ĐỖ - HỒNG - NGỌC
Nhân cuốn sách thứ 100 của
Ô. Nguyễn Hiến Lê ra mắt bạn đọc
Ông Nguyễn - Hiến - Lê và Tôi
Lời B.K.- Tác
giả bài viết dưới đây, Bác sĩ Đỗ Hồng Ngọc cũng là nhà thơ Đỗ Nghê (*)
một bút hiệu quen thuộc thường có sáng tác đăng trên Bách Khoa. Đỗ Hồng
Ngọc đã có một thời niên thiếu thật khốn khó: Cha mất sớm, nhà nghèo,
ông phải phụ giúp mẹ trông nom cửa hàng xén tại chợ BT. Nhờ được đọc
những tác phẩm tự luyện trí đức của Nguyễn Hiến Lê, lại có chí, ông đã
đạt được nhiều kết quả tốt trên đường học vấn. Ông vẫn liên lạc thường
xuyên với người đã viết nên những tác phẩm dìu dắt mình từ thuở còn niên
thiếu. Nhân đọc mục Thời sự Văn nghệ trên Bách Khoa loan tin nhà văn
Nguyễn Hiến Lê cho xuất bản tác phẩm thứ 100 của mình, người hằng quan
tâm đến sức khỏe của "lứa tuổi học trò" liền gửi đến Bách Khoa bài sau
đây "gọi là để góp một món quà nhỏ" dành tặng cho người đã đem toàn tâm
toàn lực cung cấp các món ăn tinh thần cho mọi lứa tuổi từ mấy chục năm
qua.
Tác phẩm đầu tiên của ông, Tổ chức công việc theo khoa học,
ra đời năm 1949 nhưng mãi đến năm 1956 tôi mới được làm quen với tên
tuổi ông. Còn nhớ lần đó tôi theo xe chở cá nước đá về Saigon "bổ hàng"
cho mẹ – mẹ tôi có quán hàng xén tại chợ B.T. – một buổi trưa lang thang trên vỉa hè Trần Hưng Đạo, dừng chân ngắm hàng sách "sôn" bày la liệt, tình cờ thấy cuốn "Kim chỉ nam của học-sinh" của Nguyễn Hiến Lê, một tác giả hoàn toàn xa lạ với tôi lúc đó. Đọc qua lời Tựa, tôi mua ngay.
Tản
cư về, tôi bị trễ học đến 4, 5 năm, nhà nghèo, cha mất sớm, tôi phải
phụ giúp mẹ trông nom cửa hàng cho nên dù hiếu học, tôi cũng không biết
cách nào để tiến thân. May quá, "Kim chỉ nam" đã mở cho tôi một chân
trời mới. Đọc xong, tôi thấy mình gần gũi với ông kỳ lạ. Có những điều
tôi đã thoáng nghĩ, đã từng làm nhưng vì thối chí ngã lòng, vì không
được hướng dẫn nên không đạt được mấy kết quả. Ông đã hệ-thống-hóa, đặt
ra những nguyên-tắc giúp cho việc học đỡ mệt, đỡ tốn thì giờ mà được
nhiều kết quả hơn. Điều quan trọng là sách trình bày những phương pháp
thực hành, không có những lý thuyết viển vông nhàm chán. Thời gian sau
đó tôi lại tìm mượn được thêm các cuốn Tự học để thành công, Rèn nghị lực
của ông tại nhà một anh bạn làm nghề may. (anh Chín, khi đọc những dòng
này, anh có nhớ bọn mình đã góp chung tiền để mua loại sách này chăng
và bây giờ, làm chủ một tiệm may nho nhỏ chắc anh đã đủ tiền mua trọn bộ
sách Nguyễn Hiến Lê cho các con anh như đã từng ao ước rồi phải
không?).
Với
niềm tin mới, tôi bắt tay vào việc lập chương trình "học nhảy". Tôi
viết thư hỏi ý kiến ông về việc này và ông trả lời "được" vì qua bức thư
thấy tôi khá già giặn và sức học đã vững. (Trong Kim chỉ nam của học sinh ông đả kích việc học nhảy dữ lắm!). Lúc đó tôi đang theo học đệ thất – lớp đệ thất đầu tiên, mới mở của tỉnh –
và tôi đã rất xấu hổ phải ngồi bên cạnh các học trò nhỏ hơn mình 4, 5
tuổi. Nhờ có chí và biết áp dụng những phương pháp học chỉ dẫn trong Kim chỉ nam và Bí quyết thi đậu,
tôi đã rút ngắn chương trình Trung-học được ba năm, đuổi kịp các bạn bè
cùng lứa. Được bà con khuyến khích, mẹ tôi bằng lòng cho tôi đi Saigon
"du học".
Đến
Saigon, việc đầu tiên của tôi là tìm thăm ông, định bụng sẽ báo tin cho
ông biết là đã thi đỗ và bày tỏ lòng ngưỡng mộ, biết ơn của tôi ; nhưng
khi gặp ông, tôi đã lúng túng không biết phải nói gì, chỉ ấp úng trả
lời ông vài ba câu rồi ra về. Thấy ông có vẻ nghiêm nghị quá, lại đang
bận sửa bản vỗ cho một tác phẩm nào đó. Như thế là lần này tôi đã hoàn
toàn thất bại, cuốn Đắc nhân tâm của ông không giúp tôi được tí
gì cả! Từ đó, mỗi lần đến thăm ông tôi thường rất ngần ngại, lúc nào
cũng có cảm tưởng như quấy rầy ông, không để cho ông "sống đủ 24 giờ một
ngày". Nhiều người quen biết ông chắc cũng cùng cảm tưởng đó lúc ban
đầu. Về sau, nhiều năm trôi qua, quen thân ông nhiều hơn, tôi biết tôi
đã lầm lẫn. Phong thái ông là phong thái của một nhà nho, giao tình dù
thật thắm thiết thì bên ngoài vẫn có vẻ hờ hững, khác xa với cái vồn vã
ồn ào của người Tây-phương. Chính cái ánh mắt ông và cái bắt tay chặt
chẽ của ông đã bộc lộ tâm tình ông nhiều hơn. Bây giờ tóc ông đã bạc
nhiều, da sậm và nhăn nheo nhiều hơn, nhưng ánh mắt vẫn tinh anh và cái
bắt tay vẫn nồng nhiệt như thuở đó. Những lúc đến thăm, tôi thấy ông
luôn mặc bộ bà ba trắng nhạt, cũ kỹ quen thuộc, cũ kỹ quen thuộc như
loại bì thư ông quen dùng trong bao nhiêu năm qua. Ông không thích đổi
thay. Hình như ông hút thuốc hơi nhiều quá! Lúc nào cũng có lon thuốc rê
bên mình, ông vừa trò chuyện với khách vừa vấn vấn vê vê điếu thuốc lá,
liếm nhẹ rồi bật quẹt hút. Các ngón tay ông nhanh nhẹn, thuần thục đến
vàng sậm màu khói. Ông khen Lâm Ngữ Đường là "cận nhân tình" có lẽ vì họ
Lâm "bồ" với ông, đã không cấm ông hút thuốc dù cái bao tử của ông cứ
đau đi đau lại hoài!
Thỉnh
thoảng khi có chuyện thắc mắc, chuyện vui buồn gì mà không tiện đến
thăm, tôi viết thư cho ông. Lần nào ông cũng sốt sắng trả lời, ân cần
chỉ dẫn, khuyến khích tôi.
Quen
biết ông mới thấy ít có ai yêu tiếng mẹ như ông. Muốn cho ông "thao
thao bất tuyệt" thì cứ việc nói đến tiếng Việt với ông. Ông chịu không
nổi khi thấy một chữ bị dùng sai. Còn nhớ khi bọn sinh viên chúng tôi
vận động chuyển ngữ Việt tại trường Y-khoa, ông đã hỗ trợ bằng những bài
báo nẩy lửa. Lúc đó giọng ông không còn cái vẻ nghiêm túc, hiền lành,
bình đạm thường ngày nữa mà sôi nổi, gay gắt, phẫn nộ, đầy khích động ;
giá có ai giật lấy bút của ông đi, tôi chắc là ông sẽ lấy dao "viết lên
đá" như Trần Dần nói.
Tôi chịu nhiều ảnh hưởng của ông. Cuốn sách đầu tay của tôi Những tật bệnh thông thường trong lức tuổi học trò, chỉ là một phần bổ túc cho cuốn Kim chỉ nam của học sinh.
Sau đó tôi viết thêm một cuốn khác, cùng loại y-học phổ thông, cũng nằm
trong chiều hướng nâng cao trình độ đại chúng mà ông đã vạch. Ông nói
muốn cho nước giàu, dân mạnh thì không phải chỉ một người hay một nhóm
người làm được, mà phải là toàn dân cùng ý thức, cùng thực hiện. Muốn
vậy phải đặt nặng vấn đề giáo dục đại chúng.
Với
tôi, ông là một tấm gương sáng. Tấm gương của Nghị lực, của Tự học và
của Phụng sự. Ông tận tụy cả đời viết sách, đem kinh nghiệm bản thân ra
hướng dẫn thanh thiếu niên, mong giúp được cho người khác chút gì ; lúc
bỏ cây viết ra thì vớ ngay cuốn sách để đọc, để học không ngừng. Tôi
đoán sở dĩ ông đã không nhận một chức vụ gì trong guồng máy công quyền
là để giữ cho ngòi bút mình độc lập, để có thể đóng trọn vai trò giám
sát của người trí thức mà Alain đã nói. Nhờ đó ông không có mặc cảm,
thấy điều gì đáng khen thì khen, điều gì không ưa thì nói. Và ông đã nói
bất cứ điều gì từ việc dịch sách, chuyển ngữ đến việc nhân mãn, ô
nhiễm... Có thể đôi lúc ông cũng sai lầm, nhưng điều quan trọng là ông
đã thành thực với chính ông.
Đến
nay ông đã cho ra được 100 tác phẩm, có những tác phẩm dày vài ngàn
trang, có những tác phẩm 3. 4 cuốn, về đủ mọi bộ môn, từ văn chương,
y-học, giáo dục, đến lịch sử, triết học... làm nhiều người kinh ngạc về
sức làm việc của ông. Tôi biết có những tác giả "sản xuất" còn nhiều hơn
ông, viết mau và viết mạnh hơn ông, nhưng đọc họ người ta thấy rõ ràng
là những tác phẩm máy móc, sản xuất hàng loạt. Ở ông thì không. Ở ông là
con người. Tác phẩm ông là con người ông. Ông "dạy" cho thanh niên rèn
nghị lực thì chính ông là một tấm gương nghị lực ; ông viết về tổ chức
thì chính nếp sống ông là một sự tổ chức ; ông viết về tự học thì chính
ông đã nhờ tự học mà thành công. Nhờ viết từ những kinh nghiệm sống thực
đó, người đọc thấy gần gũi với ông và những lời ông chỉ dẫn đều có thể
ứng dụng được.
Nhìn lại toàn bộ tác phẩm ông, không ai chối cãi giá trị của những Đông kinh nghĩa thục, Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười, Đại cương Triết-học Trung-quốc, Ngữ pháp Việt-nam... và những Chiến tranh và Hòa bình, Sử ký Tư Mã Thiên, Chiến quốc sách...
Những tác phẩm đó thực sự có ích cho các nhà nghiên cứu, các sinh viên
đại học và đã đóng góp một phần đáng kể cho nền văn hóa miền Nam. Nhưng
theo tôi, những tác phẩm quan trọng trong đời ông, đáng cho ông hãnh
diện chính là những tác phẩm nho nhỏ, ông viết nhằm giáo dục thanh thiếu
niên, hướng dẫn họ trong việc tự huấn luyện trí, đức. Đó là Kim chỉ nam của học sinh, Tự học để thành công, Tương lai trong tay ta, Rèn nghị lực... và nhất là bộ Gương danh nhân
của ông. Mà họ là ai? Là những thiếu niên thất chí bán hàng xén như tôi
thuở đó, là anh thợ may lận đận như anh Chín NS, là một giáo viên tiểu
học, một y tá hương thôn, một thơ ký nghèo trong một công tư sở nào đó.
Họ là những người có thiện chí, có tinh thần cầu tiến, hiếu học nhưng vì
hoàn cảnh mà lỡ dở. Họ là thành phần đông đảo nhất trong xã hội ta bây
giờ, một xã hội có vốn liếng hơn ba mươi năm chiến tranh. Nhờ những cuốn
sách đó, trước mắt họ mở ra những cánh cửa mới, trong lòng họ nhen lên
ngọn lửa nồng, và dù họ có không "thành công" nhiều thì đời sống họ cũng
sẽ được nâng cao ít ra là về mặt tinh thần. Thú thực, tôi rất bực mình
khi thấy chính tác giả có lần đã xếp những loại sách đó vào hàng thứ
yếu. Ông nói "... nhưng chẳng qua cũng chỉ để cho thanh niên đọc (Kỷ
niệm Văn-thi-sĩ hiện đại – Bàng Bá Lân). André Maurois 80 tuổi mới viết "Thư ngỏ gởi tuổi đôi mươi"!
*
Những
năm gần đây ông chuyên viết về cuộc đời và tư tưởng của các triết gia
Đông phương: Liệt tử và Dương tử, Khổng tử, Mạnh tử, Hàn Phi tử... Ông
viết chậm và ít hứng hơn, có lẽ một phần vì tuổi đã lớn, một phần vì sức
khỏe suy kém.
Các
nhà phê bình sau này nhắc đến sự nghiệp ông mà quên không nói đến sức
khỏe ông là một điều thiếu sót lớn! Thực không ai ngờ rằng một người
viết hằng trăm tác phẩm như vậy lại là một người đau yếu liên miên.
Chứng đau bao tử kinh niên của ông thỉnh thoảng trở đi trở lại. Mỗi lần
gặp ông mà thấy ông có vẻ cau có thì chắc chắn là ông bị cơn đau bao tử
hành rồi! Thứ bệnh đó thực là khó chịu (vì chính tôi cũng mắc phải nên
hiểu lắm!) : nó làm cho ta trở thành một con người... xa lạ, không thích
giao du, không chịu được đám đông. Phải ăn đúng giờ, nghỉ đúng giấc.
Phải cữ món này, kiêng món nọ, không uống rượu, ít hút thuốc. Tâm hồn
rán cho yên tĩnh. Nếu không vậy thì đau. Trong một bức thư, ông cho tôi
biết ông vừa bị sưng bao tử (gastrite) vừa bị loét ở cuống (ulcère
duodénal). Mỗi lần gặp chuyện lo lắng, buồn phiền hay gặp một chương
sách khó viết, ông lại đau. Những lúc đó tay cầm viết của ông bị run
rẩy. Có lần ông bị nấc cục mấy hôm liền và thường hay bị mất ngủ, bón,
trĩ... Tất cả những chứng đó đều có bà con xa gần với bệnh đau bao tử.
Cho đến ngày nay, y học cũng chưa có thuốc chữa dứt khoát bịnh này mà
nguyên nhân một phần lớn là do tâm thần. Các thứ thuốc chữa chỉ có tính
cách ngăn chận cơn đau tạm thời, lại thường gây những phản tác dụng như
làm mất ngủ, bón, trĩ v.v... Bịnh có thể tự nhiên khỏi. Một tạp chí y
học mới đây đăng kết quả một cuộc thí nghiệm chữa bịnh đau bao tử như
sau: một nhóm bịnh nhân được chữa bằng thuốc đau bao tử, một nhóm khác
được chữa bằng Placébo (1). Tỉ lệ lành bịnh gần gần như nhau. Thỉnh
thoảng tôi đến thăm, nghe ông khoe một thứ thuốc trị đau bao tử mới,
uống khá hiệu nghiệm ; còn tôi thì khoe với ông một phương pháp chữa đau
bao từ cũng mới, là đọc truyện kiếm hiệp của Kim-Dung, để quên hết
những căng thẳng, lo lắng, mệt mỏi. Rồi tôi gửi biếu ông một bộ "Cô Gái
Đồ Long". Rất tiếc là ông không đọc được kiếm hiệp. Ông thử đọc cuốn đầu
rồi thôi, chịu, không đọc thêm được nữa!
Năm
ngoái tự nhiên mắt ông nhìn kém đi, vẫn đọc sách được, nhưng trong
khoảng cách hai thước ông nhìn thấy lờ mờ như có lớp sương mù. Tôi ngại
rằng ông có thể mắc bệnh hột cườm ở người già (cataracte sénile), định
giới thiệu ông đến một bác sĩ nhãn khoa, nhưng ông chưa đi thì bệnh bớt
dần rồi khỏi. Những ngày gần đây ông còn bị đau răng, rồi bị thận viêm.
Bịnh tuy không có gì nặng nhưng là những thứ bịnh khó chịu, và làm kém
sức khỏe. Nhiều lúc tôi ngờ rằng sự nghiệp trước tác của ông một phần
xây dựng từ những bịnh tật của ông.
Mắc bịnh đau bao tử, một thứ bịnh đòi hỏi phải sống, phải làm việc có tiết độ, ông chú trọng nhiều đến tổ chức, viết Tổ chức công việc theo khoa học, Tổ chức gia đình v.v... Để có thể tự chữa thứ bịnh tâm thể (Psychosomatique) đó của mình, ông viết Sống 365 ngày một năm, Sống theo sở thích, Chấp nhận cuộc đời v.v... Những lúc buồn phiền, lo lắng, ông viết Quẳng gánh lo đi, Trút nỗi sợ đi, Xây dựng hạnh phúc... Những lúc bệnh bớt, thấy khỏe khoắn, hăng hái trở lại, ông viết Thẳng tiến trên đường đời, Tương lai trong tay ta... và khi mệt mỏi, căng thẳng ông xả hơi bằng Tô Đông Pha, Sống Đẹp...
Có phải tôi đã hơi méo mó mà nghĩ ra mấy chuyện đó không? Và như vậy ta
sẽ có một thứ quan điểm phê bình gọi là phê bình bịnh-lý-học chăng?
*
Mơ
ước lớn nhất của đời ông bây giờ có lẽ là được thấy cảnh thanh bình,
con cháu đoàn tụ, rồi lui về sống với mảnh vườn ở miền quê. Năm kia tôi
gửi ông một bài thơ, bài "Đi cho đỡ nhớ" viết từ nỗi xúc động
thấy những chuyến xe lửa lại lăn trên đường sắt, dù chỉ mới lăn đến...
Biên Hòa, mà mơ một chuyến tàu nam bắc. Ông trả lời:
"(...)
Nhưng cháu làm cho tôi thèm đi quá! A, bao giờ Saigon mới được nối với
Hà-nội bằng xe lửa đây? Lúc đó tôi sẽ bỏ hết công việc, nhờ cháu làm
revision gérénale cho bộ máy của tôi, rồi lên xe lửa thăm non sông Nam
Trung Bắc một lần cuối cùng. Sẽ uống dừa Tam Quan, ăn cam xã Đoài, rồi
ăn nhãn Hưng Yên, hồng Bạch Hạc, cốm Vòng v.v..."
Rồi
cuối năm ngoái, có lẽ đã đợi mãi, hy vọng rồi thất vọng mãi vẫn chưa
thấy thanh bình về trên quê hương mà chiến tranh càng ngày càng thêm
thảm khốc, ông viết "Bây giờ tôi chỉ mong được nghỉ ở thôn quê thôi.
Hai mươi mấy năm viết lách liên tiếp, chưa bao giờ được nghỉ lấy một
tháng (...)" Ý muốn này ông đã lập đi lập lại như một điệp khúc từ
nhiều năm qua mà không sao thực hiện được. Cứ nghỉ ít lâu ông lại chịu
không nổi, phải cầm viết lại. Ông đã nghiện nặng rồi chăng?
Cuộc
đời ông quả thực là một tác phẩm lớn. Tôi ước mong trong tuổi già ông
sẽ viết hồi ký, kể lại đời mình cho bọn trẻ chúng tôi đọc như André
Maurois viết "Mon ami qui s'appelle moi" vậy. Tôi là độc giả của ông từ
ngày còn là một học trò đệ thất, lại được quen biết ông hơn 15 năm nay,
nghĩ lại, nếu trong thời thơ ấu không được đọc những sách đó của ông,
không được gặp ông, có lẽ tôi đã khác ; nên tuy không được may mắn học
với ông ngày nào, từ lâu tôi vẫn xem ông là một vị thầy của mình, hơn
thế, một người thân. Tôi đâu có cần phải nói cám ơn ông!
ĐỖ HỒNG NGỌC
___________
(*) Lời B.K. – Những tác phẩm của tác giả mang tên Đỗ Hồng Ngọc là: Những tật bệnh thông thường trong lứa tuổi học trò (1972 - tái bản 1974), Viết cho các bà mẹ sanh con đầu lòng (1975), những thi phẩm mang tên Đỗ Nghê là: Tình người (1967), thơ Đỗ Nghê (1974)
(1) Một loại "thuốc giả" chỉ có tác dụng tâm lý, dùng để thí nghiệm.
Nguồn : https://www.dohongngoc.com
Nguồn : https://www.dohongngoc.com
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét