Chủ Nhật, 10 tháng 8, 2025

NHỮNG BÍ MẬT CỦA ANH ĐỖ CÚC - Võ Hồng

Chừng như không giữ được nhẫn nại nữa, thầy Tri nghiêng đầu nhìn tôi rồi giơ hai tay lên trời:

- Sao trò ngu thế? Làm luận như trò thì đi thi đỗ thế ...chó nào được? Văn chương gì mà khô như bã mía thế?

Thấy thầy ngừng lại không nói tiếp, hai tay vẫn giơ lên và cái đầu vẫn nghiêng, tôi ấp úng:

- Dạ!

Tiếng "Dạ" ngu si chỉ được tôi nói khẽ hết sức cũng làm cho cả lớp bật cười lên. Tôi đưa mắt nhìn xuống lớp. Hai hàng nữ sinh ngồi ở hai bàn đầu rúc rích cười làm tôi ngượng quá. Tôi cảm thấy máu rần rần chạy lên hai tai. Thầy Tri cúi gần tôi ôn tồn giảng:

- Muốn cho bài luận hay thì mình phải thêm thắt vào. Ai chẳng biết cây phượng trước trường trò rụng lá trơ cành? Nhưng trong bài luận trò phải nói, chẳng hạn: "Cây phượng trước trường sum xê lá xanh và hoa đỏ. Từng đàn chim đậu trên cành cất giọng hót véo von"

Tôi lại "dạ" và cả lớp lại "ồ" lên cười.

- Có phải trò nghe chim hót véo von không?

Tôi nặn óc để cố nhớ lại xem có lần nào tôi nghe chim hót véo von không, nhưng tuyệt nhiên không nhớ. Hình như mỗi lần ra chơi tôi chỉ nghe học trò la ồn ào mà thôi, mà bài luận thầy lại ra "Tả cảnh sân trường vào giờ ra chơi". Tôi nghĩ: Giá có con chim nào đậu ở trên cành phượng - thực tế thì khó có thể vì cây phượng bị lũ học trò trèo phá bẻ gãy cành, tước rụi cả lá thế kia thì có chim nào thèm đến đậu - mà cho rằng có chức năng chim nào đậu nhằm trên cành phượng mà muốn véo von hót thì lũ học trò nô đùa cũng đủ cho nó sợ hãi mà bay đi. Nếu không bay thì thế nào nó cũng bị lũ học trò tranh nhau lấy đá ném hoặc lấy ná cao su bắn. Lũ học trò cứ mươi đứa là đã có vài đứa thủ ná cao su đi học. Chúng đến trường sớm rồi rủ nhau đi lang thang ở dãy cây rậm gần nhà dây thép để tìm bắn trái keo, bắn trái bàn, bắn trái me. Hết mùa trái thì gặp gì chúng cũng bắn không gặp gì chúng cũng bắn: bắn vào trụ đèn, bắn vào cổng nhà người ta, bắn vào lề đường. Khổ thân tôi, tôi biết tìm đâu cho ra một tiếng chim "véo von" trên cây phượng "cành lá sum sê" tưởng tượng này?

Tiếng thầy Tri giục:

- Sao? Trò trả lời đi.

- Thưa thầy... dạ... con chim không có hót ạ.

Cả lớp lại cười lên một lần nữa. Thầy nhìn chằm chặp vào tôi, nhìn sát vào mặt tôi như tôi là con vật lạ. Tôi lo lắng đứng đợi và tôi chợt có cảm tưởng rằng hai tai tôi đang dài ra, dài ra như hai tai của con bò. Chợt thầy đứng dậy kéo cánh tay tôi lôi ra đứng trước cửa lớp rồi chỉ ra trước mặt:

- Đó, trò thử nhìn ra bể đi. Rồi trò tả cho tôi một câu xem trò có trông thấy gì không.

Chao ôi, thấy thì tôi thấy đủ thứ. Nào là những rặng cây me, cây keo, cây bàng... nào là nhà ông Phó Sứ, ông Lục Lộ, lại là sân ten-nít... Xa hơn là bãi cát, là biển, là núi, là trời.

- Thưa thầy con có phải tả mấy cây keo và nhà ông Phó Sứ không ạ?

- Không cần. Trò chỉ tả biển thôi.

Tầm mắt tôi giã từ những hàng cây xanh và dãy nhà ngói đỏ mà đóng hẹp lại ở mặt biển. Tôi nhìn thật kỹ, còn óc thì loay hoay xếp chữ này cạnh chữ kia cho thành một câu. Cuối cùng tôi thưa:

- Biển nằm im lặng, màu xanh lợt hơn màu xanh của núi.

Thầy nghe, bĩu môi ngẫm nghĩ rồi vừa kéo tôi vào ra hiệu cho lại chỗ ngồi vừa nói:

- Thôi, cũng tạm được. Nhưng chưa hay.

Thầy quay mặt nhìn xuống lớp, hỏi:

- Trò nào tả hay hơn?

Đỗ Cúc giơ tay, đứng dậy. Không đợi thầy cho phép, anh đằng hắng giọng hai lần rồi nói:

- Xa xa những làn sóng biếc nhấp nhô lượn trên bãi cát vàng. Tiếng gió rì rào thổi trên ngọn lá thùy dương như một bản nhạc êm êm bất tuyệt.

Những anh lớn ngồi ở mấy bàn sau xuýt xoa ầm lên như có ai dí lửa vào chân. Tiếng xuýt xoa chạy nhanh đến mấy bàn đầu. Thấy thầy giáo mỉm cười, cả lớp thừa cơ để ồn ào lên ngay:

- Hay quá

- Hay quá thầy ạ.

- Văn sĩ đấy.

Tôi cũng nhận thấy anh Cúc tả hay thật, nhưng tôi cứ băn khoăn là không biết anh tìm ở đâu ra được những cây thùy dương mà tả vậy. Và thùy dương là cây quái gì? Ở bãi bể tôi chỉ thấy có mấy cây keo xương xẩu và mấy bụi tre lá dày một cách thô tục mà thôi. Còn "bản nhạc êm êm bất tuyệt" anh nghe ở đâu vậy?

Nhưng khi anh Cúc đắc thắng ngồi xuống thì quả tình tôi cảm thấy tương lai về văn chương của tôi mờ mịt một cách tuyệt vọng. Sao tôi dốt thế kia? Và tôi thẹn thùng hết sức khi nghĩ đến câu tả cảnh của tôi vừa rồi "biển nằm im... màu lợt hơn màu núi...". Giá lúc nãy tôi đừng nói ra câu ấy vẫn hơn. Thà chịu để cho thầy Tri cốc một cái vào đầu còn hơn đem câu văn dở của mình ra để các bạn đem so sánh với câu hay của anh Cúc. Tôi đưa mắt nhìn sang Đỗ Cúc.

Thành thật mà nói thì anh không có vẻ gì thông minh xuất chúng cả. Trái lại thì có. Anh chậm chạp, chậm chạp đến mức nặng nề. Anh cao hơn tôi một cái đầu. Đôi bàn tay to, dài ngoẵng vì tay áo vừa chật vừa ngắn. Lúc bấy giờ chúng tôi đi học đều mặc áo bà ba ngắn, quần và áo đồng màu, riêng anh Cúc thì lúc nào cũng mặc áo rằn quần trắng. Cổ áo không phải thứ cổ kiềng như chúng tôi mà là cổ cao, giống như cổ áo dài. Trông anh thành ra ngây ngô, nhất là với cái đầu tóc cắt đơ mi cua.

Đỗ Cúc học giỏi đủ các môn, nhưng giỏi nhất là môn luận. Lắm lúc tôi thành thật đau khổ vì không tự giải thích được nổi do đâu mà con người ấy lại ăn nói văn hoa được đến thế. Tả đêm trăng thì anh có "hàng trăm hàng ngàn con rắn vàng bò lượn trên mặt nước". Tả ngôi chùa làng thì anh khéo xếp thế nào cho có một khóm trúc mọc ngay ở hông chùa để anh viết: "Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ". Có lần thầy ra: "Tả chị đầy tớ gái nhà anh". Chúng tôi mừng rằng Đỗ Cúc phen này hết đường mà văn hoa. Một chị đầy tớ chớ đâu phải là một cô tiểu thư, một nàng công chúa? Nét mặt thế nào cũng không đẹp, áo quần thì không thể sang, và cử chỉ lời nói chắc chắn là không thể uyển chuyển, dịu dàng, ngon ngọt. Chúng tôi hí hửng đợi sự thất bại của anh. Ấy thế mà hôm trả bài, Cúc vẫn đứng đầu với điểm 8 và thầy lại gọi anh lên đọc bài của mình. Thì ra sau khi tả những nét xấu xí của chị, Cúc khéo đặt chuyện rằng chị ấy chết chồng. Và để cảm thương cho nàng "tiết phụ" này, anh kết luận "Nàng từ chiếc bóng song the, gạt thầm giọt lệ như chia mối sầu". Lúc anh đọc đến đó, tôi liếc nhanh sang thầy Tri thì thấy thầy gật gật đầu mỉm cười ra dáng thích thú lắm. Hỡi ôi! tôi biết đào đâu cho ra những dòng văn chương êm đềm như thế để làm vui lòng thầy Tri, để làm bằng lòng các vị giám khảo trong cuộc thi tiểu học sắp tới? Tôi chán nản nhìn ra khung cửa sổ, nhìn mảnh trời xanh cao vút. Hy vọng về văn chương đối với tôi xa quá, khó vươn tới như mảnh trời xanh sáng đẹp kia.

Tôi cố bắt chước Đỗ Cúc nhưng không biết nên bắt đầu như thế nào. Tôi lưu ý đến Đỗ Cúc, đến từng cử chỉ nhỏ nhặt của anh, hóa ra tôi được biết nhiều chi tiết về anh, những chi tiết có lẽ không dính dáng gì hết đến tài văn chương của anh. Ví dụ cái lọ mực được cột vòng một sợi dây thép. Sợi ây uốn khoanh lò xo và tận cùng ở đầu bằng cái nút. Khi anh mở nút mực, cái lò xo rún rẩy làm rung rinh cái nút, trông nhí nhảnh như những đóa hoa ở mũ các ông kép hát bội. Tôi xấu hổ nhìn cái nút mực bằng giấy cuốn tròn lại của tôi. Đó không biết là cái nút giả thứ mấy sau khi cái nút thật bị lạc mất. Ví dụ cây bút chì anh cột bằng sợi dây nhợ dài dính vào nút áo. Khi viết, sợi dây kéo lằng nhằng. Có lần thầy bất chợt kêu anh lên bảng. Anh vội vàng không kịp bỏ bút vào túi áo khiến nó nhảy tung tăng theo bước chân của anh. Tôi cũng bắt chước anh cột cái bút chì vào một sợi dây và tròng vào khuy áo. Tôi bắt chước nhiều thứ nữa của anh, chẳng hạn lấy giấy cuộn xung quanh một đoạn tre ngắn để làm cái bút mực, chẳng hạn lấy nhiều giấy bản bồi cứng để làm cái bìa đóng ra ngoài mọi quyển sách, chẳng hạn sưu tầm những con tem thư để dành trong một cái hộp. Nhưng về phương diện văn chương thì tuyện nhiên tôi vẫn chẳng tiến bộ chút nào hết.

Nửa năm lớp Nhất tôi thay nhà trọ đến ở chung với anh Nên cùng học lớp Nhất với tôi. Anh Nên có một người chị năm ấy chừng 20 tuổi. Chị Cẩm - tên người chị của anh Nên - cả ngày cứ nằm trong phòng đọc tiểu thuyết và đợi người phu trạm, cứ chừng một tuần ghé lại trao cho chị một bức thư. Nhận được thư, chị vội vã vào phòng đóng kín cửa lại. Khi lũ em gõ cửa mời ăn cơm, chị uể oải bước ra, xì mũi liên tiếp vào khăn mùi xoa và hai mắt đỏ. Thấy nhiều lần như vậy, tôi hỏi u già. U bảo:

- Cô Cẩm nhận thư của cậu Khang đấy.

- Thế sao nhận thư chị Cẩm lại khóc?

- Vì cậu Khang hiện ở bên Tàu. Xa lắm.

Nhìn tôi ngẩn ngơ chưa hiểu, u hạ giọng, nói nhỏ:

- Cậu Khang thương cô Cẩm, nhưng tía cậu không chịu đi hỏi cô Cẩm cho cậu. Tía cậu bắt cậu về Tàu để cho hai bên xa nhau. Tía cậu Khang là ông Bang Chín, hiệu Đồng Thạnh ở xế cửa nhà mình đấy. 

Tôi gật đầu ra dáng hiểu và u già cũng thôi không nói nữa. Ngoài những lúc sụt sùi khóc khi đọc thư - và khi viết thư trả lời, tất nhiên - chị Cẩm còn khóc khi đọc tiểu thuyết nữa. Nhiều lần tôi thấy chị nước mắt ròng ròng ngồi trước một trang sách mở. Tay chị luôn luôn vò một chiếc mùi soa nát nhàu. Tôi lý luận rằng những quyển tiểu thuyết kia hẳn có liên hệ bà con gì với những bức thư gửi đến và gửi đi của chị. Một hôm tôi cầm một quyển tiểu thuyết chị vô tình đặt ở bàn học của tôi, mở ra xem. Đó là một tập gồm những đoản thiên tiểu thuyết bìa đã gãy nhàu và mực in đã nhòe vì mồ hôi tay. Truyện đầu tiên nhan đề là "Thu sang lá rụng người về bơ vơ". Tôi tưởng chừng vừa nghe lại một giọng nhạc quen thuộc. Giọng nào nhỉ? Con người thô lỗ văn chương là tôi, đâu có lý tôi đã được hân hạnh có nhiều kỷ niệm về văn chương đến thế? Trong khi óc loay hoay tìm kiếm, tôi lật vội để tìm tên của cái truyện thứ hai "Lệ ai tầm tã bến Giang Châu". Tôi lật tiếp. Những cái tên truyện vang lên du dương: "Em ơi! Hẹn nhau mùa lá rụng...", "Tóc xanh ai nỡ nhuộm mái sầu...", "Duyên em trao trọn về chàng"... Bên cạnh những tên truyện êm đềm ấy, tên các tác giả cũng êm đềm chẳng kém. Những là Lệ Thùy, Mộng Hoàng, Huyền Thao, Hoài Giang Thủy... y như những tiếng nhạc đệm nhỏ, vang nhè nhẹ bên cạnh bản nhạc chính. Chợt tôi vùng la to lên: "Đỗ Cúc!". Phải rồi, cái giọng nhạc quen thuộc đó là giọng của người anh hùng văn chương của lớp tôi, anh Đỗ Cúc vậy. Bên tai tôi như văng vẳng vang lên giọng đọc của anh: "... Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ... nàng từ chiếc bóng song the... Gạt thầm giọt lệ như chia mối sầu..."


Thế là từ đó tôi bắt đầu làm quen với thứ văn chương loại Đỗ Cúc. Tôi đã tìm ra được bí mật của anh rồi. Cái nguồn văn chương lâm ly của anh là những quyển tiểu thuyết đượm nhiều nước mắt này. Tôi lật nhìn những bức tranh vẽ. Hầu hết là những hình thiếu nữ mắt mơ màng, tóc chải theo lối kỹ nữ Trung Hoa, có cài trâm và xiêm y dài thườn thượt. Các cô hoặc đứng tựa cành mai, cành liễu hoặc ngồi trước án thư, nhưng dù ở cảnh nào người họa sĩ cũng không quên vẽ một mặt trăng vào đó. Những bức hình này chắc đã an ủi chị Cẩm nhiều lắm vì dễ thường đã nhiều lần chị tưởng tượng rằng chính đó là hình ảnh của chị, cô gái Trung Hoa đau khổ. Sao lại không? Yêu một người Trung Hoa, người ấy hiện giờ ngồi nhớ chị tại xứ Trung Hoa, xứ Trung Hoa với những địa danh đẹp như Tô Châu, Hàng Châu, Dương Tử... thì chị đã, một nửa là cô gái sầu mộng của Trung Hoa rồi còn gì nữa? Thật chị có đủ yếu tố để đẫm mình vào những trang sử lâm ly này vậy.

Từ ngày biết được xuất xứ những câu văn êm đềm của Đỗ Cúc, tôi nhìn anh bằng con mắt ít khâm phục hơn. Mỗi lần thầy Tri gọi anh lên đọc một đoạn văn của anh mà thầy thích là tôi mường tượng thấy tập tiểu thuyết của chị Cẩm với những chữ nhòe mực vì mồ hôi tay, với những hình cô gái Trung Hoa. Nhưng Đỗ Cúc, anh dường như không bao giờ có thể tin rằng bí mật của anh đã bị tôi khám phá ra rồi. Chứng cớ là mỗi lần thầy kêu anh đọc bài luận, anh vẫn bước đi một cách dõng dạc, cố ý ngừng lại từng đoạn để đợi nghe chúng tôi xuýt xoa khen. Chứng cứ nữa là anh đã dùng thứ văn chương ấy để viết một bức thư tình, các bạn có thể tin được không?

Việc xảy ra như thế này:

Sáng hôm ấy trước giờ vào lớp, thằng Tiến nhặt được một bức thư của ai đánh rơi ở gần bục thầy ngồi. Chúng tôi chạy ùa lại xem. Thằng Chút ồn ào và quấy nhất lớp giật lấy bức thư vừa la to:

- Để tao đọc cho tụi bây nghe.

Cả lớp nhao nhao lên: "Phải đó. Phải đó. Để nó đọc".Và Chút mặt hí hửng, dõng dạc đọc:

Gác vọng nguyệt, một ngày Mạnh Đông.

Kính thưa Quý nương

Tiếng thằng Hy ồn ào chận lại:

- Cha chả! Văn chương mùi mẫn thế!

- Mạnh Đông là cái thá gì thế bay? Tao chẳng hiểu.

- Quý nương là đứa nào vậy?

- Im! Im! Để nó đọc tiếp.

Cánh thư trước kính gửi Quý nương, đến nay vẫn chưa có hồi âm, lòng vãn sinh thật muôn phần đòi đoạn. Ôi! một ngày mong đợi coi bằng ba thu. Chùm hoa bên rèm cũng như nhớ nhung ai mà từng cánh tả tơi theo gió"

Một tiếng "huýt" thét lên và thằng Phin la theo:

- Úi dào! Hay quá! Ai viết mà hay thế bay?

- Ai viết thế nhỉ? Đỗ Cúc hở?

Chợt tiếng một anh la lên "Thầy đến! Thầy đến!". Chúng tôi lật đật chạy ùa theo của sau, tháo ra sân. Sự điều tra tác giả bức thư được tiến hành âm thầm. Tác giả không ký tên mình, không ghi tên của người nhận thư, nhưng cứ so cái giọng văn trong thư thì anh em đều chắc mười mươi là Đỗ Cúc. Ngoài Cúc ra, chúng tôi không đứa nào có thể sản xuất được một phần năm bức thư văn hoa ấy. So nét bút thì cũng đúng là Đỗ Cúc. Anh có nét chữ đều đặn, nét đậm, nét lợt phân minh, khuôn chữ dài và nằm nghiêng. Thằng Sự nói giọng quả quyết.

- Chắc chắn là thằng Cúc. Lúc Chút đọc thư nó cứ ngồi ỳ ra đó không chạy lên ồn ào với tụi mình.

- Thằng Cúc đứt đuôi đi rồi. Văn nó chớ còn ai vào đây nữa.

- Nhưng còn quý nương là ai?

Mọi khuôn mặt trầm ngâm lại suy nghĩ.

- Chẳng lẽ lại con Nga - thằng Đạo nói - Con Nga đẹp quá, chắc Cúc chẳng dám đâu.

- Thế thì Minh Ngọc - thằng Gương ngắt lời.

- Vô lý. Tao nghi là con Trâm.

- Trâm là con ông Án sát. Nó sợ tù không dám rớ vào đâu.

- Thế thì chị Tám vậy.

Nghe đến tên chị Tám chúng tôi đều cười ồ lên. Chị Tám là một chị bạn cũng lớn xác và cũng vụng về như Cúc vậy. Chị đen và có cặp mắt lé. Không ai bảo ai mà chúng tôi cùng ngầm đồng ý rằng quý nương của Cúc là chị Tám. Chúng tôi kể cũng khá ích kỷ. Dù trong ký ức đoán, chúng tôi cũng không cho phép Cúc được động chạm đến những cô bạn xin đẹp của lớp chúng tôi như Trâm, Minh Ngọc, Nga.

Câu chuyện bức thư tình quả có làm cho chúng tôi thích thú vì được chế giễu Cúc - len lén thôi vì chúng tôi sợ Cúc đánh - nhưng không vì thế mà Cúc suy giảm tài văn chương. Những bài luận của anh cứ tiếp tục được thầy khen. Anh cứ đều đặn lên đọc văn anh cho chúng tôi nghe, những đoạn văn có đủ mây trôi lững lờ, trăng soi huyền ảo, có khóm trúc, có hoa xưa, có chim có bướm. Và cuối năm, Cúc đỗ đầu ở kỳ thi tiểu học. Ngày lễ xướng danh, ông Công Sứ trao tặng thủ khoa một cuốn tự điển Larousse nặng. Thủ khoa Cúc cong lưng, cúi đầu, giơ hai tay lên đón nhận. Ông Công Sứ giơ tay bắt. Anh túng lúng đưa hai tay ra nắm tay ông, khiến quyển tự điển rơi đánh "rầm" xuống thềm. Chúng tôi bất giác cười rộ lên, nhưng vừa lúc ấy bắt gặp đôi mắt lườm của thầy Tri, chúng tôi vội vàng vỗ tay thật mạnh theo lời thầy đã dặn trước.

Đỗ tiểu học xong, chúng tôi phân tán mỗi người một nơi. Lên trung học, văn tôi cũng không tiến bộ chút nào nhưng được cái may là trong lớp không ai có tài như anh Cúc nên tôi đỡ bị khổ. Thế rồi cuộc đời cứ lặng lẽ chuyển vần, tôi lớn lên, tôi đi làm, tôi cưới vợ. Vợ tôi là một cô bạn gái cùng lớp nhất với tôi năm đó, cô Trâm con gái ông Án sát. Chúng tôi ngẫu nhiên gặp lại nhau ở Huế và nhiều sự ngẫu nhiên khác tiếp theo, cộng lại, đưa đến kết quả là chúng tôi cưới nhau. Ba năm sau, lại một ngẫu nhiên nữa đến với tôi, đó là tôi gặp lại anh Đỗ Cúc. Lúc bấy giờ tôi được đổi về làm việc ở thành phố Đà Nẵng. Một chiều thứ bảy rỗi rãi tôi thả bộ đi dọc theo đại lộ Quang Trung. Một người đàn ông lùi lũi đi ngược chiều lại tôi. Trông dáng đi quen quen và vẻ mặt thì không lạ. Tôi moi óc cố nhớ. Cuộc đời đã đẩy tôi vào giữa nhiều khuôn mặt quá khiến tôi lẫn lộn khi bắt gặp một khuôn mặt quen thuộc. Tôi đứng dừng lại để giúp cho trí nhớ dễ tập trung. Người đàn ông ấy lại đi gần tôi, ngước nhìn lên, nhìn hơi lâu và dáng ngập ngừng như cũng nhớ ra tôi. Óc tôi chợt như có một tia sáng lóe ra và miệng tôi vụt kêu lên không kịp giữ lại:

- Đỗ Cúc !

Người đàn ông ấy đứng dừng ngay lại và miệng cười.

- Anh Vinh, nếu tôi không lầm.

Cái giọng nói khàn khàn, cái cách nói hoa hòe, đúng là Đỗ Cúc thật. Hai bàn tay siết chặt và tự nhiên tôi quay ngược chiều trở lại, đi theo chiều của anh Cúc.

- Lâu quá mới gặp lại anh - tôi nói - Nhà anh ở đường nào?

- Cũng gần đây thôi. Đường Phan Đình Phùng. Tiện thể mời anh ghé lại tệ xá chơi cho biết. Bây giờ anh đã vợ con chưa?

- Đã

- Tôi cũng vậy. Mà chắc hơn anh ở chỗ nhiều con. Sáu đứa. Nuôi con mệt ngất ngư.

Tôi lẻn đưa mắt sang anh. Áo quần hơi cẩu thả. Chắc là vì anh nuôi mệt "ngất ngư" nên không có thì giờ săn sóc cho mình. Tóc vẫn cúp đơ mi cua.

Đi qua hai phố thì tới nhà anh. Anh tháo chốt cổng đợi tôi bước vào, liền đóng lại.

- Để mấy đứa khỏi chạy ra đường.

Anh nói một cách thản nhiên như không cốt cho tôi nghe. Tôi cười thầm, ngầm nhủ: con người cẩn thận. Không hẹn mà cái nút mực có đính lò xo và cây bút chì buộc dây của anh hiện ra trong óc tôi. Hai đứa con nhỏ của anh ở trong cửa chạy xổ ra ôm lấy chân anh. Rồi hai đứa khác nghe tiếng reo cũng chạy vụt ra. Lấp ló trong nhà là hai người con lớn. Thật là trật tự, quy củ. Anh vui vẻ bảo:

- Mấy con chào chú đi.

- Lạy chú ạ

- Lạy chú ạ

Loáng một giây, anh đã đứng giữa bầy con sáu đứa của anh. Người con lớn đã đứng cao bằng anh và giống anh như đúc. Cũng vẻ mặt hơi nặng nề và, lạ chưa, cũng cái đầu cắt đơ mi cua. Tôi hỏi:

- Cháu lớn đã được mấy tuổi rồi?

- Mười tám.

- Hử? Mười tám tuổi?

Anh lúng túng giảng giải:

- Tôi đỗ tiểu học xong thì thầy tôi bắt cưới vợ ngay. Thành ra đã có con lớn.

Tôi lật đật tìm một câu nói cho anh đỡ ngượng vừa để xí xóa vẻ ngạc nhiên vụng về của tôi vừa rồi.

- Có con sớm được nhờ. Anh vậy mà sung sướng.

Một người đàn bà ở dưới bếp đi lên. Anh giới thiệu:

- Nhà tôi.

Chị Cúc trông già hơn anh nhiều mặc dù anh cũng đã khá già. Thân mình chị to gấp đôi anh. Có đặc biệt là hai cổ tay của chị đeo đầy vàng. Tôi nghĩ liền: Chắc chị này là con một ông Chánh tổng, phó tổng gì đó, nhà giàu. Có vậy thì thầy anh mới bắt anh cưới vợ sớm.

Từ giã đoàn thê tử bề bộn của anh, tôi đưa mắt nhìn gian phòng. Đồ đạc bày biện quá đầy đủ. Có cả xa lông đệm lò xo, có cả ghế bàn mặt đá, sập gụ, tủ chè, tủ rượu. Những vật nhỏ anh đều sắp đặt đủ đôi. Bên này cái lọ thì bên kia đối diện lại cũng phải là cái lọ, đối, phúng, trướng dàn khắp mặt tường, đa số là những bức người ta đi khao ông cụ thân sinh anh khi được vinh thăng cửu phẩm, bát phẩm. Một cái ná Thượng du và một túi tên lạc loài giữa rừng câu đối. Sự hoang dã của non cao, sự tàn bạo của chém giết không ăn nhịp với những dòng chữ nho hòa nhã ca tụng tài đức của chủ nhân. Thấy tôi quan sát, anh nói:

- Tôi mới đặt mua cái tủ lạnh. Vài bữa họ chở tới.

- Nhà anh có nhiều tiện nghi quá.

- Ồ! Có gì đâu

Anh nhũn nhặn mỉm cười. Nhũn nhặn thật sự, vì tôi thấy mọi vật bày biện ở đây đều thở ra một cách mệt nhọc, cái không khí sung túc no đủ.

Bắt đầu là anh. Anh trông béo ra, đôi má phúng phính khiến đôi mắt càng nhỏ lại. Tới đây tôi thấy cần được giải thích thêm về sự sung túc hiện tại của anh. Tôi hỏi:

- Gặp anh mừng quá quên hỏi điều này: Bây giờ anh làm ở đâu?

Anh lại lúng túng, khiến tôi thấy mình vụng về lần nữa. Cuối cùng anh nói:

- Vì tôi chỉ có bằng tiểu học nên tôi phải dạy một lớp tiểu học ở cách đây mười cây số. Trước đây vài mươi năm, bằng tiểu học có giá trị, bây giờ thì gần như vô nghĩa. Tiếc quá, thầy tôi lúc bấy giờ không cho tôi học thêm.

Tôi an ủi anh:

- Làm sao mà các cụ ngờ được. Nhưng anh như thế này là sung sướng lắm rồi.

Anh tươi nét mặt trở lại và đưa mắt nhìn vào một góc phòng. Tôi đoán chắc anh đang tưởng tượng vài hôm nữa anh kê tủ lạnh ở chỗ ấy. Ngồi nói chuyện với tôi mà hai tay anh không để yên. Hết nghiêng đầu soi lên mặt bàn để tì gạt một vết bụi, đến sửa lại cái gạt tàn thuốc đặt hơi lệch. Có lúc anh chợt đứng dậy vội vã khiến tôi giật mình, tưởng chừng có đứa con nào suýt ngã, anh vội chạy đến đỡ. Nhưng không. Anh chỉ đi lại chỗ tủ chè xếp lại mấy cành hoa giả mà một cơn gió nào đó đã xô lệch. Thật là sự chi ly cẩn thận của Đỗ Cúc. Bỏ đi sự chi ly này thì không chắc anh còn là anh nữa.

Nhìn xuống đồng hồ thấy đã trễ giờ cơm, tôi đứng dậy xin cáo từ anh. Tôi cho anh biết địa chỉ của tôi và anh hẹn chủ nhật sau sẽ dến thăm. Sáu tiếng "lạy chú ạ" vang lên, lẫn lộn, tiễn tôi ra cổng. Anh tươi cười giữa khúc "nhạc" quen thuộc ấy, vẻ hãnh diện, chừng như bằng lòng về sự sản xuất phong phú của mình. Anh nói:

- Nuôi con đông mệt ngất ngư thật, nhưng nhiều lúc cũng vui.

Lúc vui đó chắc là lúc này đây. Bước ra khỏi cổng, tôi tiện tay đóng cửa lại và móc chốt dùm anh. Tôi nói:

- Để lũ nhỏ khỏi chạy ra đường.

Anh thú vị siết chặt tay tôi qua song cửa và đôi mắt cười híp lại.

Tối hôm ấy ăn cơm xong, tôi bảo vợ tôi:

- Chiều nay anh vừa gặp một sự ngạc nhiên. Đố em đoán xem sự ngạc nhiên gì.

Vợ tôi vờ suy nghĩ rồi hỏi ngay:

- Ngạc nhiên gì vậy?

- Anh gặp Đỗ Cúc

- Đỗ Cúc là cái gì?

- Em không nhớ Đỗ Cúc sao? Đỗ Cúc là người bạn học hồi lớp nhất với chúng mình đó.

Vợ tôi nhíu mày suy nghĩ. Tôi giúp nàng mau nhớ ra bằng cách giảng giải rõ thêm:

- Đỗ Cúc là người bạn làm luận hay ở lớp mình đó, anh bạn áo rằn, anh bạn...

Vợ tôi "à" lên một tiếng to, ngắt đứt câu nói của tôi:

- À, em nhớ ra rồi, cái anh học trò dở hơi đó phải không?

Dở hơi? Sợ vợ tôi lầm với một người nào khác, tôi lại nhẫn nại giảng giải nữa:

- Cái anh mà thầy Tri hay bắt đọc văn cho chúng mình nghe đấy. "Khóm trúc thêm tuôn giòng lệ cũ" và "Nàng từ chiếc bóng song the, gạt thầm giọt lệ như chia..."

- Biết rồi, em biết rồi mà. Thì cái anh chàng dở hơi đấy chớ còn ai vào nữa. Cái anh chàng mỗi lần đi lên bảng là hai tay đong đưa như đàn bà đi chợ ấy, em còn lạ gì.

Thì ra mỗi người nhìn anh Cúc với một con mắt khác, nhận ở anh Cúc một nét đặc biệt khác. Vợ tôi lưu ý đến đôi tay đong đưa của anh.

- Thế anh ta bây giờ ra thế nào ?

- Oai lắm. Những sáu đứa con. Và xem chừng giàu.

- Anh gặp anh ta ở đâu?

- Ngay giữa phố, anh có ghé lại cho biết nhà và anh ta hứa chủ nhật tuần sau đến thăm chúng mình.

Tôi kể lại những điều nghe thấy buổi chiều ở nhà anh Cúc. Nhân chuyện anh Cúc, chúng tôi nhẩn nha nhắc lại những kỷ niệm vui vẻ ngày cùng học ở trường Sông Cầu. Vợ tôi nhảy từ chị bạn này sang chị bạn kia, từ thầy giáo sang bác cai trường, từ cầu Thị Thạc sang phố lầu chú Chấn Thạnh. Tôi đuổi theo ý nghĩ của vợ tôi một cách mệt nhọc. Nàng đúng là con chim non nhí nhảnh như đã nhiều lần tôi phê bình. Nhưng lần này sở dĩ tôi không muốn đuổi theo ý nghĩ của vợ tôi là vì tôi còn đang vấn vương với anh bạn Cúc mà tôi vừa gặp. Khi những cảnh dĩ vãng đã chuyển hết rồi, con chim nhỏ là vợ tôi đã đứng yên, tôi đột ngột hỏi:

- Em còn nhớ bức thư tình của anh Đỗ Cúc mà thằng Chút đã đọc to trong lớp không?

- Có nhớ

- Không biết anh ta viết bức thư ấy định gửi cho ai. Lúc bấy giờ bọn anh cố khám phá mà chịu không đoán ra được ai. Anh ta khôn, chỉ viết "Thưa quý nương" thì đố ai mà biết được.

Vợ tôi ngồi ngẫm nghĩ giây lâu rồi bỗng phá ra cười. Tôi hỏi:

- Em cười gì vậy?

- Đố anh biết Đỗ Cúc viết cho ai?

- Đã bảo rằng bọn anh chịu, đoán không ra. Bọn anh nghĩ là anh ta viết cho chị Tám.

- Lầm. Anh ta viết cho em đấy.

Tôi ngạc nhiên:

- Thật sao?

- Em đâu có nói đùa?

- Thế anh ta không sợ ba em à?

- Nào em có biết. Hôm thầy Tri giao cho anh ta phát vở luận, em vắng mặt. Anh ta giữ vở em lại. Hôm sau anh ta trả vở cho em kèm theo một phong bì. Anh ta bảo: "Chị Nhạn ở lớp nhì nhờ đưa giùm phong thư cho chị". Nhạn là bạn của em nên em nhận. Về đến nhà mở ra mới biết là thư của anh ta. Thư bắt đầu bằng "Thưa quý nương". Em đọc mà chẳng hiểu gì hết. Em chỉ nhớ mấy câu hay hay...

- Ồ! Đỗ Cúc thì viết hay phải biết - Tôi ngắt lời - Em còn nhớ mấy câu hay ấy chứ?

- Lâu quá, có hơi quên. Hình như là "đài gương soi đến dấu bèo"... và... "những khi trăng soi bóng lẻ gió rít đầu cành..." hay là cái quỷ quái gì đó. Em sợ quá về đưa ngay cho ba xem.

- Chết Đỗ Cúc mất rồi!

- Ba đọc xong, xé đi, rồi bảo em từ giờ anh ta có đưa giấy tờ gì thì vất trả lại. Nếu anh ta không nghe thì lên mách thầy giáo.

- Em có mách lần nào chưa?

- Chưa. Lần sau anh đưa một cái thư nữa, cũng bảo là của chị Nhạn nhờ đưa, nhưng em nghe lời ba, ném lại. Cái thư lọt vào kẽ bục bàn thầy. Anh ta lật đật cúi xuống moi lấy nhưng không được. Sàn gạch hoa thì trơn mà em vất mạnh nên không ngờ cái thư chạy qua mãi phía bên kia bục. Anh ấy hì hục đẩy bục đi, nhưng bục nặng không xê dịch được. Đôi tai và mặt anh ta đỏ nhừ lên, bộ điệu lúng túng trông cũng tội. Vừa lúc ấy các anh ồn ào đến nên Cúc lật đật đi xuống chỗ ngồi. Và thế là anh Tiếp bắt được cái thư và anh Chút mới đọc oang oang giữa lớp.

- Tội nghiệp cho Đỗ Cúc - tôi chép miệng

- Nhưng may cho em. Hôm làm bài luận "Tả nỗi buồn khi xa nhà ra tỉnh trọ học" em nhớ câu văn của Đỗ Cúc trong thư nên viết ngay vào bài: "... những khi trăng soi bóng lẻ, gió rít đầu cành...", thầy Tri khen, cho 8 điểm. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần chót em được 8 điểm luận.

Hai chúng tôi cười to vì sự thành công bất ngờ về văn chương này.

- Lúc nãy anh bảo rằng chủ nhật anh ấy đến thăm chúng mình?

- Ừ

- Anh ấy đã biết rằng anh có vợ rồi?

- Biết rồi, chính anh nói. Anh còn cho biết rõ ràng vợ anh là cô Trâm xinh tươi cùng học lớp nhất ngày xưa.

Vợ tôi không tỏ ra quan tâm đến lời nói nịnh của tôi mà vẫn điềm nhiên hỏi:

- Anh ta có ngạc nhiên không ?

- Hình như cũng... có hơi ngạc nhiên.

Vợ tôi nheo mắt nhìn ra sân một hồi rồi quay sang tôi:

- Em chắc chủ nhật này anh ấy không đến đâu.

- Vô lý. Việc gì mà không đến? Tôi vội vã hỏi lại.

- Em chắc anh ấy ngượng.

- Có gì mà ngượng. Chuyện trẻ con mà. Bây giờ ai nấy cũng đều lớn cả rồi, mà anh ấy có những sáu đứa con. Em cứ chuẩn bị nhà cửa cho đẹp đẽ hơn một chút nữa đi, để chủ nhật chúng ta đón anh ấy. Nhà anh ta giàu lắm, em nhớ cho, chớ không nghèo như chúng mình đâu.

Ngày chủ nhật đến, tôi không dám đi đâu hết. Trái với thường lệ, tôi dậy sớm và ăn điểm tâm vội vàng như những ngày đi làm. Tôi mặc áo quần cẩn thận và ra ngồi ở phòng khách đợi. Tôi biết tính Cúc siêng năng, chu đáo, nên tôi cho rằng anh ta sẽ đến sớm lắm. Nhưng 9 giờ.. rồi 10 giờ. Có tiếng bánh xe ô tô rít lên, rẽ vào con đường xóm tôi, nhưng xe chạy thẳng. Có tiếng phanh xe xích lô lách cách, nhưng xe đậu ở nhà đối diện. 11 giờ... 12 giờ. Vợ tôi thỉnh thoảng ở nhà ngang đi lên, bảo tôi:

- Đó, em nói có sai đâu.

Tôi chịu không biết nên trả lời thế nào cho phải.

Buổi chiều, tôi không ra ngồi ở phòng khách nữa, nhưng tôi vẫn không dám đi đâu xa. Tôi chỉ lảng vảng hoặc ở nhà ngang hoặc nằm ở phòng đọc sách. Mỗi một tiếng giày sạo sạo ở cổng, tiếng còi ô tô, tiếng xe gắn máy nổ đều làm tôi lắng tai ngóng chờ.

Khi điện đường bật sáng, khi tiếng đũa bát vang lên ở phòng ăn, tôi biết rằng tôi không còn hy vọng đón anh Đỗ Cúc nữa. Quả anh không đến thật như lời vợ tôi đã đoán. Tôi uể oải đứng dậy thay áo thì chợt có tiếng chuông reo ở cổng và tiếp theo, tiếng con Nu sửa ầm lên, anh Cúc đến. Không những anh đến một mình đủ để trái với dự đoán của vợ tôi - mà có cả chị Cúc và một đoàn sáu người con - Hôm nay anh mặc bộ tuýt xo vàng và thắt cà vạt. Những nếp gấp lộn xộn nhất hằn lên áo, và hai vai xệ xuống. Đôi tay và lưng cứ ngọ ngoạy trong chiếc áo hơi rộng. Nhìn anh không có vẻ thoải mái, tôi có cảm tưởng rằng chiếc áo đấy xa lạ với anh. Với một chút son ở đôi môi và mái tóc chải ngăn nắp, chị Cúc trông được mắt hơn bữa đầu tôi gặp. Tuy vậy, đôi chân mày nhổ chừa lại còn quá nhỏ khiến mắt chị thành ra to thêm.

Tôi vừa ra đón thì anh chị đã vội vã chào trước:

- Chào bác ạ - Chào bác ạ. Hôm nay chúng tôi đến hầu thăm hai bác.

Mấy đứa con, như sáu cái máy, phụ họa theo:

- Lạy bác ạ, lạy bác ạ.

Tôi lúng túng khi nhận tiếng xưng hô lễ mễ. "Bác", tiếng gọi mới già nua làm sao! Vì thành thật mà nói thì nhìn lại anh Cúc, tôi cứ tưởng chừng tôi xa anh không quá 5-7 năm, nhất là nhìn cái đầu tóc đờ mi cua, tôi thấy anh không khác mấy với những ngày đi học. Thế mà thay vì tiếng "anh" nhẹ nhàng đơn sơ, anh đã gọi tôi bằng "bác". Chắc là do anh chịu ảnh hưởng của vợ anh thôi. Chắc là đứng bên cạnh người đàn bà bệ vệ ấy, anh bị bắt buộc thấy mình già đi, đứng đắn lại, chớ hôm một mình gặp tôi giữa phố anh vẫn gọi là "anh"

Khi vợ tôi ở nhà ngang bước lên thì một loạt những tiếng "chào bác, lạy bác", lại hòa tấu một lần nữa. Vợ tôi tỏ ra lúng túng gấp đôi tôi vì sự trịnh trọng mà gia đình anh Cúc đã dành cho mình.

Khi anh chị Cúc đã ngồi yên ở ghế và lũ con xếp một hàng ngay ngắn ở đi văng thì cuộc đàm thoại xã giao bắt đầu. Chị Cúc nói trước:

- Cái phòng khách của hai bác chắc một bề 4 thước một bề 7 thước.

Vợ tôi trả lời, giọng không quả quyết lắm:

- Vâng, hình như thế ạ.

- Bác nên cho xây thêm một tấm "đan" ở đằng trước cho mát. Tấm "đan" chạy dài suốt cả mặt tiền.

- Vâng ạ. Xây thêm được một tấm "đan" thì mát hơn nhiều.

Chị Cúc nhìn một lượt phòng khách của tôi rồi giơ một ngón tay - đến đây tôi mới kịp để ý rằng bàn tay chị đeo đến ba, bốn chiếc nhẫn mà chiếc nào mặt cũng to, cũng đồ sộ - chỉ vào một góc phòng.

- Bác cho đắp hai cái trụ chỗ này. Đặt hai chậu hoa thược dược hay hoa cúc vào đấy thì đẹp.

- Vâng ạ - Vợ tôi khẽ gật đầu tuân lệnh.

- Chẳng tốn bao nhiêu đâu.

- Vâng ạ.

- Mà trông đẹp ra.

- Vâng.

- Vậy để hôm nào em đưa đến giới thiệu cho bác một người thợ nề quen. Anh ta làm việc cẩn thận mà tính công lại rẻ.

- Vâng ạ. Cám ơn... bác.

Đã đến lúc tôi phải giải nguy cho vợ tôi. Con chim non cứ "vâng ạ, vâng ạ", chịu nhận mọi sự xây cất trong khi nhà này là nhà thuê. Tôi đằng hắng to:

- Xin mời hai... bác xơi nước.

Dù cố gắng nói thật to, thế mà tiếng "bác" như cũng ngượng ngùng, chỉ vang lên nhè nhẹ yếu ớt. Vợ tôi lại chỗ tủ ăn lấy sáu trái cam phân phát cho sáu người con anh Cúc. Tôi mời:

- Các cháu ăn cam đi.

Rồi quay sang anh Cúc:

- Cháu lớn học đến lớp mấy rồi?

- Dạ thưa bác, cháu "hược" ở lớp đệ tam.

Chị Cúc tiếp lời:

- Thưa bác, cháu lớn thế mà "hược" kém lắm ạ, "thiềng" ra ba cháu cứ tối tối kèm cho cháu.

Theo cái đà ấy, câu chuyện xã giao kéo dài một cách nhọc mệt vì chúng tôi cứ sợ nói nhằm vào những tiếng mà vợ chồng anh kiêng. Đầu đề câu chuyện thì quanh quẩn ở việc sửa sang nhà cửa, mua sắm đồ đạc, chơi huê chơi hụi, tăng lương, tăng thưởng ngạch trật. Trong khi nói chuyện, vợ anh Cúc cứ chăm chăm nhìn vợ tôi, còn anh Cúc hết nhìn xuống sàn nhà lại nhìn lên tường. Ý chừng anh không thể chịu được tại sao tôi lại không treo những bức trướng liễn, câu đối, hoành phi lên bốn bức tường như ở nhà anh vậy. Có một lúc vợ tôi quên mất phép xưng hô trịnh trọng, quay sang hỏi:

- À, anh Cúc, tôi nghe anh Vinh nói anh bây giờ giàu lắm.

Cúc nặng nề nhìn sang phía vợ tôi, chậm chạp nói:

- Thưa bác, bác trai bảo vậy thôi chứ tôi làm ăn cũng chỉ gọi là mát mặt.

Cách nói, lối nhìn của Cúc thật khác xa với điều vợ tôi đã dự đoán và tôi đã ngầm biểu đồng tình. Anh có ngượng gì đâu? Hình như người ngồi trước mặt anh không phải là người mà anh đã hai lần cặm cụi viết hai bức thư nồng nàn ái mộ. Nhìn anh giây lâu rồi nhìn sang vợ anh, tôi chợt nghĩ rằng anh dã được rập khuôn theo mẫu người mà tiếp xúc, tùy theo từng giai đoạn của cuộc đời. Anh dường như lúc nào cũng đã tự quên mình, tự xóa mình đi. Những áng văn chương lâm ly hồi đi học là ảnh hưởng của những quyển tiểu thuyết đương thời. Lớn lên đi làm, anh chịu ảnh hưởng của thầy anh, cũng rộn ràng những chức tước, phẩm hàm, hoành phi câu đối. Khi lập gia đình thì anh là hình ảnh được thu nhỏ lại của vợ anh : cũng chăm lo nhà cửa, bỏ vốn gây lời và kiêng kỵ những tên húy của tổ tiên. Không có một anh Đỗ Cúc thật ở chỗ nào hết, mà đó chỉ là tiếng vang trung thành của những tiếng động ngẫu nhiên ở đâu đây. 

Buổi tối trước khi đi ngủ, tôi nằm nghĩ vẫn vơ về cuộc đời của anh Cúc với những bí mật nhỏ của nó. Những bí mật ấy tình cờ mà tôi khám phá ra được hết: nguồn văn chương lâm ly của anh và bức thư tình không may mắn. Nhưng còn một bí mật cuối cùng nữa do nghề nghiệp của anh bắt tôi suy nghĩ. Đó là: không biết khi dạy học trò, anh có bắt chúng du dương theo loại "Khóm trúc thêm tuôn dòng lệ cũ... Nàng từ chiếc bóng song the..." như anh, hai mươi năm trước không? 

 

(Trích từ tập truyện ngắn Vết Hằn Năm Tháng)    

 

Thứ Năm, 7 tháng 8, 2025

CHIM RỪNG - Vũ Linh Thiêng


M'Na khẽ bước xuống chiếc sân vuông nho nhỏ trước nhà. Gió núi buổi chiều về chờn vờn trên những vòm cây xanh ngát, lung lay những cành phong lan treo lơ lửng trong vườn, mùi hương thoảng dìu dịu. M'Na đứng lặng người hít nhè nhẹ và lắng nghe cảm giác mát rượi chạy lần vào cuống phổi và rã dần ra khắp miền thân thể. nàng thấy lòng vui vui và thích những buổi chiều như buổi chiều hôm nay. Núi đồi ngàn đời lặng lẽ. Những tàn cây âm u rợp bóng không bao giờ thay đổi, có chăng cũng chỉ là chút lao xao những đêm buồn nghe gió lạ từ miền nào đó thổi về, một chút rồi sẽ trở lại với dáng đứng im lìm như cũ. Và bầy chim nhàn hạ những sáng mai nắng ấm về đùa chơi bên giòng suối dưới chân đồi hót cho người nghe những bài ca điệu lạ, âm thanh cao vút reo vui. Nàng cùng sống và cùng lớn lên với núi rừng. Và như núi rừng. Tóc nàng tốt xanh như lá. Má nàng hồng và đầy như những trái chín mùa xuân. Và máu nàng chảy về tim theo một nhịp điệu dịu dàng như giòng suối nhỏ nước mầu trắng xóa vỗ róc rách ngọt ngào trên những bờ đá xanh mướt dấu rêu. Đời sống ở đây bình lặng, giản dị. Nhiều lúc một vài đổi thay nho nhỏ, chẳng hạn một cơn mưa bất chợt vào một buổi chiều nào đó, có thể làm cho nàng buồn nhưng rất mỏng manh, vì chẳng qua nó chỉ phá vỡ một dự định nhỏ nhoi hay một ước vọng tầm thường như hẹn lũ bạn cùng đi tắm suối. Nàng yêu rừng núi và, cũng như những người bà con giòng họ của nàng, nàng không bao giờ muốn bỏ xa rừng núi. Một vài lần theo chân người quen xuống phố của người Kinh để mua bán, đổi chác, nàng cũng như họ đã hối hả mau mau tìm đường trở về với núi đồi khe suối. Phố chợ đông người thì có muôn ngàn cám dỗ, phố chợ đông người thì thật giàu sang, nhưng ở đó nàng thấy mình choáng ngợp, hụt hẫng. Ở đó chỉ có tiếng ồn ào của người và của xe cộ. Chỉ khi trở về với núi rừng nàng mới cảm thấy được an tâm, được che chở. Chỉ với núi rừng nàng mới nghe rõ được cái thanh vắng bình yên lảng vảng đâu đó, trong từng ngọn cỏ, từng bụi cây, từng mẩu đất, từng viên sỏi. Và nếu có tiếng động chăng nữa cũng chỉ là những nhạc điệu, những lời thầm thì đầy nồng nàn, đầy yêu thương của gió mát, của suối trong.
 
Khi M'Na xuống gần con suối nhỏ, nàng chợt nghe một nốt đàn lạ tai, lạc lõng rồi là im vắng. Nàng đưa mắt nhìn quanh tìm kiếm. Không thấy gì. Chỉ có tiếng lá xào xạc. Và tiếng nước suối chảy, âm thanh réo rắt nhưng nhỏ nhẹ, mơ hồ. Con suối nhỏ thật dễ thương, nước rất trong, ở đó nàng có thể thấy được bóng những tàn cây um lá, và những cánh mây trời bạc trắng trôi hững hờ dưới đáy tưởng chừng như sâu hơn những viên cuội nhỏ bé nằm im lìm ngoan ngoãn và chút gì tội nghiệp ở đấy. Hai bên bờ suối là những bãi cỏ mượt mầu xanh non dịu dàng. M'Na nghịch ngợm nhúng chân vào nước và nghe lao chao thật vui tai. Nàng rút chân lên và đứng lặng nghiêng người nhìn bóng mình lung lay nhập nhòa dưới đáy nước. Con suối vẫn chảy nhẹ nhàng, vẫn trôi xuôi êm ái nên nàng chưa bao giờ biết mình đã lớn, chỉ mơ hồ cảm thấy một vài đổi thay khác lạ trên thân thể. Và hồn nàng thì vẫn tịch lặng như mặt nước hồ thu chưa bao giờ dậy sóng, chưa bao giờ xôn xao bởi một viên sỏi nhỏ nào, viên sỏi có tiếng rơi rụng và tiếng lướt đi âm thanh sắc bén và đau đớn. Nàng sống an phận, vô tình như cảnh vật chung quanh. Nàng chưa biết mơ mộng. Cũng như nàng chưa bao giờ biết đi xa về phía dưới con suối ở bên kia khúc quặt và lùm cây. Cũng như nàng chưa bao giờ biết được giòng nước nhỏ đã soi bóng nàng, soi bóng núi rừng, đã chảy qua bao nhiêu làng mạc, bao nhiêu phố xá, và cuối cùng đổ ra một đại dương bao la. Mà nàng như một cánh chim rừng bé bỏng, nhút nhát, hai con mắt đã ngập tràn hình ảnh của những vòm cây xanh ngát, và hồn thì đã dẫy đầy những mật ngọt hương thơm của hoa cỏ.
 
- Ê, cô kia!
 
Có tiếng ai gọi, giọng đàn ông trầm trầm. M'Na giật mình để rơi chiếc vò xuống con suối. Nàng thấy bóng mình, bóng mây và bóng lá cùng vỡ vụn. Nàng hốt hoảng nhìn quanh và vội vã cúi xuống múc đầy vò nước. Nàng quảy vò lên lưng và dợm bước quay về.
 
- Này, cô kia!
 
Lần này tiếng gọi rõ hơn, và nghe như diễu cợt. M'Na sợ sệt nhìn chung quanh.
 
- Phía này nè, cô ơi!
 
M'Na ngẩng mặt nhìn lên. Trong đám lá xanh mướt, khuôn mặt với cái nhếch mép chễ diễu của một người con trai lạ mặt đang đăm đăm nhìn nàng. Chàng đang ôm một cây đàn, một tay hờ hững đặt trên hàng dây phím, một tay mệt mỏi chống cằm. Chàng cười tinh nghịch:
 
- Thấy  tôi chưa, cô mọi?
 
Chàng trai chắc là người Kinh, da thật trắng và có một chút gì xanh xao, nhưng hai ô mắt thì thật là sáng. M'Na cảm thấy bối rối và hơi khó chịu. Nàng nói, âm phát ra lí nhí và ngượng nghịu:
 
- Cô Thượng, không phải cô mọi.
 
Chàng trai bỗng bật cười thành tiếng:
 
- A! Xin lỗi cô Thượng!
 
M'Na cúi đầu yên lặng, nghe vò nước nặng trĩu trên vai. Nàng sợ. Và rừng  núi chung quanh cũng lặng yên. Rừng cũng đã sợ. Một con chim lạ cũng về đây hót những lời ca quái dị, phá vỡ nỗi bình yên quen thuộc mọi ngày. Rừng chưa hiểu nghĩa lời ca, nên rừng dè dặt, rừng im tiếng. M'Na cũng chưa hiểu, nên nàng nín thinh. M'Na liếc nhìn chàng trai rồi ôm vò nước quay đi.
 
- Cô Thượng về hở? Cô thượng làm tôi buồn lắm đó nghe.
 
Người con trai đưa mắt nhìn theo cho đến khi M'Na biến mất sau lùm cây và nói lớn, thanh âm nghe như vừa đùa nghịch vừa tha thiết: 
 
- Chiều mai cô Thượng xuống đây nhé! Tôi chờ!
 
M'Na nghe được tiếng vang vang đáp trả ở bên kia đồi ; cùng lúc bầy chim về bay lượn từng đàn trên nền trời nhạt nắng. Nàng vừa ngoái nhìn về phía dưới thung lũng, vừa chạy lên đồi hốt hoảng.
 
*
 
Đã bắt đầu đêm khi K'Lang đến. M'Na đang nhóm lửa. K'Lang khoanh tay lặng yên đứng nhìn người bạn gái, hai con mắt chàng lập lòe và lòng dấy lên một chút xao xuyến.
 
Hồi lâu, chàng gọi nhỏ:
 
- M'Na này!
 
M'Na ngẩng nhìn lên mỉm cười:
 
- Gì thế hở K'Lang?
 
K'Lang nhìn đăm đăm vào ngọn lửa, ngập ngừng:
 
- À..., M'Na có thích thêm lan nữa không? Để ngày mai K'Lang đi núi kiếm về cho...
 
- M'Na vẫn thích. Nhưng mà thôi, K'Lang cho M'Na nhiều rồi, K'Lang đừng đi núi lấy nữa kẻo mệt.
 
- Không. K'lang không có mệt đâu. K'lang thích đi núi chơi. K'Lang thích lấy lan về cho M'Na thật nhiều.
 
M'Na chợt cảm động. Nàng vói tay khơi cho ngọn lửa sáng hơn.
 
- K'Lang đi núi một mình thôi hở?
 
- Không. K'Lang đi với thằng H'Liu, thằng K'Muôn. 
 
- Thằng K'Muôn nhỏ vậy mà dám đi núi hở?
 
- Ừ, K'Lang vẫn dẫn nó đi hoài.
 
- K'Lang có đi xa không?
 
- Bọn K'Lang đi xa lắm. Đi xa trong núi mới có lan đẹp.
 
- Đi xa trong núi chắc vui lắm K'Lang nhỉ?
 
- Ừ, vui lắm. M'Na có thích đi núi không?
 
- Có, M'Na thích lắm.
 
- Hay là hôm nào M'Na đi núi chơi với bọn K'Lang nghe?
 
- Ừ. Mà K'Lang đừng dẫn M'Na đi xa nhé. M'Na sợ lắm.
 
- Có K'Lang, M'Na sợ gì?
 
- M'Na sợ lạc đường.
 
K'Lang bật cười làm M'Na cười theo. Những ngọn lửa bốc cao làm M'Na thấy nóng ran ở hai má. K'Lang nhìn ra ngoài sân hỏi:
 
- Giờ này mà bạ của M'Na chưa về hở? 
 
M'Na đưa mắt nhìn theo ra ngoài cửa. Nàng thấy nền trời đã thâm tối. Những bóng cây mệt mỏi đứng im như muốn ngủ. Giờ này có lẽ cha nàng - mà nàng gọi là bạ - đang trên đường trở về nhà, cây búa mệt mỏi trên vai. M'Na thương cha lắm. Ông chỉ còn một mình. Mẹ nàng mất lúc nàng còn nhỏ tuổi. (Nàng không còn nhớ gì về mẹ, ngoại trừ những hình ảnh loáng thoáng gom góp từ những mẩu chuyện rời rạc mà cha nàng đã kể. Nhiều lúc nàng cố thử nhớ lại khuôn mặt mẹ mình, nhưng đó chỉ là một khuôn mặt chắp nối từ những khuôn mặt quen thân của bà con họ hàng). Nhà nàng nghèo, như tất cả mọi gia đình của buôn Thượng nhỏ nhoi này. Mỗi buổi sáng khi mặt trời chưa dậy, cha nàng đã vội vã vác búa rìu vào tận rừng sâu đốn củi. Buổi chiều ông trở về với hai bàn tay gầy guộc, đen đủi, thêm những vết sẹo và nốt chai cứng. Và đài trán thêm một vết nhăn mới. Thế đó. Một đời vất vả. Một đời phấn đấu. Nhưng ông vẫn còn có một niềm vui để mà sống, đó là M'Na đứa con gái xinh xinh ngoan ngoãn của ông. Mỗi buổi tối, sau khi nấu ăn xong, M'Na ra tận cuối đồi đứng đón cha, dáng âm thầm run rẩy dưới bóng lá. Và khi nghe được tiếng bước chân ông mệt nhoài ở bên kia khóm cây, nàng cất tiếng gọi vang cả núi rừng, âm ba khuấy động một vùng sương khói mịt mùng:
 
- Bạ ơi! Bạ!
 
Nàng lắng tai nghe tiếng trả lời ở trong bóng tối, thanh âm khàn đục:
 
- M'Na.
 
Những lúc quá mệt, tiếng trả lời yếu ớt của ông mất hút trong tiếng gió đêm, nàng sẽ chạy như bay theo con đường mòn quen thuộc cố tìm trong bóng đêm hai con mắt yêu mến hay lắng nghe hơi thở dồn dập khỏa ấm một khoảng núi rừng. Rồi hai cha con, một già một trẻ, bước nhấp nhô trở về nhà. Hơi sương lạnh buốt. nhưng tiếng nói reo vui tíu tít của M'Na đang kể cho cha nghe những mẩu chuyện của một ngày qua làm ông quên nỗi mệt nhọc đang lan dần trong thân thể. Và bàn tay bé bỏng của nàng nằm ngoan ngoãn trong tay ông như chuyền hơi thở cùng nhịp sống cho cha. Con đường về nhà hình như ngắn lại.
 
Buổi tối, bên nồi cơm bốc khói, ông kể cho nàng nghe về những nơi chốn lạ hoắc mà ông vừa đặt chân đến, về những con thú, những loài cây, loài hoa kỳ dị mà ông đã thấy. Và sau hết luôn luôn là một mẩu chuyện đó của một người quá cố, một người đàn bà hiền lành chết rất trẻ giữa một mùa mây thấp và mưa lũ. Đã mười mấy năm rồi, thời gian xa rất xa. Nhưng cơ hồ hình bóng người đàn bà đó còn sống mãi trong trí tưởng của ông. Nhiều lúc ông ngỡ rằng nhìn thấy bà đứng chờ ông ngoài vườn cây, cùng đi với ông mỗi buổi sáng và cùng về với ông trong khuya lạnh. Bà còn đâu đó ngoài núi rừng để phù hộ ông giữa những ngày tháng gian nan, cứu ông những lúc nguy hiểm, vỗ về ông những giây phút muộn phiền và bảo bọc cho đứa con gái còn lại được một đời an lành, sung sướng. Khi nói về bà, giọng ông bao giờ cũng khàn khàn, nghèn nghẹn pha lẫn chút bùi ngùi. Và M'Na bao giờ cũng ngồi im rất im mà lắng nghe. Những buổi hôm trăng lên sớm tỏa ánh sáng mát dịu, bóng tối bị thổi dạt về phía dưới thung lũng, nàng mơ hồ thấy được gương mặt dịu hiền của mẹ mình đâu đó trên từng cành lá và cảm thấy bàn tay âu yếm của bà về đậu lại trên mái tóc. Và nàng thiếp đi. Hình ảnh cuối cùng còn thấy được là đốm lửa lập lòe và những sợi khói mỏng manh phả ra trên đầu ống điếu của cha nàng. và tai thì nghe tiếng côn trùng rả rích ở ngoài vườn cây, sau nhà, dưới con dốc, bên kia đồi, khắp nơi, cả trong giấc mộng nữa. Nàng ngủ hiền hòa cho đến sáng hôm sau, khi trở dậy đã thấy ánh lửa bập bùng trong bếp, cây búa nhỏ với cha nàng thì đã đi mất, cùng lúc bầy chim gọi nhau xôn xao dưới bờ suối. Thêm một ngày nữa cho cha nàng phải vất vả. Thêm  một ngày nữa để nàng thương yêu hơn. Thương yêu chính nàng, những người thân quen, cái buôn nhỏ, núi đồi chung quanh, cho đến một người khuất bóng, mẹ nàng.
 
*
 
Khi K'Lang ra về thì sương đã lên trắng xóa. M'Na đứng ở trong cánh cổng nhìn theo dáng người con trai Thượng. Phía dưới thung lũng là bóng tối đầy tràn. Nhưng cơ hồ nàng còn thấy được hình ảnh chàng trai lạ mặt với chiếc áo len màu xám tro ở đâu đó sau rừng cây, đôi con mắt ngạo nghễ vừa xa lạ như bầy chim trời đến rồi đi bất chợt trên mái lá, nhưng cũng vừa thân quen như những nụ lan vàng buổi tổi tỏa hương thơm ngát ngoài vườn. Trong một chốc bỗng nhiên nàng lắng tai nghe ngóng. Không còn tiếng đàn từng nốt vang vang và giọng cười tinh nghịch kỳ lạ. Mà chỉ nghe được tiếng bước chân của K'Lang khua vang xa dần trên lối cỏ và tiếng lửa tí tách reo trong căn bếp vọng ra. M'Na rùng mình. Nàng biết rằng đêm đã lạnh.
 
 
VŨ LINH THIÊNG        
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 114, tuần lễ từ 9-8 dến 16-8-1973)
 

Thứ Hai, 4 tháng 8, 2025

THÀNH PHỐ - Nguyễn Xuân Hoàng


Bài giảng của giáo sư Alexis Cras chấm dứt cùng lúc với tiếng chuông hết giờ. Trên chiếc đầu hói tròn bóng nhẵn của Cha, tôi nhìn thấy những sợi tóc hai bên mép tai Cha trắng như chiếc áo linh mục của Cha đang mặc. Tôi lách qua những hàng ghế, đi thật nhanh ra cửa lớp, chạy băng trên dốc, không buồn nhìn những chùm hoa đỏ đang nở rộ trước cửa nhà của Linh Mục Viện Trưởng. Đến nhà người gác dan tôi thấy Kim đang đứng chờ tôi. Nàng mặc chiếc áo choàng màu đỏ, cầm trên tay một bông cúc trắng cọng dài. Chúng tôi không nói gì với nhau, cả hai củng thả bộ xuống dốc đồi. Như thường lệ, chúng tôi tẻ sang tay trái, chọn con đường vắng người nhất, mát nhất và đẹp nhất để lên chợ. Kim hỏi con đường này tên gì vậy Vĩnh? Nàng không gọi tôi bằng anh, nàng gọi thẳng tên tôi như những thằng bạn trai! Tôi nói không biết đâu nó mới làm xong chưa đầy một tháng mà, tên với tuổi gì. Kim không chịu. Nàng nói nhưng chắc là nó phải có một tên để gọi chứ? Tôi chậc lưỡi : Ờ, chắc là phải có một tên gọi chớ. Gió đã bắt đầu thấy lạnh. Tôi đưa mấy quyển sách nhờ Kim cầm. Đường vắng tanh. Mặt nhựa bóng, nhưng hai bên lề còn lợn cợn những viên sỏi xanh đỏ. Những ngọn đồi thấp, đỉnh tròn, mượt cỏ xanh ngút dài thật mát mắt đến lạnh ngắt. Ngọn Langbiang cao và nhọn in hình một người đàn bà đang nằm khuôn mặt hơi ngước lên như chờ đợi một cái hôn dài. Tôi choàng áo lạnh lên ngoài áo len và bẻ cao cổ cho ấm.. Kim hát khẽ một bài nhạc quen thuộc.
 
Nàng trao sách lại cho tôi rồi ngậm cọng hoa trong miệng đẩy từ đầu môi này sang đầu môi kia. Kim hơi thấp một chút, đầu nàng ngang vai tôi, và những sợi tóc bay dạt về một phía. Tôi nói thầm gần ba năm rồi, còn gì. Nàng hỏi tôi nói cái gì vậy, Vĩnh? Tôi cười, không có gì hết, còn hai tháng nữa tôi sẽ ra trường và tôi đang nghĩ về những ngày sắp đến của mình. Rồi tôi sẽ mãi mãi xa thành phố lạnh lẽo này, con đường này, lớp học này, mặt hồ này sao? Ôi những ngày tháng ở đây trôi qua thực là lạ lùng và kỳ thú. Gần ba năm với sách vở và lười biếng, thầy học và bạn bè, con đường Hoa hồng và những cuộc dạo chơi quanh hồ buổi chiều, ngọn đồi chín cây và tiếng gió hú vào mùa lạnh. Còn nhớ hôm đầu tiên mới đến thành phố này và quen Liêm một cách tình cờ trong dãy 28 B. Đêm thứ nhất trong cư xá sinh viên lạnh buốt, bỗng thấy thèm cái nóng bức Sàigòn. Hành lý tôi mang theo không có gì ngoài mấy quyển sách đã cũ, cái bót đánh răng, khăn lau mặt và bộ quần áo độc nhất trên người. Liêm cho tôi nằm chung với hắn trên chiếc giường nhỏ với nệm, màn và chăn êm. Từ cái ngày đó nay đã ba năm. Ngoài Liêm ra tôi có thêm bạn mới là Lễ, Sang, Hiệp, Thảo... Còn có thầy học với những giờ kéo dài mà tôi không hiểu người đứng trên bục gỗ kia nói gì, thuyết giảng điều chi. Khung cảnh với đồi núi và khí lạnh. Những con đường rất đẹp dẫn đến những nơi không người. Tiếng gió hú từng đêm đập vào khung cửa kính tưởng chừng như có người khách nào xin qua đêm. Những trận mưa đá. Và tình yêu của tôi là Kim. Chúng tôi quen nhau không biết từ hồi nào. Nhưng khi tôi bỏ nội trú ra ngoài thuê một căn phòng nhỏ thì Kim đã có mặt ở đó. Nàng là cháu của người đàn bà chủ nhà. Nàng cho biết gia đình nàng ở một tỉnh miền biển. Thành phố bãi cát trắng mịn trải dài tới một nơi có tên là Cầu Đá. Một ngôi tháp rất thiêng và Hòn Chồng tên gọi của một tảng đá to in một bàn tay lớn mà mỗi ngón tay có thể chứa một người. Nước biển trong xanh và mát rượi. Rừng dương rậm và những con sóng cao to như một ngôi nhà bủa ập lên đường lộ trong những mùa biển động. Mỗi năm một lần, vào vụ hè, Kim lên sống ba tháng với người dì ở cái thành phố lạnh lẽo này. Ngôi nhà của dì nàng - nơi tôi ở trọ - nằm trên một ngọn đồi thấp, hàng rào là những cây hồng dại mọc lan đầy. Vườn ổi phía sau oằn những quả. Một luống ớt xiêm với những trái thật nhỏ và thật cay. Mỗi buổi sáng, khi ngọn đèn của trụ điện trước nhà còn cháy, mù sương bu quanh ánh nến, các cô nữ sinh của một trường nữ trung học gần đó đã cười đùa hí hửng đi qua. Màu áo xanh in trong sương mù và tiếng nói chuyện tíu tít của họ đã không làm tôi ngủ được. Ngồi trong cửa kính lấy tay xoa xoa một khoảng nhỏ vừa tầm mắt, tôi có thể thấy khói từ miệng những cô gái bốc lên như khói từ miệng những ấm nước sôi.
 
Ra đến chợ tôi đưa Kim vào một hiệu cơm quen. Nàng gọi thức ăn và không quên món canh chua thường lệ. Tôi đòi thật nhiều ớt dầm trong mắm có chanh đến nỗi Kim phải kêu lên : Vĩnh! Ghê quá! Định đốt bao tử thật đấy hả? Cơm bốc khói, canh nóng và ớt cay trong một tiệm ăn có cửa kính làm tôi ấm người và sảng khoái. Kim ăn rất ít và ăn nhỏ nhẹ như chim. Nàng buộc tóc hai bên tai bằng những vòng cao su, trải khăn ăn trên mép bàn, đặt hai tay lên đó và hơi do dự như muốn nói với tôi một điều gì. Tôi vừa ăn vừa đọc báo. Kim bỏ đũa xuống, hai bàn tay đan vào nhau ngập ngừng. Tôi nói báo loan tin quân đội đã tái lập an ninh trên đoạn cầu Langa rồi. Kim cầm chiếc khăn ăn đưa lên miệng chấm chấm ở khóe môi : Mai Kim phải về dưới đó. Chắc mẹ đang mong lắm. Tôi đặt tờ báo xuống bàn nhìn Kim. Trong đôi mắt, trong giọng nói của nàng tôi đọc thấy nỗi phiền muộn dễ thương. Tôi đề nghị, chúng mình xuống bờ hồ chơi đi, bé.
 
Khi chúng tôi xuống hết phố chợ thì chiều đã ngả. Bóng tối đi trên những ngọn cây quanh hồ. Hai đứa ngồi trên chỗ bờ cao. Kim kêu lạnh, hai tay nàng thu trong áo len và chúng tôi ngồi sát bên nhau. Tôi nhặt sỏi ném từng viên xuống mặt nước và sau mỗi lần ném tôi dừng tay lắng nghe tiếng động dội lại tưởng chừng như tiếng cá trườn mình từ dưới đáy sâu lên mặt nước đớp mồi. Mặt hồ sẫm đen và lặng lẽ. Qua ánh đèn pha của những chiếc xe đổ dốc từ ngọn đồi bên kia bờ, tôi chợt thấy sương lạnh bốc lên từ mặt hồ từng đợt rồi tỏa ra tan biến giống như khói lựu đạn cay. Kim nói cho tôi nghe về thành phố nàng sống. (Nàng cứ nhắc đi nhắc lại mãi về điều đó làm như trên thế giới này chỉ có thành phố nàng ở mới là điều đáng kể) Một thành phố nhỏ nằm ven biển với những con đường hẹp, nhà cửa chen nhau chi chít và bãi biển như một cánh tay ôm ngang hông thành phố. Ngôi trường nàng học gần với bãi cát trắng và những cây dừa tỏa bóng mỗi buổi trưa. Nhà nàng ở gần ga xe lửa, ban đêm gió biển thổi qua vườn hoa dạ hương của một ngôi biệt thự người Pháp mang theo tiếng dương cầm thánh thót bay đến tận phòng học nàng. Cha Kim là một công chức già làm thư ký hành chánh tỉnh đường. Ông bị cận thị nặng, mang kính trắng dầy rất nhiều vòng. Mẹ nàng đi chợ làm bếp và rất yêu các con. Người anh trai đi lính đã chết trong một trận đánh lớn mới đây. Cửa sổ phòng nàng mở ra một cây mận rất sai quả. Buổi tối gió làm mận chín rụng cùng với tiếng chó hếch mũi làm nàng hoảng sợ tưởng như có người lạ nào lẩn quẩn quanh nhà. Nàng kể tên tuổi và tánh tình từng người bạn, sự gắt gỏng dễ thương của những cô giáo dạy nàng, cả những màu áo nàng ghét và tất cả những gì mà trí nhớ không cho phép tôi kể lại với bất kỳ một người nào khác ngoài tôi. Những người ấy, những cảnh ấy, tôi chưa một lần trò chuyện nhưng cứ mãi nghe Kim kể lể và nhắc nhở tôi cũng bỗng thấy như là mình đã sống với, đã trò chuyện, đã thân mật tự bao giờ.
 
Tôi ngồi im nghe Kim nói, bóp bóp bàn tay mềm và lạnh của nàng. Bây giờ giá có ai hỏi tôi câu chuyện giữa Kim và tôi đến đâu rồi có lẽ tôi sẽ không biết phải trả lời sao. Tôi không nhớ cả cái nguyên do nào đưa đẩy tôi quen Kim và tôi cũng không hiểu nổi chúng tôi đang nghĩ gì về nhau. Cái trí nhớ của tôi thất lạc lắm. Đôi khi tôi nhớ rất rõ những chuyện, những người mình không quan tâm và rất dễ quên những điều mình muốn nhớ. Có lẽ một sự tình cờ nào đó khiến chúng tôi quen nhau. Kim có những ngón tay dài và thon, cườm tay nhỏ, con mắt một mí của nàng lúc cười vẽ một đường dài như sợi chỉ giăng ngang, một chiếc răng khểnh ở mép môi trái như một lời khiêu khích. Kim nhìn ra mặt hồ nói Vĩnh kể cái gì cho Kim nghe đi. Không, tôi chẳng có gì để kể cho bé nghe đâu. Nàng bấu vào vai tôi một cái thật đau. Cảnh hồ ban đêm thật quyến rũ... Vĩnh này... Kim bỗng dừng nửa chừng. Tôi biết những tiếng súng nổ thật dòn ở hướng tây bắc vọng về làm đứt đoạn câu nói của nàng. Kim hỏi Vĩnh có nghe thấy gì không?
 
- Không. Có gì đâu.
 
- Tiếng súng! Đừng có làm bộ nghe cậu! - Nàng kéo dài chữ cậu ra, giọng cười cợt.
 
Tôi lắng nghe trong tiếng gió xào xạc khua động những cành thông, tiếng súng nổ dòn dã. Tôi bỗng nghĩ đến thành phố Kim sắp về. Ở đó những đứa con gái hiền lành cũng đã bắt đầu tập tễnh ăn chơi. Những quán gỗ bán thức ăn và nhiều thức khác nữa - mọc lên nhanh như nấm trên một bãi biển vốn được khen là đẹp - Một thành phố như thế và Kim sống trong đó. Tôi nói chắc đang đánh nhau ở mạn Suối Vàng. Kim cười, ở đồng bằng súng nổ nhiều hơn trên núi cao. Nhưng trên núi cao lại có Suối Vàng. Kỳ thật!
 
Tôi thích lối nói chuyện của Kim. Mỗi khi nàng bắt được những chữ mà nàng ưa thích, nàng thường xé nát chúng ra và ngấu nghiến chúng. Tôi cười theo biểu lộ sự đồng tình.
 
- Kỳ thật!
 
Kim nói mai em đi chuyến xe sớm.
 
- Tôi đưa Kim ra bến xe. Được không?
 
- Thôi. Em đi một mình cũng được. Lỡ dì biết kỳ chết.
 
- Không. Dì không biết đâu.
 
Tôi cúi sát mặt Kim và trong hơi thở của nàng tôi như nghe được lời phản kháng. Làm sao tôi có thể phân biệt được màu tóc và màu mắt của nàng. Ôi đêm lạnh lẽo và cô đơn. Nỗi cô đơn toát ra khi có sự kề cận giữa hai người, cho dù đó là sự kề cận thú vị. Hơi nóng từ đôi môi kỳ diệu của Kim thu hút tôi như nam châm. Trời chợt ấm. Một đoàn xe nhà binh nối nhau chạy qua chiếc cầu đưa vào thành phố. Ánh đèn vàng sáng quắc quét một khoảng dài. Những vệt sáng lấp lánh cuốn hút tiếng động cơ, và tôi chợt thấy rõ Kim mặc chiếc áo choàng đỏ, khăn quàng cổ màu hồng, hồng đỏ như đôi má nàng.
 
 
NGUYỄN XUÂN HOÀNG      
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 62, tuần lễ từ 3-8 đến 10-8-1972)
 

Thứ Sáu, 1 tháng 8, 2025

CHUYỆN VỀ MỘT GÃ CON TRAI - Vương thị Ngọc Ngân


Gã con trai ghếch xe lên lề, xong leo yên ngồi bỏ thòng hai chân một bên. Đoạn móc vội bao thuốc đưa một điếu lên môi và bật lửa. Đố ai biết gã nghĩ gì, nhìn gì sau tròng kính hai màu? Gã con trai mới xuất hiện khoảng năm sáu ngày nay. Và buổi chiều nào đúng "pin" năm giờ mười lăm là y chang tôi thấy gã. Làm như chỉ có mỗi mình gã là biết làm cái công việc đón đưa em đi học - Đón thôi chứ không đưa - Cứ trông cái mặt vênh lên nhìn chòng chọc vào cửa trường, đủ để ghét đến muốn bốp cho vài phát. Nếu để ý kỹ hơn, ai cũng nhận ra gã nôn nao chờ đợi hơn là làm cái công việc đón đưa bình thường như bao người. Nội cách gã đạp máy, rồ ga và phóng một cái ào trong khi nhỏ em của gã chưa kịp ngồi đàng hoàng sau xe, đủ biết gã bộp chộp tới đâu. Con trai như gã thật khó mà chung tình. Chắc là gã mới nhận bàn giao với một ông anh bà chị nào của gã để làm cái công việc đón đưa nầy. Lúc trước tôi có thấy gã bao giờ. Hôm qua gã nhìn một vòng hết mọi người. Lần đầu tiên tôi thấy gã nhìn chung quanh. Đến khi gã nhìn tôi, tôi vội quay lẹ ra chỗ khác. Chắc là gã quê cùng mình! Lúc về, tôi len lén nhìn gã (không biết tại sao?) cũng vừa kịp lúc gã cười tình với tôi. Khiếp! Chưa chi đã định dụ khị người ta. Tôi cũng đạp máy rồ ga và phóng một cái ào. Con bé hết hồn kêu oai oái:
 
- Chậm tí chị ơi! Em té bây giờ...
 
Hôm nay gã định bày trò ma giáo gì nữa đây. Thay vì nhìn vào cửa trường như mọi khi, gã lại điều chỉnh tia nhìn sang chỗ tôi. Gã muốn có một màn đá lông nheo ư? Vô ích thôi người ạ! Ta đi giày Bata trong bụng người rồi. Đừng có hòng. Hãy về mà tầm sư học đạo. Bản lãnh như người, màn cười tình của người nó xưa như trái đất. Nó "đề mốt" từ khuya rồi. Ta là con gái lớn chứ bộ dễ ợt như con nít em mi, em ta. Người gặp ta là người còn có phúc. Người mà gặp nhỏ Hoàng Thụy Diễm Kiều bạn ta, chắc người đến khóc thét mà thôi! (Cũng có thể nó sẽ tha tàu cho người, vì người cũng hơi "bô" và... dễ ghét) Nhưng còn khuya thì ta mới tha cho người. Ta đi đến nhỏ Hoàng Thụy Diễm Kiều đây. Còn những hai mươi phút mới tan học. Người hãy đứng đó mà đá đèn với cột điện. Ta sẽ trở lại đón em ta sau khi nói chuyện tào lao với nhỏ Diễm Kiều. Chào người!
 
Tôi vẽ một vòng qua vài con đường đến nhà nhỏ Diễm Kiều.
 
- Chuyện gì thế nhỏ?
 
- Bộ có chuyện mới đến mi hay sao.
 
- Tại mi đến nhằm giờ quá đặc biệt. Mi không đón em mi à?
 
- Tại chuyện đón em ta, nên ta đến mi đây.
 
- Sao thế?
 
- Vào nhà ta sẽ nói mi nghe.
 
Tôi dẫn xe theo nhỏ Diễm Kiều vào nhà. Hai đứa đến bên chiếc ghế đu treo ngoài sân và tôi bắt đầu:
 
- Mi biết tại sao ta đến mi không?
 
- Sao?
 
- Ta gặp "hắn" mi ạ!
 
- Ai vậy?
 
- Nghĩa là một tên con trai.
 
- Hắn pha đèn mi?
 
- Đúng.
 
- Nhưng ở đâu?
 
- Tại trường của em ta. Hắn mới định đá lông nheo với ta thì ta phóng đến mi liền.
 
- Mi sợ?
 
- Thèm! Ta muốn cho hắn quê.
 
- Mi có tiến bộ!
 
- Chắc. 
 
- Nhưng mi cứ cho hắn quê hoài à! Vô lẽ chiều nào mi cũng đến ta?
 
- Ừ nhỉ!
 
Tôi bắt đầu suy nghĩ. Vô lẽ chiều nào cũng chạy trốn gã. Mình phải "gồ ghề" tỉnh bơ như gã. Gã nhìn mình, gã cười tình, gã đá lông nheo mặc gã. Can chi mà ốt dột! Nhưng làm sao ấy... Khó nghĩ vô cùng! Gã nhìn mình tự dưng mình mất hết bình tĩnh. Tay chân mình thừa thãi vô duyên. Quả thật! Con trai chỉ tổ làm phiền bọn con gái. Nếu không có gã xuất hiện, chuyện mình đón đưa em ví như một giòng sông phẳng lặng. Tự dưng gã mang hòn đá tổ bố ném xuống, chắc là giòng sông khó giữ cho mặt nước lặng yên như bao ngày. Và tôi quyết định:
 
- Cóc sợ!
 
- Thế chứ! Mi đúng là bạn ta.
 
- Chết! Năm giờ bốn mươi lăm rồi. Trễ mất mười lăm phút. Thôi ta đi đón em ta nha. Tội con bé, chắc nó đợi dài cả người.
 
Tôi chạy một mạch đến trường. Trường tan tự năm giờ ba mươi. Bây giờ chỉ còn một vài cô bé đợi người nhà đến đón. Con bé em tôi đâu chả thấy. Tôi hốt hoảng đâm lo. Bắt cóc ư? Không, con bé đâu đến nỗi khờ thế. Tôi đến bên người bán đồ lặt vặt cho con nít (đã quen mặt tôi từ lâu).
 
- Dì có thấy em cháu đâu không?
 
- Về rồi.
 
- Về với ai thế dì?
 
- Với cậu mặc áo đỏ khi nãy đậu xe bên kia đường đó!
 
- Cái ông chạy chiếc xe Lambretta màu cam phải không dì?
 
- Ừa!
 
Đúng rồi! Chính là gã. Không dưng gã lại thuổng mất nhỏ em tôi. Mà sao nhỏ em tôi lại chịu để gã chở về nhà thế. Chắc gã lại dụ khị bánh kẹo chi đây. Tôi hối hả cám ơn rồi vòng xe trở về nhà.
 
Nhỏ em tôi đang ăn cơm. Nó chưa kịp hỏi, tôi đã mau miệng:
 
- Ai đưa cưng về thế? 
 
- Anh con Quyên.
 
- Quyên nào?
 
- Quyên học chung lớp với em.
 
- Sao cưng dám đi? 
 
- Đợi chị lâu quá, con Quyên bảo để anh nó đưa về.
 
- Phải ông mặc áo đỏ có chiếc xe màu cam không?
 
- Phải.
 
- Ông đó là anh con Quyên à?
 
- Dạ.
 
Tôi nhìn chung quanh xem có ai không, rồi hỏi nhỏ con bé:
 
- Anh ấy nói gì với cưng?
 
- Anh ấy hỏi tên chị, mấy tuổi, học ở đâu?
 
- Cưng có nói không?
 
- Có!
 
- Sao lại nói?
 
- Anh ấy hỏi mà không nói à!
 
Tôi mỉm cười với con bé ngây thơ. Lớn tí đi bé. Lớn tí nữa bé sẽ thấy khai hết lý lịch cho bọn con trai nghe là điều dại dột (?) Nhất là những người như anh con Quyên. 
 
- Có hỏi gì nữa không?
 
- Có.
 
- Hỏi sao?
 
- Anh ấy khen chị đẹp và dễ thương...
 
- Còn gì nữa không?
 
- Còn, nhưng em quên mất rồi!
 
Nếu con bé không bận ăn cơm, tôi đã lôi nó ra một góc dùng kẹo mà dỗ nó. Chắc nó đã khai hết tật ngủ trưa và giành ăn với nó của tôi. Tôi nghe vui vui và nghĩ đến chiều mai.
 
Đáng lý tôi mặc đồ xong là dẫn xe phóng thẳng đến trường. Nhưng chiều nay tôi đã chịu khó ngồi trước khung kính, chải kỹ mái tóc. Chọn lại chiếc áo. Có phải vì gã? Không! Gã sức mấy mà bắt tôi chưng diện. Tôi nghĩ thế rồi nhanh đến trường. Vẫn dư biết là mình đi sớm hơn mọi khi những mười phút.
 
Tôi tìm chỗ đậu xe như thường lệ và hình như tôi bắt đầu đợi gã? Tôi tự thẹn và cười bâng quơ với mình. Chiếc xe nào chạy ngang tôi cũng nhìn... Nhưng hy vọng gặp lại gã tiêu tan khi tôi biết đã năm giờ ba mươi và trường đang tan học. Hôm nay là thứ bảy. Chắc là gã bận hẹn với đào! Tôi nghe ức lạ. Kệ gã chứ. Liên quan gì đến mình. Rõ là con gái vớ vẩn...
 
- Chị Quyên, bạn em nè!
 
Tôi nhìn nhỏ em gã và cười:
 
- Anh cưng đâu sao không tới đón?
 
- Chiều nay anh em bận tí việc nhà. Anh em nhờ chị đưa em về...
 
Nói xong con bé trao tôi mảnh giấy nhỏ, và tôi đọc:
 
"Thúy Liễu,
 
Nhờ đưa hộ bé Quyên về. Hôm nay bận tí việc.
 
Cám ơn nhiều. Mến.
 
TB : Huề nhé!
 
Gớm! Chưa chi đã làm như quen người ta tự đời nào. Biết người ta có bằng lòng hay không mà còn tái bút với... tái nạm. Tôi bảo hai con bé lên xe và chạy theo đường bé Quyên chỉ. Dường như tôi hơi run khi dừng xe trước nhà gã. Và tôi cũng vòng xe thật lẹ khi trở về. Con bé lại la:
 
- Chậm tí chị ơi! Em té bây giờ!...
 
 
VƯƠNG THỊ NGỌC NGÂN      
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 139, tuần lễ từ 5-7 đến 19-7-1974) 
 
 

Thứ Ba, 29 tháng 7, 2025

KHI CỤM HOA TIGÔN NỞ - Đỗ văn Ngọc


Đây là thời gian chàng dưỡng bệnh. Bệnh tim vừa mới bộc phát, từ hơn hai tháng nay.
 
Vì ở một thị trấn lớn, quá ồn ào náo nhiệt và khí hậu nơi đó không thích hợp cho việc chữa trị của chàng, nên chàng phải rời đó đến nhà của một người cô ở một tỉnh nhỏ. Ngôi nhà mà chàng đang ở là một ngôi nhà cổ từ hồi Pháp thuộc, tọa lạc trên một khu đất rộng xa thành phố, biệt lập. Con đường rất ít xe cộ và người qua lại nên thật yên tĩnh. Xung quanh nhà được bao phủ bởi các lại cây ăn trái và phía trước có một vườn hoa. Căn nhà có được sinh khí là nhờ vườn hoa ấy. Có đủ các loại hoa, đủ màu, đủ sắc thi nhau nở rộ theo bốn  mùa của trời đất. Và bây giờ những cành Tigôn đỏ đã bắt đầu đơm bông.
 
Chàng chỉ về đây chưa đầy một tháng, thế mà chàng tưởng đã lâu lắm. Thời gian như dài ra bởi sự nhàn hạ của chàng. Căn nhà thì quá rộng so với số người ở trong đó, nào là phòng khách, phòng ngủ, phòng ăn, phòng học, thật ngăn nắp. Chàng đếm được tất cả là sáu phòng, duy phòng của chàng và phòng của người cô đang ở là có hơi hám của con người, còn những phòng khác trông hiu quạnh vô cùng. Nhà vỏn vẹn có bốn người. Cô Bích thì suốt ngày buôn bán ngoài chợ, hai đứa con cô ấy đi học ở một trường đạo nội trú chỉ về nhà ngày thứ bảy và chúa nhật. Đôi lúc chàng thèm được nói chuyện, thèm được vui đùa nhưng chẳng có ai ngoài con chó Tây cũng buồn rầu xích ở góc nhà kia.
 
Suốt ngày chàng chỉ biết nằm dài trên giường nhìn lên trần nhà, đọc sách, nghe một vài bản nhạc, rồi ngủ, rồi uống thuốc. Bữa ăn thì có người mang cơm từ tiệm đến. Dù sung sướng đến thế nhưng chàng vẫn thấy khó chịu trong người. Chàng vốn thích rong chơi hoạt động, thế mà phải tự nhốt mình trong bốn bức tường hẹp, mọi cử động, đều điều độ, rập khuôn như những định lý toán học, thì không có gì buồn thảm cho bằng.
 
Ngày ngày vào buổi chiều, chàng thường ra ngoài, quanh quẩn trong vườn hoa, chàng sửa lại những cành hoa xiêu gãy, cắt xén những là già héo úa. Đây cũng là cái thú tiêu khiển duy nhất của chàng trong lúc chữa bệnh và giết bớt thì giờ thừa thãi nhàm chán. Thỉnh thoảng chàng bắt gặp những tia nhìn lạ lẫm về chàng của khách qua đường và chàng có cảm tưởng chàng là một nhà tu khổ hạnh, hay lú lẫn như một ông già trăm tuổi, vì cái thú chơi hoa ngắm nguyệt chỉ dành cho những cụ già tóc bạc. Còn chàng, chàng còn quá trẻ để tìm đến các cuộc vui khác đang chực chờ mời gọi. Nhưng chàng không buồn, chàng vẫn thản nhiên làm việc. Làm việc như một tập quán cần thiết, như người ta phải súc miệng rửa mặt hoặc uống café vào buổi sáng...
 
Cho đến một hôm khi những cành Tigôn bắt đầu nở rộ, đang đứng bên khung cửa sổ để ngắm nhìn chàng thấy một cô bé học trò trên tay cặp vở, qua lại trước vườn hoa nhiều lần, và dường như cô bé muốn dừng lại. Chàng chợt thấy bâng khuâng, một cái gì là lạ thoáng qua hồn. Chàng vội đóng tất cả các cánh cửa, rồi bắc một chiếc ghế đứng lên nhìn ra khu vườn bằng một lỗ thông hơi qua đầu chàng. Chàng muốn rình xem cô bé định làm gì. Quả nhiên cô bé dừng lại, cô bé láo liên đôi mắt, ngó trước, ngó sau, cong môi bậm miệng và thò cánh tay vào bờ giậu. Chàng thích thú hồi hộp chờ đợi. Đây là lần đầu tiên chàng thấy khuôn mặt và cử chỉ sợ hãi của một tên trộm vặt lúc hành nghề.
 
Vì cái lỗ quá nhỏ và cô bé lại khuất một bên nên chàng phải cố gắng nghiêng người nhón gót nhưng vẫn chưa thấy tường tận cô bé đang hái loại hoa nào. Chàng cố thêm, cố thêm chút nữa, nhưng chẳng may chiếc ghế mất thăng bằng, và chàng như một pho tượng nặng nề rơi xuống... Chàng lồm cồm bò dậy mở tung cửa thì cô bé đã vụt chạy đâu mất. Chàng nhìn theo thấy một vài cành hoa, một đôi guốc, rơi cách quãng trên mặt đường và một chiếc cặp sách ngay bờ rào. Chàng vừa buồn cười vừa tiếc rẻ ân hận, nhặt chúng đem chúng vào nhà.
 
Đến tối khi cô Bích ngoài chợ về, theo thói quen bà gặp chàng ngay để hỏi về sức khỏe của chàng. Khi vừa vào phòng bà ngạc nhiên nhìn chàng thật lâu rồi hỏi:
 
- Ủa, sao có đồ này ở đây, của ai lạ vậy? 
 
Chàng vẫn còn tức cười trong bụng chưa trả lời được.
 
Bà hỏi tiếp:
 
- Của ai vậy, sao lại có chuyện lạ thế này?
 
Chàng ngồi dậy nở cho bà nụ cười thích thú nói:
 
- Của một cô bé học trò ăn trộm hoa.
 
Bà cướp lời:
 
- Cháu rượt người ta hả?
 
Chàng chưa kịp trả lời, bà mắng yêu chàng:
 
- Con trai gì mà cù lần quá sức, không biết ga lăng tí nào. Đáng lẽ phải biết ra hái một cành hoa mà cô ấy ưa thích nhất rồi trang trọng trao cho nàng mới đáng mặt tu mi nam tử. Đàng này lại đuổi người ta như đuổi quái vật. Thật khiếm nhã quá.
 
Chàng phân trần:
 
- Cháu đâu có đuổi.
 
- Không đuổi sao người ta phải bỏ guốc lại?
 
Chàng phì cười thành tiếng, rồi kể hết đầu đuôi câu chuyện cho bà cô nghe.
 
Nghe xong bà cô ngẫm nghĩ một hồi, nói:
 
- Chắc là nó rồi, chắc là con bé ấy rồi.
 
Chàng giương mắt nhìn bà cô:
 
- Cô nói sao? Cô bé ấy là ai vậy?
 
- Cô nhớ ra rồi, mấy năm trước cũng vậy cứ vào mùa Tigôn nở, thì trong vườn mỗi ngày mất một cánh hoa, nhưng chẳng biết ai đánh cắp.
 
- Không lẽ, cô bé ấy để ý đến vườn hoa này nhiều năm như vậy sao?
 
- Có thể lắm chứ. Biết đâu có một uẩn khúc nào trong màu hoa ấy khiến cô ta yêu mến nó. Từ nay về sau nếu cô bé có đến hái hoa thì hãy hái cho cô ấy hay để cô ấy lấy tự nhiên đừng làm cô ta sợ hãi nữa nghe.
 
- Vâng, cháu sẽ nghe lời cô.
 
Cô Bích mở trong giỏ xách lấy ra một gói trái cây trao cho chàng bảo ăn đi cho khỏe rồi quay lưng đi về phía sau. Chàng cảm động  về sự săn sóc chu đáo của cô Bích, dù chàng đã lớn, đã trên hai mươi mấy tuổi đầu, nhưng trong lúc này chàng thấy chàng như còn bé bỏng dại khờ lắm.
 
Đêm hôm đó, dù chàng đã cố vỗ về giấc ngủ, nhưng không làm sao chàng ngủ được. Chàng nhìn hoài đôi guốc và chiếc cặp da trên bàn. Chàng nhớ lại vạt áo dài, mái tóc đen nhánh, đôi mắt bồ câu to tròn, cặp môi long bướng bỉnh, dễ thương, và cái sự việc buồn cười xảy ra ban chiều. Thêm vào đó những ý nghĩ vu vơ cùng với lời nói của cô Bích "biết đâu có cái gì bí ẩn trong màu hoa đó" càng khơi dậy tính tò mò của chàng, chàng tìm cách dể cô bé trở lại khu vườn.
 
Sáng hôm sau, chàng lấy một mảnh giấy viết mấy chữ thế này, treo trên bờ rào:
 
"Cấm hái trộm hoa".
 
Buổi chiều cô bé đến nhưng hôm nay nét mặt cô bé buồn trộn một chút căm tức. Chàng lại vội vàng đóng cửa đứng trong nhà, nhưng cô bé chỉ dừng lại một thoáng rồi bỏ đi chứ không thèm hái hoa. Chàng buồn bã bước ra ngoài bờ rào, thì mảnh giấy của chàng đã bị tước đoạt, thay vào một mảnh giấy khác của cô bé.
 
"Cứ hái".
 
Chàng lại viết một mảnh giấy khác treo lên.
 
"Cứ hái sẽ bị nhốt lại trong vườn".
 
Mảnh giấy của chàng lại bị mất thay vào mảnh khác.
 
"Nhốt lại trong vườn càng sướng, lại tha hồ phá hết vườn hoa".
 
Thấy cô bé vừa liều lĩnh vừa giận suốt hai ngày chưa hết, một ý nghĩ bất ổn đến với chàng, chàng sợ cô bé chẳng thèm lại đây nữa, thì tội nghiệp cho cô bé và buồn chàng biết mấy, chàng đành chịu thua, chàng không dám chọc tức cô bé và chơi cái trò chơi ấy nữa, nên chiều hôm sau cô bé ngang qua nhà, chàng lơn tơn như một anh hề, tay xách guốc, cặp chạy ra gọi:
 
- Cô bé, cô bé, cô bé!
 
Đến tiếng thứ ba cô bé mới quay lại. Chàng vừa nhìn vừa đưa hai tay lên nói: 
 
- Cái này của cô bé!
 
Cô bé không trả lời.
 
Chàng hỏi lại:
 
- Cái này của cô bé? 
 
Cô bé cong môi, hất mạnh mái tóc và vẫn không chịu trả lời.
 
Chàng cố chọc:
 
- Không phải của cô bé hả? Thôi tôi mang xuống cảnh sát nhờ đài phát thanh loan báo nghe.
 
- ???
 
- Tôi sẽ nhờ họ nói thế này "không biết cô Nguyễn thị Minh Tâm, có gặp một tai nạn nào không mà Cảnh sát Công lộ chúng tôi có nhặt được một chiếc cặp da và một đôi guốc của cô trên đường P.T.G. Nay thông báo cho gia đình đương sự rõ"
 
Chàng vừa nói dứt câu thì cô bé liền đáp cho chàng một cái nguýt dài và một tiếng "xí":
 
- Trả đây.
 
- Ủa, của cô bé hở?
 
- Trả đây.
 
- Tôi đâu có mắc nợ cô bé mà đòi dữ vậy?
 
Trên bờ mi của cô bé nước mắt đã bắt đầu rươm rướm.
 
Tiếng nói cô bé nghẹn lại:
 
- Người gì mà ác quá chừng làm người ta mất hồn, rách cả áo dài và không có cặp đi học mấy ngày mà còn chọc tức người ta nữa.
 
Bỗng dưng chàng thấy nao nao trong lòng. Chàng trìu mến nhìn cô bé:
 
- Đây này, tôi trả đó, nín đi đừng có khóc.
 
Cô bé bẽn lẽn cúi mặt cầm lấy.
 
Chàng tiếp:
 
- Xin lỗi cô bé nhé?
 
- Ác thấy mồ.
 
- Đâu phải tại tôi, tiếng động hôm nọ là do mèo nó rình chuột làm rơi khung ảnh đó chứ.
 
- Thôi đi, đừng có phịa nữa. Không phải ông định phá cửa để ùa ra đuổi người ta sao? 
 
- Đâu có, tại sao cô bé nghĩ thế? Một cành hoa có là bao. Hơn nữa, trồng hoa để làm gì nếu không để trang điểm, để ngắm nhìn, để cho kẻ khác. Đó cũng là một vinh dự, một niềm vui sướng của kẻ trồng hoa.
 
- Ông là chủ ngôi nhà này?
 
- Tôi là quản gia.
 
- Ông đừng đùa nữa, tôi hỏi thật mà.
 
- Của cô tôi.
 
- Dường như ông mới đến đây?
 
- Sao cô biết?
 
- Mọi năm tôi đâu có thấy.
 
- Cô bé ở đây lâu đến thế cơ à.
 
- Gần mười năm rồi.
 
Chàng liền nghĩ tới lời nói của cô Bích. Có lẽ cô ấy nói đúng. Chàng hỏi:
 
- Cô bé thích những cành hoa này?
 
- Tôi chỉ thích có một loại hoa Tigôn. 
 
Chàng định hỏi tại sao thì cô bé tiếp:
 
- Ăn cắp có xấu, có tội không hở ông?
 
Chàng ngập ngừng:
 
- Không, không có xấu, có tội chi hết, nếu ăn cắp để phục vụ cho một điều thiện.
 
- Có bao giờ ông ăn cắp gì chưa?
 
- Có chứ, có đôi lần, nhưng tôi ăn cắp để thỏa mãn nhu cầu và thú tính của tôi, chứ không phục vụ cho một điều thiện nào cả. Chẳng hạn như hồi nhỏ tôi hay ăn cắp tiền của má tôi để ăn quà.
 
Cô bé nhìn chàng với đôi mắt rưng buồn muốn khóc, chàng vội an ủi:
 
- Có gì mà khóc, ăn cắp chưa hẳn là một tội mà. Bỏ cái mặc cảm phạm tội ấy đi cô bé.
 
Cô bé òa khóc thành tiếng. Nghẹn ngào trong nước mắt.
 
- Ông... Ông làm Tâm nhớ mẹ Tâm.
 
- Sao? Mẹ Tâm ở đâu mà nhớ?
 
- Chết lâu rồi... 
 
Một khoảng không yên lặng chĩu xuống hai người. Cô bé đưa mắt xa xăm nhìn lên lưng trời. Buổi chiều xuống thấp, nắng chết đuối trên cành cây. Một luồng gió lạnh ùa tới. Một cụm mây xám bay qua, một vài cánh chim mỏi rời, sau một ngày kiếm ăn bay về núi. Một chút gì xót xa ngậm ngùi vừa đậu lại làm tim chàng  nhói đau. Chàng nghĩ đến thân phận tủi hờn của một đứa con mất mẹ.
 
Người ta thường bảo : Mẹ êm đềm như giòng sông, mẹ bao la như biển cả, mẹ vỗ về ôm ấp và nâng niu chiều chuộng. Mẹ là bóng mát cuộc đời, là thân cây cổ thụ cho ta trú ẩn, nương tựa. Mất mẹ là mất cả bầu trời. Chàng thấy thương cô bé làm sao.
 
Chàng vừa mân mê cành hoa vừa hỏi cô bé:
 
- Mẹ Tâm mất lâu chưa?
 
- Từ hơn tám năm nay.
 
- Tâm ở với ai bây giờ?
 
Cô bé không trả lời mà đưa tay lên quẹt nước mắt (dù bên đường có một vài người qua lại) và dường như cái tâm tư u uẩn của cô bé từ trước đến nay chưa được một lần thố lộ, chưa được cùng ai chia xẻ. Nói cũng là một cách để trút bỏ, để vỗ về những muộn phiền đeo đuổi trên vai, nên cô bé thật thà tâm sự với chàng:
 
- Mẹ Tâm chết cách đây tám năm, hồi đó Tâm lên bảy tuổi. Tâm có nghe mẹ Tâm kể lại rằng : Trước khi mẹ lấy chồng (tức ba Tâm bây giờ) mẹ có yêu một người đàn ông khác. Mẹ bảo, mẹ yêu người ấy và hứa hẹn nhiều lắm, vì đó là cuộc tình đầu đời của mẹ, nhưng chưa cưới nhau được thì người đàn ông ấy qua đời ở một phương xa. Vì người ấy là lính.
 
Không biết có một cái gì bí ẩn trong màu hoa Tigôn và cuộc tình mà sau ngày người đàn ông ấy chết mỗi năm (dù đã có chồng, có Tâm) vào mùa hoa nở mẹ thường mua một bó hoa Tigôn, dối với ba Tâm là đi thăm họ hàng để đến viếng mộ người đàn ông ấy. Đến năm đó cũng vào mùa này mẹ Tâm cũng mang một bó hoa Tigôn lên phi cơ về một nơi nào đó viếng mộ, nhưng chẳng may một tai nạn máy bay khủng khiếp xảy ra và mẹ Tâm chết trong chuyến bay đó...
 
Nước mắt cô bé lại chảy thật nhiều. Hồi lâu chàng nói:
 
- Vì thế mà Tâm yêu loài hoa này.
 
- Vâng Tâm thích lắm, nhưng còn đi học, Tâm không có tiền, để hằng ngày mua một cành hoa để cúng mẹ. Hơn nữa hoa Tigôn ở đây rất hiếm, nên hằng năm khi cụm hoa này nở, Tâm thường đến đây ăn cắp mỗi ngày một cành để cúng mẹ, như vậy có tội không hở ông?
 
Chàng vội vã:
 
- Không, không tội lỗi gì hết.
 
- Tâm vẫn nghĩ là mình có tội vì ăn trộm đồ của kẻ khác.
 
Ngừng hồi lâu chàng nói:
 
- Từ nay Tâm không cần sợ hãi vì ăn cắp nữa, mỗi ngày tôi sẽ tặng cô bé một cành hoa để về cúng mẹ.
 
Mắt cô bé bỗng nhiên long lanh ngời sáng, như vừa đón nhận một niềm vui, nhìn chàng như thầm cám ơn...
 
Trời đã bắt đầu mờ tối, sương đêm là thấp, ngọn đèn trước ngõ bật sáng. Cô bé đưa tay dụi nước mắt nói:
 
- Thôi sắp tối rồi, xin phép ông Tâm về nhé.
 
- Mong cô bé được vui và đừng khóc nữa. Tôi cũng sẽ buồn nếu mắt Tâm còn ướt.
 
Cô bé quay đi, chàng đứng tần ngần nhìn theo mãi đến khi bóng cô bé khuất dần ở một góc tối...
 
Sau hôm đó, chàng lấy một lọ hoa nhỏ, đổ đầy nước, và mỗi sáng thức dậy chàng cắt một cành hoa Tigôn cắm vào treo một chỗ khuất ở bờ rào. Còn cô bé, chắc hẳn cũng vì một duyên cớ nào đó, nên ít khi muốn gặp chàng. Cô bé xuất hiện bất ngờ, không giờ giấc nhất định nào cả. Chàng chỉ biết được cô bé có đến hay không là khi gần tối ra ngõ nhìn lọ hoa. Và mỗi ngày một cành Tigôn mất đi, là một hương yêu ngào ngạt tỏa khắp đời chàng. Chàng lặng lẽ sống trong cái hạnh phúc mong manh nhưng êm đềm ấy.
 
 
ĐỖ VĂN NGỌC        
 
(Trích tuần báo Tuổi Ngọc số 113, tuần lễ từ 2-8 đến 9-8-1973)