Để dâng mẹ, và để làm quà Vu Lan cho những người nào có diễm phúc còn mẹ
Medford, tháng tám 1962.
Medford, tháng tám 1962.
Ý
niệm về mẹ thường không thể tách rời ý niệm về tình thương. Mà tình
thương là một chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là ngon lành. Con
trẻ thiếu tình thương thì không lớn lên được. Người lớn thiếu tình
thương thì cũng không lớn lên được. Cằn cỗi, héo mòn.
Ngày mẹ tôi
mất, tôi viết trong nhật ký: tại nạn lớn nhất đã xẩy ra cho tôi rồi! Lớn
đến cách mấy mà mất mẹ thì cũng như không lớn, cũng cảm thấy bơ vơ, lạc
lõng, cũng không hơn gì trẻ mồ côi.
Những bài hát, những bài thơ ca tụng tình mẹ, bài nào cũng dễ hát,
cũng hay. Người viết, dù không có tài ba, cũng có rung cảm chân thành;
người hát ca, trừ là kẻ không có mẹ ngay từ thuở chưa có ý niệm, ai cũng
cảm động khi nghe nói đến tình mẹ, đâu cũng có, thời nào cũng có. Bài
thơ mất mẹ mà tôi thích nhất, từ hồi nhỏ, là một bài thơ rất giản dị. Mẹ
đang còn sống, nhưng mỗi khi đọc bài ấy thì sợ sệt, lo âu… sợ sệt, lo
âu cho một cái gì còn xa, chưa đến, nhưng chắc chắn phải đến:
“Năm xưa tôi còn nhỏ
mẹ tôi đã qua đời!
lần đầu tiên tôi hiểu
thân phận trẻ mồ côi.
Quanh tôi ai cũng khóc
Im lặng tôi sầu thôi
để dòng nước mắt chảy
là bớt khổ đi rồi…
Hoàng hôn phủ trên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Tôi thấy tôi mất mẹ
mất cả một bầu trời.”
Một
bầu trời thương yêu dịu ngọt, lâu quá mình đã bơi lội trong đó, sung
sướng mà không hay, để hôm nay bừng tỉnh thì thấy đã mất rồi. Người nhà
quê Việt Nam không ưa nói cách cao kỳ. Nói rằng bà mẹ già là một kho
tàng của yêu thương, của hạnh phúc thì cũng đã là cao kỳ rồi. Nói mẹ già
là một thứ chuối, một thứ xôi, một thứ đường ngọt dịu, người dân quê đã
diễn tả được tình mẹ một cách giản dị vừa đúng mức:
“Mẹ già như chuối Ba Hương
Như xôi nếp một, như đường mía lau.”
Ngon
biết bao nhiêu! Những lúc miệng vừa nhạt sau một cơn sốt, những lúc như
thế thì không có món ăn gì có thể gợi được khẩu vị của ta. Chỉ khi nào
mẹ đến, kéo chăn đắp lại ngực cho ta, đặt bàn tay trên trán nóng ta và
than thở “khổ chưa, con tôi”, ta mới cảm thấy đầy đủ, ấm áp, thấm nhuần
chất ngọt của tình mẹ, ngọt thơm như chuối ba hương, đường mía lau, xôi
nếp một ấy, không bao giờ cùng tận.
“Công cha như núi Thái Sơn
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.”
Nước
trong nguồn chảy ra thì bất tuyệt. Tình mẹ là gốc của mọi tình cảm
thương yêu. Mẹ là giáo sư dạy về thương yêu, một phân khoa quan trọng
nhất trong trường đại học cuộc đời. Không có mẹ, tôi sẽ không biết
thương yêu. Nhờ mẹ mà tôi biết được thế nào là tình chúng sinh; nhờ mẹ
mà tôi có được chút ý niệm về đức từ bi. Vì mẹ là gốc của tình thương,
nên ý niệm mẹ lấn trùm ý niệm thương yêu của tôn giáo vốn cũng dạy về
tình thương. Đạo Phật có đức Quán Thế Âm, tôn sùng dưới hình thức mẹ. Em
bé vừa mở miệng khóc thì mẹ đã chạy tới bên nôi. Mẹ hiện ra như một
thiên thần dịu hiền, làm tiêu tan khổ đau lo âu. Đạo Chúa có đức Mẹ,
Thánh nữ đồng trinh Maria. Trong tín ngưỡng bình dân Việt có Thánh Mẫu
Liễu Hạnh, cũng dưới hình thức mẹ. Bởi vì chỉ cần nghe đến danh từ Mẹ,
ta đã thấy lòng tràn ngập yêu thương rồi. Mà từ yêu thương đi tới tín
ngưỡng và hành động thì không xa, chỉ mấy bước.
Tây phương không
có ngày Vu Lan nhưng cũng có Ngày Mẹ (Mother’s Day) mồng mười tháng năm.
Tôi nhà quê không biết cái tục ấy. Có một ngày tôi đi với thầy Thiên
Ân, tới nhà sách ở khu Ginza, Đông Kinh, nửa đường gặp mấy người sinh
viên Nhật, bạn của thầy Thiên Ân. Có một cô sinh viên hỏi nhỏ thầy Thiên
Ân một câu, rồi lấy trong giỏ xách một bông hoa cẩm chướng màu trắng
cài vào khuy áo tràng của tôi. Tôi lạ lùng, bỡ ngỡ, không dám hỏi, cố
giữ vẻ tự nhiên, nghĩ rằng có một tục lệ chi đó. Sau khi họ nói chuyện
xong, chúng tôi vào nhà sách, thầy Thiên Ân mới giảng cho tôi biết đó là
Ngày Mẹ, theo tục Tây phương. Nếu anh còn mẹ, anh sẽ được cài một bông
hoa màu hồng trên áo, và anh sẽ tự hào được còn mẹ. Còn nếu anh mất mẹ,
anh sẽ được cài trên áo một bông hoa trắng. Tôi nhìn lại bông hoa trắng
trên áo mà bỗng thấy tủi thân. Tôi cũng mồ côi như bất cứ một đứa trẻ vô
phúc, khốn nạn nào; chúng tôi không có được cái tự hào cài trên áo một
bông hoa màu hồng. Người được hoa hồng sẽ thấy sung sướng nhớ rằng mình
còn mẹ, và sẽ cố gắng để làm vui lòng mẹ, kẻo một mai người khuất núi,
có khóc than cũng không còn kịp nữa. Tôi thấy cái tục cài hoa đó đẹp và
nghĩ rằng mình có thể bắt chước, áp dụng trong ngày báo hiếu Vu Lan.
Mẹ là một dòng suối, một kho tàng vô tận, vậy mà lắm lúc ta không
biết, để lãng phí một cách oan uổng. Mẹ là một món quà lớn nhất mà cuộc
đời tặng cho ta, những kẻ đã và đang có mẹ. Đừng có đợi đến khi mẹ chết
rồi, mới nói: “Trời ơi, tôi sống bên mẹ suốt mấy mươi năm trời mà chưa có lúc nào ‘nhìn kỹ’ được mặt mẹ”.
Lúc nào cũng chỉ nhìn thoáng qua. Trao đổi vài câu ngắn ngủi. Xin tiền
ăn quà. Đòi hỏi mọi chuyện. Ôm mẹ mà ngủ cho ấm. Giận dỗi. Hờn lẫy. Gây
bao nhiêu chuyện rắc rối cho mẹ phải lo lắng, ốm mòn, thức khuya, dậy
sớm vì con. Chết sớm cũng vì con. Để mẹ phải suốt đời bếp núc, vá may,
giặt rửa, dọn dẹp. Và để mình bận rộn suốt đời, lên xuống ra vào lợi
danh. Mẹ không có thì giờ nhìn kỹ con. Và con không có thì giờ nhìn kỹ
mẹ. Để khi mẹ mất, mình có cảm nghĩ: thật như là mình chưa bao giờ có ý
thức rằng mình có mẹ.
Chiều nay khi đi học về, hoặc khi đi làm
việc ở sở về, em hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật
bền. Em sẽ ngồi xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng
chi. Rồi em sẽ nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ, và để biết
rằng mẹ đang sống và đang ngồi bên em. Cầm tay mẹ, em sẽ hỏi một câu
ngắn làm mẹ chú ý. Em hỏi: “Mẹ ơi, mẹ có biết không?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên, và sẽ hỏi em, vừa cười vừa hỏi: “Biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, em sẽ hỏi tiếp: “Mẹ có biết là con thương mẹ không?”
Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù người lớn ba bốn mươi tuổi,
cũng có thể hỏi một câu như thế, bởi vì người là con của mẹ. Mẹ và em sẽ
đều trở thành bất diệt và ngày mai, mẹ mất, em sẽ không hối hận, đau
lòng.
Ngày Vu Lan ta nghe giảng và đọc sách nói về ngài Mục Liên
và về sự hiếu đễ. Công cha, nghĩa mẹ. Bổn phận làm con. Ta lạy Phật cầu
cho mẹ sống lâu. Hoặc lạy mười phương tăng chú nguyện cho mẹ được tiêu
diêu nơi cực lạc, nếu mẹ đã mất. Con mà không có hiếu là con bỏ đi.
Nhưng hiếu thì cũng do tình thương mà có; không có tình thương, hiếu chỉ
là giả tạo, khó khăn, vụng về, cố gắng mệt nhọc. Mà có tình thương là
có đủ hết rồi. Cần chi nói đến bổn phận. Thương mẹ, như vậy là đủ. Mà
thương mẹ không phải là một bổn phận. Thương mẹ là một cái gì rất tự
nhiên. Như khát nước thì uống. Con thì phải có mẹ, phải thương mẹ. Chữ
“phải” đây không phải là luân lý, là bổn phận. “Phải” đây là lý đương
nhiên. Con thì đương nhiên thương mẹ, cũng như khát thì đương nhiên đi
tìm nước uống. Mẹ thương con, nên con thương mẹ. Con cần mẹ, mẹ cần con.
Nếu mẹ không cần con, con không cần mẹ, thì đó không phải là mẹ, là
con. Đó là lạm dụng danh từ mẹ con. Ngày xưa, thầy giáo hỏi rằng: “Con mà thương mẹ thì phải làm thế nào?” Tôi trả lời: “Vâng lời, cố gắng, giúp đỡ, phụng dưỡng lúc mẹ về già và thờ phụng khi mẹ khuất núi”.
Bây giờ thì tôi biết rằng: Con thương mẹ thì không phải “làm thế nào”
gì hết. Cứ thương mẹ, thế là đủ lắm rồi, đủ hết rồi, cần chi phải hỏi
làm thế nào nữa!
Thương mẹ không phải là một vấn đề luân lý đạo
đức. Anh mà nghĩ rằng tôi viết bài này để khuyên anh về luân lý đạo đức
là anh lầm. Thương mẹ là một vấn đề hưởng thụ. Mẹ như suối ngọt, như
đường mía lau, như xôi nếp một. Anh không hưởng thụ thì uổng cho anh.
Chị không hưởng thụ thì thiệt cho chị. Tôi chỉ cảnh cáo cho anh chị biết
mà thôi. Để mai này anh chị đừng có than thở rằng: “Đời ta không còn gì cả”.
Một món quà như mẹ mà còn không vừa ý thì họa chăng có làm Ngọc Hoàng
Thượng Đế mới vừa ý, mới bằng lòng, mới sung sướng. Nhưng tôi biết Ngọc
Hoàng không sung sướng đâu, bởi Ngọc Hoàng là đấng tự sinh, không bao
giờ có diễm phúc có được một bà mẹ.
Tôi kể chuyện này, anh đừng
nói tôi khờ dại. Đáng lẽ chị tôi không nên đi lấy chồng, và tôi, tôi
không nên đi tu mới phải. Chúng tôi bỏ mẹ mà đi, người thì theo cuộc đời
mới bên cạnh người con trai thương yêu; người thì đi theo lý tưởng đạo
đức mình say mê và tôn thờ. Ngày chị tôi đi lấy chồng, mẹ tôi lo lắng
lăng xăng, không tỏ vẻ buồn bã chi. Nhưng đến khi chúng tôi ăn cơm trong
phòng, ăn qua loa để đợi giờ rước dâu, thì mẹ tôi không nuốt được miếng
nào. Mẹ nói: “Mười tám năm trời nó ngồi ăn cơm với mình, bây giờ nó ăn bữa cuối cùng rồi thì nó sẽ đi ăn ở một nhà khác”. Chị tôi gục đầu xuống mâm cơm, khóc. Chị nói: “Thôi con không lấy chồng nữa”. Nhưng rốt cuộc thì chị cũng đi lấy chồng. Còn tôi thì bỏ mẹ mà đi tu. “Các ái từ sở thân”,
là lời khen ngợi người có chí xuất gia. Tôi không tự hào chi về lời
khen đó cả. Tôi thương mẹ, nhưng tôi có lý tưởng, vì vậy phải xa mẹ.
Thiệt thòi cho tôi, có thế thôi. Ở trên đời, có nhiều khi ta phải chọn
lựa. Mà không có sự chọn lựa nào là không khổ đau. Anh không thể bắt cá
hai tay. Chỉ khổ là vì muốn làm người nên anh phải khổ đau. Tôi không
hối hận vì bỏ mẹ đi tu, nhưng tôi tiếc và thương cho tôi vô phúc thiệt
thòi, nên không được hưởng thụ tất cả kho tàng quí báu đó. Mỗi buổi
chiều lạy Phật, tôi cầu nguyện cho mẹ. Nhưng tôi không được ăn chuối ba
hương, xôi nếp một và đường mía lau.
Anh cũng đừng tưởng tôi
khuyên anh: không nên đuổi theo sự nghiệp mà chỉ nên ở nhà với mẹ. Tôi
đã nói là tôi không khuyên răn ai hết, tôi không giảng luân lý đạo đức
rồi mà. Tôi chỉ nhắc anh: mẹ là chuối, là xôi, là đường, là mật, là ngọt
ngào, là tình thương. Để anh đừng quên. Để chị đừng quên. Để em đừng
quên. Quên là một lỗi lớn. Cũng không phải là lỗi nữa, mà là một sự
thiệt thòi. Mà tôi không muốn anh chị thiệt thòi, vô tình mà bị thiệt
thòi, khờ dại mà bị thiệt thòi. Tôi xin cài vào túi áo anh một bông hoa
hồng: để anh sung sướng, thế thôi.
Nếu có khuyên, thì tôi sẽ
khuyên anh như thế này. Chiều nay, khi đi học về, hoặc đi làm về, anh
hãy vào phòng mẹ với một nụ cười thật trầm lặng và thật bền. Anh sẽ ngồi
xuống bên mẹ. Sẽ bắt mẹ dừng kim chỉ, mà đừng nói năng chi. Rồi anh sẽ
nhìn mẹ thật lâu, thật kỹ để trông thấy mẹ, và để biết rằng mẹ đang sống
và đang ngồi bên anh. Cầm tay mẹ, anh sẽ hỏi một câu ngắn làm mẹ chú ý.
Anh hỏi: “Mẹ ơi, mẹ có biết không?” Mẹ sẽ hơi ngạc nhiên, và sẽ nhìn anh, vừa cười vừa hỏi: “Biết gì?” Vẫn nhìn vào mắt mẹ, vẫn giữ nụ cười trầm lặng và bền, anh sẽ hỏi tiếp: “Mẹ có biết là con thương mẹ không?”
Câu hỏi sẽ không cần được trả lời. Cho dù anh lớn ba bốn mươi tuổi, chị
lớn ba bốn mươi tuổi thì cũng hỏi câu ấy. Bởi vì anh, bởi vì chị, bởi
vì em đều là con của mẹ. Mẹ và anh sẽ sung sướng, sẽ được sống trong ý
thức tình thương bất diệt . Và ngày mai, mẹ mất, anh sẽ không hối hận,
đau lòng, tiếc rằng anh không có mẹ.
Đó là điệp khúc tôi muốn ca
hát cho anh nghe hôm nay. Và anh hãy ca, chị hãy ca, em hãy ca cho cuộc
đời đừng chìm trong vô tâm, quên lãng. Đóa hoa màu hồng tôi cài trên áo
anh rồi đó. Anh hãy sung sướng đi.
Nhất Hạnh
1962
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét