồng


Bầy bồ câu của tôi, một số bị mèo vồ ăn thịt, một số bị mèo vồ hụt sợ quá bỏ bay mất hết. Chỉ còn lại một đôi vợ chồng. Có lẽ chỉ vì có hai cái trứng đã đẻ đó không nỡ bỏ đi nên chúng còn lưu lại nơi cái chuồng của tôi. Tôi phải chăng thêm nhiều lớp dây thép gai chung quanh chuồng để bảo vệ cái gia đình còn sót lại này.

Trong các giống chim nhà, tôi yêu nhất những con bồ câu. Chúng nó cái dáng đẹp đẽ với cái ức tròn trặn và bộ lông mượt. Chúng có cái dáng quí phái với những đôi chân manh mảnh màu hồng. Tôi còn yêu mối tình đằm thắm của chúng đối với nhau. Những buổi nắng đẹp chim đực đi xung quanh người yêu, miệng rầm rì những lời thiết tha. Chim mái nằm yên tĩnh lắng tai nghe. Sự dịu dàng của tình yêu đó thật khác xa với lối biểu lộ tình yêu nông nổi hạ cấp của lũ chim sẻ chẳng hạn, mồm nói choèn choẹt và điệu nhảy lấc cấc, liến thoắng. Lối mổ thóc, lối đi đứng, lối bay của bồ câu cũng có cái vẻ gì chững chạc đàng hoàng đặc biệt của những người tự biết mình cao quí, không cần hấp tấp vội vàng. Sự đằm thắm trong tình yêu, con chim đực còn biểu lộ trong cử chỉ tha rác về làm tổ. Rồi khi trứng đẻ ra rồi thì thay phiên với vợ mà ấp. Đến khi con nở thì nhẫn nại đứng sú mồi cho con. Lần đầu tiên thấy chim đực sú mồi, con tôi lật đật chạy đi tìm tôi, miệng gọi ơi ới. Tôi hốt hoảng tưởng có một tai họa nào xảy ra cho nó. Thấy tôi, nó hơ hãi nói:

- Ba ơi… con chim lớn… cắn con chim con.

Tôi vội vã chạy ra xem và buồn cười nhìn lại vẻ mặt lo lắng của nó. Tôi bảo:

- Con chim cha đút mồi cho chim con ăn đấy.

- Nhưng mà nó mổ ngay giữa cổ họng.

- Biết làm sao bây giờ? Đó không phải là cử chỉ êm đềm nhất mà nó chọn, chắc vậy, mà chỉ vì nó không có hai tay khéo léo như ta. Hai tay nó đã phải biến thành cánh. Nó phải mổ lấy thóc, để thóc vữa ra trong cái diều rồi mới ựa ra cho con ăn.

- Nhưng nó không thể làm việc đó dịu dàng hơn sao?

- Dịu dàng hay không là theo ý xét đoán của mình. Con còn nhớ hôm đi xem phim Misfits, lúc con ngựa mẹ bị trói nằm xuống đất thở phì phò thì con ngựa con chạy lại lấy chân khoèo khoèo vào mặt ngựa mẹ không? Khoèo chân là để tỏ tình âu yếm, y như ta lấy hai tay nựng vào mặt mẹ ta vậy.

Một tối kia, có tiếng cánh chim rần rật bay hoảng từ lồng bay vút lên đọt dừa. Lại bị mèo quấy phá nữa. Soi đèn ra xem thì thấy một cái trứng bị rơi xuống đất bể, lòng trắng chảy nhầy nhụa xuống cát. Sáng hôm sau đôi chim bỏ ấp, đi thẩn thơ.

Nỗi căm giận của tôi đối với con mèo hàng xóm đã lên đến cực độ. Nỗi căm giận biến thành thù hằn. Tôi muốn giết con mèo. Tưởng tượng khi bắt được nó tôi sẽ bóp siết vào cổ nó cho thật chặt và tròng mắt của nó sẽ lộ ra và thân hình nó sẽ dãy dụa và cuối cùng nó tắt thở. Nhìn dáng nó đi uyển chuyển trước hiên nhà, nhìn người hàng xóm vuốt ve âu yếm nó, tôi càng tức giận hơn. Thà nó hung bạo, xấu xí và cộc cằn! Tôi sẽ tha thứ nó. Ai nỡ trả thù một người đau khổ, một người đã phải chịu đựng nhiều nỗi bất hạnh và bất công. Đằng nầy nó đi nhởn nhơ ra vẻ một người lương thiện và chủ nó cũng an nhiên bình tĩnh dường như cũng chỉ nghĩ đến điều thiện. Thật là bất công và vô lý. Tôi (và lũ bồ câu của tôi) là nạn nhân, đã bị đau xót lại còn bị dằn vặt bởi những ý nghĩ thù hằn trong khi kẻ ác nhởn nhơ thoải mái.

Nhưng giết nó đâu phải dễ. Thà bắt gặp nó đang cấu xé con bồ câu của tôi, lúc ấy tôi sẽ có đủ hăng máu để giết. Đằng nầy khi nào gặp nó là y như tôi chỉ thấy nó dịu dàng và uyển chuyển, vẻ mặt hoặc trầm tư hoặc thơ ngây. Tôi không đủ sức bạo tàn để làm hại một kẻ thù giữa lúc nó hiền lành như vậy. Chỉ còn có cách tôi cố bảo vệ lấy kỹ lưỡng hơn nữa đôi bồ câu còn lại.

Suy nghĩ nhiều ngày, tôi quyết định thuê người lấy lưới thép giăng thành một cái lồng thật lớn và đặt cái chuồng bồ câu vào trong lồng. Thế là chúng vẫn có phòng ăn ở kín đáo, có điều chúng chỉ được bay quanh quẩn trong lồng. Tất cả những tiện nghi tôi đều lo cho có đầy đủ: lúa, bắp, đậu xanh, rau xà lách, nước uống và nước tắm. Cuộc sống tạm gọi là yên ổn. Tuy nhiên để tránh chủ quan, tôi dặn con tôi hãy lưu ý đến dáng điệu của chúng xem chúng có tỏ vẻ buồn bã, ủ rũ không. Vì nỗi lo lắng đó mà khi thấy con đực đứng gù gù bên cạnh chim mái hoặc thấy chim mái lấy mỏ rỉa nhẹ vào lông má chim đực là lòng tôi vui không xiết. Và mươi ngày sau, tôi thấy chim đực tha rác. Thế là tôi thành công. Con tôi vui nhảy hớn hở. Bữa cơm trưa hôm đó của chúng tôi vang lên nhiều tiếng cười nói hơn mọi ngày. Và rất cần mẫn, con tôi cứ lấp ló nhìn xem chim đã đẻ chưa.

Ngày nó thấy hai cái trứng mới đẻ trên ổ rơm, nó chạy ra tận đầu phố để đón tôi về mà báo tin mừng. Chúng tôi rối rít lo mua thêm đậu, thêm cả mè, để thưởng cho chim. Và chim chia phiên nhau ấp. Tôi bàn với con tôi:

- Bây giờ chúng đã đẻ trứng rồi thì có lẽ ta nên cho chúng bay tự do một chút.

Con tôi vội phản đối:

- Không được. Thả ra sợ chúng bay mất.

Tôi vừa ngẫm nghĩ vừa nói:

- Chẳng có lý. Chúng đã đẻ rồi thì thế tất chúng yêu con mà chẳng nỡ bỏ đi. Nhốt chúng trong một cái lồng, tù túng quá cũng tội. Cho bay đây đó một chút thì chúng mới có đủ sức khỏe.

Con tôi hơi xiêu lòng, chỉ phản đối yếu ớt lấy lệ:

- Con sợ nó bay mất. Nhưng mà… có lẽ ba nói đúng. Nó thương con, chắc chẳng bay mất đâu.

Câu chuyện trao đổi chỉ đến đó.

Hôm sau khi tôi đi làm về, con tôi ra đón ở cổng. Vẻ mặt nó đăm chiêu. Thấy tôi nhìn nó có ý ngờ vực, nó nói giọng rụt rè:

- Ba ơi! Con chim đực bay mất rồi.

- Sao vậy? - Tôi vội hỏi.

- Con nghe lời ba, sáng nay mở cửa lồng. Con bồ câu đực vụt bay ra mất.

- Còn con mái?

- Con lật đật đóng cửa lồng lại. Con mái bay không kịp.

- Bậy chưa! Sao con không hỏi ba mà tự ý thả như vậy? Bây giờ biết làm sao? Nuôi một con thì nó sống thế nào được? Mà nuôi một con thì để làm gì? Chẳng lẽ bắt ăn thịt. Mày thật là vô tích sự. Ở nhà không lo học. Chỉ có tài nhanh nhẩu đoản. Tao chán mày lắm.

Giọng tôi gằn gằn một lúc một nhanh hơn. Con tôi vừa sợ vừa hối hận, nước mắt lưng tròng, ngước nhìn tôi không nói. Tôi chợt thấy là tôi đã rầy oan nó. Chính tôi đã bàn việc thả cho bồ câu bay tự do một tý, thế mà bây giờ tôi lại đổ tội cho nó. Trong cơn giận, người cha nào cũng hay bất công như vậy. Không dám nhận lỗi mình mà chỉ đổ lỗi cho người khác, cho cả ngay chính con mình. Tôi ngượng, để tay lên vai con tôi:

- Thôi. Cứ vào rồi sẽ tính sau.

Con tôi líu ríu đi cạnh tôi, dáng thất vọng rõ rệt. Tôi hỏi:

- Từ sáng đến giờ con chim đực có bay về không? Con có ngó chừng lên mái nhà không?

- Có. Con có ngồi đợi cho nó về. Nhưng nó không về.

- Bội bạc.

Tôi buông một tiếng. Quả thật tôi không ngờ con chim có thể bỏ vợ con lại nơi giam cầm, - trong óc nó chắc nghĩ vậy, - mà đi tìm tự do một mình. Nỡ đoạn tình vậy sao? Đoạn tình đến mức không hề bay trở lại qua nhà để tìm xem vợ con mình ra thế nào, còn hay mất. Người ta nói bồ câu chung tình và tôi cũng tin như vậy. Nhưng hôm nay không những tôi mất lòng tin nơi chim mà tôi còn mang nặng thêm hoài nghi nơi người. Chung tình có phải là một thái độ tình cảm thành thật đâu? Khi có điều kiện thuận tiện, rất thuận tiện để bạc tình thì người ta liệu có từ chối sự bạc tình không? Tôi mất đi lòng tin nơi thiện tâm của con người, đó là một sự mất mát lớn. Vì trong vài ngày sau đó lòng tôi không được vui.

Tôi săn sóc con chim mái để bù vào nỗi cô đơn mà nó phải gánh chịu. Nhưng nó bỏ ăn đứng im lìm một mình. Bỏ trứng không ấp nữa. Ai ở vào hoàn cảnh nó cũng sẽ làm như vậy vì cái lồng trống trơn như luôn luôn nhắc nó nhớ đến những kỷ niệm êm đềm với người chồng ra đi. Dưới vẻ mặt trầm tư xa vắng đó, không biết nó nghĩ gì? Nó nhớ chồng? Nó giận chồng? Hay nó giận tôi, thù tôi?

Buổi chiều, con chim đập cánh phành phạch bay bám vào mắt lưới tìm lối ra. Lông đầu của nó xơ xác. Cánh xệ xuống. Con tôi nói:

- Hay mình đem thả con mái luôn đi ba.

Đúng là ý nghĩ của tôi lúc ấy. Nên tôi nổi giận quay lại:

- Sao lại thả ra? Chưa chi đã chịu thua trận, đó không phải là một tính tốt. Phải tìm mọi cách để nuôi cho kỳ được. Người ta nuôi bồ câu, sinh đẻ hàng bầy, bay đi bay về nườm nượp, chẳng lẽ mình chịu thua sao?

Con tôi không trả lời được. Tôi tiếp:

- Chúng ta phải tìm mọi cách để thắng. Chúng ta phải thắng, con hiểu chưa? Con có cách gì không?

Cố nhiên là con tôi không có cách gì hết, vì cả ngay tôi cũng đang lúng túng. Quả tình việc nuôi bồ câu của tôi gặp nhiều trở ngại quá khiến tôi đã chán muốn bỏ từ lâu, nhưng vì tự ái mà tôi đã nhẫn nại, cố tìm mọi cách để nuôi cho được. Tôi cũng đồng thời muốn gián tiếp dạy cho con tôi một bài học kiên trì, đừng vội nản chí khi gặp thất bại. Nhưng đã tới mức này, tôi không biết giải quyết ra sao. Tôi biết rằng quần chúng có nhiều kinh nghiệm về mọi địa hạt nên tôi đem thảo luận vấn đề với những người mà tôi quen; ông thợ cắt tóc mà tôi gặp mỗi nửa tháng, bà chủ tiệm gạo, ông quản lý sở tôi - người có tuổi và tháo vát, ông liên gia trưởng ba hoa hay nói lạc đề, cả cô thư ký giữ máy điện thoại nữa.

Mọi ý kiến không giống nhau. Ông quản lý không tán thành việc nuôi bồ câu: chúng ỉa bẩn và đi lại trên mái nhà làm tuột ngói. Nên ông đề nghị: “Làm thịt quách con bồ câu còn lại”. Cô thư ký phản đối: “Ai lại nỡ ăn thịt một con bồ câu dịu dàng như vậy? Thà thả nó ra cho nó tìm một người yêu mới”. Ông liên gia trưởng chưa kịp nghe tôi trình bày đầu đuôi câu chuyện đã bắt tôi nghe hơn nửa giờ về phương pháp thu cây rào để rào ấp chiến lược. Bà chủ tiệm gạo siêng năng đi lễ Phật khuyên tôi phóng sanh con chim đi. Chỉ có anh thợ cắt tóc là có vẻ hiểu rõ vấn đề hơn hết. Anh nói:

- Ông sai người ở đi chợ lựa mua một con bồ câu đực về đem thả chung vào lồng với con mái.

- Nhưng bồ câu người ta bán cả cặp mà, - tôi nói.

- Mình có thể trả mua một con cũng được. Cũng có khi người ta bán lẻ riêng từng con.

- Phải đi xuống chợ Đầm?

- Cần gì. Chợ Xóm Mới cũng có. Một bà già người Bình Định lâu lâu mang bồ câu vào bán cả giỏ. Tôi mới thấy hôm qua kia đây.

- Nhưng mua về biết con mái nó có chịu không?

- Được mà.

Tôi về, kêu chị ở dặn tìm mua một con bồ câu đực. Vừa ra lệnh mà vừa sợ chị ta hỏi lại. Chẳng hạn nếu chị bảo: “Làm sao tôi biết nó là con bồ câu đực”, thì tôi sẽ lúng túng chẳng biết trả lời sao. May thay, chị cầm tiền đứng ngần ngừ một lát rồi lẳng lặng đi xuống nhà sau. Tôi dặn vói theo:

- Mua một con cũng to như con mái. Lựa cho cùng một màu trắng đẹp, kẻo con mái nó chê.

Hai hôm sau, lúc tôi đi làm về, con tôi ra mét:

- Chị Hai mua được bồ câu rồi ba à.

Tôi mừng quá, không ngờ công việc được tiến hành nhanh chóng đến thế. Tôi hỏi:

- Nó đâu?

- Chị Hai thả vào lồng rồi.

Tôi bước ra lồng, thấy có con bồ câu mới, hơi nhỏ hơn con mái một chút.

Chị Hai từ bếp đi ra đứng cạnh tôi.

- Thưa thầy, bồ câu Tây đó.

- Nhưng có chắc là con đực không?

- Bà già bảo đúng là bồ câu đực.

Con tôi cầm lấy bàn tay tôi, nói chen vào:

- Hai đứa nó chưa quen nhau, ba nhỉ? Mỗi đứa đứng mỗi nơi.

Tôi biết con tôi là người sung sướng nhất trong ba người đứng đây. Nỗi lo buồn vì tự mình thả sống con chim đực, chắc đến giây phút này nó mới xóa được. Tôi dắt tay nó vào nhà, vừa nói:

- Mong cho hai đứa nó thương nhau.

Nhưng chiều hôm đó từ lồng chim vang lên tiếng vỗ cánh rần rật. Lại con tôi chạy vào hơ hãi nói:

- Ba ơi chúng nó cắn nhau.

- Con nào cắn con nào?

- Con mái cắn con đực.

Tôi bước ra sân. Con chim mái đang mổ tới tấp vào con chim đực. Chim đực né tránh rồi đứng dịch ra xa hơn. Nhưng chim mái lại sấn tới mổ vào cánh, đôi cánh để lè phè và lông xơ xác không đều đặn. Chim đực kéo lui đôi cánh một cách vụng về lúng túng. Chim mái mổ bốn năm cái liên tiếp vào đầu chim đực khiến chim đực bay bám vào mặt lưới sắt, thò đầu ra mắt lưới tìm chỗ thoát. Làm sao để giải cứu cho con chim đực bị ruồng bỏ kia? Tôi la “ùi ùi” và con chim đực tuồng như tăng thêm sợ sệt. Còn con mái thì cứ tròn xoe đôi mắt không tỏ dáng xúc động. Giá có một khuôn mặt linh động như người thì tôi tin rằng nó sẽ nhíu đôi mày và bặm môi để tỏ sự căm thù con đực và bất cần sự có mặt của tôi. Tôi nói lời dỗ dành như chỉ theo một thói quen:

- Đừng mổ nó chớ. Mổ nó chi tội nghiệp vậy?

Lời nói thật vô ích. Chỉ có con tôi nghe mà thôi và cũng như tôi, nó cũng cố ý che lấp sự bất lực của mình bằng những câu nói vô ích như vậy.

- Con bồ câu mái trông vậy mà hung tợn quá ba nhỉ?

- Ừ. Khi người ta… ghét thì người ta trở nên hung bạo.

Ý tôi đang nghĩ rằng: “khi người ta không yêu thì người ta tàn nhẫn”, nhưng nói cho con tôi nghe, tôi phải đổi như vậy. Thật tình là tôi đang chuyển từ phạm vi chim sang địa hạt của người. Tôi nhớ rằng khi yêu, con người có thể hạ mình làm những việc tầm thường, thậm chí có thể làm những việc ngu si được. Nhưng khi đã không yêu thì họ tàn nhẫn lắm. Họ giả vờ bỏ mất địa chỉ để không viết thư trả lời, họ nói dối là bận lắm để khỏi gặp mặt, họ mong tìm thấy một lỗi nhỏ nơi người kia để lấy cớ mà giận mà tuyệt giao. Con người có trí khôn nên yêu ghét đều cực đoan.

Nhưng con chim bồ câu, tôi không hiểu nó ghét vì lẽ gì. Theo lời một người bạn tôi kể lại thì anh có đọc trong một trang sách nào đó bảo rằng bồ câu là một giống chim không sống được trong cảnh cô đơn. Phải có cho nó một người bạn, nếu không khác phái thì tạm đồng phái cũng được. Người ta thí nghiệm rằng nếu nuôi nó trong một cái lồng bốn mặt có gương phản chiếu lại thì nó sẽ yên lành mà sống trong đó vì có hình ảnh của nó làm bạn với nó. Một con vật có nhiều thiện ý bằng hữu như vậy sao nỡ hành hạ một người bạn đã được chọn cho mình và xứng đáng với mình? Hay là vì nó thủy chung với người chồng cũ? Ừ nhỉ! Nghĩ đến đây, tôi nhìn nó với đôi mắt trìu mến. Thì ra chỉ có bồ câu mái mới biết chung tình. Tôi xấu hổ lây cho con bồ câu đực hôm nọ, bỏ người vợ chung tình lại một mình, ra đi không hề ngoái lại. Người vợ đó hôm nay vì anh mà cự tuyệt một người đàn ông khác đẹp đẽ không kém anh. Chung tình với một người bội bạc, trường hợp đó thật cao quí, và chỉ phái yếu mới có. Tôi nghĩ xa hơn một chút và kết luận: đàn ông như mình thật đáng ghét.

Sau một hồi hưu chiến, con bồ câu mái lại chạy a vào mổ tới tấp vào con bồ câu đực. Ý chừng nó thấy tôi chịu đứng bất lực ngoài lồng không thể viện trợ gì được cho kẻ thủ của nó nên nó mở cuộc tấn công lại. Con bồ câu đực lại né tránh và chạy dài. Đôi cánh kéo lết dưới sàn lồng. Một cái lông măng dính nơi mỏ của chim mái. Với món chiến lợi phẩm nầy dính nơi mỏ, con chim mái trông thật vũ phu.

Con tôi bỏ chỗ đứng đi lại phía con chim đực, có lẽ để tỏ lòng ưu ái với một chiến sĩ có thừa sức khỏe nhưng không nỡ tay đánh một người đàn bà. Vẻ mặt nó đăm chiêu và ra dáng đau khổ. Hai má nhếch lên vẽ những đường nhăn ở hai khóe mắt. Tôi chắc nó lại nghĩ đến cái lỗi của nó đã trót thả con chim đực bay mất hôm trước. Nếu nó không vụng tính đến nỗi làm cái việc dại khờ đó thì làm gì có cảnh đau khổ hôm nay. Tôi đi lại kéo tay con tôi vào nhà vừa bảo:

- Thôi, mặc kệ nó.

- Nhưng con hối hận quá.

- Đã trót rồi thì đừng nghĩ đến nữa. Vả lại, một con chim thì có giá trị gì. Điều cần nhất là con nên rút từ đó ra một bài học.

Ngày hôm sau con chim mái bớt vẻ hằn học, do đó con chim đực có đủ bình tĩnh để xếp lại đôi cánh cho gọn gàng hơn. Hai đứa chia nhau đứng mỗi đứa một góc lồng. Mặt chim đực buồn bã. Ngày hôm sau nữa, chúng đứng gần nhau hơn. Đến ngày thứ tư, thứ năm gì đó tôi không nhớ rõ, chúng đứng sát cạnh nhau. Sự thù ghét chấm dứt và được nối liền bằng tình yêu. Dường như không có một khoảng trống nào giữa hai tình cảm bị diệt, mâu thuẫn đó.

Đến đây, tôi không muốn dễ dàng để trí óc mình suy nghĩ và kết luận về đời sống tình cảm của lũ chim nữa. Chúng ghét đó rồi yêu đó, thủy chung và bạc tình đi cạnh nhau. Nhưng thú thật là tôi rất yên tâm khi thấy chúng không còn gây rắc rối cho tôi nữa. Những mối tình êm đẹp ở loài chim hay ở loài người cũng đều không gây tò mò thích thú nơi kẻ bàng quan. Con tôi lại bình tĩnh đợi chờ ngày mối tình ấy có kết quả. Những cặp trứng màu trắng nho nhỏ xinh xinh được nằm trên nệm rơm êm nhưng lần ấp nào cũng không thành. Đôi lần, ba lần, hy vọng rồi thất vọng liên tiếp, rốt cuộc chúng tôi chỉ nhớ chi tiền mua thóc cho chim ăn, còn thì không để ý gì đến chúng nữa. Cho đến một tối kia thừa lúc cửa chuồng đóng không kỹ, con mèo hàng xóm lẻn vào bắt mất con chim mái. Nhưng tôi đã chán sự thù hằn rồi. Tôi đã chán cả hy vọng rồi. Nhằm lúc đó có một người quen đến chơi ao ước nuôi bồ câu, tôi tặng cho anh ta cái chuồng chim và cả con chim đực cô độc.

Rút bỏ đi được sự rối rắm trong việc nuôi chim nhưng quả tình lòng tôi chưa thoát được những ấm ức. Tại sao người ta vẫn nuôi được. Ông liên gia trưởng hay nói lạc đề của tôi có một chuồng bồ câu lớn với nhiều tiếng gù, tiếng rên rỉ, tiếng vỗ cánh rộn ràng. Nhà ông công chức ở cạnh sở tôi làm vừa dựng thêm một chuồng bồ câu thứ hai. Mỗi khi nhìn qua cửa sổ là mắt tôi bắt gặp lũ chim hớn hở bay lên đậu xuống. Dĩ vãng nuôi chim của tôi bừng sống dậy và tôi cảm nghe trong lòng như có một nỗi buồn dâng lên. Trong khi ấy thì tôi lại gặp được nhiều người cũng chán nản bỏ cuộc như tôi vậy. Thành ra để tự an ủi mình, tôi hay đem câu chuyện nuôi bồ câu ra nói, mong tìm những sự thất bại cụ thể nơi những người kiên nhẫn nhất và có nhiều điều kiện để tích cực hơn tôi.

Nỗi niềm đó mấy ai hiểu thấu? Chẳng hạn một chiều nọ, một cô bạn mời tôi đến nhà thầy mẹ cô chơi. Khi cô đưa tôi ra sân để giới thiệu những chậu hoa hồng, hoa sói do bàn tay khéo léo của mẹ cô vừa chiết được, tôi lơ đãng nghe và nhìn mà chỉ chú ý đến bầy bồ câu đang bay qua bay lại từ chuồng đến mái nhà. Khi người em trai của cô đi qua, tôi giữ lại hỏi:

- Anh Vĩnh này, anh nuôi bồ câu có thành công không? Có lợi đích xác làm anh bằng lòng không?

Vĩnh đang ngẫm nghĩ để xếp đặt một câu trả lời thì cô bạn tôi nói ngay:

- Sao lại không lợi? Bồ câu đẻ mỗi tháng mỗi lứa…

Tôi phải xin lỗi ngắt lời cô bạn mà nói:

- Có lẽ Vĩnh biết rõ vấn đề hơn cô. Lâu lâu cô mới về thăm thầy mẹ, chắc cô không được rõ đâu. Ý tôi muốn hỏi Vĩnh, - chẳng hạn: bồ câu có bị mèo hàng xóm chụp không?

Vĩnh tươi cười ngay vì câu hỏi chi tiết dễ trả lời hơn câu hỏi tổng quát lúc nãy.

- Dạ, bị mèo vồ luôn.

- Có hay bị trẻ con hàng xóm bắn ná cao su không?

- Dạ, cũng đó xảy ra luôn. Bồ câu đang ấp mới bay xuống đường là bị bắn chết một con. Con còn lại bỏ ổ không ấp nữa.

- Có phải nhiều khi có một cặp trứng mà ấp chỉ nở có một con?

- Dạ, có vậy.

- Bồ câu dễ mắc bệnh lắm?

- Vâng.

- Thế thì nuôi chúng chẳng lợi mấy…

- Vâng ạ. Mấy tháng đầu thì có lợi, ham lắm. Nhưng sau lần lần thì hơi chán…

- Cám ơn câu trả lời của Vĩnh.

Vĩnh và cô bạn tôi đều tỏ ra ngạc nhiên không hiểu ý tôi muốn nói gì. Tôi giảng giải:

- Tôi nuôi chim bồ câu bị thất bại nên bỏ không nuôi nữa. Mặc dù tôi đã kiên nhẫn nhiều nhưng tôi vẫn cho rằng tại mình mau nản lòng nên vẫn có ý ngầm tự trách. Do đó mà tôi muốn nghe người khác nói lên sự thất bại, sự chán nản để tôi được an ủi.

Vĩnh mỉm cười thú vị vì ngẫu nhiên mà chúng tôi cùng một tâm trạng như nhau. Chắc Vĩnh đang cần một sự an ủi tương tự như tôi vậy. Cô bạn tôi thì dáng không vui. Một người đàn bà đang còn đẹp, ít khi chịu để cho một người đàn ông nói trái ý mình.

Đích thực là càng ngày tôi càng yên tâm rằng tôi không nên hối tiếc vì sự nuôi chim thất bại. Nhưng lòng yêu chim bồ câu của tôi, tôi thấy vẫn không suy giảm. Tôi sẵn lòng yêu bất cứ chim bồ câu nào của ai mà tôi bắt gặp, mà tuyệt nhiên không có ý tưởng muốn nuôi nó làm riêng của mình. Cái đầu nhỏ, đôi mắt đen láy, cái cổ mảnh, cái ức gọn gàng, tất cả sự dịu dàng ấy ám ảnh tôi, ám ảnh cả vào những lúc mà tôi không ngờ nhất.

Tôi nhớ có lần tôi đi dự một nhạc hội. Người ca sĩ được giới thiệu, tôi đã nhiều lần nghe giọng hát ở đĩa nhựa và máy thu thanh. Đêm nay cũng giọng hát trầm ấy thổn thức nức nở, như kéo là là xuống mặt đất, như muốn tràn ra mênh mông, như muốn vỡ ra từng mảnh. Tôi nhìn lên tấm thân manh mảnh của nàng trong tà áo màu ngà, với mái tóc buông dài, với đôi má trắng, đôi mắt đen láy. Có những lúc giọng hát trầm quá tôi chợt lo rằng nàng sẽ không giữ được thăng bằng, giọng hát trĩu nặng xuống và nàng sẽ chênh vênh, và nàng sẽ ngã. Nhưng nàng vẫn đứng đó, tà áo màu ngà manh mảnh, đôi má trắng, đôi mắt đen và giọng hát vẫn êm đềm thổn thức. Con chim bồ câu! Thoáng một giây, tôi nghĩ đến con chim bồ câu, con chim bồ câu trắng dịu dàng, con chim bồ câu không phải của riêng tôi nhưng mà tôi sẵn sàng mến yêu bất cứ nơi đâu và chẳng cần biết là của người nào.

(Trích từ tập truyện ngắn Khoảng Mát)    
 

Thứ Ba, 4 tháng 11, 2025

CON CÁ MẮC CẠN - Doãn Quốc Sỹ

 
Ngày xưa có một người lính thú:
 
Ngang lưng thì thắt bao vàng,
Đầu đội nón dấu vai mang súng dài.
Một tay thì cắp hỏa mai,
Một tay cắp giáo quan sai xuống thuyền.
Thùng thùng trống đánh ngũ liên,
Bước chân xuống thuyền nước mắt như mưa.

Đi ngược dòng sông vài ngày rồi lên bộ lẽo đẽo vượt suối, rồi lại xuống thuyền ngược dòng sông, rồi lại lên bộ, cứ như thế ròng rã một tháng trường mới tới nơi đồn trú. Đó là miền biên giới có thác chảy ào ào suốt ngày đêm, có núi chập chùng cao ngất chắn mất đường về. Dọc theo ngọn nguồn con sông chảy xiết là những khu rừng già âm u nhiều rắn độc, nhiều thú dữ.

Đau đớn thay cho người lính thú. Anh phải ở đây ba năm, ba năm dài những lo âu, thương nhớ. Bất trắc có thể xảy đến hàng ngày khiến anh bỏ thây nơi rừng núi hùng vĩ nhưng hiểm độc này. Anh mà ngã xuống chỉ một chiếc lá nhỏ cũng đủ phủ thây anh vì thân anh sẽ rữa nát trước chiếc lá để rồi mất tích vào đám bùn đen ẩm thấp dưới rừng. Đêm đến anh ngủ, những hình ảnh khủng khiếp đó ùa đến cùng tiếng thác nước để uy hiếp linh hồn anh. Ba năm... ba năm dài...

Ba năm trấn thủ lưu đồn,
Ngày thì canh điếm, tôi dồn việc quan.
Chém tre đẵn gỗ trên ngàn.
Hữu thân hữu khổ phàn nàn cùng ai.
Miệng ăn măng trúc măng mai,
Những giang cùng nứa lấy ai bạn cùng?
Nước trong xanh con cá vẫy vùng...

Phải, một hôm kia anh vào rừng chém tre đẵn gỗ, anh lạc đến khoảng tròn rộng và sâu những đá là đá, lớn có từng tảng, nhỏ thành từng hòn, nhỏ nữa là cát sỏi. Nước ở đây thật là trong và có một con cá. Thoáng thấy anh, con cá vùng quẫy như muốn tìm nơi ẩn trốn. Người lính thú nào có biết điều đó, anh ao ước được tự do như con cá kia và buột lời ngâm:

"Nước trong xanh con cá vẫy vùng..."

Kỳ lạ thay, con cá đó biết nói. Nó hỏi anh:

- Anh cho là tôi sung sướng lắm sao?

Người lính thú đáp:

- Sung sướng lắm chứ! Cảnh thì tĩnh, nước thì trong, một mình anh thảnh thơi, vùng vẫy.

Con cá làm như cất tiếng cười mai mỉa rồi giải thích:

- Đây trước là con suối. Một hôm mưa nguồn lớn, đá trên núi xô lăn xuống ngổn ngang, con suối đổi dòng, để lại một khúc chết ở đây. Thoạt tiên nước đục, tôi còn khuây khỏa đôi chút vì mình có thể bơi lội tung tăng mà vẫn no mồi, chẳng phải để ý đến ai, và cũng chẳng ai biết có mình mà để ý. Tai hại thay nước lắng dần... Qua đi một tuần trăng, nước trong suốt như gương, tôi thấy mình trơ trẽn quá. Anh ơi, rủi bị tù trong một vũng nước đã là một điều đáng buồn, lại bị tù lộ liễu trong một vũng nước trong suốt như gương này thật là vừa buồn vừa nhục.

- Nước trong vắt không có mồi, anh có đói không?

- Tôi có thể ăn rêu bám ở những hòn đá quanh đây.

Người lính thú lấy cơm nắm giơ lên và nói:

- Tôi bửa cơm ra rồi ném xuống một ít cho anh nhé.

Giọng cá bình thản một cách buồn rầu:

- Cám ơn anh. Giá nước đục anh làm như vậy thì hay, nhưng nước trong như thế này anh ném xuống để thấy tôi bơi lên đớp lấy, chao ôi còn cảnh nào tủi hổ cho bằng!

Người lính thú ngẫm nghĩ, sực nhớ điều gì, anh nói:

- Thế tôi mang anh sang dòng sông gần đây vậy nhé!

Cá đáp:

- Cám ơn anh, nhưng cảnh tôi phải lên nằm trên lòng bàn tay anh để rồi anh mang ra sông thả xuống còn đáng sỉ nhục gấp ngàn gấp vạn lần cảnh bị tù thế này. Tôi tuy bị tù ở đây nhưng vẫn nghe thao thức tiếng sông qua mạch đất. Sẽ có ngày mưa nguồn làm tràn bờ giếng này, làm rềnh khúc sông kia, lúc đó tôi sẽ nương theo triền nước mà tìm ra sông. Như thế mới đẹp! Như thế mới đẹp!

Có tiếng mõ thu quân. Người lính thú chào cá, bịn rịn ra về. Từ đấy mỗi khi chém tre, đẵn gỗ, hoặc đi kiếm măng trúc, măng mai qua đấy anh cũng giữ ý chẳng muốn đến bên bờ suối chết để khỏi gây xao động cho con cá bị tù. Thảng hoặc gặp cơn mưa nguồn khá lớn, anh chạy vội tới đó ném vội xuống khối nước đục ngầu một ít cơm rời, rồi ra về trong lòng không vui, vì anh vẫn thắc mắc chẳng hiểu cá có còn ở dưới đó để nhận những hột cơm của người tri kỷ, hay đã trườn mình tìm ra sông rồi.
 
 
 DOÃN QUỐC SỸ