Thứ Bảy, 22 tháng 2, 2020

TÔ CHÁO LÒNG - Vũ Hạnh





Nỗi buồn của cha tôi, đối với cuộc đời khá phiền rộn này, phần lớn phải quy vào lỗi của ông Đạo Trần.

Lúc ấy, tôi chưa có dịp chào đời nên không rõ được cặn kẽ về mối tín ngưỡng khá kỳ quặc ấy. Theo lời mẹ tôi kể lại thì khoảng ba bốn mươi năm về trước, những người dân ở miền Nam ít nhiều đều biết Ông Đạo, bởi tín đồ ông có đến hàng ngàn hàng vạn ở khắp thành thị, thôn quê. Ông đã cưới vợ, có con, rồi mới nghĩ ra một cách tu hành mới mẻ nên vội bỏ nhà ra đi tìm một khúc sông sẵn có nhiều người qua lại, cởi trần thả ngửa dưới nước để mà hành đạo. Người vợ khốn khổ của ông, sau mấy mươi ngày tìm kiếm, thấy được chồng mình đang nằm tênh hênh dưới nước, khóc lóc khuyên ông về nhà. Tức thì ông chỉ thẳng một ngón tay quát lớn: “Về đi!” và bà ngã lăn, hộc máu ở trên bờ sông mà chết. Người ta có thể giải thích cái chết khá đột ngột ấy xảy ra do lòng phiền muộn lâu ngày, chợt nghe tiếng quát dứt tình tàn nhẫn nên không nén được phẫn uất và sự xúc động mạnh mẽ. Nhưng theo số người giải thích chuyện lạ thường, thì quả như thế là ông đã đắc đạo rồi nên ngón tay ông mới có sức mạnh nhiệm màu là vậy, không cần quan tâm rằng sự đắc đạo lại đánh đổi bằng cái chết của người thân yêu.

Suốt đời, ông Đạo không chịu mặc áo, cho nên mới có tên gọi là ông Đạo Trần. Mỗi ngày ông Đạo chỉ ăn một bữa vào trưa, và ăn thuần một món xôi đậu xanh. Ông còn chủ trương khi chết không nên bỏ vào quan tài chật chội, nặng nề rất khó siêu thoát, chỉ nên bó xác bằng ba vạt tre và một chiếc chiếu, để sự chôn cất cho được nhẹ nhàng. Tuy vậy tín đồ theo ông đều được tổ chức như một triều đình mà ông là vị thiên tử, và mỗi khi có cúng tế phải lạy ông Đạo trước cả trời phật, thánh thần. Một điều rắc rối là ông sửa đổi rất nhiều ngôn ngữ nên khi nghe ông, hoặc các tín đồ của ông nói chuyện, người ta đến phải ngẩn ngơ. Ông gọi cục đường là cục ngọt, mất công là mất cung, đi lạc là đi lợt, cái đầu là cái kiều... Phải có một quyển tự điển vào loại bỏ túi mới ghi hết các danh từ của ông Đạo Trần. Trong khi thiên hạ líu lo nói những tiếng Tây, tiếng Tàu, thì các người lớn - người lớn là tiếng ông Đạo gọi các tín đồ - trò chuyện với nhau và thấy thú vị trong ngôn ngữ mới của mình. Cũng phải nhận rằng ngôn ngữ mới ấy chỉ là vá chắp, pha trộn như xôi đậu xanh.

Cha tôi là một những người lớn tin tưởng nhiệt thành ông Đạo. Theo lời mẹ tôi thì cha tôi giống y hệt tính tình của ông nội tôi, bao giờ cũng thích vồ vập thiết tha những gì mới lạ - đến đây, mẹ tôi thở dài - còn bác Tư tôi thì lại giống hệt tính tình của bà nội tôi. Bà tôi không ưa những chuyện mơ hồ, xa xôi, cả đời chỉ quan tâm đến cái gì gần gũi và cần thiết nhất. Nói cho rõ hơn, đó là tiền bạc. Cha tôi từ khi biết được ông Đạo, chỉ nói chuyện về ông ta, sửa đổi ngôn ngữ đến nỗi nhiều khi mẹ tôi nằm gần mà chẳng hiểu được ông nói những gì. Ông cũng tỏ ra thèm xôi đậu xanh hơn trước, lại thích ở trần, dù cái bụng ông nở nang hơn bộ ngực nhiều. Thói thường, khi ta yêu mê thứ gì, trừ đàn bà ra, thì ta vẫn thích người khác cùng ta yêu mê thứ ấy. Do đó, cha tôi tìm đủ mọi cách thuyết phục bác Tư của tôi trở thành người lớn của ông Đạo Trần.

Nhưng ông bác tôi là một khối sắt không có cách gì lay chuyển, ngoại trừ nam châm, là tiền. Ông đã bỏ học rất sớm, dù ông bà tôi có thể nuôi ông đi học cho đến mãn đời. Bác tôi cho rằng những người giàu sang xưa nay không hề có bằng cấp lớn, như vậy chữ nghĩa rõ ràng là thứ cản trở cho sự giàu sang. Ông bọc tiền lên Sài Gòn học đủ mọi nghề, từ nghề máy móc cho đến những nghề thường được phụ nữ độc quyền như làm bánh trái, thêu thùa. Khi ông trở về, chỉ một thời gian ba tháng là ông chiếm được ưu thế ở trong gia đình. Áo quần của ông bà tôi được ông sửa chữa, may cắt, bánh trái trong các kỵ giỗ đều do chính tay ông làm. Các thứ bánh ấy thứ nào cũng khéo và ngon - được chế tạo trong buồng kín, cửa khóa cẩn thận, sau khi mang vào đủ các dụng cụ, vật liệu cần thiết. Sự giấu nghề ấy rất được bà tôi ca ngợi, xem đó là cái bằng chứng của một người con hiếu thảo, giữ được nếp nhà. Chẳng lẽ mang tiền lên tận Sài Gòn học tập mất bao công phu rồi để cho họ ngồi nhà cứ việc dòm vào ăn cắp tất cả bí quyết hay sao? Mãi về sau này, có vợ, có con khôn lớn, bác Tư của tôi đến ngày kỵ giỗ vẫn cùng gia đình làm bánh trong buồng, nhất định không cho bà con, thân quyến ai được thấp thoáng lại gần. Tưởng đến công việc chế bom khinh khí ngày nay ở một số nước văn minh thì sự bảo vệ bí mật cũng đến mức ấy là cùng.

Ông bà nội tôi có rất nhiều con, nhưng rốt cuộc lại chỉ nuôi được có bốn người: ngoài bác Ba, bác Tư và cha tôi - thứ bảy - còn chú Chín tôi là út. Ông tôi vốn rất hào phóng, thích sự nhậu nhẹt, ăn xài, đẻ ra bác Ba của tôi rồi đến cha tôi cùng một cốt cách như thế, lấy làm hoang mang hết cỡ. Trong một gia đình mà đến ba người cùng một chí hướng tiêu hoang thì dù tài sản có lớn bao nhiêu cũng sớm đội nón ra đi. Bởi vậy ông phải chọn mặt gởi vàng, và chia cho bác Tư tôi cái phần gia tài lớn nhất.

Khi cha của tôi đang bận tâm gọi con kiến là con cánh, bề cao là bề kiêu, cách nấu xôi đậu và chết bó vạt tre, lại cứ mỗi lần tự động nhảy mũi phải “dạ” một tiếng thật lớn - dù là đang nằm một mình hay ngồi giữa chốn đông người - cho đúng nghi lễ của ông Đạo Trần, thì bác Tư tôi đã dựng lên được một cái nhà máy xay lúa rất lớn giữa đồng. Nhờ có hiểu qua chút ít máy móc, ông tự điều khiển nhà máy và đưa tất cả tám đứa con ông vào việc quản trị cái cơ sở ấy. Người thì đứng làm xếp máy, người quây bánh trớn - một thứ “vô lăng” để lấy đà cho máy chạy - người thì cân gạo, thâu tiền, kẻ thì kiểm soát trấu cám v.v... còn ông thì tổng chỉ huy. Riêng hai người con có vẻ lanh lợi hơn cả thì ông gởi lên Sài Gòn học máy một thời gian ngắn, rồi cho vào làm không cần ăn lương ở các nhà máy xay lúa cỡ lớn của các người Tàu để mà học thêm bí quyết sửa đổi máy móc thế nào ăn gian gạo, tấm cho được nhiều hơn. Mấy tháng đầu tiên gọi là tập sự ở nhà máy ông, các con không có lương tiền gì ráo. Qua tháng thứ tư, tùy theo khả năng từng người, ông cho một số lương bổng nhất định, nhưng không cấp phát hàng tháng mà ghi tất cả vào sổ, đợi đến khi nào ra riêng thì giao tổng số lương ấy để làm vốn liếng mở một nhà máy xay khác ở làng bên cạnh. Nếu xét còn thiếu số vốn thì ông là bậc cha mẹ nên rất sẵn lòng cho vay, chỉ lấy tiền lời một cách phải chăng, đủ cho đồng bạc của ông đưa ra khỏi thấy xót xa về nỗi thiệt thòi. Thấy cái tương lai có vẻ hứa hẹn nên các con ông hết lòng làm việc, và ông theo dõi từng người, tăng lương cho những đứa nào không biết ăn nhậu, tiêu xài, đồng thời trao các phần thưởng đích đáng cho những đứa nào nghĩ ra được cách ăn bớt khéo léo gạo, cám, tấm, trấu của những người mang lúa tới để xay. Ngoài ra, ông thi hành kỷ luật rất nghiêm khắc, sẵn sàng trừ lương bất cứ là đứa con nào ngủ trưa, đi trễ hoặc có sơ suất ở trong công ăn việc làm. Khi các con đã trưởng thành và bề thế ông càng ngày càng vững vàng hơn, ông nghiên cứu cách dựng vợ gả chồng cho từng đứa một, nhắm vào các nhà thế lực quanh vùng đặng củng cố thêm ưu thế của mình. Đứa thì rể ông Cai Tổng, đứa thì dâu ông Hương Cả, ít nhiều gia thế bên chồng hoặc là bên vợ của các con ông phải có một món địa vị nào đó, và phải khá giàu để khi cần mở mang thêm công việc có thể chạy tiền một cách dễ dàng. Về các người làm, bác Tư trả lương rất hạ nhưng lại giao việc quá nhiều nên chỉ một thời gian ngắn họ đều rút dù hết cả. Bác liền thay đổi chính sách để dẫn dụ họ, bằng cách mua các món rượu, thuốc trầu vào loại ngon nhất và để sẵn trong hộc bàn giữa nhà tự do ai muốn dùng bao nhiêu cũng được. Thấy để thả lỏng như thế, người ta nghĩ không tội gì mà chẳng ăn xài. Chỉ một thời gian họ đâm ra nghiện, và nếu bỏ nhà bác tôi đi làm nơi khác thì không ở đâu có rượu, có thuốc ngon lành như thế, nên ít ngày sau họ lại lần mò đến xin bác tôi để mà làm lại, dù cho đồng lương có vẻ kém cỏi và công việc nặng nề hơn.

Ở vào cái thời mà dân miền Nam đi lại để chỉ biết dùng ngựa như là phương tiện sang trọng thì nhà bác Tư của tôi có cả một bầy ngựa tốt để con cái cỡi nhong nhong ngoài đường. Rồi thế hệ ngựa tàn đi, người ta bắt đầu dùng món xe đạp cho văn minh hơn, thì con cái của bác tôi đã có mỗi người một chiếc, bóp chuông kinh-coong, inh ỏi ngoài lộ. Sau đó, khi xe máy dầu xuất hiện thì hai người con đầu lòng của bác đã có hai chiếc mô-tô phả khói bình bịch để mà chạy rảo trong làng. Tuy nhiên đến nón xe hơi thì ông kiêng kỵ, dù ông có thể mua sắm thong thả, vì ông cho rằng “thứ ấy chỉ để đi chơi chứ không phải để ăn mần”.

Suốt đời hai tiếng “ăn mần” ám ảnh bác tôi, “ăn mần” bất cứ cách nào cho đạt tới sự giàu sang. Khốn nỗi không có tiêu chuẩn nhất định của mức giàu sang phải là bao nhiêu thóc lúa, bạc tiền, nên bác tôi cứ luôn luôn thắc thỏm về nỗi mình vẫn đang còn thiếu hụt, dù cái tủ sắt ông luôn luôn đầy ngập những tiền.

Vào đầu năm ấy, thì ông Đạo Trần cho các người lớn của ông được biết một lời tiên tri đối với vận mệnh của họ. Theo ông, năm ấy trời đất sẽ gây nên trận cuồng phong bão lụt khủng khiếp khắp miền, con người, con vật, cho đến cửa nhà, vườn tược cũng không thể nào tồn tại. Đó là một sự trừng phạt lớn nhất giáng xuống cho “nhơn xanh” này. Nhưng vì ông Đạo tự nhận là bậc ở trên trời đất nên ông thấu rõ thiên cơ, và khuyên bảo các người lớn của ông ở khắp mọi nơi trong suốt sáu tỉnh miền Nam hãy nên thu dọn cửa nhà, chuẩn bị gạo, mắm, bạc tiền, kéo xuống ngọn núi ở vùng Bà Rịa để mà lánh nạn một năm cho qua vận hạn khốn cùng.

Bác Ba của tôi giữ chức Hương Cả trong làng, đứng đầu trong số mười hai hương mục, kỳ hào, vốn là các thứ địa vị đã được người Pháp chế tạo để mà duy trì trật tự ở các xã thôn tại miền Nam này. Về phần quyền lợi, ông cũng hưởng được gián tiếp ít nhiều trong món công nho của xã và hưởng một sự trọng vọng, nể nang của khắp dân làng, trừ dân làng ấy là ông bác Tư giàu có của tôi. Ông Hương Cả Ba vẫn thường tự hào trong đời không làm hại đến một ai, chỉ làm tổn thương rượu, thịt là loại vô giác vô tri. Ở làng, bất cứ ai có kỵ giỗ hay tiệc tùng gì cũng rán mời mọc cho được ông Hương Cả Ba, như mời một vị chủ tọa danh dự, để cho cuộc lễ thêm phần long trọng. Chỉ có điểm khác là người chủ tọa danh dự ở đây không chỉ can thiệp bằng phần tinh thần mà bằng đôi đũa hết sức linh hoạt và một bao tử có cái dung tích rất là rộng rãi. Cứ tính đổ đồng mỗi tháng bác Ba của tôi ăn uống ở ngoài phạm vi gia đình như thế trên hai mươi ngày, đó là thành tích lớn nhất mà ông đạt được trong suốt thời gian tại chức. Bác Ba rất mến cha tôi, và cũng ưa thích những gì mà cha tôi thích. Riêng về món ông Đạo Trần, thì cái điều khoản ăn xôi đậu xanh hơi làm cho ông ngần ngại. Tuy vậy, sự cản trở chính làm cho bác tôi trở nên dè dặt trong nhiều vấn đề, là ở bà bác của tôi. Đối với những chuyện thiêng liêng, bà tin dứt khoát chỉ có Trời, Phật, dù cho nói hay nói giỏi bao nhiêu cũng là giả mạo đó thôi. Đối với nhũng chuyện thực tế thì bà cho rằng chỉ có “Chú Tư mới thiệt là khôn quá cỡ”. Nhìn cái nhà máy tấp nập người ra kẻ vào, thấy đàn con của bác Tư đi lại xăng xái, bà không ngớt lời thán phục rồi từ thán phục nảy sinh một nỗi căm ghét hết sức lạ lùng.

Khi nghe gia đình cha tôi sắm sửa để đi lánh nạn thì bác Ba tôi sửng sốt vội về thuật chuyện cho vợ mình biết, với một ngụ ý thúc giục hết sức khẩn khoản. Nhưng bà nghe xong, vẫn cứ dửng dưng như không, rồi thả một câu nguội ngắt: “Khéo nói cái chuyện điên khùng”. Bác tôi ngồi im, mặc nhiên chia sẻ lời nhận xét đó.

Còn bác Tư tôi đón nhận cái tin khủng khiếp bằng nụ cười lạt, rồi đảo cặp mắt gói tròn cái nhà máy xay trong một cái nhìn âu yếm. Với ông, trời lở đất long cũng chẳng có gì quan hệ: Chỉ có gạo, tấm, cám, trấu mới đáng lưu tâm. Và ở trên hết, là tiền.

Một buổi sáng nọ, cha mẹ của tôi gồng gánh lên đường. Trên cánh đồng trắng sương mù loáng thoáng đây đó hình bóng lờ mờ của những người lớn cùng một chuyến đi. Họ lặng lẽ bước với niềm tin tưởng sâu xa ở vận mệnh mình. Qua khỏi cánh đồng mênh mông, đến một bến đò. Ở đây, người lớn chen chúc chờ đợi thuê ghe đã mấy ngày rồi. Cha mẹ tôi phải nằm nhờ ở mái hiên sau của một ngôi nhà đồng bào đã chật ních người. Nhớ đến ngôi nhà lợp ngói năm gian bây giờ bỏ trống giữa vườn cây trái sum suê, mẹ tôi không ngớt thở dài. Nhưng cha tôi vội an ủi, theo lời dạy của ông Đạo: “Đừng có ham mê những thứ của cải trước mắt mà quên tai hại về sau đang chực-chờ mình”. Mẹ tôi tạm giữ vẻ mặt nguôi khuây để cho cha tôi yên lòng. Suốt đời, người đàn bà ấy chỉ có mỗi một nỗi buồn, mỗi một niềm vui: làm cho chồng mình yên lòng, dù phải chịu đựng bất cứ là khổ nhọc nào. Mãi bốn ngày sau, hai người mới quá giang được trên một chiếc ghe chở khẳm, nặng nề qua những kinh rạch ngoằn ngoèo. Rồi lại đổ bến, băng đồng, qua truông, qua những xóm làng xa lạ. Rải rác đây đó, họ lại gặp gỡ những đoàn người lớn ở nhiều ngả đường và cùng nhập bọn để đi. Càng thêm đông đảo, niềm tin ở nơi lòng họ càng thấy vững mạnh, và uy thế của ông Đạo lại càng sáng tỏ như ánh mặt trời tháng năm sáng chói trên đầu.

Cuộc hành trình gian khổ nhưng đầy thiện tâm kéo dài gần một tháng trường mới đến ngọn núi đã được ông Đạo độ trì. Một quang cảnh khá rộn rịp bày ra trước mặt mọi người: hàng ngàn, hàng vạn “nhơn sanh”, già trẻ, lớn, bé, lũ lượt nhốn nháo kéo đến cất lều, dựng chòi ở ven chân núi. Những kẻ đến sau phải lên cao hơn, và cứ như thế những mái nhà nhỏ mọc lên như một phép lạ bám các sườn cao, điểm những chấm vàng lỗ chỗ lên màu cây xanh. Mỗi ngày một số con buôn chuyên chở bằng ghe hoặc bằng xe bò, xe trâu, xe ngựa các loại gỗ nẹp, lá buông, lá dừa, cùng những cây trỉ, cây tràm đến để cung cấp cho thị trường mới. Không ai phàn nàn về khoản giá bán cắt cổ những vật liệu ấy, vì chẳng hy vọng tìm mua ở nơi nào khác. Hơn nữa một đời mới có một lần như thế, miễn sao sinh mạng còn được vẹn toàn sau buổi tai nạn là quí lắm rồi.

Cha mẹ của tôi cũng có một cái chòi nhỏ dựng dưới gốc cây ở lưng chừng núi. Xa hẳn bà con, làng xóm, hai người thấy thương nhau hơn trong cảnh lạc loài. Mỗi ngày chia nhau lấy nước, kiếm củi, đi mua gạo mắm, lúi húi lo chuyện cơm nước, sống một cuộc đời đơn giản, kỳ quặc mà họ không sao ngờ được có thể xảy ra trong kiếp sống mình. Một đêm tối trời bỗng nghe nhiều tiếng la ó nổi lên khắp núi. Tiếng kêu, tiếng khóc càng hiện rõ hơn, tiếng chân tấp nập, hỗn loạn cùng với ánh lửa chập chờn làm cho bóng đêm đầy vẻ kinh hoàng. Cha mẹ của tôi tỉnh giấc, choàng dậy ngơ ngác nhìn nhau. Rồi một toán người cầm đuốc xông vào chĩa những mũi dao nhọn hoắt vào ngực cha tôi, hỏi lớn:

- Tiền bạc để đâu? Đưa mau!

Một giọng nói khác:

- Cho nó một dao lòi phèo ra coi!

Cha tôi cuống quýt giở cái vạt giường kê sát mặt đất lên cao, chỉ một chỗ có dấu lấp và hai ba người mặt mày gớm ghiếc lấy lưỡi dao nhọn đào lên vội vàng. Tiền bạc tư trang, gia sản của hai vợ chồng, đựng trong một cái hũ nhỏ, lọt hết vào tay bạo cướp. Hầu hết người lớn của ông Đạo Trần đều bị lột sạch mà không một ai dám chống cự lại. Khi đám cướp đông đảo ấy đi khỏi, nhiều người vẫn còn ngơ ngác, tưởng mình đang ở trong cảnh chiêm bao. Càng khuya, tiếng than, tiếng khóc vẫn còn vang dội khắp núi, và quả núi biến thành khối thê thảm khổng lồ.

Nhưng giữa nỗi tuyệt vọng tràn trề ấy, mẹ tôi thầm thì bảo với cha tôi:

- Đừng có than thở. Tôi còn giấu riêng được chút ít đây.

Nhiều năm sống cạnh người chồng chỉ thích tạo ra bất trắc, mẹ tôi không quên cẩn thân dự liệu mọi điều tai hại có thể xẩy ra. Món tiền giấu riêng của bà chẳng được là bao, nhưng đủ rau cháo cho hai vợ chồng lây lất chịu đựng một năm tị nạn.

Ông Đạo Trần có tìm đến an ủi người lớn, nhắc đi nhắc lại cho mọi người hiểu là không thể không mất mát ít nhiều tiền của thay cho bổn mạng, bị sự thiệt thòi như thế tức là bản thân mình được an toàn. Mọi người đều thấy ông nói có lý, nhưng không ngăn được lo âu về những tháng ngày đói lạnh sắp đến.

Trong hoàn cảnh ấy, cha tôi mới thấy mẹ tôi là người đàn bà hiếm có. Tình thương của ông có vẻ dồi dào hơn trước nên giữa những ngày bữa đói bữa no nằm trên sườn núi cheo leo, mẹ tôi bắt đầu thụ thai, và hình hài của đứa con đầu lòng là tôi được cấu tạo trong điều kiện khá ngặt nghèo ấy. Những ngày gió mưa kéo đến, cha mẹ tôi nếm những nỗi khổ nhọc nhất đời. Về sau mẹ tôi hay nhắc nhở lại giai đoạn này cho tôi nghe, để gián tiếp kêu gọi tôi giữ gìn một cái chữ hiếu đã bị thời cuộc đất nước làm cho sứt mẻ.

Trong khi thu hình chờ đợi mưa gió qua mau, những người lớn của ông Đạo không quên cầu khẩn cho trời nổi cơn bão lụt cuồng phong quỷ khốc thần sầu. Chẳng lẽ khổ công lánh nạn như thế mà không xảy ra một cái tai nạn nào hết, thì coi sao được? Hơn nữa, cần phải trừng trị những bọn ở nhà, không chịu ra đi nữa chớ! Nhưng trời năm ấy không có vẻ gì khó chịu hơn các năm khác, và mùa mưa lụt trôi qua hết sức hiền lành. Trước khi người lớn gầy nheo gầy nhóc chuẩn bị bỏ lều bỏ núi ra về, ông Đạo không quên giải thích cho thấy sự thành công lớn trong chuyến lánh nạn vừa rồi. Chính vì người lớn ông Đạo đã lên núi cả, cho nên trời đất biết cơ mưu mình bại lộ, đành phải tìm cách xử huề, không dám sinh sự lôi thôi, chỉ cần mưa gió lai rai chút ít như là mọi năm. Thế là đoàn người chiến thắng ấy lại lếch thếch gánh gồng, bồng bế, trở về quê cũ.

Trên chuyến hồi hương khá gian nan ấy, cái bụng mẹ tôi đã già ngày tháng, và năm ba lần tôi đã dọa dẫm đòi ra chào đời giữa quãng đồng không mông quạnh, khiến mẹ tôi phải rụng rời tay chân ngồi liều xuống giữa bãi sình, còn cha tôi thì cuống quít, mếu máo, hối hận về mối nhiệt tình quá đáng của ông khi còn bám trên sườn núi cheo leo. Tuy vậy tôi là đứa con biết điều, và cũng khôn ngoan, nên sau khi đã nhõng nhẽo chút đỉnh để xác nhận sự quan trọng của mình, tôi nhẫn nại đợi đến khi về nhà yên ổn mới chịu xuất đầu lộ diện. Để truy tặng sự biết điều của tôi, cha tôi bèn đặt cho tôi cái tên hết sức phấn khởi là Lê Đại Khỏe. Lúc ấy, hai người không biết nên cười hay là nên khóc. Nhà cửa vườn tược, gần một năm trời bỏ phế đã bị phá phách tan nát, tiêu điều, y như một trận cuồng phong đã thổi qua đây. Bù lại, sau gần chín năm cưới nhau, bây giờ họ có đứa trai đầu lòng. Nhờ đó cha mẹ tôi không thắc mắc gì nhiều về ông Đạo Trần. Nhưng tiếp những ngày sau đấy, nhiều luồng dư luận ở trong gia đình, làng xóm, không ngớt diễu cợt, mỉa mai cha tôi về chuyện lánh nạn vừa rồi, khiến ông bắt đầu tự ngờ vực mình rồi ngờ vực luôn ông Đạo. Bác Ba tôi hỏi rất là tự nhiên: “Ở ngoải thế nào? Có thấy mưa gió gì hông?” thế mà cha tôi đỏ nhừ cả mặt. Bác gái nói tiếp: “Ôi, hơi đâu mà lo! Bọn mình ở đây thì có Trời Phật phù hộ, vợ chồng chú ấy ra ngoải thì có ông Đạo chở che”. Nhưng bác Tư tôi thì cười rất là thỏa mãn, rồi nói bô bô ở trong nhà máy: “Khéo dại mà nghe thằng cha Đạo Trần! Nó phỉnh ra ngoài Bà-Rìa để tổ chức bọn ăn cướp đoạt tiền, rồi mua nhà lớn, nhà nhỏ cho thuê ở trên Sề Gòn! Nó còn hùn vốn bán đồ cây, lá, xây cất nhà cửa ở ngoài nữa đó, hốt không hết tiền. Chỉ có thằng chả là khôn!”.

Ông lại cười lên ha hả, nói tiếp:

- Hễ thằng nào khôn là sống, đó bây!

Bác tôi gián tiếp tự nâng mình lên ngang hàng với ông Đạo Trần, dù sự bình đẳng ấy được xác nhận âm thầm ở trên quan điểm trục lợi, nhưng bấy nhiêu cũng đủ làm cha tôi cảm thấy xót xa. Tất cả những lời bàn tán như thế khiến ông xa lần ông Đạo, nhưng ở ngoài mặt ông vẫn giữ nguyên tình cảm tôn trọng như xưa. Tự ái con người xưa nay vẫn là một chất nhiên liệu khá tốt góp phần đốt cho cháy sáng ngọn đèn tín ngưỡng.

Sau khi sinh đẻ tôi xong, mẹ tôi đau yếu liên miên, cha tôi cũng bị bịnh hoạn liên tiếp giày vò. Đó là dư âm của những tháng ngày đói khổ, ngủ đất nằm mưa ở ngoài Bà-Rịa. Vốn liếng hết sạch, ruộng vườn hoang phế, cha tôi thấy không còn đủ sức lực để khôi phục lại gia sản đã đổ nát rồi. Sự giàu có càng ngày càng tăng của bác Tư tôi lại làm cha tôi chán nản nhiều hơn, bởi lẽ những sự kém thua quá mức dễ làm tiêu mòn mọi ý tranh đua. Bây giờ nhà máy của ông đã đẻ thêm bốn cái khác, dựng lên ở chung quanh làng, thuộc về sở hữu của bốn người con lớn nhất. Các nhà máy ấy cũng áp dụng một sách vở như của bác tôi trong sự bòn rút gạo, trấu, nên cuối cùng những dân làng không biết nên tín nhiệm chỗ nào hơn, đành tùy vị trí thuận tiện mà đem lúa đến thuê xay.

Mọi sự quản trị trong nhà, sau khi bác Tư gái tôi qua đời được giao trọn quyền cho người con dâu thứ năm. Người này thuộc loại đanh đá, keo kiệt thượng hạng nên được bác tôi đặt hết lòng tin, xem như là kẻ duy nhất trong nhà biết được chỗ ông cất giấu chìa khóa. Cô ta lo ngại ngày kia phần lớn gia sản sẽ về tay người con út nên tìm mọi cách loại bỏ ảnh hưởng vợ chồng người này ở trong gia đình. Mỗi khi cô dâu thứ tám này nấu món canh, thế nào cô dâu thứ năm cũng lén bỏ vào một đôi vốc muối cho mặn thắt họng khiến ông nhạc mình phải chửi tắt bếp mà vẫn chưa thấy đã nư. Biết tính của ông thích ăn cơm nấu cho khô, cô năm lén đổ thêm vài gáo nước sau khi cơm sôi để cơm nhão nhẹt, và cô Tám phải lãnh đủ những câu trách mắng nặng nề về tài nội trợ bất trị của mình. Cuối cùng bị quá nhiều sự bất công, cô Tám ẵm con về ở bên nhà cha mẹ. Cậu Tám nhớ vợ, nhớ con, nhưng không được phép đi thăm, vì bác Tư tôi nghiêm cấm “ thăm viếng những đồ khốn nạn”, để lo công ăn việc làm đã được chỉ định nghiêm ngặt hàng ngày.

Cha tôi từ khi âm thầm tuyệt vọng về ông Đạo Trần, không muốn tìm đến bác tôi, nhưng khi mẹ tôi bị bệnh thương hàn khá nặng mà trong nhà không còn lấy một đồng, ông thật lấy làm khó nghĩ, những muốn đến mượn một ít để chạy thuốc thang, rồi lại phân vân, dè dặt. Đến lúc mẹ tôi nằm vùi mê sảng thì ông cầm lòng không đậu, vội ra quán bà Hai Lợi uống chịu một ly rượu đế để lấy can đảm, rồi vào nhà bác Tư tôi vay năm đồng bạc.

Bác tôi nhìn mặt cha tôi, nói thõng một câu:

- Hổng có tiền mà nhậu nhẹt dữ ta!

Rồi ông cười lạt, gằn từng tiếng một:

- Chớ tiền ở đâu mà đem nuôi bọn miền ngoài, bây giờ đi mượn!

Tiếng “bọn miền ngoài” mà bác Tư nói là ám chỉ những người dân miền Trung, miền Bắc vào buôn bán ở trong này. Dù sống một thời mà thực dân Pháp tìm đủ mọi cách khai thác tinh thần địa phương để gây chia rẽ ba miền, cha tôi luôn luôn vẫn có thái độ niềm nở đối với những “người miền ngoài”. Mỗi lần họ vào mua bán, làm nghề, họ đều ghé lại xin ở nhà tôi, và cha tôi đón tiếp họ ân cần, đãi đằng cơm nước rất là chu đáo.

Cha tôi hỏi lại:

- Anh nói bọn miền ngoài nào? Anh đây tui đây, ông bà cha mẹ mình ngày xưa là ở miền nào? Chẳng là dân Bắc, dân Trung kéo vào đây sao? Lột da, cắt thịt ra coi thì cũng là máu mủ đó, chớ ai vô nữa! Anh nói nghe kỳ cục quá.

Bác tôi nổi giận:

- Tao kỳ cục như vậy đó. Nuôi bọn chúng nó thì đợi bọn chúng nó vô mà mượn tiền xài!

- Tui không giúp đỡ để đợi người ta trả lại.

- Thế rán mà chịu.

Hai anh em cùng làm thinh, nhìn nhau một cách hằn học. Rồi bác Tư tôi bỗng quay mặt sang chỗ khác, nói giọng cằn nhằn:

- Hổm rày tao túng muốn chết đi đây. Mấy tiền cũng vét ráo trọi để dựng nhà máy cho tụi nhỏ hết. Một đồng cũng không có đặng, nữa là năm đồng.

Cha tôi lẳng lặng ra về, mặt đỏ bầm vì xấu hổ và tức giận. Ông thừa biết bác Tư tôi có sẵn bạc vạn trong nhà, nhưng chỉ đưa tiền khi nào có thể sinh lợi và có bảo đảm. Tình nghĩa, đối với ông Tư không phải là thứ mà người ta có thể tin cậy, vì nó không có hình dáng, mặt mày nào hết.

Đôi người trong làng biết rõ câu chuyện, cho cha tôi mượn món tiền nhỏ ấy. Mẹ tôi nhờ vậy mà qua cơn bệnh ngặt nghèo. Kể ra cha tôi cũng đã nghĩ đến người anh Hương Cả của mình, nhưng bác Ba tôi từ lâu đã nhường cái quyền định đoạt tài chánh trong nhà cho bà bác gái keo kiệt, chỉ họa hoằn lắm ông mới kiếm được một chút bổng lộc còm cõi nào đó để đi nhậu nhẹt một mình. Còn bà nội tôi, ở với chú Chín của tôi, chỉ sống với những hoa lợi rải rác trong vườn không được người con mà bà ca ngợi thương yêu dành cho gia tài lớn nhất - là bác Tư tôi - giúp đỡ một đồng mọn nào. Từ khi có nhiều tiền bạc, bác tôi quên phứt còn có những người thân yêu ở chung quanh mình. Tiền bạc, trong khi đẻ ra ham muốn, lại thường tỏ sự kỳ thị đặc biệt đối với những tình cảm khác.

Một hôm, bác Ba Hương Cả của tôi đi ngang qua quán của bà Hai Lợi, nhìn thấy bác Tư của tôi đang ăn món cháo lòng heo. Ông Hương Cả Ba xưa nay vốn khoái cháo lòng, lại gặp phải hôm đói mẹp nên dù không sẵn tiền túi thì ông cũng bước vào, hy vọng người em giàu có sẽ mời mọc mình. Ông đi lụm thụm, rất chậm, sau khi tằng hắng lại ho, cốt cho ông Tư có đủ thì giờ nhìn thấy được mình giữa những khoảng trống ngắn ngủi của sự ăn uống. Lúc này ông Tư đã mập phục phịch, da dẻ hồng hào, lại thêm chút rượu ngấm vào càng làm cho ông đỏ tím trong sự phè phỡn. Trước mặt của ông, tô cháo màu đục lờ nhờ vẫn còn bốc khói thơm nồng mùi thịt và mùi tiêu hành. Một đĩa lòng lớn với những lát gan nâu sậm, bao tử trắng phau, thớ tim, thớ phổi tím rịm, ngon lành, trộn lẫn quấn quít lấy nhau. Xị đế mới lưng một nửa còn phô chất nước trong veo, nồng đậm, bên cái ly nhỏ nhắc lên hạ xuống không ngừng. Mỗi lần chiếc đũa ông Tư quờ quạng trên cái đĩa thịt, gắp lên một lúc ba bốn miếng lòng, quẹt vào đĩa mắm đỏ tươi chất ớt, đưa vội vào cái miệng lớn há hốc, ông Hương Cả Ba tưởng mình cũng há miệng theo. Nước miếng bỗng ứa chảy xuống cuống họng khiến ông nuốt ực, vừa hạ thấp cằm cho người trong quán khỏi nhìn thấy mình thèm thuồng.

Tới bàn ông Tư, ông tằng hắng thêm một tiếng, nhưng ông Tư vẫn cứ ngồm ngoàm nhai một cách siêng năng, coi như ngoài rượu thịt ra, chẳng còn gì đáng quan tâm. Ngượng nghịu, ông Ba đi thẳng vào phía trong quán rồi lại chậm chạp đi ra. Sợ người em mình bận tâm suy nghĩ điều gì nên không thấy mình, lân này ông Ba dừng hẳn lại trước ông Tư, nhìn vào bát cháo, gắng gượng nói rất tự nhiên:

- Cháo lòng mụ Hai nấu ngon dữ ta!

Mấy tiếng cuối cùng “nấu ngon dữ ta” được ông kéo chằng cho dài ngoẵng ra để gợi chú ý. Ông Tư ngước mặt lên khỏi bát cháo nhìn người anh mình, rồi lại cúi xuống để húp sồn sột. Đoạn, ông lấy đũa gắp về lòng khá lớn, quẹt mạnh vào mắm rồi thộn vào miệng một cách hùng hổ như để gợi sự thèm muốn nhiều hơn cho người anh ruột già cả. Ông Ba sượng sùng tái người, lọ thọ đi ra khỏi quán, không dám nhìn quay trở lại, tưởng chừng mọi người trong đó đều biết rõ được sự tình và tâm trạng mình. Ra đường thấy nhẹ nhõm hơn, nhưng gặp các người đi lại ông vẫn cố tránh những lời chào hỏi. Về nhà ông nằm vật xuống bộ ngựa, quay quắt trong sự trơ trẽn vừa qua, vừa giận cho mình, vừa giận đứa em khốn nạn. Tuy vậy, ông không dám nói cho vợ mình biết câu chuyện xảy ra, vì bà Hương Cả vẫn coi ông Tư như một kẻ thù. Suốt ngày hôm đó, rồi tiếp luôn ngày hôm sau, ông Ba không dám bước ra khỏi nhà.

Nhưng chiều hôm sau, khi ông sửa soạn nhậu đế với trái ổi chua vừa hái ngoài vườn thì thấy thằng Tiếp, cháu nội ông Tư, đi vào, tay xách một cái cà mèng khá lớn. Thằng bé đặt cà mèng lên bàn, vòng tay thưa rất lễ phép:

- Nội cháu bảo đem cháo lòng qua cho để ông dùng.

Cặp mắt ông Ba sáng rỡ hẳn lên:

- Vậy hả? Nội mày tử tế quá há!

Ông lật đật giở cái nắp cà mèng, kéo ra đầy đủ ba ngăn, một ngăn chứa những miếng lòng khá ngon, một ngăn chứa cháo, một ngăn là đồ gia vị. Xem qua đủ biết đây là cháo lòng đặc biệt thường phải trả giá gấp đôi, và đã lâu lắm ông chưa qua quán mụ Hai xài sang như thế. “Thằng chả giàu có nên cũng biết xài quá ta”, ông Ba vui vẻ nghĩ thế rồi hối hả bảo bà vợ đem đồ sang sớt cho lẹ để ăn cho được nóng sốt, và để thằng bé khỏi chờ đợi lâu. Đoạn ông ra vườn hái cho thằng bé hai trái lựu lớn mà ông tính để chưng kiểng trên bàn thờ.

- Nè bà Hương, rửa sạch cà mèng đi nha! Mình ăn mà bắt người ta chùi rửa coi sao cho được.

Ông khám xét lại lần cuối để coi cà mèng đã thật sạch chưa, trước khi giao cho thằng nhỏ, rồi nói:

- Cháu về nói với nội cháu là ông cảm ơn nhiều nghen! Cảm ơn nhiều nghen!

Ông lại xoa đầu thằng bé: “Đi đường cẩn thận, kẻo đường có nhiều lỗ trâu té lọi cẳng đó”.

Thằng bé đã ra tới ngõ, ông còn nhìn theo:

- Tội nghiệp cái thằng, dễ thương hết cỡ.

Rồi quay sang bà Hương Cả:

- Tôi với bà ăn món lòng đi, kẻo nguội. Đó, bà coi, thằng chả đâu phải người tệ. Bà cứ bảo nó là hổng ra gì. Thì tại nó ham làm giàu quá đỗi nên nó quên đi nhiều chuyện đó thôi, chớ nó cũng biết điều lắm. Thôi, ăn đi, sẵn có đế rồi, nhậu đã! Đó, mỗi người có một tánh ý, hễ biết ăn ở là hiểu được nhau ráo trọi.

Chưa bao giờ ông Hương Cả Ba ăn được một bữa ngon lành như vậy trong cuộc đời mình. Bữa ăn phục hồi danh dự, ve vuốt tự ái, hàn gắn bao nhiêu sụp đổ thảm thương ở trong tình nghĩa gia đình, và cứu vãn lại biết mấy ý nghĩa bi quan đổ xuống cuộc đời của một người già từ trước đến nay vẫn sống dễ dãi, no lành. Mấy ngày sau đó, món cháo lòng khá đặc biệt vẫn còn dư âm rạng rỡ nơi ông Hương Cả. Ông chịu khó đi tới các nhà bà con, thân thuộc, kể chuyện “thằng Tư sai cháu đem cháo lòng qua cho tôi”, không quên thêm cháo thêm lòng và nâng phẩm chất món ăn lên hàng “hết sức đặc biệt” để sự hân hoan của ông cho được cân bằng. Chỉ có một tô cháo lòng mà cái uy tín cơ hồ tàn mạt của bác Tư tôi có mòi khôi phục. Với cái bề thế của chức Hương Cả, bác Ba của tôi có đủ các loại thính giả ngoan ngoãn để nghe ông nói rõ về trường hợp của món cháo lòng đặc biệt.

Mấy ngày sau đó, sẵn có một món tiền túi, ông Ba bèn vào quán bà Hai Lợi để ăn một tô cháo lòng, vừa để thưởng thức một cái uy tín đã được khôi phục. Ông ăn uống xong với cái tư thái ung dung, đường bệ của ông Hương Cả nhiều năm tại chức, rồi khi mãn cuộc, đứng dậy móc tiền ra trả một cách khoan thai. Nhưng khi bà Hai đếm tiền, ông thấy nơi vẻ mặt bà có một chút gì ấp úng. Ông hỏi:

- Sao đó? Hổm rày tăng giá rồi sao?

Bà Hai tỏ vẻ ngần ngại, rồi nói nho nhỏ:

- Dạ đây mới có một tô. Còn tô đặc biệt ông bảo thằng nhỏ đến mua hôm kia, chưa trả.

Ông Hương Cả Ba thiếu một chút nữa là sụm xuống đất. Úy cha mẹ ôi, thằng Tư chết dịch nó chơi xỏ mình. Ý nó muốn bảo mình có muốn ăn thì mua mà ăn, mà không chịu mua thì nó cho người mua giúp. Bây giờ đã lỡ xực rồi, thì lo mà trả. Chẳng lẽ lại làm tùm lum lên giữa hàng xóm hay sao? Ông cố trấn tĩnh, sượng sùng nói với bà Hai:

- Quên khuấy đi mất, để vài bữa nữa rồi trả cho nghen.

Không đợi nghe cái tiếng “dạ” yếu ớt của người đàn bà, ông đi thẳng một mạch, xấu hổ, loạng choạng, cảm thấy tối tăm mặt mũi. Nằm vùi liên tiếp mấy ngày, ông Ba tưởng mình có thể đau ốm và chết luôn được. Sự sụp đổ bây giờ còn thảm thương hơn lúc trước, tương tự như một cơn bệnh ngặt nghèo vừa được bình phục một cách may mắn bỗng bị chúi xuống đau lại một cách ngặt nghèo hơn nữa. Nhưng mang một ý nghĩa nào đi nữa thì tô cháo lòng - dù thuộc vào loại đặc biệt - vẫn không thể giết được người, nhất là người đó đã làm Hương Cả gần ba mươi năm. Bác Ba của tôi lại đứng vững được, tuy có chán nản cuộc đời hơn trước rất nhiều. Ban đầu, ông định giấu kín câu chuyện xảy ra và âm thầm trả món nợ cháo lòng cho bà Hai Lợi. Nhưng rồi không thể chịu đựng một sự thiệt thòi tình cảm lớn lao như thế, ông bèn mô tả sự việc cho một đôi người thân thuộc được biết để hạ thấp bớt uy tín mà ông xây dựng nên cho một đứa em khốn nạn, vừa giải tỏa bớt uất ức nơi lòng.

Hai người đầu tiên biết được việc này là bà tôi và cha tôi. Mỗi người tùy theo bản chất và điều kiện mình mà có phản ứng khác nhau. Thói thường, tình yêu bất lực dễ biến ra thành thù hận, bà tôi từ mối tình yêu sâu đậm đối với đồng tiền bây giờ cảm thấy sợ nó một cách xót xa. Bà không oán trách bác Tư của tôi về sự keo kiết - ai giàu mà chẳng keo kiết, nếu không keo kiết làm sao mà giàu! - nhưng cứ phàn nàn về nỗi tại sao bác Ba của tôi không sẵn tiền mua cháo lòng. Theo bà, cái nguy là ở chỗ đó. Ai cũng có tiền thì còn việc gì mà lôi thôi nữa? Ngày đêm bà khuyên chú Chín của tôi nên suy nghĩ đến đồng tiền. Theo bà, nếu không có cách làm giàu bằng việc mua bán, kinh doanh thì còn một cách rất là mầu nhiệm, ấy là hà tiện. “Buôn Ngô, buôn Tàu cũng không giàu bằng hà tiện”, ông bà vẫn chẳng dạy bảo như thế hay sao? Chú Chín của tôi tuy còn nhỏ tuổi nhưng xem có vẻ thấm thía những bài học ấy. Cả ngày thấy ông lò dò lượm đồ ve chai trong nhà cất vào trong một chỗ và cứ lôi cái ống tiền để dành ra moi từng đồng, đếm đi đếm lại, thấy mà phát rầu.

Cha tôi đã có nỗi buồn sẵn về cuộc đời và về bác Tư, nên chuyện tô cháo lòng heo trở thành giọt nước quyết định để cho ly nước đổ tràn. Từ đó ông không chịu sống trong sự cơ cực và đem số ruộng sẵn có lần hồi bán đi để mà ăn xài. Ông bảo mẹ tôi: “Để ruộng đất lại làm gì? Đời nào thời đời ấy lo, chẳng có chết ai mà sợ. Càng có nhiều của thì con nó càng hư hỏng, tham lam”. Người bạn nhậu nhẹt thân tín của ông là bác Ba tôi. Cha tôi sẵn sàng đãi ông Hương Cả ruột thịt những tô cháo lòng đặc biệt, dù ăn tại chỗ, hay là mua xách về nhà.

Chén rượu nồng đặc, sóng sánh đưa lên tận môi, ông đưa bàn tay vuốt lên vuốt xuống cánh tay người anh già nua của mình, rồi lè nhè nói:

- Nhậu đi anh Ba, nhậu đi. Anh muốn dùng thêm món gì thì anh cứ gọi. Có thằng em lo liệu mà. Đừng ngại, uống đi, ăn đi.

Những lúc có bác Tư tôi trong quán thì sự mời mọc giữa cha tôi và bác Ba càng thêm nồng nhiệt. Hai người ăn uống no say rồi giắt tay nhau chệnh choạng đi ra ngoài đường, đôi lúc té vật vào trong hàng rào, loay hoay cả buổi mà vẫn không đứng dậy được. Bác Hương Cả Ba cảm thấy được sự an ủi, và nỗi buồn phiền về tô cháo lòng ngày nào cũng được nguôi khuây. Cha tôi hoàn toàn bằng lòng về sự xài phí của mình mà trong thâm tâm ông coi như sự trả thù về những khổ cực mình đã trải qua sau một năm trời bám lấy ngọn núi Bà-Rịa và những tàn nhẫn, thiệt thòi trong tình nghĩa gia đình. Bây giờ những người ở ngoài miền Trung vào bán thuốc dạo được ông tiếp đãi ân cần hơn trước. Ông bắt họ phải ăn cơm nhà ông, “đi đâu rồi cũng về đây nghỉ ngơi, đừng ngại gì hết, mình là đồng bào, là anh em cả, khi nào rồi tui ra ngoải, tôi cũng ăn uống tự nhiên ở nhà anh em đó mà!”. Vốn đã hào phóng, bây giờ ông càng hào phóng hơn xưa. Ông chỉ lỡ để thất lạc cái bản chất ông trong thời gian ngắn đi theo ông Đạo, do đó bây giờ ông cố đuổi bắt lại nó một cách hăm hở. Nhà ông bây giờ gần như cái trạm thường trực dành cho các người miền ngoài tá túc để rồi tỏa đi các nơi mua bán. Tối lại chủ khách khề khà ăn nhậu nói đủ các chuyện thiên hạ, nắng mưa. Mẹ tôi tất nhiên không thích kiểu xài phí rộng rãi đó nhưng bà chiều lòng cha tôi. Khi ông bán đến đám ruộng cuối cùng để mà ăn nhậu, bà vẫn không than thở một lời nào, chỉ ồn tồn nói:

- Rồi lũ con mình nó sống làm sao?

- Ôi! Hơi đâu mà lo. Con thì nó có lộc con. Cứ để cho tôi ăn xài. Lỡ chết, thì đem bó vạt.

Tất cả những gì sót lại của ông Đạo Trần, ở nơi cha tôi, chỉ còn mấy tiếng “bó vạt” được dùng như một kiểu nói liều lĩnh ở một con người tuyệt vọng. Bởi lẽ cha tôi cũng thừa biết rằng, khi ông chết đi, chẳng ai nỡ đem chôn xác của ông với mấy thanh tre và một chiếc chiếu.

Cuộc đời say sưa, hoang phí như thế kéo dài được trên bốn năm thì cha tôi chết. Ông đã giã từ cõi đời đúng vào cái lúc ruộng đất đã bán sạch rồi và không còn món tiền nào trong nhà gọi là dành dụm. Mẹ tôi cố gắng vay mượn làm một đám tang tươm tất. Tôi còn nhớ ngày tôi theo một người anh họ xuống mời bác Tư của tôi dự lễ làm tuần cha tôi thì ông chỉ đáp một câu lạnh lùng:

- Cha bây chết rồi thì bọn bây với tao đây chẳng có bà con gì nữa.

Ông đã gạt phắt mẹ con chúng tôi ra khỏi cái vòng liên hệ gia đình với ông. Hay nói đúng hơn, ông đã tự loại mình ông ra khỏi sợi dây máu huyết với bọn chúng tôi.

Mẹ tôi tìm người bà con ở trên Sài Gòn gởi tôi lên đây ăn học. Tôi chỉ học được ít năm ở ban Trung học rồi kiếm việc làm tại hãng la ve. Tôi biết uống rượu từ khi còn nhỏ, những lúc cha tôi dắt tôi lè kè đi theo vào quán, nên từ khi nhận việc làm ở hãng, tôi thường có dịp uống rượu mà khỏi trả tiền. Tôi cố gắng gởi mỗi tháng một ít tiền về nuôi mẹ, nuôi em, và định dành dụm một cái vốn nhỏ để mà cưới vợ. Nhưng trong khi chờ gặp một phụ nữ chịu làm vợ tôi, thì tôi đã uống sạch cái vốn nhỏ ấy. Vợ và rượu trong cuộc đời tôi trở thành hai cái sự kiện xung khắc khó lòng mà gặp gỡ nhau.

Thời gian ở Sài Gòn, tôi nghe tin chú Chín tôi dạy ở Biên Hòa. Cái tin ông đi dạy học làm tôi hết sức ngạc nhiên. Sức học của ông tưởng chừng không được một nhắm, vậy mà dạy dỗ ai đây? Bà tôi không cho chú Chín học nhiều, vì bà cũng đồng ý với bác Tư là học thông thái thì chẳng bao giờ giàu được. Phải giàu, dù bằng cách gì, đó là ý tưởng chính cốt của bà. Ít nhất cũng khỏi khổ sở vì tô cháo lòng mà mình không sẵn tiền mua.

Tôi được biết chú Chín tôi đã chọn con đường hà tiện để đi cho tới “lý tưởng” có tiền. Năm đầu khi lên Sài Gòn, ông xin giúp việc thơ kí cho người cháu họ có hãng nước mắm ở tại Chánh Hưng. Tiền lương hàng tháng ông không dám lãnh, sợ sẵn có tiền trong túi rồi tiêu mòn đi. Ông bảo chủ hãng ghi sổ để cuối năm nhận một lần.

- Vậy tiền đâu mà chú Chín tiêu phí những món lặt vặt cần thiết?

- Tao có cách rồi. Cứ mỗi chủ nhật công nhân dán nhãn các tĩn nước mắm họ nghỉ, thì tao lãnh công việc ấy tao làm. Làm suốt một ngày chủ nhật cũng được gần bốn năm chục đó chớ. Vừa có tiền thêm, mà khỏi sinh sự ăn xài. Chừng đó đủ tao hớt tóc, mua xà bông giặt, mua thuốc rê hút, thỉnh thoảng cũng uống cà phê một cái “xay chừng”(1) với người thiên hạ. Mà xài không hết đó mày.

Sau đúng một năm, lãnh trọn gần ba chục ngàn tiền lương, chú Chín bỏ hãng nước mắm, xuống tận Biên Hòa thuê một miếng đất bỏ hoang - đã thành một chỗ đổ rác công cộng - ở cạnh một cái đình lớn. Chú dựng một cái nhà lá tươm tất, rào miếng đất lại, trồng trọt trên miếng đất vườn khá mầu mỡ ấy. Chú trồng mía, chuối và một số loại rau cải. Rồi đem số tiền còn lại thuê ít bàn ghế, thương lượng với xã cho mượn cái đình để mở một trường tiểu học. Ban đầu học sinh đến chỉ leo ngoeo đôi đứa nhưng rồi càng ngày kéo đến càng đông. Người ta tín nhiệm ông giáo Chín này không phải ở nơi sức học và khoa sư phạm, nhưng ở kiểu cách làm việc có vẻ chu đáo, cần cù của ông. Suốt hai tháng đầu, chỉ có năm người học trò, ông Chín vẫn dạy một cách tận tụy và giảng hò hét như tuồng đứng trước cả ngàn đứa trẻ. Ai đi qua đó cũng dừng lại nghe những lời giáo huấn rặt mùi đạo đức bằng một giọng nói rõ ràng, nghiêm nghị và ai cũng lấy làm phục ông thầy. Học trò đông dần, càng lúc càng đông, cứ mỗi hai tiếng đồng hồ lại có một lớp thay đổi, từ sáng đến chiều ông giáo liên tục dạy dỗ và thâu tiền học. Cứ mỗi một giờ ông giáo cho học trò nghỉ mười phút, nhưng trên thực tế có thể đến mười lăm phút hay là hơn nữa, để ông vạch rào, chạy tạt về nhà uống một ngụm nước hay hút một điếu thuốc rê. Ông không quên gọi theo chừng năm, sáu đứa lớn, vừa trai vừa gái - cho nó vui vẻ với nhau - và đứa thì thầy nhờ quét cái nhà, đứa thì xách nước, vò sơ cái áo, bắc giúp nồi cơm. Thầy ngồi trên ghế, sai chúng chạy tới chạy lui tưới xượi và bọn học trò xưa nay đều thích làm vui lòng thầy. Khi chuối ở vườn đã chín, và mía đã lớn, thầy cũng không ăn, mà cũng không cho học trò. Thầy ra chợ mua thêm ít kẹo bánh cùng một chục thứ gói xanh đỏ chua chua ngọt ngọt thường để đánh lừa tì vị con nít rồi thầy mở ngay một gian hàng quà ở tại nhà mình, vào mỗi giờ chơi. Sau mỗi một giờ bán chữ thầy bán đồ ăn độ vài chục phút, vừa bắt học trò làm đủ mọi việc trong nhà. Cứ nhìn quang cảnh ông thầy tẩn mẩn bán từng trái chuối - nhờ trời, chuối của vườn ông khá lớn bởi rác trước kia ở đó khá nhiều - tính từng cắc bạc, người ta dễ có cảm tưởng kỳ quặc đối với vai trò giáo dục ở thời buổi này. Tất cả tờ bạc của ông giáo Chín đều được sắp xếp cẩn thận theo đúng bề mặt, bề trái và được mười đồng lẻ thì ông ra chợ đổi lấy tờ chục và được mười tờ chục lẻ thì đổi tờ trăm để cho gọn gàng, và khỏi thấy dễ mà tiêu xài mất.

Khi tôi xuống thăm chú tôi lần đầu vào một sáng sớm chủ nhật tôi thấy chú tôi loay hoay tính chuyện đi chợ để về làm cơm mà thết đãi tôi. Tôi nói:

- Cưới vợ đi chú, cho nó bớt khổ.

- Chèn ơi! Mày tưởng cưới vợ không tốn kém sao? Để lo làm ăn thư thả rồi kiếm một mụ nào giàu, lấy vốn khuếch trương chứ mậy.

- Thế chú cưới vợ hay cưới tiền?

- Tao cưới cả hai. Việc gì mà phải phân biệt, có vợ mà còn có tiền, có phải sướng không?

Chú tôi quan niệm cuộc đời đơn giản như vậy. Ông nhìn mọi việc xuyên qua một khía cạnh tiền, và lấy nó làm tiêu chuẩn cho mọi suy luận, hoạt động. Bữa cơm trưa ấy ông mua vỏn vẹn ở chợ một con cá trê giá năm đồng bạc. Năm đồng là cái mức độ cao nhất được ông đề ra cho sự ăn uống của mình.

- Vậy chiều nay chú ăn gì?

- Ối, còn mắm trong nhà, còn rau ngoài vườn, thiếu gì.

- Chẳng có thịt cá gì sao?

- Tại mày xuống chơi chớ không thì tao đi câu, bắt ếch, ăn đủ cả tuần. Thỉnh thoảng tao cũng nhậu nhẹt lai rai một mình. Thịt cóc, thịt rắn, quanh đây bụi nào chẳng có.

Giọng nói chú tôi vui vẻ, tự nhiên, khiến tôi nghĩ đến bà nội của tôi đã qua đời rồi. Dẫu bà đã chết nhưng cái hình ảnh trung thực của bà vẫn còn nơi người con út. Nghĩ đến mấy tiếng “tại mày xuống chơi” tôi thấy khó chịu trong lòng. Hôm đó tôi về hơi sớm, vì thấy sự thăm viếng của người cháu chỉ làm ông chú duy nhất của mình mất phần cá, ếch nhiều ngày.

Sau đó hàng tháng tôi gửi thư xuống thăm ông nhưng không nhận được một thư trả lời nào cả. Ba bốn tháng sau, tôi mới nhận được một lá, nhờ một người quen đưa tận tới hãng La ve, để khỏi tốn mấy đồng tem. Bức thư như sau:

“Cháu Khỏe ơi!

Chú nhận được thơ cháu ngày 9 tháng 8 năm 1955. Nay nhân có người quen đi lên Sài Gòn chú gởi ít lời thăm cháu. Chú đã mua được một chiếc xe đạp khá tốt. Tuần sau, nhất định chú lên thăm cháu kẻo lâu ngày nhớ lắm lắm đó.

 Biên Hòa ngày 7 tháng 12 năm 1955

 Chú Chín của cháu

Lê Văn Xường”

Trời ơi! Chẳng nhẽ chú tôi lại định đi xe đạp từ Biên Hòa lên hay sao? Nhớ đến thân hình gầy nhom và cao lòng khòng như con cò ma của chú mà tôi lo ngại. Tôi bỗng hối hận về bức thư gửi ân cần của mình vừa qua, trong đó một hai tôi bảo chú Chín của tôi phải lên một bữa để mà nhậu nhẹt lớn chuyện một phen cho bớt nhớ nhung. Nhưng một tuần qua, chẳng thấy bóng dáng chú Chín. Rồi một tuần nữa và hai tuần nữa trôi qua. Chẳng lẽ chú tôi đã đi xe đạp và bị tai nạn dọc đường? Chủ nhật sau đó, tôi xuống Biên Hòa rất sớm. Tới nơi, thấy chú ăn mặc chỉnh tề đang đứng chờ xe bên đường, bên cạnh có chiếc xe đạp còn mới sơn màu xanh đậm, chạy những chỉ vàng. Tôi trách:

- Chờ chú cả trên tháng nay rồi đó, chủ nhật không dám bỏ đi đâu hết, cứ sợ chú lên. Sao mà hôm nay mới đi? Thiếu một chút nữa thì đi lật hết.

- Nói vậy chớ dễ gì đón được xe...

Thì ra chú tôi đã đón xe lên thăm tôi từ cuối tháng trước nhưng ông sợ lên Sài Gòn đi lại tốn kém nên mang cái xe đạp mới đi theo. Để bảo vệ màu sơn mới, ông chịu khó đi xe lô, dù có đắt hơn vài đồng, nhưng chỉ bằng lòng đi cái xe nào không có xe đạp nào hết đèo ở đàng sau. “Có cái xe khác nó cọ xe mình hư sơn ráo trọi, còn gì”. Trên một tháng rồi, ông đón mệt mỏi không gặp một cái xe lô như ý, và cứ mỗi sáng chủ nhật lại ra chờ đợi vài tiếng đồng hồ mới dắt xe đạp vào nhà, cởi áo, thay quần, vác cần đi câu.

Buổi sáng hôm đó, khi chú tôi đi ra chợ mua đồ “đãi” cháu (ông không thể nhờ cậy ai, vì sợ người ta mua đắt) tôi có gởi ông tờ giấy mười đồng nhờ mua gói Bastos đỏ, là loại thuốc điếu phổ biến trong giới bình dân. Khi về, ông mua vỏn vẹn một con cá lóc năm đồng, đưa gói thuốc lá cho tôi với số năm đồng tiền thừa, rồi nói:

- Úy cha mẹ ôi! Con mẹ bán thuốc đưa tao gói thuốc rồi thối lại tao năm đồng(1) ­­­­­làm tao đứng sững. Tao tưởng nó đắt hơn vậy chớ mầy. Năm đồng mà cái gói thuốc ngó ngộ dữ ta. Hút được chớ đó!

Tội nghiệp, bao nhiêu năm nay ông ta chỉ hút thuốc rê nên không biết rõ thời giá về thuốc. Tôi xé bao thuốc, mời ông, và tôi thấy ông trịnh trọng cầm lấy điếu thuốc rẻ nhất trong loại thuốc lá, ngắm nghía, săm soi rồi kéo từng hơi rất dài, chậm chạp, như để thưởng thức tất cả hứng thú mà ông chưa từng quen hưởng lâu nay. Người ta cứ bảo người dân miền Nam ăn xài rộng rãi, điều ấy quả là có đúng thật, nếu họ chỉ gặp những người như là cha tôi. Nhưng những con người như chú Chín tôi sẵn sàng có đấy để mà sửa đổi ít nhiều về nhận xét trên.

- Chú à, tiền bạc chú đã có nhiều, tội gì mà chẳng ăn xài.

- Để dành làm ăn chứ mậy. Chú dạy ở đây tròm trèm mỗi tháng cũng chín mười ghim. Cái trường ngó bộ xấu mã, vậy chớ khỏi tốn kém chi ráo. Đổ đồng mỗi năm để dành có tới ba trăm ngàn, dạy chừng ba năm kiếm ba trăm ngàn chi đó rồi bán miếng vườn, nhà cửa, sang lại cái trường có tới một trăm ngàn nữa chẳng chơi. Lúc đó bọc sẵn ba bốn trăm ngàn, kiếm chuyện kinh doanh. Khi nào cần thêm vốn liếng, rồi hãy tính chuyện lấy vợ.

Nhưng mới hai năm, chú Chín của tôi đã bị nám phổi rồi ho nặng. Bỏ đồng tiền ra uống thuốc, chú đau khổ lắm. Khi đã quá nặng mới lo chạy chữa, cơn bệnh nhất định không lùi. Chú tôi qua đời vào một buổi chiều chủ nhật. Cho đến phút cuối, ông cũng chọn lấy một ngày không có việc làm để mà từ giã cõi đời. Và đến phút cuối, cũng chẳng ai biết tiền bạc ông cất ở đâu. Có lẽ như thế ông mới hoàn toàn yên lòng để mà nhắm mắt.

Tôi xin nghỉ mấy ngày phép để về dưới quê báo tin cho gia đình biết, dù tôi cũng bị chất rượu hành hạ lá gan nằm liệt từ mấy tháng rồi. Khi rời khỏi con đường nhựa tẽ con đường đất vào làng tôi mới sực nhớ là gia đình tôi cũng chẳng còn ai để mà đón tiếp cái tin buồn này. Bà nội của tôi chết từ lâu rồi. Bác Hương Cả Ba của tôi từ giã cõi đời đã bảy tám năm. Ngày ông tắt thở, người Pháp nghĩ đến công lao của ông Hương Cả tận tụy tại chức suốt ba mươi bảy năm liền, loay hoay không biết tặng thưởng cho ông những gì để tỏ chút tình mẫu quốc đối với con dân gương mẫu của nước thuộc địa. Cuối cùng ông được nhà nước thực dân phong lên chức Đại Hương Cả, và khi đưa linh cửu ông ra đồng, một tiểu đội lính bồng súng được sai phái đến đi theo cho đến lỗ huyệt, rồi chĩa họng súng lên trời bắn tiếp lẹt xẹt ít loạt gọi là một thứ nghi lễ tôn nghiêm. Xong rồi, bà con thì đi về nhà, bác tôi thì về chín suối, còn tiểu đội lính thì đi về đồn.

Bác gái của tôi từ lâu thấy chồng của mình chỉ có thể làm hương cả chứ không có thể làm giàu, nên tìm cách gả ba người con gái khá đẹp cho ba thanh niên giàu nhất trong vùng. Người rể đầu tiên, con một người góp tiền chỗ, cờ bạc rượu chè, ho lao rồi chết và người vợ cũng lây bệnh chết theo. Người rể thứ hai con ông Cai Tổng, có đi Tây học ít năm, về nhà của cha mẹ vợ ít khi chào hỏi một ai, và mỗi bữa ăn thường đứng một chân, còn bàn chân kia mang giày vớ đặt lên ghế. Anh ta bảo rằng khi ở bên Tây anh ta ăn đứng như vậy quen rồi. Sau khi lấy tiếp một người vợ hai, rồi đến vợ ba, vợ tư - hẳn là lấy quen như thế bên Tây - gia tài khánh tận, người con bác tôi phải sống nghèo nàn, cô độc, như kẻ góa bụa. Người rể thứ ba là một công tử, con của một Hương chủ rất giàu. Khi cuộc chiến tranh việt Pháp bùng nổ, anh chàng nhất định không đứng về bên nào hết, và một hôm nọ đang đi thăm ruộng giữa đồng, bị một viên đạn bắn chết mà không biết rõ xuất phát từ đâu. Mấy người cảm tình với Việt Minh bảo là đạn ấy của Pháp. Mấy người cảm tình với Pháp bảo là đạn của Việt Minh. Chỉ có viên đạn biết rõ, lại chẳng nói năng lời nào. Người vợ anh ta bị người anh chồng đoạt hết của cải, phải cố bám víu vào mấy vạt ruộng còn lại để sống những chuỗi ngày tàn. Bà Bác của tôi chứng kiến đầy đủ tất cả các sự kiện trên rồi mới âm thầm tắt thở.

Bây giờ chỉ còn sót lại mỗi bác Tư tôi. Trong tám người con, bảy người đã có nhà máy xay riêng và không người nào lưu ý đến cha mình nữa. Còn người con út thì vợ đã bỏ về nhà cha mẹ, và không được phép đi thăm nên sau mấy năm thương nhớ, anh ta lâm bệnh, từ trần. Lúc gần tắt thở, miệng anh vẫn cứ thều thào kêu gọi tên con. Người nhà chạy gọi vợ con anh đến để anh nhắm mắt cho được yên lòng, nhưng mới đi ra tới ngõ thì anh đã chết. Tuy vậy, gia đình bên vợ của anh vẫn nhất quyết không chịu cho con gái về phục tang chồng, bởi mối căm hờn ngày nào vẫn chưa nguôi ngoai. Bác Tư của tôi già yếu bệnh hoạn, không trông coi nỗi nhà máy và tự nó sụp đổ lấy. Ông sống cô độc một mình trong ngôi nhà rộng, tự giặt giũ lấy quần áo, không thuê mướn được ai nữa. Nhiều khi ông nhắn bà con lối xóm gọi giúp cho ông đứa con, hay đứa cháu nào, nhưng sau nhiều ngày chờ đợi ông không thấy đứa nào đến. Chúng nó mắc lo làm giàu, và sự săn đuổi đồng tiền bận rộn, hấp dẫn hơn là chăm nom cho một người cha, người ông bệnh hoạn.

Bác tôi chỉ còn thương tiếc, không phải bà vợ của ông, mà người con dâu thứ năm, qua đời vì chứng sản hậu sau kỳ chửa đẻ, đã mười năm rồi. Người con dâu ấy, khi còn ở trên đời này đã đem tâm lực ra để gìn giữ tiền bạc cho ông, và ông tin rằng nếu cô còn sống thì sẽ là nguồn an ủi của ông trong lúc xế chiều. Ông lập bàn thờ con dâu ngay trong nhà mình, và đến ngày kỵ lọ mọ nấu nướng, tự tay khệ nệ bưng lên để cúng con dâu, rồi lại lọm khọm bưng xuống ngồi ăn và khóc một mình. Đã hết dựa cậy vào những người sống, ông cố bấu víu vào một hình ảnh đã khuất xa rồi. Những người quanh xóm cũng ít lui tới, suốt ngày ông cứ lẩn quẩn trong nhà, sờ soạng như một bóng ma. Người ta bảo nhau: “Ổng chưa có chết được đâu. Còn sống dai mà. Trời còn bắt sống để mà coi cho mãn nhãn cuộc đời”.

Thỉnh thoảng có người lối xóm đem bán cho ông một ít tép bò để đổi cây trái trong vườn mà họ biết rằng ông không thể nào kiểm soát được họ hái nhiều hay ít. Ông lại lui hui đem tép trộn với cơm nguội, muối sống, cho vào cối giã để làm mắm ruốc, thức ăn gần như độc nhất của ông về già. Cặp mắt gần như mù lòa, ông phải sờ soạng tìm chiếc ghế gỗ, lê đến ngồi bên cái cối, hai tay mệt nhọc nhắc cái chày lên, giã xuống chệnh choạng, vừa thở hào hển. Nhiều lúc ông dừng chày lại ôm ngực rên lên hù hụ. Và thường ông ngồi nguyên đấy tiểu tiện, đại tiện ra quần, rồi thả rơi chày, ngủ thiếp ở bên cối tép.

Khi tôi đi sâu vào xóm, qua nhà bác Tư, tôi lại chợt nhớ câu nói lạt lẽo ngày nào khi ông từ chối không đến dự lễ làm tuần cha tôi. Tôi lặng lẽ đi qua ngõ và tẽ sang một lối khác. Trời đã chiều rồi, tiếng hát ru con à ơi ở đâu vẳng lại một cách buồn thảm. Những lá xoài khô, lá cây vú sữa vàng sẫm rụng xuống đầy trên lối đi. Có lẽ chỉ còn mẹ tôi, em tôi, cảm thấy vui mừng vì cuộc trở về khá bất ngờ này.

Qua một ngõ tối vì những lá cành che rậm, tôi bỗng nghe những tiếng giã thình thịch trong cối của nhà ai đó. Tôi nghĩ đến những nhịp chày chệnh choạng của người bác già, nghĩ đến nỗi buồn mênh mông ở trong kiếp sống của nhiều con người loay hoay suốt đời giữa các vòng trói u tối, thê thảm của những ước muốn tầm thường. Tôi bước chậm lại nghe đôi chân mình chuyển dịch một cách khó nhọc. Nhớ đến chứng bệnh đau gan đang ở thời kỳ trầm trọng, tôi muốn lê bước đi ra khỏi xóm, không ghé lại nhà.


1/1967     
VH.       

 

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét